Đối với y học phương Tây, tác nhân tâm lý
được xem là một yếu tố gây
bệnh chỉ
được
Cullen nói đến vào khoảng
năm
1776 với tên gọi là rối
loạn thần kinh chức năng.
Sau đó, năm 1936, giáo sư Hens Selye, người sáng lập viện chống
Stress ở Montreal, Canada đã
chính thức dùng thuật ngữ Stress
để chỉ
những phản ứng của
cơ thể
đối với
những yếu tố gây khó chịu trong môi trường sống.
Sớm hơn nhiều so với phương Tây, trên cơ sở những lý luận về khí
và khí hóa, lại là những người có khuynh hướng duy tâm, thường
hướng nội và phản quán, các nhà y gia cổ
đại của
phương Đông đã sớm nhận ra
ảnh hưởng của những cảm xúc tiêu cực lên sức khỏe của con người.
Hàng ngàn năm
trước, sách Nội kinh
đã
ghi nhận "bách bệnh giai sinh vu khí". Người xưa cho rằng
những cảm xúc thái quá sẽ làm rối loạn khí hóa của những tạng
phủ tương ứng và qua mối quan hệ sinh khắc sẽ dẫn
đến sự mất
quân bình của cả hệ thống.
Do
đó, những rối loạn này
chính là nguyên nhân của những bệnh về nội thương. Ví dụ những
người quá suy tư căng
thẳng thường ăn uống kém ngon, dễ rối loạn tiêu
hóa.
Điều này
xảy ra vì sự suy tư quá
độ làm
ảnh hưởng
đến khí
hóa của tỳ vị vì "Tư
thương Tỳ". Hơn nữa, sự căng
thẳng lâu ngày làm Can khí
uất kết có thể dẫn
đến loét
dạ dày, tá tràng, triệu
chứng mà
Đông y
thường gọi là "Can phạm
Vị".
Đôi khi
những rối loạn khí hoá do cảm xúc
có thể gây ra những triệu chứng bệnh lý có thể thấy
được ngay.
Thử quan sát một người đang bộc phát cơn tức giận. Toàn
thân nóng lên, mồ hôi vả ra, nhịp tim tăng,
hơi thở gấp, các cơ bắp như căng lên.
Ở một số người khác cơn nóng giận có thể làm cho toàn thân ngứa
ngáy,
đau thắt ở
ngực hoặc như bị bóp chặt
ở bao tử.
Đó là
một trường hợp
điển hình
về rối loạn khí hóa do cảm xúc. Trong trường hợp nêu trên,
Đông y cho rằng “Nộ
thương Can", sự tức giận
đã
làm cho Can khí nghịch hành, dẫn
đến các
triệu chứng Can Đởm hỏa thịnh, thuộc Dương chứng. Trên
thực tế, nếu bản thân không có các bệnh thực thể gì khác, chúng
ta chỉ cần thực hành thư giản
để
sơ tiết Can khí hoặc chú
tâm quan sát hơi thở vào và ra
để đạt đến
tâm bình, khí hoà
hoặc chuyển tâm nghĩ
đến một sự
kiện vui vẻ
đã
xảy ra trong
đời để
khí của mẹ là Can
Mộc
được
tiết bớt sang cho con
là Tâm Hỏa (sự vui vẻ thuộc Tâm Hỏa và Mộc sinh Hỏa) thì các
triệu chứng trên sẽ tự biến mất.
Đó là
ví dụ về những cách kiểm soát cảm xúc
để làm
chủ bản thân.
Trong thời
đại ngày
nay,
để tồn tại
và phát triển trước một
cuộc sống nhiều thách thức và một môi trường luôn thay
đổi, con
người phải đối mặt với nhiều áp lực tâm lý.
Chính những yếu tố gây Stress là nguyên nhân của nhiều bệnh tật.
