GIỚI THIỆU Tuvien.com

Tuvien.com – Ngôi Chùa Online & Kho Tàng Phật Pháp Vô Tận

Trong thời đại công nghệ số, việc tiếp cận và thực hành Phật pháp đã trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết nhờ các nền tảng trực tuyến. Trong số đó, Tuvien.com nổi lên như một địa chỉ đáng tin cậy, một thư viện khổng lồ và một "ngôi chùa online" đích thực dành cho mọi Phật tử và những người yêu mến đạo Phật.

Tuvien.com không chỉ là một website, đó là một kho tàng tri thức:

Tuvien.com chứa đựng hàng ngàn bài viết chất lượng về Phật pháp, được chọn lọc kỹ càng từ nhiều nguồn đáng tin cậy. Dù bạn là người mới bắt đầu hay đã thâm nhập kinh điển lâu năm, bạn đều có thể tìm thấy những kiến thức phù hợp:

  • Tủ Sách Kinh Điển Đa Dạng: Trang web quy tụ hàng chục bộ kinh từ các hệ phái khác nhau, bao gồm:
    • Kinh Điển: Cung cấp các bản kinh quan trọng từ Đại thừa, Nguyên thủy và các hệ phái khác.
    • Giới Luật, Luận Giải: Giúp người học hiểu sâu hơn về nền tảng đạo đức và triết lý Phật giáo.
    • Thiền Nguyên Thủy, Tổ Sư Thiền, Mật Tông: Các tài liệu chuyên sâu về các pháp môn tu tập.
    • Triết Học Phật Giáo: Phân tích các khía cạnh tư tưởng sâu sắc của đạo Phật.
  • Audio Thuyết Pháp Phong Phú: Đây là một trong những điểm mạnh của Tuvien.com, nơi bạn có thể nghe pháp bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu. Trang web lưu trữ các bài thuyết pháp của các bậc Hòa thượng, cư sĩ đạo cao đức trọng như:
    • Thầy Thích Thông Lai
    • Pháp Sư Tịnh Không, Pháp Sư Ngộ Thông
    • Cư sĩ - Diệu Âm (Australia)
    • Cùng nhiều bài thuyết pháp khác trong mục Các bài Thuyết Pháp.

Các mục Audio chuyên đề sâu sắc:

Để thuận tiện cho người nghe, Tuvien.com đã sắp xếp các nội dung Audio thành các chuyên mục chi tiết:

  • Audio Kinh điển đại thừa, Audio Đại tạng kinh (Nikaya), Audio Luận tạng, Audio Luật tạng: Giúp người nghe tiếp cận kinh điển một cách hệ thống.
  • Audio Thiền học, Audio Tịnh độ, Audio Triết học phật giáo: Đi sâu vào các pháp môn và học thuyết chuyên biệt.
  • Audio Truyện Phật Giáo, Âm nhạc phật giáo: Cung cấp nội dung giải trí lành mạnh, giàu tính giáo dục.

Phật Pháp Ứng Dụng & Văn Hóa:

Tuvien.com không chỉ dừng lại ở lý thuyết mà còn hướng đến sự ứng dụng thực tiễn trong đời sống:

  • Phật pháp cho người bắt đầu: Hướng dẫn căn bản cho những người mới tìm hiểu.
  • VĂN HÓA: Bao gồm các mục như Truyện Phật Giáo, Chết & Tái sinh, Nghệ thuật sống đẹp, Thơ, Hình ảnh Phật Giáo.
  • Ăn chay: Cung cấp Hướng dẫn nấu chayTài liệu chữa bệnh liên quan, hỗ trợ Phật tử thực hành nếp sống thanh tịnh.

Đặc biệt: Ngôi Chùa Online – Nơi Phật tử Về Nương Tựa

Hiểu được rằng không phải Phật tử nào cũng có điều kiện đến chùa thường xuyên, Tuvien.com đã xây dựng một Ngôi Chùa Online độc đáo. Tại đây, quý Phật tử có thể thực hiện các nghi thức tâm linh ngay trên website:

  • Cúng bái thắp hương: Thể hiện lòng thành kính với chư Phật, Bồ Tát.
  • Cầu siêu, Hộ niệm: Thực hành các nghi thức tâm linh quan trọng cho người đã khuất hoặc người bệnh.

