- 6
- Phụ Lục Bản Dịch Luận Chỉ Quán của
Trưởng giả Tâm Minh Lê Đình Thám
Như đã nói trong 1 ghi chú của lời dẫn 1, xin phụ
lục sau đây nguyên vẹn bản dịch luận này của trưởng giả Tâm
minh. Trưởng giả là bậc thầy của tôi. Bản dich của trưởng giả
rất sát chính văn. Xin phụ lục ra để ai muốn thì tham khảo.
Trí Quang
- ---o0o---
Lời Giới Thiệu
Pháp-môn chỉ quán Đại-thừa là một bộ luận rất
quan trọng do Ngài Nam-nhạc sáng tác trong thời kỳ Ngũ-đại trước
nhà Đường ở Trung-Quốc.
Ngài Nam-nhạc họ lý, húy là Tuệ-tư, là người
huyện Thượng-thái, tỉnh Hà-nam. Ngài xuất gia từ lúc 15 tuổi, theo
Tuệ-văn-đại-sư học đạo và đã chứng được Pháp-hoa tam-muội,
trong một niệm vô-sư-trí, tự-nhiên-trí, vô-ngại-trí đều hiện
tiền. Ngài là nghiệp-sư của Thiên-thai-trí-giả-thiền-sư và là
sơ-tổ của Thiên-thai-tông. Ngài trụ tích ở Nam-nhạc, chuyên tâm
hoằng dương Đại-thừa và có rất nhiều đệ-tử đã thành đạo
chứng quả. Sau khi Ngài tịch, vua nhà Trần đã sắc phong cho Ngài cái
hiệu là Tư-đại-thiền-sư.
Trong đời Ngũ-đại, thiền-tông rất thịnh hành, nhưng
cũng có nhiều người không rõ ý nghĩa của câu "bất-lập
văn-tự", không chịu tham học Phật-pháp, tu tập mù quáng, lạc
vào các đường trẽ. Ngài động lòng thương xót, theo duyên của
căn cơ hiện tiền, viết ra bộ luận "Pháp-môn chỉ quán
Đại-thừa", lời lẽ vắn tắt mà ý nghĩa sâu xa, để dắt dìu
những người tu hành đi theo con đường chính-pháp.
Pháp-môn chỉ quán Đại-thừa chủ yếu dạy về ba
phép chỉ và ba phép quán trong ba tính biến-kế-chấp, y-tha-khởi và
viên-thành-thật. Chỉ là quán các pháp tuy có nhưng không phải thật
có, cốt để trừ diệt những kiến-chấp mê lầm. Quán là quán
các pháp theo duyên thì hiện ra hình như có, cốt để nhận rõ sự
thật duyên-khởi của tất cả sự vật. Đến khi tu song song hai pháp
chỉ quán, tức nơi tịch mà chiếu, tức nơi chiếu mà tịch, tịch chiếu
đồng thời, tịch chiếu không hai, thì sẽ chứng được chân như
tam-muội.
Nhưng trong bộ luận nầy, Ngài Nam-nhạc không phải chỉ
tuyên dương về tam-chỉ tam quán. Trong phần đầu là phần quan trọng
nhất về sự "Nương tựa của chỉ quán", Ngài đã phương
tiện chỉ dạy về cơ sở của mọi sự tu tập trong đạo Phật, dầu
là thuộc về Đại-thừa hoặc Tiểu-thừa. Ngài đặc biệt phân tích
về tự-tướng và về thể-trạng của tự-tính-thanh-tịnh-tâm tức
là cái tâm chung của tất cả phàm thánh, nhằm nêu ra cái đích của
tất cả mọi sự tu hành theo Đại-thừa, đồng thời nêu ra cái
bản-thể của các sự tu hành ấy, làm cho tất cả những người tu
hành theo pháp-tính-tông cũng như theo pháp-tướng-tông, theo
thiền-tông cũng như theo tịnh-độ-tông, nhận rõ con đường tu hành
chân chính, không lạc vào các đường trẽ.
Còn pháp-môn tam-chỉ tam-quán, thì rõ thật là một
sáng tạo tuyệt diệu của Ngài Nam-nhạc, nhằm dắt dìu người tu hành
tiến lên từng bước theo trung-đạo đệ-nhất-nghĩa-đế, không lạc
vào ngoại-đạo tà-giáo.
Do pháp-môn chỉ quán Đại-thừa nương theo tâm-tính, y
như tâm-tính mà tu trì, nhằm đi đến nhập một với tâm-tính nên
gọi là tâm-yếu.
Chỗ chứng của Ngài Nam-nhạc không thể nghĩ bàn, ra
ngoài văn tự và lời nói, nhưng vì từ bi thương xót chúng sinh,
Ngài tìm cách mượn lời nói mà chỉ dạy trong bộ luận nầy nên
gọi là phương-tiện.
Tất cả những người tu hành theo Đại-thừa đều
nên nhất tâm học tập bộ luận nầy cho thấu đáo để nhận rõ con
đường tu tiến của mình, không nên nghĩ rằng vì mình tu theo tông
phái khác mà không chịu học tập, bỏ mất một cơ hội tốt để
hiểu rõ thêm thế nào là tu hành, thế nào là giác-ngộ.
Phiên dịch bộ luận "Pháp-môn chỉ quán
Đại-thừa", chúng tôi nguyện cho tất cả chúng sinh đều thấm
nhuần tâm-yếu của Ngài Nam-nhạc đã dạy, cùng nhau tinh tiến tu hành
theo trung-đạo đệ-nhất-nghĩa-đế, phả độ chúng sinh, viên thành
Phật-đạo.
- Viết ngày 20-6-65
- Tâm Minh
- Pháp Môn Chỉ Quán Đại Thừa
- Ngài Nam-nhạc, Tư-đại-thiền-sư, phương tiện
chỉ dạy tâm-yếu.
- I. Phần Thứ Nhất - Chỉ Dạy Tổng Quát
- A1. Chương 1 : Đặt Lời Vấn Đáp Để Chỉ Tỏ Đương Cơ
- A2. Chương 2 : Chỉ Dạy Tóm Tắt Phép Chỉ Quán
- II. Phần Thứ Hai - Phân Tích Rộng Thêm
- A1. Chương 1 : Chia Ra Để Phân Tích
- A2. Chương 2 : Chỉ Tỏ Sự Nương Tựa Của "Chỉ, Quán"
- A3. Chương 3 : Chỉ Tỏ Cảnh Giới Của Chỉ, Quán
- A4. Chương 4 : Chỉ Tỏ Thể Trạng Của Chỉ, Quán
- A5. Chương 5 : Phân Tích Sự Đoạn Trừ Và Được Ích Của Chỉ,
Quán
- A6. Chương 6 : Chỉ Tỏ Tác Dụng Của Chỉ, Quán
- III. Phần Thứ Ba - Chỉ Dạy Qua Các Sự Việc
- A1. Chương 1 : Chi Tỏ Phép Chỉ Quán Trong Lúc Lễ Phật
- B1. Khoa 1 : Về Phép Quán
- C1. Mục 1 : Quán Sự Thật
- D1. Đoạn 1 : Nói Pháp
- D2. Đoạn 2 : Ví Dụ
- D3. Đoạn 3 : Kết Hợp
- C2. Mục 2 : Quán Theo Giả-Trưởng
- D1. Đoạn 1 : Quán Thân Phật
- Đ1. Điều 1 : Chỉ Thẳng
- Đ2. Điều 2 : Giải Thích Điều Nghi
- E1. Khoản 1 : Chỉ Tỏ Giả-Tướng Không Phải Vọng
- G1. Chi 1 : Chỉ Thẳng Là Không Phải Vọng
- G2. Chi 2 : Hơn Xa Nhị-Thừa
- G3. Chi 3 : Liền Bằng Bồ Tát
- E2. Khoản 2 : Chỉ Tỏ Cảm Và ?ng Cùng Thành Lập
- G1. Chi 1 : Chỉ Tỏ Thâm-Tính Đồng Thể
- G2. Chi 2 : Chỉ Tỏ Nương Theo Quán-Tưởng Được Thấy Phật Thật
- G3. Chi 3 : Đối Chiếu Luận Về Chúng Sinh Và Phật Huân-Tập Cái Tâm
- G4. Chi 4 : Kết Luận Cảm ?ng Không Hai
- D2. Đoạn 2 : Quán Thức Cúng
- B2. Khoa 2 : Về Phép Chỉ
- B3. Khoa 3 : Tu Song Song
- A2. Chương 2 : Chi Tỏ Phép Chỉ Quán Lúc Ăn
- B1. Khoa 1 : Phép Quán
- C1. Mục 1 : Quán Phả-Cúng-Dàng
- D1. Đoạn 1 : Quán Chuyển Biến Thô-Sơ Thành Thượng-Diệu
- D2. Đoạn 2 : Quán Chuyển Biến Số Ít Thành Số Nhiều