Stress có thể làm rối loạn tiêu hóa, tim mạch, rối loạn nội
tiết, làm suy giảm khả năng
miễn dịch khiến cơ thể dễ bị bệnh tật tấn công
hoặc làm trầm trọng thêm những chứng bệnh
đang tiềm
tàng. Trong những trường
hợp này, việc giải toả Stress,
điều hoà
được cảm xúc phải là ưu
tiên hàng
đầu. Nói
chung, thư giản hay căng thẳng, tập trung tư tưởng vào
một sự kiện này hay chuyển sang một sự kiện khác là khả năng
tự nhiên ở mỗi người. Tuy
nhiên, ở một số trường hợp bệnh lý, khi hệ thần kinh
đã
quá tải,
đã
vượt quá giới hạn
để tự hồi
phục, tự điều chỉnh thì
người bệnh cần một quá trình luyện tập hoặc
điều trị.
Trong những trường hợp này,
Thiền là một liệu pháp
đối trị
trực tiếp và hữu hiệu. Ông
Herbert Benson, giáo sư
đại học Harvard,
người sáng lập Viện Y học Tâm thể ở Boston (Mind-Body Medical
Institute) cho biết "từ 60%
đến 80% số
lượng bệnh nhân đến khám ở các phòng
mạch
đều có liên
quan
đến
Stress. Các ca bệnh này
đáp
ứng rất kém đối với thuốc và
phẫu thuật nhưng lại rất tốt
đối với
các liệu pháp tiếp cận tâm
thể". Ông cho rằng các
liệu pháp thư giãn và Thiền làm giảm sự căng
cơ, giúp giải tỏa những tình
trạng lo âu, sợ hãi, bất an, dễ bị kích thích và
đặc biệt là
làm giảm hoạt hóa các nội tiết tố Stress.
Hiện nay có một phương pháp Thiền
đã
được chính thức đưa vào
giảng dạy và thực hành lâm sàng tại nhiều trường
đại học
Y ở phương Tây, kể cả một
số trường
đại học
lớn ở Mỹ như Umass, Standford,
Duke, Virginia, San Francisco,…
Đó là
MBSR. MBSR là những chữ viết tắt của thuật ngữ "Mindfulness
Based Stress Reduction", tạm dịch là "giảm Stress
dựa trên sự tỉnh giác". MBSR
được xem là
một liệu pháp bổ sung giúp
điều chỉnh
tinh thần, cảm xúc và cải
thiện sức khỏe.
Đây là
một kỷ thuật Thiền
định nhằm
phát triển chánh niệm,
tức khả năng
nhận biết điều gì
đang xảy
ra nơi thân hoặc tâm, qua đó có thể làm
chủ
được bản
thân và
điều hòa
cảm xúc. MBSR
đã
được giáo sư Jon Kabat – Zinn khởi xướng đưa vào
thực hành lâm sàng từ
đầu những
năm 1970. Hiện nay Trung tâm Y học và
Giáo dục Tỉnh giác CFM (the Center For Mindfulness in Medicine,
Healh Care and Society) thuộc trường
Đại học Y
Massachusettes (UMASS), được xem là
cơ sở y tế lớn nhất và lâu
đời nhất ở
Mỹ trong lĩnh vực quảng bá, giáo dục và
điều trị bằng MBSR. Một liệu trình
MBSR tiêu chuẩn kéo dài 8 tuần lễ. Chương trình gồm hai phần.
Phần huấn luyện tại lớp mỗi tuần một lần, mỗi lần một buổi từ 2
giờ
đến 2 giờ
rưỡi. Riêng lần cuối cùng
thường
được tổ
chức vào cuối tuần và kéo
dài khoảng 7 hoặc 8 giờ. Phần tự thực hành tại nhà khoảng 1 giờ
mỗi ngày. Cho
đến nay, hàng
chục ngàn người
đã
được hưởng lợi từ chương trình
huấn luyện và
điều trị này.
Kết quả cho thấy MBSR giúp
điều trị
những bệnh về tim mạch, các chứng đau nhức mãn
tính, rối loạn chức năng,
dạ dày, ruột, chứng
đau nữa
đầu, cao huyết áp, mất
ngủ, âu lo, hoảng loạn,… Hiện nay, trên thế giới
đã
có hơn 200 bệnh viện hoặc cơ sở y tế có thực hành
điều trị
bằng MBSR.