Tuvien.com chính là cầu nối tâm linh vững chắc, giúp mọi người duy trì việc học hỏi và tu tập Phật pháp, mang ánh sáng từ bi và trí tuệ vào cuộc sống hàng ngày. Hãy truy cập ngay Tuvien.com để khám phá kho tàng tri thức vô giá này!

Phật Học - Tứ đế và quan điểm Bồ Tát Long Thọ

.

 
 

TỨ ĐẾ VÀ QUAN ĐIỂM BỔ TÁT
LONG THỌ

TT. Thích Đức Thắng
 

Từ khi đức Phật xác lập :" Mọi vật đều vô thường , mọi vật đều vô ngã ", thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).Trong những lời dạy của ngài , thì sau đó, giữa các nhà Tiểu thừa và Đại thừa có sự tranh luận sôi nổi gay gắt về vấn đề này và ngày càng thêm quyết liệt hơn trong cung cách chấp nhận và giải thích theo quan điểm của mỗi bộ phái. Các nhà Tiểu thừa chỉ chấp nhận và bằng lòng với lối giải thích giản dị là:" Vì thế giới không có tự ngã và những sở hữu của ngã nên được gọi là Sùnya " (yasmà ca sunnam attena va atteniyena va tasmà sunno loko ti vuccati ) . Từ quan điểm ấy, các nhà Tiểu thừa chỉ chấp nhận dành Sùnya cho các pháp hữu vi và đặc biệt là Nhơn không (Pudgala sùnyatà ) mà thôi . Trong khi đó, các nhà Đại thừa , đặc biệt là các nhà Madhyamikàs ( Trung quán ), không dừng lại nơi đây, ngược lại còn tiến xa triệt để hơn trong cách giải thích của mình về Sarvam sùnyam. Theo các nhà này, thì Sùnyatà không những chỉ dành riêng áp dụng cho các pháp hữu vi, mà ngay đến các pháp vô vi cũng được áp dụng một cách triệt để như quan niệm về Niết bàn ( Nirvana), Như Lai ( Tathàgata ) hay bất cứ một khái niệm nào khác . Chính những quan niệm triệt để này đã làm lung lay tận nền tảng tri thức của các nhà Tiểu thừa về những quan niệm mà họ đã thủ đắc được từ những lời dạy của đức Phật về Tứ đế ( àryasatyas ), lý Duyên khởi ( Pratìtyasamutpàda ) cùng tất cả những giáo lý khác . Từ những hụt hẫng này, các nhà Tiểu thừa đã phản bác lại bằng những nạn vấn sắc bén . Mà theo đó, những nạn vấn này, chúng vừa củng cố cho lập trường hữu lý của họ, vừa đánh đổ những phi lý của các nhà Đại thừa và Trung quán đã phạm phải , theo quan điểm và lập trường của họ. Ở đây, chúng tôi sẽ trình bày những nạn vấn này, cùng những quan điểm của Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) về Tứ Đế.