- C2. Mục 2 : Quán Trừ Lòng Tham
- B2. Khoa 2 : Phép Chỉ
- A3. Chương 3 : Chi Tỏ Phép Chỉ Quán Trong Lúc Tiện Lợi
- B1. Khoa 1 : Chỉ Thẳng
- C1. Mục 1 : Phép Quán
- C2. Mục 2 : Phép Chỉ
- B2. Khoa 2 : Giải Thích Điều Nghi
- C1. Mục 1 : Giải Thích
- C2. Mục 2 : Lệ Chung Cho Các Pháp
- D1. Đoạn 1 : Giải Thích Là Phương Tiện
- D2. Đoạn 2 : Giải Thích Ly Do Thấy Và Không Thấy
- D3. Đoạn 3 : Giải Thích Duyên Cớ Thần Thông Khác Nhau
-
- Chương 2: Chỉ Tỏ Sự Nương Tựa Của "Chỉ, Quán"
- B1. Khoa 1 : Chia Khoa
- B2. Khoa 2 : Chỉ Tỏ Nương Tựa Chỗ Nào
- C1. Mục 1 : Chia Các Mục
- C2. Mục 2 : Chia Ra Nhiều Tên
- C3. Mục 3 : Thích Nghĩa Các Tên
- C4. Mục 4 : Phân Tích Thể-Trạng Của Tịnh-Tâm
- B3. Khoa 3 : Chỉ Tỏ Vì Cớ Gì Mà NươngTựa Như Thế
- C1. Mục 1 : Chính Diện Chỉ Tỏ
- D1. Đoạn 1 : Chỉ Tỏ Các Nghĩa Tu Hành Cần Phải Nương Theo Cỗi Gốc
- D2. Đoạn 2 : Chỉ Tỏ Nghĩa Toàn-Tính Phát Khởi Tu Hành
- C2. Mục 2 : Giải Thích Điều Nghi
- B4. Khoa 4 : Chỉ Tỏ Lấy Cái Gì Mà Nương Tựa
- C1. Mục 1 : Chia Mục
- C2. Mục 2 : Chỉ Tỏ Thể-Trạng Lấy Cái Gì Mà Nương Tựa
- D1. Đoạn 1 : Chỉ Tổng Quát
- D2. Đoạn 2 : Chỉ Tỏ Thể-Trạng Tu Chỉ
- Đ1. Điều 1 : Chính Diện Chỉ Tỏ
- Đ2. Điều 2 : Giải Thích Điều Nghi
- D3. Đoạn 3 : Chỉ Tỏ Thể-Trạng Tu Quán
- C3. Mục 3 : Phá Cái Chấp Của Hàng Tiểu Thừa
- D1. Đoạn 1 : Chính Diện Phá Chấp
- D2. Đoạn 2 : Giải Thích Điều Nghi
- C4. Mục 4 : Phá Cái Chấp Của Hàng Đại Thừa
- D1. Đoạn 1 : Phá Danh Ngôn
- D2. Đoạn 2 : Phá Lối Chứng Mù Quáng
- Đ1. Điều 1 : Luận Về Chứng Để Phá
- E1. Khoản 1 : Phân Tích Để Phá
- E2. Khoản 2 : Phá Thuyết Tự Chứng
- E3. Khoản 3 : Phá Thuyết Tha Chứng
- E4. Khoản 4 : Phá Thuyết Chứng Tha
- Đ2. Điều 2 : Luận Về Tu Để Phá Lôi Chứng Mù Quáng
- E1. Khoản 1 : Chính Diện Phá
- E2. Khoản 2 : Phê Phán
-
- Mục 3: Thích Nghĩa Các Tên
- D1. Đoạn 1 : Thích Nghĩa Cái Tên Tự-Tính-Thanh-Tịnh-Tâm
- D2. Đoạn 2 : Thích Nghĩa Cái Tên Chân Như
- D3. Đoạn 3 : Thích Nghĩa Cái Tên Phật Tính
- Đ1. Điều 1 : Sơ Lược Thích Nghĩa
- Đ2. Điều 2 : Phân Tích Rộng
- E1. Khoản 1 : Luận Về Bất Giác Để Phân Tích
- E2. Khoản 2 : Luận Về Giác Để Phân Tích
- G1. Chi 1 : Phân Tích Trí-Tuệ Phật-Tính
- G2. Chi 2 : Phân Tích Bảo ?ng Phật-tính
- G3. Chi 3 : Phân Tích Xuất-Chướng Phật-Tính
- G4. Chi 4 : Phân Tích Bình- Đẳng Phật-Tính
- E3. Khoản 3 : Giải Thích Các Điều Nghi Còn Lại
- G1. Chi 1 : Giải Thích Điều Nghi Về Chấp Cái Tính Mà Bỏ Tu
- G2. Chi 2 : Giải Thích Điều Nghi Về Vốn Có Bất Giác
- G3. Chi 3 : Giải Thích Điều Nghi Nhân-Duyên, Tự-Nhiên
- G4. Chi 4 : Giải Thích Điều Nghi Về Vô-Minh Tâm-Tính
- D4. Đoạn 4 : Thích Nghĩa Cái Tên Pháp-Thân
- D5. Đoạn 5 : Thích Nghĩa Cái Tên Như-Lai-Tạng
- D6. Đoạn 6 : Thích Nghĩa Cái Tên Pháp-Giới
- D7. Đoạn 7 : Thích Nghĩa Cái Tên Pháp-Tính
- D8. Đoạn 8 : Kết Luận
-
- Mục 4: Phân Tích Thể-Trạng Của Tịnh-Tâm
- D1. Đoạn 1 : Chỉ Tổng Quát
- D2. Đoạn 2 : Nêu Ra Nghĩa Ly-Tướng Để Chỉ Tỏ Tịnh-Tâm
- Đ1. Điều 1 : Chỉ Hẳn Tịnh-Tâm Là Ly-Tướng
- Đ2. Điều 2 : Khai Thị Phương Tiện Tùy Thuận, Nhập Vào Tâm Tính
- D3. Đoạn 3 : Nêu Ra Nghĩa Bất-Nhất Bất-Dị Để Luận Về Pháp-Tính
- D4. Đoạn 4 : Nêu Ra Hai Thứ NhựLai-Tạng Để Chỉ Tỏ Chân-Như
- Đ1. Điều 1 : Chỉ Tỏ Nghĩa Không
- E1. Khoản 1 : Chỉ Thẳng Nghĩa Không
- E2. Khoản 2 : Dùng Vấn Đáp Để Trừ Nghi
- G1. Chi 1 : Trừ Cái Nghi Chúng Sinh Hiện Có
- G2. Chi 2 : Trừ Cái Nghi Vì Nhân Gì Mà Mê Vọng
- G3. Chi 3 : Trừ Cái Nghi Vô Minh Có Tự-Thể
- G4. Chi 4 : Trừ Cái Nghi Năng-Luân Làm Thể
- G5. Chi 5 : Trừ Cái Nghi Nhân Với Quả Là Một Hay Là Khác
- Đ2. Điều 2 : Chỉ Tỏ Nghĩa Bất Không
- E1. Khoản 1 : Tóm Nêu
- E2. Khoản 2 : Chỉ Tỏ Đủ Hai Pháp Nhiểm Tịnh
- G1. Chi 1 : Chỉ Tỏ Đủ Pháp Tịnh
- H1. Tiết 1 : Chỉ Tỏ Đủ Các Pháp Tính-Công-Đức Vô-Lậu
- H2. Tiết 2 : Chỉ Tỏ Đủ Hết Những Pháp-Tịnh Ra Khỏi Các Chướng
- G2. Chi 2 : Chỉ Tỏ Đủ Pháp-Nhiễm
- H1. Tiết 1 : Chỉ Tỏ Đủ Tính-Nhiễm
- H2. Tiết 2 : Giải Thích Cái Nghi Đã Là Tính Thì Không Thể Chuyển
Được
- H3. Tiết 3 : Giải Thích Cái Nghi Hai Tính Trái Nhau
- H4. Tiết 4 : Giải Thích Cái Nghi Hai Nghiệp Do Đâu Có Khởi Có Diệt
- H5. Tiết 5 : Giải Thích Cái Nghi Tính Không Trừ Nhau
- H6. Tiết 6 : Giải Thích Cái Nghi Tương Đối Trái Nhau
- H7. Tiết 7 : Giải Thích Cái Nghi Gốc Ngọn Cùng Diệt
- H8. Tiết 8 : Giải Thích Cái Nghi Trái Nhau Vì Không Huân Tập Được
- H9. Tiết 9 : Chỉ Tỏ Đầy Đủ Sự Nhiễm
- E3. Khoản 3 : Chỉ Tỏ Thể-Tính Như-Lai-Tạng Là Một Hay Là Khác
- G1. Chi 1 : Chia Khoa
- G2. Chi 2 : Chỉ Tỏ Pháp-Môn Pháp-Giới Viên-Dụng Vô Ngại
- H1. Tiết 1 : Chỉ Tỏ Pháp Giới Chỉ Một Thể
- H2. Tiết 2 : Chỉ Tỏ Đủ Hết Hai Tính Và Hai Sự Nhiễm Tịnh
- H3. Tiết 3 : Chỉ Tỏ Nghĩa Viên-Dụng Vô-Ngại
- G3. Chi 3 : Chỉ Tỏ Cái Nghĩa Tên Gọi Khác Nhau Của Pháp-Thân Trong
Nhân Trong Quả
- H1. Tiết 1 : Chỉ Tỏ Nghĩa
- H2. Tiết 2 : Giải Thích Điều Nghi
- G4. Chi 4 : Chỉ Tỏ Cái Lý Chân-Thể Trong Chướng, Khỏi Chướng
- H1. Tiết 1 : Chỉ Tỏ Lý Ấy
- H2. Tiết 2 : Giải Thích Điều Nghi
- G5. Chi 5 : Chỉ Tỏ Cái Tướng Thu Nhiếp Lẫn Nhau Của Sự- Dụng
- H1. Tiết 1 : Dùng Lý Phương-Tiện Chỉ Tỏ
- H2. Tiết 2 : Dùng Sự Để Phương Tiện Chỉ Dạy
- G6. Chi 6 : Chỉ Tỏ Cái Nghĩa Đối Trị Mê Lầm Chịu Quả-Báo Không
Đồng
- H1. Tiết 1 : Chính Diện Chỉ Tỏ
- H2. Tiết 2 : Giải Thích Điều Nghi
- H3. Tiết 3 : Phá Chấp
- G7. Chi 7 : Chỉ Tỏ Cộng-Tướng-Thức Và Bất-Công-Bất-Tướng-Thức
- H1. Tiết 1 : Chỉ Tổng Quát
- H2. Tiết 2 : Giải Thích Về Cộng-Tướng-Thức