Thiền là một liệu pháp chỉnh thể
Thiền là một truyền thống văn
hóa đặc sắc của phương Đông.
Do
đó liệu pháp Thiền cũng
phản ảnh
đầy đủ
tính chất “chỉnh thể"
và "Trời người hợp nhất" của nền y học cổ truyền. Chỉnh
thể hay nhất thể (holistic) là quan
điểm xem
con người là một tổng thể
hợp nhất. Mỗi triệu chứng, mỗi bộ phận
đều phải
được xem xét và
điều chỉnh
trong mối tương quan chung nhằm mang lại sự cân bằng và
hài hòa cho cả tổng thể. Chẳng hạn, ở một bệnh nhân loét dạ dày,
liệu pháp chỉnh thể sẽ lưu ý giải quyết tình trạng thấp nhiệt ở
dạ dày hoặc căng
thẳng tâm lý trong sinh hoạt
để
cải thiện khí hoá ở Tỳ vị hơn là
cố tìm một loại kháng sinh
để tiêu
diệt vi khuẩn gây loét. Ở những chứng viêm mũi mãn tính,
Đông y cho
rằng do Âm hư gây ra Hỏa vượng. Do đó cách chữa phải đặt nặng
việc bổ thận để nạp khí,
bổ Âm phải tàng Dương, hơn là chỉ dùng những chất hàn lạnh
để
trừ hư Hỏa. Dù hư
Hỏa có tạm
được khống
chế nhưng nếu làm trầm
trọng thêm sự mất quân bình Âm Dương hoặc suy sụp thêm sức
đề
kháng thì bệnh không thể
dứt
được…
Nói chung, theo quan
điểm này
thì sự nâng cao chính khí và sự hài hoà bên trong mới chính là
nguồn gốc của sức khỏe. Chừng nào mà sự hài hòa còn chưa
đạt được
hoặc sức miễn dịch chưa được cải thiện thì
sự cứu chữa chỉ là cục bộ hoặc tạm thời và sự biến mất của một
triệu chứng sẽ có thể gây ra một triệu chứng khác ở một tổ chức
khác. Do
đó, với ý
nghĩa hòa hợp hay hợp nhất
giữa các tổ chức trong cơ thể, hợp nhất giữa thân và tâm và cuối
cùng là giữa con người và vũ trụ, Thiền là
đỉnh cao
của liệu pháp chỉnh thể và
cũng là chỗ gặp nhau giữa y học và các nền học thuật khác của
phương
Đông.
Giống như những nhà khí
công, những người hành trì Thiền lâu năm
có định lực cao, trình
độ
khí hóa được nâng lên, có
thể dùng năng
lực Thiền
để hóa
giải bệnh tật hoặc chữa bệnh cho người khác. Về mặt thần kinh,
thông qua quá trình thư
giản và nội quán, Thiền duy trì trạng thái yên tĩnh của
đại não,
có thể
điều hòa
thần kinh giao cảm, phục hồi tính tự
điều chỉnh
và tự hoàn thiện vốn có
của hệ thần kinh trung ương.
Đây cũng là
một cơ chế mang tính chỉnh thể vì sự hài hòa và hoàn thiện của
hệ thần kinh sẽ tác
động trở
lại để điều hòa hoạt
động nội tiết, nội tạng,
tái lập tình trạng khí hóa bình thường
để phục
hồi sức khỏe. Cũng vì lý
do này, những liệu pháp thư giãn & Thiền không chỉ có hiệu quả
trên những bệnh tâm thể mà còn thông qua việc nâng cao sức miễn
dịch và cải thiện lưu thông khí huyết
để
phục hồi dần những cơ quan
đã
bị tổn thương.
Nói chung trong quá trình hành Thiền, "thần
tĩnh tức âm sinh", tâm không duyên ra ngoài sẽ giữ
được khí,
ngưng thần định ý tại Đan điền sẽ gia tăng chân khí.