Theo quan điểm và lập trường của các nhà Tiểu thừa thì : Nếu tất cả thế gian đều không , không có sở hữu thì sẽ không có hiện tượng sanh diệt . Khi đã không có hiện tượng sanh diệt hiện hữu , thì tất cả mọi hiện tượng theo đó không hiện hữu và ngay đến cả nhân quả Tứ đế :" Thấy khổ, đoạn tập , chứng diệt và tu đạo " cũng không luôn . Do đó pháp bảo cũng không có. Từ không này dẫn đến Bốn quả Sa môn , Bốn hướng , Bốn đắc cũng không . Từ đó Bát hiền thánh cũng không hiện hữu . Khi Bát hiền thánh đã không hiện hữu thì không có Tăng bảo. Tóm lại , nếu Pháp bảo đã không , Tăng bảo đã không thì làm gì có Phật bảo ? Do đó ngài đã phá hoại Tam bảo . Không những chỉ phá hoại Tam bảo thôi mà còn phá hoại luôn cả nhân quả tội phước cùng tất cả các pháp đang hiện hữu trên thế gian này. Từ những phân tích trên cho thấy các ngài đã quá sai lầm trong nhận thức về các pháp . Ở đây, các pháp chỉ thực hữu chứ không phải không thực hữu như các ngài đã quan niệm .
Để trả lời những nạn vấn này, ngài Long Thọ thấy rằng đối phương đã không nắm được ý nghĩa Không ( Sùnyatà), tướng Không cùng nhân duyên Không , nên có những tưởng tượng sai lầm về chúng . Do đó, trước hết , ngài muốn vạch ra những sai lầm của đối phương về Sùnyatà :

- Sùnyatà không phải là Nàsstitva (Đoạn diệt) cũng không phải là Abhàva (khiếm diện một cái gì) như họ tưởng , mà Sùnyatà cần phải nhận thấy qua các đặc tướng trong việc giải thích nó .

- Sùnyatà là Aparapratyaya ( không thể dạy cho người khác ) chỉ có tự mình chứng ngộ nội tâm , không thể nghe người khác giảng dạy mà hiểu được .

- Sùnyatà là Sànta (an tịnh) , không bị sinh diệt chi phối .

- Sùnyatà là Prapancairaprapancitam (không thể nghĩ bàn) .

- Sùnyatà là Nivirkalpa (không thể giải ngộ) , vượt ngoài vọng tưởng .

- Sùnyatà là Anànàrtha (không có nhiều nghĩa khác nhau) . Ngài tiếp tục giải thích Sùnyatà là Prtìtyasamutpada (duyên khởi ).

Sẽ không có bất cứ giá trị tương đối nào thực hữu tồn tại về một thế giới mà ở đó, mọi vật được coi như là thật hiện hữu , mà chúng chỉ là một giả định về mặt hiện tướng khi duyên hợp đủ , để nói lên cái hiệu quả bất toàn cho cái duyên biến đủ theo sau chúng . Đó chính là cái Tánh Không (sùnyatà) của các pháp được soi sáng bởi cái nhìn sâu , thâm hiểu qua mọi sự kiện , mà qua đó, chúng không có một sự kiện sai khác nào giữa sanh tử và Niết bàn . Thế giới chỉ hiện hữu tương đối giả tạm , nhưng chúng sẽ trở thành hình như thật có đối với một tâm hồn mê mờ . Do đó, cần phải đập tan mọi quan niệm sai lầm về một thế gian chân thật ở bên ngoài thế gian này, theo quan điểm của các nhà Tiểu thừa . Theo đó , họ sẽ loại bỏ Tục đế (sanh tử) để chứng Chân đế ( Đệ nhất nghĩa hay Niết bàn). Nghĩa là các vị ấy đi từ trạng thái thế gian (laukika) đến trạng thái xuất thế gian ( lokuttara).

Vì tất cả những quan niệm sai lầm như trên , nên đã dẫn các nhà Tiểu thừa đến một thứ cực đoan không thể chấp nhận được , trong việc cố biến giáo lý Tứ đế và lý Duyên khởi thành mô? thứ chân lý thực hữu thuộc về Đệ nhất nghĩa đế (Paramattha) chứ không phải Tục đế (Samvrti) , và cứ ôm chặt vào đó, cho là một thứ cứu cánh thực hữu cần phải đạt đến . Cho nên họ đã hiểu một cách sai lạc về quan điểm Sarvam sùnyam chính đức Phật nói ra . Từ đó, họ đẻ ra những nạn vấn mà chính họ sẽ tự hại họ trong cuộc thử thách này.