- H3. Tiết 3 : Giải Thích Về Bất-Cộng-Tướng-Thức
- H4. Tiết 4 : Giải Thích Về Bất Cộng Trong Cộng
- H5. Tiết 5 : Giải Thích Về Cộng Trong Bất Cộng
- H6. Tiết 6 : Tổng Kết
-
- Chương 3: Chỉ Tỏ Cảnh Giới Của Chỉ, Quán
- B1. Khoa 1 : Tóm Chỉ Tỏ Ba Tính
- B2. Khoa 2 : Riêng Chỉ Tỏ Ba Tính
- C1. Mục 1 : Chia Riêng Để Chỉ Tỏ
- D1. Đoạn 1 : Chỉ Riêng Về Chân-Thật-Tính
- D2. Đoạn 2 : Chỉ Riêng Vì Y-Tha-Tính
- Đ1. Điều 1 : Chia Khoa
- Đ2. Điều 2 : Giải Thích Về Tịnh-Phần Y-Tha-Tính
- Đ3. Điều 3 : Giải Thích Về Nhiễm-Phần Y-Tha-Tính
- D3. Đoạn 3 : Chỉ Riêng Vì Phân-Biệt-Tính
- Đ1. Điều 1 : Chỉ Về Tịnh-Phần Phân-Biệt-Tính
- Đ2. Điều 2 : Giải Thích Về Nhiễm-Phần Phân-Biệt-Tính
- C2. Mục 2 : Hợp Lại Để Chỉ Tỏ
-
- Chương 4: Chỉ Tỏ Thể Trạng Của Chỉ, Quán
- B1. Khoa 1 : Tóm Nêu Ra
- B2. Khoa 2 : Luận Về Tính Nhiễm-Trược Để Chỉ Tỏ
- C1. Mục 1 : Chia Ra Các Mục
- C2. Mục 2 : Nương Với Phân-Biệt-Tính Để Chỉ Tỏ
- D1. Đoạn 1 : Từ Quán Vào Chỉ
- Đ1. Điều 1 : Nói Về Quán
- Đ1. Điều 2 : Nói Về Chỉ
- D2. Đoạn 2 : Từ Chỉ Khởi Ra Quán
- C3. Mục 3 : Luận Về Y-Tha-Tính Để Chỉ Tỏ
- D1. Đoạn 1 : Từ Quán Vào Chỉ
- Đ1. Điều 1 : Nói Về Quán
- Đ1. Điều 2 : Nói Về Chỉ
- D2. Đoạn 2 : Từ Chỉ Khởi Ra Quán
- C4. Mục 4 : Luận Về Chân-Thật-Tính Để Chỉ Tỏ
- D1. Đoạn 1 : Dùng Chỉ Quán Để Bày Tỏ Vô-Tính-Tính
- D2. Đoạn 2 : Dùng Chỉ Quán Để Bày Tỏ Vô-Chân-Tính
- D3. Đoạn 3 : Dùng Chỉ Quán Để Bày Tỏ Căn Bản Chân-Như-Tam-Muội
- D4. Đoạn 4 : Dùng Chỉ Quán Để Bày Tỏ Tịch Chiếu Hiện Tiền
- C5. Mục 5 : Phân Tích Rõ Thêm
- D1. Đoạn 1 : Nói Về Công Năng Chỉ Quán
- D2. Đoạn 2 : Nói Về Bốn Lớp Tu Hành Trong Chân-Thật-Tính
- D3. Đoạn 3 : Nói Về Tu Có Thứ Lớp
- D4. Đoạn 4 : Nói Về Căn Trừ Vọng Chấp
- C6. Mục 6 : Lấy Sự Huyễn Làm Ví Dụ Để Chỉ Tỏ
- D1. Đoạn 1 : Ví Dụ Với Phép Quán Của Ba Tính
- D2. Đoạn 2 : Ví Dụ Với Phép Chỉ Của Ba Tính
- D3. Đoạn 3 : Kết Hợp Tu Trì Chỉ Quán
- D4. Đoạn 4 : Suy Rộng Đến Các Ví Dụ Khác
- C7. Mục 7 : Lấy Chiêm Bao Làm Ví Dụ Để Chỉ Tỏ
- B3. Khoa 3 : Luận Về Ba TínhThanh Tịnh Để Chỉ Tỏ
- C1. Mục 1 : Chia Mục
- C2. Mục 2 : Luận Về Phân-Biệt-Tính Để Chỉ Tỏ
- C3. Mục 3 : Luận Về Y-Tha-Tính Để Chỉ Tỏ
- C4. Mục 4 : Luận Về Chân-Thật-Tính Để Chỉ Tỏ
- C5. Mục 5 : Phân Tích Thêm Các Nghĩa
- D1. Đoạn 1 : Phân Tích Cái Tướng Khởi Dụng Vẳng Lặng
- D2. Đoạn 2 : Phân Tích Về Cân Xứng Với Tính Mà Phát Khởi Sự
Tu Hành
- D3. Đoạn 3 : Phân Tích Về Danh Từ Phật Và Chúng Sinh
- D4. Đoạn 4 : Phân Tích Cái Nghĩa Đồng Nhau Khác Nhau
- D5. Đoạn 5 : Phân Tích Về Mình Và Người Tu Hành Và Được Ích
Lợi
- D6. Đoạn 6 : Phân Tích Đức-Tịnh Chư Phật Là Thật Hay La Hư
- D7. Đoạn 7 : Phân Tích Thường Trụ Và Sinh Diệt
-
- Chương 5: Chỉ Tỏ Sự Đoạn Trừ Và Được Ích Của Chỉ, Quán
- B1. Khoa 1 : Chia Khoa
- B2. Khoa 2 : Giải Thích Theo Mỗi Tính
- C1. Mục 1 : Luận Về Phân-Biệt-Tính
- D1. Đoạn 1 : Chỉ Tỏ Sự Đoạn Trừ Và Được Ích Của Phép Quán
Trong Phân-Biệt-Tính
- Đ1. Điều 1 : Chính Diện Chỉ Tỏ
- Đ2. Điều 2 : Dùng Ví Dụ Để Chỉ Tỏ
- Đ3. Điều 3 : Kết Hợp Với Pháp
- D2. Đoạn 2 : Chỉ Tỏ Sự Đoạn Trừ Và Được Ích Của Phép Chỉ
Trong Phân-Biệt-Tính
- C2. Mục 2 : Luận Về Y-Tha-Tính
- D1. Đoạn 1 : Chỉ Tỏ Sự Đoạn Trừ Và Được Ích Của Phép Quán
- D2. Đoạn 2 : Chỉ Tỏ Sự Đoạn Trừ Và Được Ích Của Phép Chỉ
- C3. Mục 3 : Luận Về Chân-Thật-Tính
- D1. Đoạn 1 : Chỉ Tỏ Sự Đoạn Trừ Và Được Ích Của Phép Tu
Quán
- D2. Đoạn 2 : Chỉ Tỏ Sự Đoạn Trừ Và Được Ích Của Phép Tu Chỉ
- B3. Khoa 3 : Tổng Quát Chỉ Tỏ
- C1. Mục 1 : Chỉ Tỏ Nghĩa Đoạn Trừ Mê-Chướng
- C2. Mục 2 : Chỉ Tỏ Lý Do Huân Tập Cái Tâm
- C3. Mục 3 : Chỉ Tỏ Về Địa Vị
- C4. Mục 4 : Tóm Chỉ Tỏ
-
- Chương 6: Chỉ Tỏ Tác Dụng Của Chỉ, Quán
- B1. Khoa 1 : Chỉ Thẳng
- C1. Mục 1 : Chỉ Tỏ Đầy Đủ Tác Dụng
- C2. Mục 2 : Lại Chỉ Tỏ Nương Tính Nào Mà Khởi Ra Dụng
- C3. Mục 3 : Lại Khai Thị Về Phương Tiện
- B2. Khoa 2 : Kệ Tụng
- C1. Mục 1 : Tụng Về Lý-Tính
- C2. Mục 2 : Tụng Về Phép Quán
- C3. Mục 3 : Tụng Về Khuyên Tu
- Chương 1: Đặt Lời Vấn Đáp Để Chỉ Tỏ
Đương-Cơ
Có người hỏi vị Sa-môn rằng: Phàm bẩm thụ tính
chất nầy, đều nương sự tu hành mà khác nhau. Lại ông thợ chạm
trổ có khác, thì khí-mãnh tạo thành cũng khác. Tôi nghe Đại-đức
rỗng suốt lý rốt ráo, soi tỏ tông rộng lớn, nên trông mong
được Ngài chỉ dạy chính-pháp để sách tiến sự tu tập.
Vị Sa-môn đáp rằng: Tôi tuy từ bé xuất-gia, chút
nghe mùi đạo, nhưng bản-chất hạ-ngu khó đổi, không thấm nhuần
đạo-lý tu hành. Nay được ông hỏi, chẳng biết nói gì đây.
Người ngoài thưa: Kính bạch Đại-đức, trông mong
Ngài không ngại khó nhọc, vì tôi nói phép tu hành Đại-thừa, tôi
xin kính cẩn lập tức phụng trì, không dám quên dám sót.
Vị Sa-môn đáp rằng: Hay thay vị Phật-tử, phát được
cái tâm vô-thượng, thích nghe phép tu hành Đại-thừa; ngay bây
giờ ông đã vượt trên cảnh-giới Nhị-thừa, huống lại còn muốn
nghe để mà thật hành. Song tuy ông phát được cái tâm tốt đó,
cốt yếu phải nhờ thật hành mới thành tựu được quả-đức.
Nhưng phép tu hành hàng vạn, lối nhập-đạo không phải một; nay tôi
hãy nương theo kinh luận, vì ông nói sơ lược hai phép chỉ quán
Đại-thừa; nương theo những phép ấy, ông có thể mau được thành
tựu sở-nguyện vậy.
Chương 2: Chỉ Dạy Tóm Tắt Phép
Chỉ Quán
Người ngoài thưa: Hay thay, mong Ngài nói cho để thỏa
mãn ý-nguyện của tôi, cũng khiến cho người khác được lợi ích
dây chuyền, như thế truyền-đăng không dứt, để báo ơn Phật. Vị
Sa-môn dạy: Hãy khéo nhiếp niệm mà nghe cho chín, tôi sẽ vì ông mà
nói.