Do
đó
công năng
dưỡng âm tồn thần và nâng
cao chính khí của tọa Thiền hoàn toàn phù hợp với tinh thần "nhiếp
sinh" của Nội kinh, có thể chữa
được bệnh,
tăng cường sức khỏe, kéo dài
tuổi thọ và giúp gia tăng
sự thích nghi của cơ thể đối với những điều kiện thay đổi của
môi trường sống.
Liệu pháp Thiền và những suy nghĩ tích cực
Khi xem một vở kịch tốt hoặc một phim hay,
trong những lúc cao trào, ta thường bị thu hút vào vở diễn hoặc
vai diễn. Thương cảm, rơi lệ hoặc bức xúc, tức giận,… Trong
những phút giây
đó, không
chỉ người diễn viên mà cả
người xem
đều đã
như hóa thân thành một người khác chứ không còn là người diễn
viên hoặc bản thân chúng ta của những lúc bình thường. Những
truyền thống tư tưởng phương
Đông đều
quan niệm thân và tâm là
một thể thống nhất. Suy nghĩ và cảm xúc luôn tác
động đến
phần thể xác. Điều này
không chỉ ảnh hưởng
đến sức
khỏe mà còn cả nhận thức
và từ nhận thức sẽ dẫn
đến hành
động. Chính những cảm xúc và
nhận thức lâu ngày
đã
hình thành nên tập tính và tình trạng sức khỏe ở mỗi người. Do
đó
có thể nói mỗi người
chính là những
điều mà
người
đó suy
nghĩ. Mỗi người
trong chúng ta vì những lý do khác nhau
đã
vô tình bị tập nhiễm một số hành vi mà chúng ta không muốn nhưng
đã
không thể cưỡng lại
được. Kỹ
thuật tự ám thị (auto-suggestion) thông qua thiền định có thể
giúp cải thiện tình trạng
này. I.P. Paplov một nhà sinh lý học nổi tiếng của nước Nga
đã
chứng minh rằng mọi phản xạ thần kinh dù cao hay thấp, mọi thói
quen, quá trình rèn luyện, học tập, lao
động đều là
những quá trình hình thành nên những phản xạ. Trong hành Thiền,
việc hóa thân, việc
đồng nhất
hóa với một sự vật mới, một ý niệm mới hoặc một con người mới đã
được tái hiện liên tục và
nhiều lần trong một
điều kiện
tâm lý đặc biệt. Điều kiện tâm lý đặc biệt chính là
tình trạng thư giãn hoặc
nhập tĩnh khi mà não trở nên nhạy cảm khác thường trong việc
tiếp nhận và hoạt hóa những thông tin liên quan,
đến những
ý niệm hoặc hình ảnh
được gợi ra. Nói cách khác, khi ở vào
tình trạng thư giãn ta có thể dùng lời nói hoặc những hình ảnh
tưởng tượng thích hợp
để cải
thiện những tình trạng tâm
lý hoặc vật lý của cơ thể, những
điều mà
trong
điều kiện
bình thường ta không thể
thực hiện
được.
Hiệu ứng này thường
được vận
dụng trong các phương pháp dưỡng sinh, khí công, thôi miên,
tự ám thị và cả trong nhiều nghi thức tôn giáo. Ví dụ, bình
thường ta không thể ra lệnh hoặc tự nhủ
để nhịp
tim chậm lại hoặc huyết áp giảm xuống. Tuy nhiên,
trong
điều kiện
thư giãn hoặc lúc thiu
thiu ngủ nếu ta "thấy" hoặc "nghĩ" rằng tim
đang đập
chậm lại hoặc huyết áp đang hạ xuống thì
tần số tim sẽ giảm và huyết áp sẽ hạ. Hãy lưu ý từ "thấy" mà
không phải là "nhìn". Từ "thấy" hoặc "nghĩ" ở
đây hàm
nghĩa không có sự phân tích hoặc cố gắng về mặt ý thức.