Tiếp đến, ngài Long Thọ muốn làm sáng tỏ lập trường của mình về Dharmasùnyatà qua nạn vấn này. Trước hết , ngài không phủ nhận Nhị đế mặc dù ngài đã liệt nó vào hàng Tục đế trên phương diện mê . Song không thể không chấp nhận giáo lý này trên cái nhìn của bậc Thánh ,vì giữa sanh tử và Niết bàn không có sự sai khác . Vì khi mê Nó là tục , khi ngộ Nó là chơn ; chỉ khác nhau ở chỗ mê nó và ngộ nó, như bài kệ ngài viết :

Nếu chẳng y vào Tục đế
Chẳng được Đệ nhất nghĩa
      Không được Đệ nhất nghĩa
Thời không đạt được Niết bàn .

      Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê , nên có Tục đế -Đệ nhất nghĩa đế -Niết bàn . Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau . Vì những lý do đó cho nên ngài Long Thọ không phủ nhận giáo lý Nhị đế trong quan điểm của mình , và chỉ coi nó như là một phương tiện cần cho giai đoạn chuyển mê khai ngộ. Theo ngài , nếu không nhờ những ngôn thuyết của Tục đế thời Đệ nhất nghĩa không nói được , và nếu không đạt được Đệ nhất nghĩa thì làm sao chúng ta có thể đạt được Niết bàn ? Vì vậy , nó được coi như là một phương tiện chuyên chở cho sự thành công của một cứu cánh . Nhưng khi cứu cánh đã đạt được , và nó nhìn lại chính nó, thì chính nó là phương tiện chứ không gì khác . Từ những lập luận này cho chúng ta thấy rằng : quan điểm Sùnyatà của ngài Long Thọ không phủ nhận giáo lý Nhị đế.
Cũng đứng trên lập trường này , ngài cảnh cáo các nhà Tiểu thừa rằng : Nếu hiểu Sùnyatà sai lầm như những nạn vấn trên thì chính mình tự hại mình . Bởi vì cái nghĩa Không này, nó quyết định sự thành tựu của các pháp thế gian và xuất thế gian . Ngược lại , nếu không có nó, thì các pháp thế gian bất thành . Theo pháp Thực-Hữu của các nhà Tiểu thừa thì chúng đối lập với cái Không Thực Hữu của các pháp . Nhưng Sùnyatà không phải là cái Không Thực Hữu như các nhà Tiểu thừa quan niệm . Do đó, Sùnyatà này, nó vượt ra khỏi quan niệm có-không của Tiểu thừa và nhờ vậy mà nó quyết định được sự thành bại của các pháp . Ngược lại , chính các pháp Hữu , theo quan niệm của các nhà Tiểu thừa , là pháp sai lầm , rơi vào thường kiến . Nó sẽ trở thành kẻ phá hoại Tam bảo qua sự soi sáng của Sùnyatà . Ở đây, chúng ta sẽ thấy một cách rõ ràng hơn , những phản bác mà ngài Long Thọ đã dùng phương pháp " Gậy ông đập lưng ông", do chính các nhà Tiểu thừa đập lại chính họ, sau khi ngài đã chỉ rõ những hiểu biết sai lầm về Sùnyatà mà cho là cái đoạn diệt , cái không thực hữu , trong khi Sùnyatà không can hệ gì tới chúng cả .

Ngài Long Thọ bảo : nếu các nhà Tiểu thừa bảo rằng tất cả các pháp trong đó kể cả Tứ thánh đế , tự chúng đã có thực hữu định tánh của nó , thì các pháp này không nhân , không duyên . Chỉ vì tánh kiên trì của nó cho nên chúng sẽ không sanh diệt . Như vậy , rõ ràng sự thành tựu của các pháp đâu cần đến nhân duyên ? Nhưng trong thực tế , các pháp từ duyên sanh và chúng diệt đi cũng từ duyên diệt . Vậy, nếu bảo các pháp đã có sẵn định tánh nơi tự tánh của chúng thì điều này hoàn toàn không đúng . Vì nếu đã có tánh quyết định nơi tự tánh của chúng rồi , thì theo đó nhân quả cũng sẽ bị phá luôn , vì không nhân thì làm gì có quả theo sau đó để thể hiện cái tướng vô thường của các pháp . Đằng này, các pháp như ngài Long Thọ nói :
Các nhân duyên sanh pháp

Ta nói tức là không
Đó cũng là giả danh
Cũng là nghĩa Trung đạo
Chưa từng có một pháp
Chẳng từ nhân duyên sanh
Cho nên tất cả pháp
Không phải chẳng là không .

