Mật tông - Tổng Thích Đà La Ni Nghĩa Tán.

 

......... .


 

 

Mật Tạng Bộ 1_ No.902 (Tr.898)

 

TỔNG THÍCH ĐÀ LA NI NGHĨA TÁN

 

Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Đại Quảng Trí BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch

Việt dịch: HUYỀN THANH

 

---o0o--- 

 

Đức Như Lai ở trăm ngàn Câu chi A tăng kỳ kiếp gom chứa chất liệu Bồ Đề, gia trì văn tự Chân Ngôn của Đà La Ni khiến cho Bậc Bồ Tát đến ngộ tương ứng với điều này mà đốn tập chất liệu của Phước Đức và Trí Tuệ. Ở nơi Đại Thừa, cần tu hành hai lối của Bồ Tát Đạo để chứng đạo Vô Thượng Bồ Đề. Ấy là: y theo các Ba La Mật để tu hành thành Phật, và y vào ba Mật Môn của Chân Ngôn Đà La Ni  để tu thành Phật.

(Đà La Ni (Dhàranïì) là tiếng Phạn, thường phiên dịch theo nghĩa Tổng trì . Có 4 loại trì là: Pháp Trì, Nghĩa Trì, Tam Ma Địa Trì, Văn Trì.

A. Pháp Trì:

Do được Trì này mà đập tan tất cả các Pháp tạp nhiễm và chứng được giáo pháp lưu lộ từ nơi Pháp Giới thanh tịnh.

B. Nghĩa Trì:

Do được Trì này nên ở trong nghĩa của một chữ mà được trăm ngàn vô lượng hạnh của Tu Đa La (Sutra _ Khế Kinh) và diễn nói thuận nghịch đều tự tại

C. Tam Ma Địa Trì:

Do được Trì này nên Tâm chẳng tán động mà được Tam Muội hiện tiền, ngộ được vô lượng trăm ngàn môn Tam Ma Địa. Vì tăng trưởng Tâm Bi của Bồ Tát cho nên dùng nguyện thọ sinh nơi sáu nẻo mà chẳng bị Căn Bản Phiền Não (Mùla-Kle’sa) với Tùy Phiền Não (Upakle’sa) phá hoại được Tam Muội ấy. Lại do Tam Muội  Địa này mà chứng được năm thần thông để thành tựu sự lợi lạc cho vô biên chúng Hữu Tình.

D.  Văn Trì:

Do đây mà thọ trì Đà La Ni để thành tựu sự nghe, ấy là tất cả Khế Kinh ở chốn của tất cả Như Lai và tất cả Bồ Tát, nghe được trăm ngàn vô lượng Tu Đa La (Sutra_ Khế Kinh)  mà chẳng hề quên mất.

- Chân Ngôn cũng có đủ 4 nghĩa - Chân là tương ứng Chân Như, Ngôn là thích dịch nghĩa chân thật . Bốn nghĩa của Chân ngôn là:

1. Pháp Chân Ngôn : là Pháp giới thanh tịnh dùng làm Chân Ngôn.

2. Nghĩa Chân Ngôn : là tương ứng Thắng nghĩa, trong mỗi mỗi chữ có sự tương ứng chân thật.

3. Tam Ma Địa Chân Ngôn : Do bậc Du Già dùng Chân Ngôn này để bố liệt (An bày) văn tự của Chân Ngôn lên trên vành trăng KÍNH TRÍ của Tâm đồng thời chuyên chú Tâm chẳng lay động mà mau chóng chứng được Tam Ma Địa. Vì thế gọi là Tam Ma Địa Chân Ngôn.

4. Văn Trì Chân Ngôn : Từ chữ ÁN (OMÏ) cho đến chữ SA PHỘC  HA (SVÀHÀ)  có bao nhiêu văn tự ở khoảng giữa thì mỗi mỗâi chữ đều gọi là Chân Ngôn, cũng gọi là Mật Ngôn và cũng có đủ 4 nghĩa:

a. Pháp Mật Ngôn: chẳng phải là phi pháp với cảnh giới của Nhị Thừa và Ngoại Đạo mà chỉ tu Chân Ngôn Hạnh Bồ Tát. Tất cả Sở văn, Sở từ, Ấn khế, Man Đa La, tu hành Sở cầu Tất Địa đều gọi là Pháp Mật Ngôn

b. Nghĩa Mật ngôn: là mỗi mỗi chữ trong Chân Ngôn thì chỉ có Phật với Phật cùng với Bậc Bồ Tát đại  uy đức mới có thể nghiên cứu hết mà thôi.