Đây là
một nguyên tắc quan trọng của Thiền cũng như của sự tự ám
thị. Nguyên tắc này có thể
được gọi
một cách vắn tắt nhưng khá chính xác là
sự tập trung không căng
thẳng. Tập trung
vào một từ khóa, một câu ám thị, hoặc một cảnh vật… nhưng phải ở
trong
điều kiện
tĩnh lặng và không căng
thẳng. Chính sự tĩnh lặng và
không căng
thẳng giúp duy trì tình
trạng nhập tĩnh
đồng thời
nâng cao tính nhạy cảm trong việc tiếp nhận và
hình thành nên những cung phản xạ mới. Về mặt khoa học, nhập
tĩnh ứng với tình trạng cơ bắp thư giãn hoàn toàn và sóng não hạ
thấp từ nhịp Beta nhanh và không ổn
định xuống
nhịp Alpha hoặc Theta chậm và
ổn
định hơn. Trong điều kiện này
bất kỳ sự căng
thẳng nào kể cả sự căng
thẳng của quá trình chú ý
(chẳng hạn phân tích, lý luận về vấn
đề đang
chú ý) đều sẽ làm thay
đổi
sóng não và phá vỡ sự nhập
tĩnh. Chính sự tự ám thị trong
điều kiện
thư giãn hoặc gần nhập
tĩnh giúp thúc
đẩy nhanh
quá trình hình thành nên
những cung phản xạ mới cho yêu cầu chữa bệnh hoặc cải thiện hành
vi, nhân cách. Ở nhiều bệnh nhân mắc những bệnh mãn tính
đã
trãi qua
điều trị
lâu dài, tính trầm trọng
không phải ở chính căn
bệnh mà ở tâm lý chán
nản, trầm uất. Tâm lý này phát xuất từ suy nghĩ mình là gánh
nặng của gia
đình
hoặc do thiếu niềm tin vào thầy, vào thuốc. Yêu cầu
điều trị
trong những trường hợp này
là phải giải tỏa
được trầm
uất và tăng
cường niềm tin sẽ khỏi bệnh. Đó là
lý do tại sao thiền và những suy nghĩ tích cực lại hữu hiệu
trong hầu hết những bệnh kinh niên. Với liệu pháp thiền, có thể
nói người bệnh chính là thầy thuốc và sức miễn dịch
được nâng
lên chính là thuốc chữa
bệnh.
Sau
đây là
một vài thí dụ về sự phối hợp giữa thư giãn & Thiền và những suy
nghĩ tích cực.
Để đạt được mục đích thư giãn
và bình an cho tâm trí, người tập có thể nghĩ
đến những
cảnh quang mà mình ưa
thích hoặc
đã
từng trãi qua. Rừng thông bạt ngàn, gió thổi vi vu. Bãi cát
trắng xóa, sóng biển nhấp nhô. Cánh
đồng lúa rì
rào, gió thổi mơn man. Cảnh núi non hùng vĩ, thác nước trắng
xóa,… Nằm hoặc ngồi thoải mái ở một nơi yên tĩnh, thoáng mát.
Mắt khép nhẹ. Hít thở
điều hòa,
thì thở ra chậm và dài hơn thì hít vào. Tập trung tư tưởng nghĩ
đến
cảnh quang
đã
định. Hình dung rõ ràng
quang cảnh như
đang hiện
ra trước mắt mình. Lặng lẽ
quan sát
để từ từ
tiến đến dung hợp giữa người và
cảnh, thấy mình hòa tan vào cảnh hoặc quên
đi bản
thân mình.
Để gia tăng nội khí hoặc để điều trị các
chứng hư Hỏa gây căng
thẳng, nhức đầu, khó ngủ, hồi hợp,… có thể tập trung vào
bụng dưới. Ngồi bán già hoặc kiết già. Lưng thẳng. Eo hơi thót
lại. Cằm hơi thu vào.
Đầu lưỡi
chạm nướu răng trên. Buông
lỏng phần vai và hai tay. Mắt khép nhẹ. Hít thở
điều hòa.
Tập trung tâm ý quán tưởng khắp chung quanh mình
đang có
gió nhẹ thổi vào vùng bụng
dưới.