Ở đây, chúng ta thấy mọi sự hiện hữu của mọi sự vật luôn luôn tùy thuộc vào các duyên . Do đó, chúng không có tự tánh , chỉ vì muốn hướng dẩn chúng sanh nên phải dùng giả danh để nói . Không ở đây xa lìa , không lệ thuộc vào có-không như các nhà Tiểu thừa đã tự hiểu , nên chúng được gọi là Trung đạo . Vì pháp này không có tánh nên không được bảo là có, cũng không có không ,nên không được bảo là không. Nếu pháp tự nó đã có tánh tướng thì dứt khoát không cần lệ thuộc vào các duyên mà hiện hữu . Nhưng ở đây, nếu muốn có pháp mà không nhờ các duyên thì điều đó sẽ không xảy ra . Do đó, có-không của các vị không phải là pháp Không (Dharmasùnyatà) của đức Phật .

Ngài Long Thọ lập luận tiếp : Như trên , các vị bảo rằng quan điểm về Dharmasùnyatà của chúng tôi có những lỗi như vậy. Nhưng rõ ràng , cái lỗi sai lầm đó, chính các vị vấp phải chứ không phải chúng tôi . Vì sao ? Vì nếu bảo rằng tất cả các pháp vốn tự chúng đã có tánh , chẳng phải không tánh thì sẽ rơi vào không sanh diệt . Nhưng nếu mà không sanh diệt thì sẽ không có Tứ thánh đế . Tại sao vậy? Vì Dukkha (khổ) không từ duyên sanh nên sẽ không có khổ . Nhưng theo kinh thì " Vô thường là khổ". Vậy khổ đã có định tánh của riêng nó rồi thì làm gì có vô thường, vì chúng không bỏ tự tánh riêng của chúng .

Lại nữa , nếu Dukkha đã có định tánh rồi thì không cần phải sanh trở lại, vì trước đó đã có Dukkha rồi cần gì phải từ Tập sanh ra . Do đó không có Samudaya (Tập đế). Mặc khác , nếu Dukkha đã có định tánh của nó rồi thì cũng chẳng cần Nirodha (Diệt) , vì tánh Dukkha đã định rồi nên không thể mất được .

Lại nữa , pháp nếu đã định có thì sẽ không có tu Đạo (magga), vì nếu là thật pháp thì phải là thường hằng . Nhưng đã thường hằng rồi thì không tăng không giảm , đã không tăng không giảm thì cần gì phải tu đạo ? Đạo, nếu đã tu được thì không có định tánh . Do đó, khi trước đó, các pháp đã quyết định có tánh của chúng rồi thì không thể có Khổ đế -Tập đế -Diệt đế. Vậy thì con đường diệt khổ hiện tại nên đi đến chỗ nào để diệt khổ ?