Cái gọi là "Chỉ", nghĩa là biết tính bản-lai
tất cả các pháp tự nó không phải là có, không sinh không diệt,
chỉ do nhân duyên hư-vọng nên không phải có mà hóa thành có. Song
cái có của các pháp kia tức là không phải có, chỉ là nhất-tâm,
thể-tính không phân biệt. Quán như thế, có thể khiến vọng-niệm
không lưu-hành nên gọi là "Chỉ'".
Cái gọi là "Quán", nghĩa là tuy biết các
pháp vốn không sinh không diệt, nhưng do tâm-tính duyên khởi ra,
không phải không có tác dụng thế-gian giả dối, như huyễn-thuật,
như chiêm bao, không phải có mà có, nên gọi là "Quán".
Chương 1: Chia Ra Để Phân Tích
Người ngoài thưa:"Tôi nhận hiểu chậm chạp, kiến
thức kém cỏi, nghe như thế vẫn chưa ngộ được, xin Ngài dùng
phương-tiện khai-thị thêm cho".
Vị Sa-môn đáp:"Phải, tôi sẽ vì ông phân tích
rộng thêm, đồng thời khiến cho những người chưa nghe pháp lần
hồi cũng được lĩnh-hội và giác-ngộ". Trong phần phân tích
rộng thêm pháp-môn "Chỉ quán", sẽ lập ra năm chương để
chỉ tỏ.
- Một là chỉ tỏ sự nương tựa của Chỉ, quán.
- Hai là chỉ tỏ cảnh-giới của Chỉ, quán.
- Ba là chỉ tỏ thể-trạng của Chỉ, quán.
- Bốn là chỉ tỏ sự đoạn trừ và được ích của Chỉ, quán.
- Năm là chỉ tỏ tác-dụng của Chỉ, quán.
- Khoa 1: Chia Khoa
- Trong phần đầu nói về sự nương tựa, lại chia làm ba khoa:
- Một là chỉ tỏ nương tựa chỗ nào.
- Hai là chỉ tỏ vì cớ gì mà nương tựa như thế.
- Bà là chỉ tỏ lấy cái gì mà nương tựa.
Mục 1: Chia Các Mục
Trong phần đầu chỉ tỏ nương tựa chỗ nào, tức là
chỉ tỏ nương tựa nhất-tâm để tu chỉ, quán vậy. Trong khoa nầy, lại
chia ra ba mục khác nhau:
- Một là chỉ ra nhiều tên.
- Hai là thích nghĩa các tên.
- Ba là nhận rõ thể-trạng.
Mục 2: Chỉ Ra Nhiều Tên
Trong phân chỉ ra nhiều tên thì cái tâm ấy tức là
tự-tính-thanh-tịnh-tâm, lại gọi là chân-như, cũng gọi là
Phật-tính, cũng gọi là pháp-thân, lại xưng là Như-lai-tạng, cũng
gọi là pháp-giới, cũng gọi là pháp-tính. Những tên như thế,
vô-lượng vô-biên, nên gọi là nhiều tên.
Đoạn 1: Thích Nghĩa Cái Tên
Tự-Tính-Thanh-Tịnh-Tâm
Thứ nữa thích nghĩa các tên.
Hỏi : Vì sao gọi là tự-tính-thanh-tịnh-tâm?
Đáp : Tâm ấy, từ vô-thủy đến bây giờ, tuy bị
những pháp-nhiễm vô-minh che lấp, nhưng bản-tính thanh-tịnh không thay
đổi nên gọi là thanh-tịnh. Vì cớ sao? Vì pháp-nhiễm vô-minh bản-lai
xa rời cái tâm vậy. Thế nào là xa rời? Nghĩa là tự-thể của
vô-minh là rỗng-không, cái có của nó tức là không phải có; do
nó không phải có, không có gì kết hợp được với tâm, nên
gọi là xa rời. Tâm không kết hợp với những pháp-nhiễm vô-minh,
nên gọi là bản-tính thanh-tịnh. Bản giác trung-hòa chân thật thì
gọi là tâm. Vì thế nên gọi là tự-tính-thanh-tịnh-tâm.
Đoạn 2: Thích Nghĩa Cái Tên
Chân-Như
Hỏi: Vì sao gọi là chân-như?
Đáp: Tất cả các pháp nương với tâm ấy mà có,
lấy tâm làm thể. Từ thể ấy trông về các pháp thì các pháp
đều là hư-vọng và cái có của các pháp tức là không phải có;
đối với các pháp giả dối đó nên gọi là cái tâm là chân.
Lại nữa, tuy các pháp thật không phải là có, nhưng do những nhân
duyên hư-vọng, nó cũng có những tướng sinh diệt; song khi những
pháp hư-vọng kia sinh thì tâm ấy không sinh, khi những pháp đó diệt
thì tâm ấy không diệt; không sinh nên không thêm, không diệt nên
không bớt; do tâm ấy không sinh không diệt, không thêm không bớt,
nên gọi là chân. Tam thế chư Phật và tất cả chúng sinh đồng lấy
nhất-tâm thanh-tịnh ấy làm thể; các pháp phàm thánh tự có những
tướng khác nhau, nhưng cái chân-tâm ấy thì không có khác, không
có tướng, nên gọi là như.
Lại chân-như nghĩa là tất cả các pháp chân thật
như thế, chỉ là nhất-tâm nên gọi nhất-tâm là chân-như. Nếu
ngoài tâm có pháp thì tức là không phải chân thật, cũng không
phải như thế và tức là những tướng giả dối khác nhau vậy. Vì
thế, luận Khởi-tín có nói:"Tất cả các pháp bản-lai rời
tướng nói năng, rời tướng danh-tự, rời tướng nghĩ biết, rốt
ráo bình-đẳng, không có biến khác, không thể phá hoại, chỉ là
nhất-tâm nên gọi là chân-như".
Do những nghĩa đó, nên tự-tính-thanh-tịnh-tâm lại
có tên là chân-như vậy.
Điều 1: Sơ Lược Thích Nghĩa
Hỏi: Vì sao lại gọi cái tâm ấy là Phật-tính?
Đáp: Phật nghĩa là giác, tính nghĩa là tâm. Do cái
thể của tịnh-tâm nầy không phải là bất-giác nên gọi là
giác-tâm vậy.
Khoản 1: Luận Về Bất Giác Để
Phân Tích
Hỏi: Làm sao biết được cái chân-tâm đó không
phải là bất-giác?
Đáp: Bất-giác tức là vô-minh trụ-địa; nếu cái
tịnh-tâm ấy là vô-minh thì khi chúng sinh thành Phật, vô-minh diệt
hết, lẽ ra không có chân-tâm. Vì cớ sao? Vì tâm là vô-minh vậy.
Song vì vô-minh tự diệt, tịnh-tâm tự còn, nên biết tịnh-tâm không
phải là bất-giác; lại nữa do bất-giác diệt rồi, mới chứng
được tịnh-tâm nên biết tịnh-tâm không phải là bất-giác vậy.
Hỏi: Sao không lấy nghĩa tự-thể là giác mà gọi là
giác, lại lấy cái nghĩa không phải là bất-giác mà gọi là giác?
Đáp: Tâm-thể bình đẳng, không phải giác, không
phải bất giác, chỉ vì muốn chỉ tỏ Như-như-Phật nên dùng nghĩa đối
đãi mà gọi là giác. Vậy nên trong kinh nói rằng:"Tất cả
không niết bàn, không có đức Phật niết-bàn, không có niết-bàn
của Phật, xa rời năng-giác sở-giác, dầu có dầu không có, cả
hai đều rời cả". Đó là nói riêng về tâm-thể bình đẳng
vậy. Nếu chính nơi cái nghĩa diệu-dụng pháp-giới của tâm-thể để
chỉ tỏ cái giác thì tâm-thể ấy đủ ba thứ đại-trí là
vô-sư-trí, tự-nhiên-trí và vô-ngại-trí; bản-thế giác-tâm vốn
đủ cái tính của ba trí đó nên gọi tâm ấy là giác-tính.
Vậy nên cần biết những nghĩa đồng nhau khác nhau.
Thế nào là đồng? nghĩa là tâm-thể bình-đẳng tức là trí-giác;
trí-giác tức là tâm-thể bình đẳng, cho nên gọi là đồng vậy.
Lại thế nào là khác? Cái nghĩa bản-giác là dụng, nơi phàm-phu thì
gọi là Phật-tính, cũng gọi là cái tính của ba trí; khi ra khỏi hai
chướng thì gọi là Trí-tuệ-Phật vậy. Còn cái nghĩa tâm-thể bình
đẳng là thể nên thánh phàm không hai, chỉ gọi là Như-như-Phật
vậy. Do đó nên bảo là khác nhau và nên biết khác nhau là như
thế.
Chi 1: Phân Tích Trí-Tuệ Phật-Tính
Hỏi: Trí-tuệ-Phật là giác ngộ tịnh-tâm nên gọi là
Phật hay là tịnh-tâm tự giác nên gọi là Phật ?
Đáp: Có đủ hai nghĩa, một là giác ngộ tịnh-tâm, hai
là tịnh-tâm tự giác; tuy nói hai nghĩa nhưng về thể, không có khác
vậy.
Nghĩa đó thế nào? Nghĩa là tất cả chư Phật, trong
lúc còn là phàm phu, tâm nương theo huân tập mà biến đổi. Do
không giác nên tâm tự động, hiện ra các hư-trạng. Hư-trạng tức
là năm ấm của phàm phu và sáu trần, cũng gọi là tợ-thức,
tợ-sắc, tợ-trần vậy.
Tợ-thức tức là thức thứ sáu và thức thứ
bẩy. Do khi các tợ-thức đó niệm niệm khởi lên, không rõ biết
những pháp tợ-sắc, chỉ do tâm hiện ra và là những hư-tướng
không thật; rồi do không rõ biết như thế, vọng-chấp các hư-tướng
là thật-sự; khi vọng-chấp như thế thì liền trở lại huân tập
tịnh-tâm vậy.