Để chữa bệnh, trị đau nhức, để làm
tan một chỗ bị sung huyết hoặc một tổ chức bị u xơ, có thể quán
hơi thở vào và ra. Hít vào sâu
đến bụng
dưới. Thở ra chậm, nhẹ và
đều. Trong lúc thở ra tập trung ý quán một luồng trược khí màu
xám từ chỗ bị
đau theo
hơi thở thoát ra các đầu ngón chân (nếu ở vùng
hạ thể) hoặc
đỉnh đầu,
hoặc những đầu ngón tay (nếu ở vùng
thượng thể). Có rất nhiều nghiên cứu về hiệu ứng vật lý của
những suy nghĩ tích cực.
Đáng kể
nhất là công trình nghiên
cứu của Bác sĩ Carl Simonton về
điều trị
ung thư. Ông hướng dẫn cho bệnh nhân thư giãn
và hình dung những bạch cầu của họ là những chiến sĩ "tìm và
diệt".
Đội quân
dũng mãnh
đã
chiến
đấu, chiến
thắng và mang
đi các tế
bào ung thư
đã
chết. Công trình nghiên cứu trên 110 bệnh nhân ung thư giai
đoạn cuối đã cho kết quả
25% hoàn toàn khỏi bệnh, 30% ung thư ngừng phát triển, và ở 10%
khác khối u ung thư bắt
đầu nhỏ
dần.
Ông Emile Coue (1857-1926), một chuyên gia
điều trị tâm lý người Pháp là
người
đã
từng hướng dẫn và
điều trị
cho hàng chục ngàn bệnh
nhân bằng phương pháp ám thị và tự ám thị.
Đến với
ông có thể là những người
bị mất ngủ, hoảng loạn, nói lắp, nghiện thuốc, béo phì,
động kinh,
suyển và cả những bệnh
nhân tim mạch, tiểu
đường, u
xơ, viêm khớp. Ông
đã
đề
xuất một công thức ám thị đơn giản chung cho nhiều trường hợp
khác nhau, để điều chỉnh hành
vi hoặc
để thay
đổi những điều kiện tâm lý, vật lý cho việc cải tạo sức khỏe.
Nguyên văn
câu ám thị là "Tous
les jours a tous points de vue, je vais de mieux en mieux"
đã
được chuyển sang Anh ngữ “Day
by day, in every way, I am getting better and better",
tạm dịch "Mỗi ngày qua, tôi tốt
đẹp hơn lên
về mọi phương diện".
Ông khuyên người bệnh thực hành
ám thị hai lần mỗi ngày. Mỗi lần tự nhẩm 20 lần câu ám thị nêu
trên. Cần làm một xâu chuỗi có 20 hạt
để lần
chuỗi tương ứng với 20 lần nhẩm niệm. Việc lần chuỗi vừa bảo đảm
đủ số cần niệm, vừa có tác dụng tạo
thêm phản xạ có
điều kiện
cho những lần sau. Thực
hành lúc vừa thức dậy, sắp sữa xuống giường và
liền trước khi nằm xuống ngủ.
Đây là
những lúc mà chúng ta còn ngái ngủ hoặc buồn ngủ. Do
đó khi đã
nhắm mắt và tập trung vào câu ám thị thì tâm chỉ tồn tại có ý
niệm
đó,
những tạp niệm rất khó xen vào. Về mặt thần kinh, những thời
điểm này gần giống như lúc
chúng ta luyện tập thư giãn hoặc chuẩn bị nhập tĩnh nên cũng là
lúc tốt nhất
để tiếp
nhận những thông tin tích cực cho việc tạo nên
những cung phản xạ mới.
Lưu ý
Kết quả hành Thiền sẽ khác nhau do khả năng
tập trung tư tưởng của mỗi người. Điều này
tùy thuộc vào căn
cơ và các
điều kiện
trợ duyên khác như chế
độ
ăn uống, sinh hoạt, giao tiếp… Thiền được xem là
một liệu pháp bổ sung
được dùng
song hành với các biện pháp chữa bệnh chính thống khác. Do
đó
việc gia giảm hoặc thay thế các loại thuốc trong việc điều trị
phối hợp với Thiền cần theo sự chỉ dẫn của bác sĩ điều trị.