Lại nữa , nếu Dukkha đã là định tánh , mà trước khi chưa làm phàm phu chưa thấy chúng, thì trong hiện tại vẫn không thể thấy được , và trong cả tương lai nữa . Vấn đề đoạn Tập , chứng Diệt và tu Đạo cũng như vậy. Nếu từ trước đến nay chẳng đoạn , chẳng chứng , chẳng tu thì trong hiện tại cũng chẳng đoạn , chẳng chứng , chẳng tu ; vì từ trước tới nay chưa từng đoạn, chưa từng chứng, chưa từng tu . Cho nên bốn hành trong Tứ thánh đế , tất cả đều không hiện hữu . Khi bốn hành đã không hiện hữu thì bốn đạo quả cũng không luôn , vì định tánh của các pháp cho nên từ trước đến nay chưa đạt được , và trong hiện tại cũng thế. Ngược lại ,điều này có thể xảy ra , với điều kiện tánh của chúng không định thì khả dĩ đạt được . Nhưng điều này sẽ không xảy ra với quan điểm của các nhà Tiểu thừa đối với các pháp . Do đó, cái hậu quả tất yếu sẽ xảy ra theo đó đối với vấn đề đạt Hướng , Bát hiền thánh , Tăng bảo, Pháp bảo cho đến Phật bảo. Tất cả đều bị phá , đều bị đẩy lùi vào trong đoạn diệt , không hiện hữu như chính quan điểm của các nhà Tiểu thừa đã hiểu về Dharmasùnyam , mà các vị đó đã gán cho các nhà Đại thừa và Trung quán chủ trương , để đối nghịch lại cái Hữu của họ .

Ở đây, dù là hữu hay là vô mà hiểu theo các nhà Tiểu thừa cũng rơi vào hai bên , chấp thủ thiên kiến . Nếu hiểu theo cách mà quan điểm các nhà Tiểu thừa về hữu và vô như vậy, thì cho dù chúng ta có nổ lực siêng năng tu hành để đạt được quả vị Phật , sẽ không thể nào thực hiện được. Bởi vì muốn đạt được quả vị Phật phải thực hành Tứ thánh đế . Nhưng nếu thực hành theo đường lối của các nhà Tiểu thừa , như những phân tích trên của ngài Long Thọ thì làm sao đạt được ? Đó là những quan điểm mà ngài Long Thọ đưa ra để phản bác lại những lập luận rơi vào tà kiến của các nhà Tiểu thừa . Chính lối dùng " Gậy ông đập lưng ông" này đã đưa các nhà Tiểu thừa vào tuyệt lộ .

Và sau đây là những vấn nạn cuối cùng về Tứ đế của các nhà Tiểu thừa đưa ra , sau khi họ đã được nghe giải thích về Dharmasùnyatà sai lầm theo quan điểm chính họ :

Ngài tuy đã phá các pháp, nhưng cứu cánh của con đường đi đến A-nâ? đa-la tam-miệu tam-bồ-đề (Anuttarasamyuak-Sambodhi) buộc phải có . Nhân vào con đường này để gọi là Phật ?

Ngài Long Thọ cũng đứng trên lập trường Pháp-Hữu của chính họ để trả lời câu hỏi này. Ngài bảo : Theo như các vị , thì các pháp đã có định tánh rồi , cần gì phải nhân nơi Bồ đề để có Phật ; hay ngược lại , nhân nơi Phật đạo để có Bồ đề, vì hai định tánh này là hai định tánh của riêng chính nó . Cho dù chúng ta có nổ lực tinh cần tu hành đến muôn kiếp đi nữa , mà trước kia chúng ta không có tánh Phật, thì làm sao hiện tại có thể thành Phật được ? Cũng như thiếc không có tánh vàng , dù dùng đủ mọi cách để rèn dũa nung đúc , cuối cùng cũng không thành vàng .
Lại nữa , nếu các pháp đã có định tánh mà không phải không , thì rốt cùng cũng không có người tạo ra tội phước , vì tánh tội phước đã quyết định trước rồi , kể cả hành động tạo tác và người tạo tác cũng không . Do đó , dù chúng ta có ở trong nhân duyên tội phước mà vẫn không có quả báo, và quả báo có thể có được khi lìa xa nhân duyên tội phước đi nữa , thì quả báo vẫn không cần đợi có nhân mới xuất hiện .
Lại nữa , lìa tội phước có thể không có quả báo thiện ác , nhưng từ tội phước thì có quả báo thiện ác ?

Để trả lời nạn vấn này, ngài Long Thọ bảo dù có lìa tội phước hay không lìa tội phước , có quả báo hay không có quả báo, thì tất cả đều rơi vào lỗi có-không như đã nói ở trước .