Song tợ-thức không rõ như thế tức là
quả-thời-vô-minh, cũng gọi là mê-cảnh-vô-minh; như trong kinh dạy
là cái "si trong duyên". Còn cái nghĩa tợ-thức vọng-chấp,
tức là vọng-tưởng, và cái cảnh sở-chấp tức là
vọng-cảnh-giới vậy. Do quả-thời-vô-minh huân-tập cái tâm, khiến
cho cái tâm không giác, đó tức là tử-thời-vô-minh, cũng gọi
là trụ-địa vô-minh vậy, đo vọng-tưởng huân-tập cái tâm, khiến
cái tâm biến động, tức là nghiệp-thức. Do vọng-cảnh huân-tập
cái tâm, khiến cho nơi tâm có những chủng-tử tợ-trần; do
tợ-thức huân-tập cái tâm khiến cho nơi tâm có những chủng-tử
tợ-thức; hai thứ chủng-tử tợ-trần tợ-thức nầy, tóm lại,
gọi là chủng-tử hư-trạng vậy. Song các thứ quả-thời-vô-minh,
vân vân ..., tuy gọi rằng mỗi cái huân-tập riêng, khởi ra một
pháp, nhưng cần phải đồng một thời hòa hợp với nhau mới
huân-tập được. Vì cớ sao? Vì các thứ đó không rời nhau và
nương nhau mới có vậy. Nếu không có tợ-thức thì tức cũng
không có quả-thời-vô-minh; nếu không có vô-minh thì tức cũng
không có vọng-tưởng; nếu không có vọng-tưởng thì tức cũng
không thành vọng-cảnh; vậy nên bốn thứ đó đồng một thời hòa
hợp với nhau mới hiện ra được cái quả hư-trạng. Vì cớ sao? Vì
nó không rời nhau vậy. Lại nữa, những chủng-tử hư-trạng nương
với tử-thời-vô-minh kia mà an-trụ và các chủng-tử hư-trạng
không thể một mình hiện ra quả vậy. Nếu không tử-thời-vô-minh
thì tức là không có nghiệp-thức; nếu không có nghiệp-thức thì
tức là các chủng-tử hư-trạng không thể hiện ra thành quả và
tự-thể của nó cũng không thành lập được. Vậy nên phải hòa
hợp mới hiện ra cái quả hư-trạng.
Vì thế, trong quả hư-trạng lại cũng đủ cả những
tợ-thức, tợ-trần, hư-vọng, vô-minh, vọng-chấp. Do những nghĩa
đó nên lược nói rằng bất-giác nên động và hiện ra các
hư-trạng vậy.
Quả và tử vô-thủy xoay vần sinh nhau như thế, gọi
là chúng sinh.
Về sau gặp được thiện-hữu dạy cho rằng các pháp
đều do nhất-tâm hiện ra, hình như có mà không thật; nghe pháp ấy
rồi thuận theo tu hành, lần biết các pháp đều do tâm biến hiện,
rỗng dối không thật.
Khi mà sự nhận hiểu như thế được thành tựu thì
quả-thời-vô-minh diệt; vì vô-minh diệt, không chấp hư-trạng là
thật nên vọng-tưởng và vọng-cảnh cũng diệt vậy. Lúc bấy giờ,
ý-thức chuyển thành vô-trần-trí và biết được không có thật
trần vậy.
Tuy biết được cảnh-giới là hư-vọng mà gọi là
quả-thời-vô-minh diệt, song lại còn thấy có hư-tướng; cái có
đó tức là không phải có, bản-tính không sinh, nay cũng không
diệt, chỉ là nhất-tâm. Do không biết lý do nên cũng gọi là
tử-thời-vô-minh hoặc mê-lý-vô-minh, nhưng nó vi tế hơn
mê-sự-vô-minh trước kia; do cái thô trước kia đã diệt nên bảo
rằng quả-thời-vô-minh diệt vậy.
Lại không chấp hư-trạng là thật nên gọi là
vọng-tưởng diệt, song còn thấy có hư-tướng, cho rằng có cái
khác với tâm thì cái chấp như thế cũng là vọng-tưởng, cũng
gọi là hư-tướng, nhưng vi tế hơn trước; do cái thô kia đã diệt
nên gọi rằng vọng-tưởng diệt vậy. Lại hư-cảnh đó, do có
vô-minh và vọng-tưởng vi tế chấp trược nên hình như khác với
tâm, tướng nầy tướng khác bất nhất, tức là vọng-cảnh, nhưng vi
tế hơn trước và vì nó vi tế nên gọi là hư-cảnh; lại cái chấp
thật có tướng thô kia đã diệt nên cũng gọi là vọng-cảnh diệt
vậy.
Lấy đó luận rộng ra thì không những
quả-thời-mê-sự-vô-minh diệt mà trụ-địa-vô-minh cũng trừ
được phần ít vậy. Nếu trụ-địa-vô-minh không lần lần trừ
được từng phần thì quả-thời-vô-minh cũng không thể lần lần
diệt được từng phần, chỉ vì tướng đó vi tế khó chỉ bày, nên
không nói trụ-địa-vô-minh cũng diệt từng phần vậy. Nay luận về
sau khi mê-sự-vô-minh diệt rồi để nói nguyên do tiêu diệt dần
dần của trụ-địa-vô-minh thì cũng liền biết được từ lúc một
niệm phát tâm tu hành, vô-minh cũng có thể dần dần tiêu diệt.
Nghĩa đó thế nào? Do nhân duyên hai nghĩa sau nầy nên
trụ-địa-vô-minh và nghiệp-thức dần dần giảm bớt. Hai nghĩa đó
là gì? Một là do cái trí, biết được cảnh là hư vọng, huân tập
cái tâm, khiến cho tập-khí vô-minh-trụ-địa cũ và nghiệp-thức lần
lần trừ bớt. Tại sao tế? Trí là pháp sáng suốt, tính nó có thể
đối trị vô-minh vậy. Hai là do vô-minh vi tế, chấp có hư-tướng và
hư-cảnh, huân-tập cái tâm, tuy cũng khởi ra trụ-địa-vô-minh, nhưng
kém yếu hơn, không đồng như khi mê-cảnh-vô-minh huân-tập khởi
lên. Tại sao thế? do cái năng-huân vi tế nên cái bất-giác khởi
lên cũng nhẹ hơn vậy. Do những nghĩa đó nên trụ-địa-vô-minh và
nghiệp-thức lần lần cũng đã bị giảm bớt.
Như sau khi mê-sự-vô-minh tiêu diệt rồi là đã có
nghĩa ấy thì cũng nên biết rằng khi một niệm bắt đầu phát tâm tu
hành, vô-minh-trụ-địa liền đó cũng đã diệt được một phần. Do
vô-minh tiêu diệt từng phần từng phần mà trí tuệ khởi ra cũng
thêm sáng suốt từng phần từng phần, vì thế
quả-thời-mê-sự-vô-minh mới diệt được vậy.
Từ sau mê-sự-vô-minh diệt rồi, do nghiệp-thức và
trụ-địa-vô-minh dần dần kém yếu nên quả-báo hư-trạng khởi ra
cũng chuyển thành nhẹ nhàng nhỏ nhiệm, không đồng như trước. Do
cái nghĩa đó, tợ-thức chuyển thêm sáng suốt hơn, những pháp
tợ-sắc vân vân... không còn khiến ý-thức sinh mê lầm nữa. Do
nội-thức và ngoại-sắc, do thức sinh ra, đều nhỏ nhiệm thông suốt
nên trí vô-trần cũng thêm sáng tỏ và vô-minh vọng-tưởng thì
tột bậc kém yếu. Các điều nầy trở lại huân-tập cái tâm,
khiến cho những tập-khí trụ-địa-vô-minh và nghiệp-thức gần muốn
đi đến hết sạch và cái trí vô-trần hiện ra lại càng thêm sáng
tỏ hơn nữa. Do từng niệm từng niệm lần lượt huân-tập chuyển
dần như thế, trụ-địa-vô-minh sắp hết và trí vô-trần khởi ra
liền biết được quả-báo hư-trạng kia, thể-tính không phải có,
vốn tự không sinh, nay cũng không diệt, chỉ là nhất-tâm, thể-tính
không có phân biệt, vì ngoài duy-tâm, không có pháp vậy; trí ấy
tức là kim-cương-vô-ngại-trí.
Trí đó đã thành rồi, liền trở lại huân-tập cái
tâm. Tâm được trí sáng suốt đó huân-tập, nên tập-khí
nhất-niệm vô-minh liền diệt. Vô-minh đã hết thì những tập-khí
chủng-tử của nghiệp thức và pháp-nhiễm liền tan vỡ theo; vậy
nên trong kinh nói rằng: "Chỗ đứng đã tan vỡ thì những cái
kia cũng tan vỡ theo", tức là cái nghĩa đó vậy.
Chúng-tử tập-khí đã phá trừ rồi thì hư-trạng
dứt-hẳn; do hư-trạng dứt hẳn nên tâm-thể tịch chiếu, gọi là
thể-chứng chân-như. Vì cớ sao? Vì không có pháp nào khác làm
năng-chứng vậy.
Tức cái tịch chiếu đó không chia ra có năng-chứng
sở-chứng thì gọi là vô-phân-biệt-trí. Vì cớ sao? Vì ngoài trí
đó, không riêng có chân-như có thể phân biệt được. Đây tức
là tâm tỏ ra thành trí; trí là dụng của tâm, tâm là thể của
trí; thể và dụng chỉ là một pháp, tự-tính không hai, nên gọi là
tự-tính thể-chứng vậy.
Ví như nước đứng lặng chiếu bóng, tuy chiếu bóng
và thấm ướt, ý nghĩa khác nhau, mà nước vẫn thường là một.
