Thử Áp Dụng Thiền Vipassana Điều Trị Các Bệnh Tâm Thần
PHẠM TÂM TỊNH .
Việt Báo Thứ Ba, 6/12/2007, 12:02:00 AM
Trong suốt hai ngàn năm trăm năm, sau khi đức Phật giác
ngộ, thiền vipassana đa đuợc áp dụng và đem lại giải thoát cho hàng ngàn
nguời. Thế nhung mãi cho đến gần đây các thiền su vẩn ngại ngùng không dám đua
liều thuốc giải thoát đến những nguời bị bệnh tâm thần. Sự e ngại bắt
nguồn từ cảm giác là thiền quá khó, nguời bị bệnh tâm thần không đủ sức tập.
Thật ra, thiền là hơi thở, là nuớc uống, là cái gì rất đon
giản trong cuộc sống hằng ngày, thiền là sự chú tâm không mong cầu. Theo
nguời viết điều duy nhất cần để tập thiền là một động co thật mạnh. Nổi khổ đau
do bệnh tật và sự chết là động co mạnh nhất và là đối tuợng giải thoát cuả
thiền. Do đó, nguời bị bệnh tâm thần có một điều kiện không phải nguời tập thiền
nào cung có đuợc: đó là một động cơ rất mạnh. Động cơ mạnh sẽ dẫn đến sự kiên
trì bền bỉ, điều kiện duy nhất cần để đạt những tuệ giác khi hành thiền.
Một tỷ lệ nào đó cuả những bệnh nhân tâm thần, sau khi ổn
định bằng thuốc sẽ sáng suốt đủ để tập thiền một cách kiên trì bền bỉ. Không ai
có thể đạt đuợc sự an lạc từ thiền nếu chỉ thỉnh thoảng tập thiền một lần
nhu một hành vi trang sức, một cái gì đó thêm vào cho cuộc sông đa quá đầy đủ
cuả mình.
Cơ sở lý luận.
Có một cơ sở lý luận vững chắc để nhận định rằng việc tập
thiền vipassana sẽ đóng góp một phần vào quá trình điều trị bệnh tâm
thần.
Thiền Vipassana là một phuong pháp thiền có tính khoa học.
Nguời tập thiền vipassana đóng vai trò của một nhà quan sát, không phải bằng mắt
hay bất cứ một dụng cụ kỹ thuật nào khác, mà bằng cái tâm chú ý cuả mình
trong chánh niệm**, các hiện tuợng vật lý và tâm lý xảy ra trong cơ thể và chung
quanh. Các hiện tuợng vật lý nầy có thể là một cãm giác xúc giác, thính thị
giác, sự đau nhức hay một ý nghi sinh khởi, nhất là các phản ứng cuả tâm
đối với các hiện tuợng đó.
Sau một thời gian kiên trì quan sát trong chánh niệm nhu
vậy, khả năng sau đây sẽ phát sinh một cách từ từ: nguời tập sẽ nhận biết và có
khả năng quán sát cái tâm của mình một cách khách quan, nhận ra sự sinh khởi và
diệt đi cuả các ý nghi trong từng khoảnh khắc cuả thời gian, một cách khách quan
mà không đồng hoá mình với các ý nghi đó. Chính sự nhận biết nầy (tức là chánh
niệm) có tác dụng tạo sự an lạc, cô lập các ý nghi ra khỏi sự phản ứng cuả tâm
và các ý nghi đó sẽ biến đi sau khi bị nhận diện, tương tự nhu vậy sự nhận
biết sự trầm cảm sẽ tạo ra một cảm giác an lạc bên cạnh sự trầm cảm giúp khả
năng chịu đựng sự trầm cãm tăng lên và sự trầm cảm cung tan đi mau hơn.
Diễn tiến nầy là căn bản cuả việc ứng dụng thiền để cải
thiện nội quan (insight) góp phần vào việc điều trị bệnh tâm thần. Đây
cũng là căn bản rất tốt, rất lành mạnh để xây dựng kế hoạch huấn luyện kỹ năng
đối trị với các hoang tuởng, các con trầm cãm sẽ xảy ra sau này cho các cá
nhân trẻ tuổi chua phát bệnh trong các gia đinh mà bệnh tâm thần đang xảy ra cho
các thành viên khác.
Đối với các hồi tuởng kinh hoàng cuả qúa khứ (flashback
trong bệnh post traumatic stress disorder) thì sự kiểm soát có thể dể hon.