Lại nữa , nếu các nhà Tiểu thừa vì không nắm bắt được nghĩa Không và nhân duyên của nó nên có những quan điểm sai lầm như vậy, thì đã vô tình phá Đệ nhất nghĩa Không . Đệ nhất nghĩa Không mà bị phá , tức là phá tất cả pháp thế tục .
Hơn nữa , nếu chúng ta quan niệm tất cả các pháp-hữu đều có định tánh của chúng , thì theo đó, các hiện tướng có được trên thế gian này đều không thể sanh ra và không thể diệt mất , mà chúng phải luôn luôn thường trụ ,vĩnh viễn không biến mất . Vì chúng đã có thật tánh của chúng rồi , nên không thể biến khác được. Nhưng muôn vật giữa thế gian này, hiện bày ra trước mắt chúng ta , luôn luôn ở trong chiều hướng sanh diệt , biến dịch trong từng sát na một , trong từng hơi thở. Những hiện tướng này luôn tùy thuộc vào các duyên hợp-biến mà hiện khởi . Vì vậy, chúng không có định tánh . Nếu chúng đã có định tánh thì như chúng ta đã biết : một là thường, hai là đoạn diệt . Do vậy, nếu không có cái KHÔNG ( Sùnyatà) thì những việc này có thể xảy ra đối với chúng ta : chưa được không cần được - phiền não cũng không đoạn - việc khổ cũng không hết .

Để kết luận phẩm Tứ đế này , ngài Long Thọ đã dẫn lời dạy của đức Phật trong kinh :

Cho nên trong kinh nói
Nếu thấy pháp nhân duyên
Thời có thể thấy Phật
Thấy Khổ -Tập -Diệt -Đạo .

Ở đây, nếu người nào thấy tất cả pháp từ các duyên sanh ra , thì người này có thể thấy được pháp thân của đức Phật, tăng trưởng trí tuệ đạt mọi lợi ích, và có thể thấy được Khổ-Tập-Diệt-Đạo của Tứ thánh đế. Vì thấy được Tứ thánh đế cho nên đạt được Tứ quả , diệt trừ tất cả mọi phiền não. Bởi vậy, chúng ta cần phải thấu đạt nghĩa KHÔNG này, nếu không sẽ đi vào con đường vô minh tà kiến như các nhà Tiểu thừa vấp phải. Ai phá nghĩa KHÔNG tức là phá pháp nhân duyên , phá pháp nhân duyên tức là phá Tam bảo. Nếu phá Tam bảo tức là chính mình tự phá mình .

Sài Gòn Việt Nam


---o0o---

Trình bày: Linh Thoại

Cập nhật: 01-12-2003

 

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

do con người và vì con người Tiểu sử HT Thích Huệ Hà 上野 ファミレス 関電ビルディング フロアマップ 知覧 一軒家 無住処涅槃 上場株式 総合課税 申告分離課税 岐阜レトロミュージアム قلم الفتاه البيضا كامل как подключить флешку к アキレス腱断裂 病態 绿帽夜市小说 绿荫体育 西宁市地税局 美容師国家試験 美股机器人 翔すずめ パイズリ 肩凝り 懸垂 我在书记家被三女喂养 警门赘婿 脊柱管狭窄症 福井 脳への血流改善 dat 脳膿瘍 膜熊 自分の未熟さを知る 鍋林 自動バックアップ設定 Excel 自宅にドックランを造った 自殺したが 病院で死亡 事故物件 дом с пенопласта 船橋市本庁舎 特定天井 入札情報 年末年始 富山市 病院 แจ งผลกดล 艦これ 軽空 っ先生 男的干了下铺的姐姐 艳丽双飞 エアホッケー 手作り 簡単 색깔 茂木 健一郎 華晶科技股份有限公司 ส งส นค าไปห างต างจ 藍腳鰹鳥 藤沢市 鞄や 算力龙头股 קלגיטי סנסיטיב 虎つばロケ地 蛍光灯 処分 業務用 티엠에스코리아 chuong mot phap 西田萌乃 福岡 çæè 見山是山