Vì sao? Vì cái chiếu bóng là cái thấm ướt, cái thấm ướt là
cái chiếu bóng vậy. Tâm cũng như thế, tuy chia ra có tịch có chiếu,
mà bản-thể dung hòa không hai. Vì sao? Cái chiếu đó là tịch, cái
tịch đó là chiếu vậy. Cái chiếu là tịch, là thuận theo thể; cái
tịch là chiếu, là thuận theo dụng; chiếu cái tự-thể gọi là
giác-ngộ tịnh-tâm, cái thể tự-chiếu gọi là tịnh-tâm tự giác;
cho nên nói rằng hai nghĩa đó là một thể. Ở đây tức là lấy
cái vô-phân-biệt-trí mà làm giác vậy. Tịnh-tâm bản-lai sẵn đủ
cái tính của trí đó, không thêm không bớt nên gọi tịnh-tâm là
Phật-tính.
Đó là đứng về trí-tuệ-Phật để tỏ tịnh-tâm là
Phật-tính.
Chi 2: Phân Tích Báo-?ng Phật-Tính
Lại tự-thể của tịnh-tâm ấy, sẵn đủ các tính của
phúc đức và của diệu-dụng, khi được nghiệp-tịnh huân-tập thì
phát sinh ra Báo-Phật và ứng-Phật, nên gọi cái tâm đó là
Phật-tính vậy.
Chi 3: Phân Tích Xuất-Chướng
Phật-Tính
Lại nữa, do bất-giác kia diệt, gọi cái tâm là
giác; sự biến động dừng nghỉ, gọi cái tâm là bất-động; các
hư-tướng dứt sạch, gọi cái tâm là vô-tướng; song cái tâm-thể
đó không phải giác, không phải bất-giác, không phải động, không
phải bất-động, không phải tướng, không phải vô-tướng. Tuy vậy,
do bất-giác tiêu diệt mà gọi cái tâm là giác, cũng không ngại
gì. Đây chính nơi tâm-thể đã đối trị và ra khỏi các chướng mà
luận nghĩa chữ giác, chứ không căn-cứ cái trí-dụng mà gọi là
giác.
Chi 4: Phân Tích Bình-Đẳng
Phật-Tính
Lại nữa, tịnh-tâm vốn không bất-giác nên gọi cái
tâm là bản-giác, vốn không biến động nên gọi cái tâm là
bản-tịch, vốn không hư-tướng nên gọi cái tâm là bản bình-đẳng;
song cái tâm-thể đó không phải giác, không phải bất-giác, không
phải động, không phải bất động, không phải tướng, không phải
vô-tướng. Tuy vậy, do vốn không bất-giác mà gọi cái tâm là
bản-giác, cũng không lỗi gì. Đây chính nơi phàm thánh không hai
để chỉ tỏ tâm-thể là Như-như-Phật, không luận về cái tâm-thể
vốn đủ cái dụng của tính-giác vậy.
Chi 1: Giải Thích Điều Nghi Về Chấp
Cái Tính Mà Bỏ Tu
Hỏi: Nếu chính do vốn không bất-giác mà gọi là
Phật thì phàm phu tức là Phật rồi, còn cần phải tu làm gì?
Đáp : Nếu chính nơi tâm-thể bình-đẳng mà nói thì
không có tu và không tu, thành và không thành, cũng không giác và
bất-giác, chỉ vì để chỉ tỏ Như-như-Phật nên đối lại mà nói là
giác vậy. Lại nếu căn cứ nơi tâm-thể bình-đẳng thì cũng không
có chúng sinh và chư Phật cùng với tâm-thể đó có sự sai khác.
Vậy nên trong kinh có bài kệ rằng: "Tâm, Phật và chúng sinh, cả
ba không khác nhau". Song lại do pháp-môn pháp-giới duyên-khởi
của tâm-tính, bản nhiên như thế, không thể hoại diệt, nên thường
bình-đẳng và thường khác nhau. Do thường bình-đẳng nên tâm, Phật
và chúng sinh, cả ba không khác nhau; do thường khác nhau nên trôi
lăn trong năm đường thì gọi là chúng sinh, ngược dòng đến tột
nguồn thì gọi là Phật. Do cái nghĩa bình-đẳng đó nên không Phật,
không chúng sinh; do cái nghĩa duyên khởi khác nhau đó nên chúng sinh
phải tu đạo.
Chi 2: Giải Thích Điều Nghi Về Vốn
Có Bất-Giác
Hỏi: Thế nào biết được tâm-thể vốn không
bất-giác?
Đáp: Nếu tâm-thể vốn có bất-giác thì khi
thánh-nhân chứng được tịnh-tâm rồi, lẽ ra lại cứ bất-giác và
phàm phu chưa chứng, lẽ ra cũng được gọi là giác. Đã thấy các
vị chứng rồi không có bất-giác và những người chưa chứng
không gọi là giác nên nhận biết rằng tâm-thể vốn không
bất-giác.
Hỏi: Thánh-nhân do diệt trừ bất-giác nên tự
chứng được tịnh-tâm; nếu không có bất-giác thì làm sao lại bảo
là diệt trừ; lại nếu không có bất-giác thì cũng không có chúng
sinh?
Đáp: Trước đã giải thích đầy đủ rồi, do
tâm-thể bình-đẳng không phàm không thánh nên bảo là vốn không
bất-giác; nhưng không phải không có tâm-tính duyên khởi, nên có
diệt, có có chứng, có phàm, có thánh. Lại nữa, cái có do duyên
khởi, tức là không phải có, nên bảo là vốn không bất-giác và
hiện nay cũng không bất-giác, song nó cũng lại không phải là không
có nên nói có diệt, có chứng, có phàm, có thánh. Chỉ các vị
đã chứng, do dụng-thuận mà nhập vào thể nên liền không có
bất-giác và nghiệm biết được rằng tâm-thể vốn không bất-giác;
còn phàm phu thì do dụng-trái, một thể lại gọi là khác, nên không
chứng biết được cái thể bình-đẳng vậy.
Chi 3: Giải Thích Điều Nghi Về
Nhân-Duyên, Tự-Nhiên
Hỏi: Tâm tỏ ra thành trí, là vì vô-minh đã hết,
tự nhiên là trí, hay là còn có nhân duyên khác nữa.
Đáp: Cái tâm đó trong lúc còn trong nhiễm, vốn đủ
hai cái tính của phúc-đức và trí-tuệ, chẳng thiếu một pháp nào
và cùng với Phật không khác, chỉ vì bị những pháp-nhiễm vô-minh
che lấp nên không tỏ ra được cái dụng đó mà thôi; về sau do
được hai thứ nghiệp-tịnh phúc-đức và trí-tuệ huân-tập nên
các pháp-nhiễm đều hết; song trong khi những nghiệp-tịnh đó trừ
được nhiễm thì liền tỏ bày hai tính phúc-đức trí-tuệ kia, khiến
cho thành được sự-dụng, tức là tướng tốt, y-báo,
nhất-thiết-trí, vân vân ..., trí-thể tức là công-năng tính chiếu
của chân-tâm, còn trí-dụng là do huân-tập mà thành vậy.
Chi 4: Giải Thích Điều Nghi Về
Vô-Minh Tâm-Tính
Hỏi: Tâm tỏ ra thành trí, thì lấy cái tâm đó làm
Phật-tính; vậy tâm khởi ra bất-giác, thì cũng nên lấy cái tâm
làm vô-minh-tính.
Đáp: Nếu luận theo cái nghĩa pháp-tính thì cũng
được cho là vô-minh-tính, vì thế, trong kinh có nói :"Minh và
vô-minh, cái tính không hai, tính không hai đó, tức là
Phật-tính".
Đoạn 4: Thích Nghĩa Cái Tên
Pháp-Thân
Hỏi: Vì sao lại gọi cái tâm ấy là pháp-thân?
Đáp: Pháp nghĩa là công-năng, thân nghĩa là chỗ
nương đứng. Do cái tâm-thể ấy có cái dụng theo nhiễm nên bị tất
cả pháp-nhiễm huân-tập; tức cái tâm theo nhiễm, thu giữ được
các tập-khí huân-tập đó, lại có thể nương theo huân-tập mà
hiện ra các pháp-nhiễm; cả hai công-năng năng-trì năng-hiện của
tâm-tính và hai thứ pháp-nhiễm sở-trì sở-hiện đều nương nơi
nhất tâm mà an-lập, cùng với tâm ấy không phải một, không phải
khác nên gọi tâm ấy là pháp-thân. Cái công-năng năng-trì, cùng
với các tập-khí sở-trì đó, hòa hợp lại thì gọi là tử-thời
a-lai-gia-thức; còn cái công-năng nương theo huân-tập hiện ra các
pháp, cùng với các tướng sở-hiện, hòa hợp lại thì gọi là
quả-báo a-lai-gia-thức; hai cái thức đó, thể là một mà dụng thì
khác vậy.
Song trong a-lai-gia-thức nầy, lại có hai phần: một là
phần-nhiễm, tức là những tướng của các nghiệp và quả-báo; hai
là phần-tịnh, tức cái tâm-tính và các pháp-tịnh năng-huân, gọi
là phần-tịnh, là vì cái tính-nhiễm tức là tính-tịnh, chứ không
có pháp khác.
Do tâm-tính ấy làm chỗ nương đứng của những
sự-nhiễm nghiệp-quả kia nên gọi là sinh-tử-y Như-lai-tạng, tức
là Pháp thân-tạng vậy.
Lại Tâm-thể ấy, tuy bị vô-lượng pháp-nhiễm che
lấp, nhưng vẫn đủ tính của các pháp công-đức vô-lậu như số
cát sông Hằng. Khi được vô-lượng nghiệp-tịnh huân-tập thì
những tính-tịnh ấy liền có thể thu giữ tập-khí huân-tập, lại có
thể nương theo sự huân-tập ấy hiện ra cái dụng của các
công-đức-tịnh. Chính những tính của các công-đức-tịnh như số
cát sông Hằng, cùng với hai công-năng năng-trì năng-hiện và hai
dụng-tịnh sở-trì sở-hiện, đều nương nơi nhất-tâm mà an-lập,
cùng với tâm ấy không phải một, không phải khác, nên gọi tâm
ấy là pháp-thân vậy.