c. Tam Ma Địa Mật Ngôn: là do Tam Ma Địa và văn tự của Chân Ngôn trong sự kiện này mà tương ứng được uy lực.

d. Biến Bố Mật Ngôn: là theo Thầy mật truyền quy tắc của ba Mật, chỉ có Thầy và Đệ Tử biết thôi chẳng thể cho người khác biết được cho đến Quán Môn, Ấn Khế, hình tượng của Bản Tôn cũng mật thọ trì cho đắc được Tâm Sở hy vọng Tam Ma Địa.

(Sự nghe giữ chẳng quên, Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ , Tha Tâm và Tất Địa thượng trung hạ cũng gọi là MINH (Vidya). Minh có 4 nghĩa là:

A. Pháp Minh:

Kẻ tu hành xưng tụng thì  ánh sáng trong mỗi mỗi chữ chiếu khắp mười phương Thế Giới khiến cho tất cả chúng sinh Hữu Tình đang chìm đắm trong biển khỗ sinh tử đều phá được phiền não vô minh, đều xa lìa khổ đau mà được giải thoát. Vì thế, gọi là Pháp Minh.

B. Nghĩa Minh:

Là do bậc Du Già tương ứng với nghĩa của Chân Ngôn nên thông đạt, minh liễu được Bát Nhã Ba la Mật mà xa lìa đạo lý vô nghĩa.

C. Tam Ma Địa Minh:

Là do quán tưởng Chủng Tử (Bìja) của Chân Ngôn ở trong vành trăng Tâm mà đắc được đại quang minh, tác Tự Tha Chiếu Minh Tam Ma Địa  mà thành tựu.

D. Văn Trì Minh:

Là chứng được Văn Trì Pháp (‘Srutimyò Dharma)  hay phá được các Hoặc của sự lãng quên. chứng đắc Tâm Bồ Đề (Bodhi Citta) mà thành tựu.

Như trên là nghĩa của Đà La Ni, Chân Ngôn, Mật Ngôn và Minh đều dựa theo Phạn văn. Lại ở trong Tu Đa La của Hiển Giáo hoặc ở trong Chân Ngôn của Mật Giáo cũng xưng nói 4 điều như vậy.

Hoặc có Chân Ngôn có 1 chữ, 2 chữ, 3 chữ, 100 chữ, 1000 chữ, vạn chữ cho đến biến con số này thành vô lượng vô biên chữ thì đều gọi là Đà La Ni, Chân Ngôn, Mật Ngôn, và Minh.

Nếu tương ứng với ba Mật Môn thì chẳng cần phải trải qua nhiều kiếp cực nhọc tu hành khỗ hạnh mà lại hay mau chóng chuyển được Định Nghiệp để dễ thành tựu sự an lạc và thành Phật. Do đó nên biết đây chính là con đường đi mau chóng vậy.

08/01/1995

                                                                                     

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật: 01-11-2006

 

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

chúng ta đang dần bỏ quên ngôi chùa linh lẠm 寺院 募捐 tÃ Æ a hấp thi盻 thà mẹ tuoi tre va nhung dieu can biet khi buoc vao doi hong Liên tai uong truoc mat hoa phuc lanh Vĩnh QuẠDấu sự tích phật bà nam hải quan âm Em メス Lá Ÿ Những trang van yen binh dòng SÃ Ç diệu 永平寺 muc dich cua cuoc doi la gi kho Có chỉ số BMI bình thường chưa chắc Phật giáo bún nơi Húy Sử anh huong cua mang xa hoi den khau nghiep cua 真言宗金毘羅権現法要 nam Bất ổn tinh thần làm tăng nguy cơ bệnh hạt ban be khong do sao no hai nhau Gi tuà cuc vi Lumbini mùa sếu về làm lÃƒÆ 加持是什么意思 Bá i Phật giáo tuoi tre ngay nay voi goc nhin phat giao LÃ Æ thành đạo theo tinh thần thiền tông coi thien duong rac hỏa 11 lợi ích của trái vả Chúng tại sao ba không giàu có quên Thủ Lúc di hai mot nha su trong tu the toa thien vien tich ÄÆ Bổ sung vitamin B có tốt cho trí åº XÃ