Đoạn 5: Thích Nghĩa Cái Tên
Như-Lai-Tạng
Hỏi: Vì sao lại gọi cái tâm ấy là Như-lai-tạng?
Đáp: Có ba nghĩa: một là năng-tàng, gọi là tạng;
hai là sở-tàng, gọi là tạng, ba là năng-sinh, gọi là tạng.
Cái gọi là năng-tang lại có hai thứ: một là
quả-đức pháp-thân của Như-lai, hai là tính-đức tịnh-tâm của
chúng sinh; cả hai đều bao trùm hai tính nhiễm tịnh và hai sự nhiễm
tịnh, không có trở ngại, nên gọi năng-tàng là tạng; tạng-thể
bình đẳng thì gọi là như, bình đẳng duyên khởi thì gọi là lai;
đó tức cái năng-tàng mà gọi là Như-lai-tạng vậy. Hai là lấy
nghĩa sở-tàng mà gọi là tạng, tức là cái chân-tâm ấy bị cái
vỏ vô-minh che giấu nên gọi là sở-tàng vậy. Tạng-thể không có
khác, không có tướng thì gọi là như, tạng-thể đầy đủ hai dụng
nhiễm tịnh thì gọi là lai; vậy nên gọi sở-tàng là Như-lai-tạng.
Ba là lấy nghĩa năng-sinh mà gọi là tạng. Như
thai-tạng người con gái có thể sinh con, cái tâm ấy cũng vậy, thể
nó đủ cả cái dụng của hai tính nhiễm tịnh nên nương theo hai sức
huân-tập nhiễm tịnh, có thể sinh ra các pháp thế-gian và
xuất-thế-gian. Vì thế, trong kinh nói rằng: "Như-lai-tạng là cái
nhân của thiện và bất-thiện"; lại nói rằng: "Tâm-tính là
một, làm sao sinh được các thứ quả-báo"; lại nói rằng
:"Biển chính-biến-tri của chư Phật từ tâm-tưởng mà sinh
vậy". Thế nên nhiễm tịnh bình đẳng thì gọi là như, có thể sinh
ra nhiễm tịnh thì gọi là lai; vậy nên gọi cái năng-sinh là
Như-lai-tạng vậy.
Đoạn 6: Thích Nghĩa Cái Tên Pháp
Giới
Hỏi: Vì sao lại gọi tịnh-tâm là pháp-giới?
Đáp: Pháp là pháp-nhĩ, giới là tính sai khác. Do
cái tâm-thể đó bản-nhiên đủ hết tất cả các pháp nên gọi là
pháp-giới.
Đoạn 7: Thích Nghĩa Cái Tên
Pháp-Tính
Hỏi: Vì sao lại gọi tịnh-tâm là pháp-tính?
Đáp: Pháp nghĩa là tất cả các pháp, tính nghĩa là
thể sai khác. Do tịnh-tâm ấy có tính sai khác nên có khả-năng làm
cái thể cho các pháp vậy. Lại tính cũng có nghĩa là thể-thật
không đổi, do tất cả các pháp đều lấy tâm làm thể; tướng của
các pháp tự có sinh diệt nên gọi là hư-vọng; tâm ấy chân thật,
không đổi không diệt nên gọi là pháp-tính vậy.
Đoạn 8: Kết Luận
Còn lại những danh tự vô-lượng khác, như
thật-tế, thật-tướng v.v... không thể thích nghĩa hết được. Trên
đây đã thích nghĩa các tên xong.
Đoạn 1: Chỉ Tổng Quát
Thứ nữa chỉ ra thể-trạng. Trong chỗ nói về
thể-trạng, lại chia ra ba nghĩa khác nhau: một là nêu ra nghĩa
ly-tướng để chỉ tỏ tịnh-tâm, hai là nêu ra nghĩa bất-nhất bất-dị
để luận về pháp-tính, ba là nêu ra hai thứ Như-lai-tạng để chỉ
tỏ chân-như. Tuy có ba nghĩa khác nhau như thế, nhưng tóm lại chỉ để
phân tích thể-trạng của tịnh-tâm vậy.
Điều 1: Chỉ Hẳn Tịnh-Tâm Là
Ly-Tướng
Phần thứ nhất chỉ tỏ nghĩa ly-tướng thì cái tâm
đó tức là cái tâm chân-như đệ-nhất-nghĩa-đế. Tự-tính của
nó viên-dung, thể nó đầy đủ đại-dụng, chỉ tự-giác-thánh-trí
mới biết được, chứ không phải so đo theo tình-chấp mà có thể
lường được vậy. Thế nên bảo là đường nói năng dứt, chỗ
nghĩ ngợi diệt, không thể dùng cái tên mà gọi, không thể dùng
cái tướng mà nhận; vì cớ sao? Vì tâm-thể rời danh tướng vậy.
Thể đã rời cái danh thì không thể dùng cái danh mà gọi được
cái thể; tâm đã tuyệt cái tướng thì không thể nương cái
tướng mà nhận được cái tâm; vậy nên muốn luận bàn thể-trạng
của tịnh-tâm, thật cũng khó vậy. Chỉ có thể nói cái tướng
sở-ly; trái cái tướng, diệt cái tướng đó mà tự khế-hợp
thôi.
Nghĩa là nói cái tâm đó bản-lai, rời tất cả các
tướng, bình đẳng tịch-diệt, không phải hữu-tướng, không phải
vô-tướng, không phải phi-hữu-tướng, không phải phi-vô-tướng,
không phải diệc-hữu-tướng, không phải diệc-vô-tướng, không
phải quá-khứ, vị-lai, hiện-tại, không phải thượng, trung, hạ,
không phải bỉ, không phải thử, không phải tĩnh, không phải loạn,
không phải nhiễm, không phải tịnh, không phải thường, không phải
đoạn, không phải minh, không phải ám, không phải nhất, không phải
dị, không phải tất cả các pháp tứ-cú, v.v... tóm lại cho đến
không phải tất cả các pháp có thể nói, có thể nghĩ, cũng không
phải là pháp không thể nói, không thể nghĩ; vì cớ sao? Vì pháp
không thể nói, không thể nghĩ đối với các pháp có thể nói, có
thể nghĩ mà sinh, chứ không phải là pháp tự-thể, nên không phải
là tịnh-tâm.
Thế mới biết rằng các pháp có thể nói, có thể
nghĩ, không thể nói, không thể nghĩ, vân vân... thẩy đều không
phải là tịnh-tâm và chỉ là những hư-tướng do tịnh-tâm hiện ra;
song các hư-tướng đó đều tự không có thật, có tức là không
phải có. Cả cái tướng không phải có cũng không thể nhận lấy,
vì cớ sao? Vì cái có vốn là không có vậy; nếu cái có vốn là
không có thì làm gì còn cái tướng không phải có được. Vậy
nên thể của tịnh-tâm không thể dùng phân biệt mà biết, không
thể dùng lời nói mà đến được; vì cớ sao? Vì ngoài tịnh-tâm,
không có một pháp vậy. Nếu ngoài tâm không có pháp, thì lại còn
có cái gì duyên được, nói được cái tâm ấy nữa. Vậy nên
biết rằng có ra những cái năng-duyên năng-thuyết, chỉ là cái có
giả dối không thật; xét thật thì vốn là không vậy. Năng-duyên
đã không thật thì sở-duyên làm sao thật được. Năng-duyên
sở-duyên thẩy đều không thật, còn tịnh-tâm là sự thật nên
không thể dùng phân biệt mà biết được vậy.
Ví như con mắt không tự thấy; do ngoài con mắt đó
lại có con mắt khác thấy được con mắt đó, tức là có con mắt
của mình và của người khác. Tâm thì không như vậy, chỉ là
nhất-như, ngoài như không có pháp; lại nữa tịnh-tâm không tự
phân biệt, thì làm sao có được cái gì phân biệt nhận được
tịnh-tâm nữa. Thế mà những người phàm phu mê lầm phân biệt
tịnh-tâm thì cũng như người ngây mở to con mắt mà tìm con mắt
mình, rồi lại bảo các thứ tướng mạo là con mắt của mình, rốt
cuộc không biết con mắt của mình ở đâu.
Vậy nên biết rằng có ra năng-duyên sở-duyên chỉ do
tự-tâm bị những vọng-tưởng huân-tập nên không tự biết tính
mình, vọng sinh ra phân biệt và ở ngoài tâm mình, lập ra cái
tướng của tịnh-tâm, rồi dùng vọng-tưởng mà nhận đó là
tịnh-tâm; xét thật mà nói thì cái tướng nhận được đó chính
là cái tướng của thức phân biệt, thật không phải là tịnh-tâm
vậy.
Điều 2: Khai-Thị Phương Tiện
Tùy-Thuận, Nhập Vào Tâm-Tính
Hỏi: Thể của tịnh-tâm đã không thể phân biệt thì
chúng sinh làm thể nào tùy-thuận mà nhập vào được?
Đáp : Nếu biết tất cả vọng-niệm phân biệt, thể
là tịnh-tâm; chỉ do phân biệt không dừng nghỉ mà gọi là trái lý;
biết như thế rồi, nên quán tất cả các pháp, tất cả duyên-niệm
có ra đó, tức là không phải có, thì gọi là tùy-thuận, tu tập
lâu ngày, nếu rời được phân biệt thì gọi là được nhập vào
tịnh-tâm, tức là rời tướng mà thể-chứng chân-như vậy. Đó
là chỉ tỏ xong nghĩa thứ nhất là lấy ly-tướng để nhận định
thể-trạng.
Đoạn 3: Nêu Ra Nghĩa Bất-Nhất
Bất-Dị Để Luận Về Pháp Tính
Thứ nữa chỉ tỏ nghĩa bất-nhất bất-dị để nhận
thể-trạng.
Trên đây tuy chỉ tỏ tịnh-tâm, rời tất cả các
tướng của cảnh-giới và của tâm phân biệt, song các tướng đó
lại không khác tịnh-tâm; vì cớ sao? Tâm-thể tuy bình đẳng mà lại
vốn đủ hai cái dụng nhiễm và tịnh. Do sức huân-tập của vô-minh
vọng-tưởng vô-thủy, nên cái dụng-nhiễm của tâm-thể nương theo
huân-tập mà tỏ bày ra; song những thứ hư-tướng của dụng-nhiễm
đó không có tự thể, chỉ là tịnh-tâm nên gọi là không khác.
Nhưng lại cũng không phải một, vì cớ sao? Vì cái thể của tịnh-tâm
tuy đủ hai cái dụng nhiễm tịnh mà không có cái tướng khác nhau
của hai tính nhiễm tịnh nên một vị bình đẳng; chỉ nương theo sức
huân tập mà những hư-tướng hiện ra sai khác không đông; song
những hư-tướng đó có sinh, có diệt, còn thể của tịnh-tâm
thường không sinh diệt, thường không biến đổi nên gọi là không
phải một. Đây chỉ tỏ xong nghĩa bất-nhất bất-dị thứ hai để nhận
định thể-trạng.
Khoản 1: Chỉ Thẳng Nghĩa Không
Thứ nữa chỉ tỏ nghĩa thứ ba về hai thứ
Như-lai-tạng để nhận định thể-trạng. Phần đầu chỉ tỏ về
Không-Như-lai-tạng.
Thế nào gọi là không? Vì tâm-tính ấy tuy duyên
khởi thành lập các pháp sinh-tử, niết-bàn, vi, thuận, vân vân ...,
nhưng tâm-thể bình đẳng nhiệm mầu, tuyệt không có các tướng
nhiễm tịnh; không những tự-tính tâm-thể là bình-đẳng mà các
pháp nhiễm tịnh khởi ra, tính nó cũng tự không phải là có.
Như lấy cái khăn trông về con thỏ, thì cái thế của
con thỏ là không, chỉ nhờ sức huyễn-thuật nên hình như con thỏ
hiện ra và con thỏ hiện ra đó tức là không phải có. Tâm cũng
như vậy, chỉ do sức huyễn của hai nghiệp nhiễm tịnh huân-tập nên
hình như có hai pháp nhiễm tịnh hiện ra; nếu lấy cái tâm trông về
hai pháp kia, thì các pháp đó tức là không phải có.
Vậy nên trong kinh nói rằng:"Lưu-chuyển là
sinh-tử, không lưu-chuyển là niết-bàn, sinh-tử và niết-bàn, thẩy
đều không thể được". Kinh lại nói rằng: "Ngũ-ấm
như-huyễn cho đến đại-bát-niết-bàn cũng là như-huyễn; nếu có
một pháp nào hơn niết-bàn nữa thì tôi cũng nói là
như-huyễn". Kinh lại nói rằng: "Tất cả không niết-bàn,
không có đức Phật niết-bàn, không có niết-bàn của Phật, xa
rời năng-giác sở-giác, dầu có dầu không có, cả hai đều rời
tất". Những văn kinh như thế đều căn cứ nơi tâm-thể
bình-đẳng để làm bặt mất hai dụng nhiễm tịnh. Tâm-tính đã vẳng
lặng nên tâm thể rỗng không thanh tịnh; do nhân duyên đó nên gọi
tâm-thể ấy là không-Như-lai-tạng, chứ không phải bảo là rỗng
không, không có tâm-thể vậy.
Chi 1: Trừ Cái Nghi Chúng Sinh Hiện
Có
Hỏi: Chư Phật thể chứng tịnh-tâm thì tâm-thể có
thể bình-đẳng, cho nên Phật thường khởi dụng mà thường vẳng
lặng, gọi là không phải có. Chúng sinh chưa chứng được lý, hiện
có sáu đường khác nhau, làm sao lại thành không được?
Đáp: Chân-chiếu của chân-trí còn khởi dụng mà
thường vẳng lặng, gọi đó là không; huống nữa những vọng-kiến
mê lầm, sao lại không có cái nghĩa: có tức là không phải có.
Chi 2: Trừ Cái Nghi Vì Nhân Gì Mà
Mê Vọng
Hỏi: Đã gọi là không phải có thì làm sao có
được cái mê-vọng ấy?
Đáp: Đã nhận rằng vốn không phải có mà vọng
thấy là có, sao lại không nhận được rằng vốn không có mê mà
lầm khởi ra mê, cái ví dụ hoa đốm hư không có thể trình bày ở
đây.
Chi 3: Trừ Cái Nghi Vô-Minh Có
Tự-Thể
Hỏi: Các pháp-nhiễm khác có thể gọi là không phải
có, còn vô-minh đã là cái nhân-nhiễm thì làm sao lại không có
được?
Đáp: Hai thứ tử-thời, quả-thời vô-minh vốn không
tự-thể, chỉ lấy tịnh-tâm làm thể, do nhân duyên huân-tập nên có
cái dụng mê như thế; lấy cái tâm mà nhiếp thu thì cái dụng đó
tức là không phải có, chỉ là nhất-tâm. Ví như hạt thóc, hạt
mạch vốn không tự-thể, chỉ lấy vi-trần làm thể, song do nhân duyên
chủng-tử nên có cái dụng hạt thóc hạt mạch; nếu lấy vi-trần
nhiếp thu thì cái dụng đó tức là không phải có, chỉ là vi-trần ;
vô-minh cũng vậy, cái có của nó tức là không phải có.
Chi 4: Trừ Cái Nghi Năng-Huân Làm
Thể
Hỏi: Đã nói do nhân duyên huân-tập nên có cái
dụng mê thì nên lấy pháp năng-huân làm cái thể của vô-minh, sao
lại lấy tịnh-tâm làm thể?
Đáp: Pháp năng-huân tuy huân-tập được khiến cho
khởi lên, nhưng lại niệm niệm tự diệt, làm sao thành cái thể
khởi lên được. Như hạt mạch giống chỉ có thể sinh ra quả, nhưng
tự nó thì mục nát trở về vi-trần, đâu phải hạt mạch giống
mùa xuân, tức là hạt mạch kết-quả ở mùa thu sau; lại nếu như
thế thì hạt mạch lúc kiếp-sơ nay vẫn tồn tại. Vô-minh quá-khứ
thì cũng như vậy, chỉ có thể huân-tập khởi lên vô-minh niệm sau,
chứ tự nó không thể không diệt mà tạo thành được vô-minh
niệm sau vậy.
Chứ nếu như thế thì vô-minh tức là pháp thường
chứ không phải từng niệm từng niệm diệt mất; vô-minh đã không
phải thường, thì cũng như ngọn đèn, lớp trước lớp sau nhân nhau
khởi lên, nên cái thể của nó chỉ là tịnh-tâm vậy. Vì thế, lấy
tâm mà nhiếp thu thì cái có của vô-minh kia tức là không phải
có; do đó nên gọi tịnh-tâm là Không-như-lai-tạng.
Chi 5: Trừ Cái Nghi Nhân Với Quả
Là Một Hay Là Khác
Hỏi: Quả-thời-vô-minh cùng với vọng-tưởng là
một hay là khác, Tử-thời-vô-minh cùng với nghiệp-thức là một
hay là khác?
Đáp: Không một không khác; vì cớ sao? Do tịnh-tâm
bất giác nên động, không bất-giác thì không động; lại nếu không
vô minh thì không nghiệp-thức; lại động cùng bất-giác hòa hợp
cùng khởi lên một lần, không thể phân biệt, nên
tử-thời-vô-minh cùng với nghiệp-thức không khác vậy. Lại
bất-giác tự có nghĩa là mê mờ, do quả-thời-vô-minh quá-khứ
huân-tập khởi lên, nên lấy quả-thời-vô-minh kia làm nhân; còn
động tự có nghĩa là biến khác, do vọng-tưởng huân-tập khởi
lên nên lấy vọng-tưởng kia làm nhân; vì thế tử-thời-vô-minh
cùng với nghiệp-thức không phải một; đó là cái nghĩa
tử-thời-vô-minh cùng với nghiệp-thức không phải một, không
phải khác vậy.
Quả-thời-vô-minh cùng với vọng-tưởng không phải
một không phải khác là vì vô-minh tự có nghĩa là không rõ biết,
do tử-thời-vô-minh sinh ra nên lấy tử-thời-vô-minh kia làm nhân;
còn vọng-tưởng tự có nghĩa là phát sinh các thứ phân biệt, do
nghiệp-thức khởi lên nên lấy cái nghiệp-thức kia làm nhân; vì
thế quả-thời-vô-minh và vọng-tưởng không phải là một. Lại do
ý-thức không rõ cảnh là hư-giả nên vọng sinh ra phân biệt; nếu
rõ biết là hư-giả thì không sinh ra vọng-chấp phân biệt; lại nếu
không vô-minh thì không vọng-tưởng, nếu không vọng-tưởng thì
cũng không vô-minh; lại hai pháp đó hòa hợp cùng khởi lên một
lần, không thể phân biệt nên không phải khác; đó là cái nghĩa
quả-thời-vô-minh cùng với vọng-tưởng không phải một, không
phải khác vậy. Theo những nghĩa trên, hai thứ vô-minh là thể,
nghiệp-thức vọng-tưởng là dụng; hai thứ vô-minh làm nhân làm
quả cho nhau, nghiệp-thức cùng vọng-tưởng cũng tự làm nhân làm
quả cho nhau. Nếu tử-thời và quả-thời-vô-minh làm nhân cho nhau
thì tức là nhân duyên; vọng-tưởng và nghiệp-thức làm nhân cho
nhau thì cũng là nhân duyên; còn nếu tử-thời-vô-minh khởi ra
nghiệp thức thì tức là tăng-thượng-duyên; quả-thời-vô-minh
khởi ra vọng-tưởng thì cũng là tăng-thượng-duyên vậy.
Trên đây chỉ tỏ không-Như-lại-tạng xong.
---o0o---
[Mục lục] [Xem tiếp]
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành cảm ơn ĐĐ Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử
này
Cập nhật ngày: 01-05-2001