Dù mang nhiều tên gọi khác nhau: schizophrenia, manic
depressive disorder, post traumatic disorder, obsessive compulsive disorder
..các bệnh tâm thần có một điểm chung: tâm rời khỏi trạng thái an bình để phản
ứng với hoặc là những ý nghi hoặc những đối tuợng cuả giác
quan. Phản ứng nầy có thể dẩn đến một tác ý làm khởi phát hành động hoặc làm
thay đổi mood cuả bệnh nhân đua đến các con trầm cảm (depression), hoặc sợ
hải.... Phản ứng của tâm là có điều kiện.
Theo quan niệm của thế gian thì có hai loại ý
nghi : ý nghi bình thuờng đuợc xã hội chấp nhận, và ý nghi không bình thừong,
không đuợc cộng đồng chấp nhận gọi là hoang tuởng, cần đuợc điều trị. Đức Phật
Thích Ca, nguời đa tìm ra thiền vipassana không có một lời nào phân biệt ý nghi
bình thuờng hoặc không bình thuờng cả, ý nghi là một hiện tuợng có điều kiện
sinh khởi trong tâm rồi sẽ diệt đi.
Trước sự sinh khởi của một ý nghĩ, điểm khác biệt giữa
nguời có tập thiền vipassana và một nguời không tập là nguời không tập sẽ đồng
hoá mình với ý nghĩ đó (nghĩ rằng mình nghĩ), miên man theo sự dẫn dắt cuả
y nghĩ, chiụ ảnh hưởng tác động cuả ý nghĩ đó mà vui, buồn, tức giận, biết on
vv.. và sau cùng là hành động theo chỉ đạo cuả ý nghĩ đó.
Nguời tập thiền vipassana có kinh nghiệm sẽ quán và thấy
sự sinh khởi cuả ý nghi đó rất sớm, nhìn ý nghi đó nhu một hiện tuợng
khách quan, do nó tự đến, không có ai nghi cả, (như tiếng chim hót, mưa rơi,
tiếng động), không bị ý nghĩ đó ảnh huởng làm vui buồn... có thể kiểm soát không
hành động theo, và ý nghĩ đó sẽ tự động diệt đi.
Cần phải xác định một vài điểm như sau:
1.- Chúng ta chỉ xử dụng kỹ thuật cuả thiền minh sát
để cải thiện nội quan (insight), góp phần vào việc điều trị bệnh tâm thần, tạm
thời gác qua một bên mục tiêu giác ngộ giải thoát. Các mục tiêu nầy
quá xa và quá khó hơn nữa còn bị vuớng mắc với vấn đề tôn giáo và không
phải mục tiêu cuả bài viết nầỵ
2.-Nếu không nhắm mục tiêu giác ngộ thì sự tập thiền
vipassana sẽ tương đối dể dàng nhu học đánh máy, học đan. Có điều gì khó khi chỉ
cần ngồi xuống đặt sự chú ý vào hơi thở của mình, khi sự chú ý đi
noi khác thì nhận ra và đem nó về lại nơi hơi thở. Có một điều cần được làm rõ
vì đây là lý do nhiều nguời chán nản và bỏ tập: khi ngồi thiền cứ bị suy nghĩ
vẩn vơ. Cái trí con nguời được tạo ra để suy nghĩ và nó suy nghĩliên tục.
Có khi ta nhận ra sự suy nghĩ có khi không nhận ra. Do đó không nên bức xúc khi
thấy mình suy nghĩ nhiều quá.
Nhiệm vụ chính là tập tỉnh thức để nhận ra mình đang
suy nghĩ và đem sự chú ý về lại noi đề mục chính cuả giờ tập thiền đó là hơi
thở. Chính sự liên tục suy nghĩ và nhận biết đó tạo nên sự cảm nhận cái tâm và
sự sinh diệt cuả các ý nghĩ. Nếu ví dụ có một nguời ngồi xuống là không còn ý
nghi nào nữa thì cảm nhận sinh diệt sẽ không phát sinh. Tương tự như một người
rất tốt nhưng không bao giờ vay nợ và trả nợ thì không có good credit được.
Nhiều nguời nghĩ rằng tập thiền quá khó vì họ có
cái tâm mong cầu quá lớn, chờ mong một kết quả gì đó sẽ xảy ra ngay bù đắp cho
thời gian bỏ ra. Trong lúc thiền là một quá trình tập luyện để xoá bỏ cái tâm
mong cầu (một hình thức của tham ái ). Không mong cầu, chỉ kiên trì tập luyện
đều đặn thì kết quả sẽ đến, ngoài mọi sự mong chờ. Điều duy nhất cần là một động
cơ thật mạnh. Không một thiền sư hay một nguời tập thiền nào có đuợc động cơ
mạnh bằng một bệnh nhân bị tâm thần phân liệt (schizophrenia) mới phát bệnh lần
đầu, tuong lai bị đóng lại, tập để kiểm soát con bệnh, để hy vọng giảm
liều thuốc, để hy vọng không làm phiền nguời thân vv.... hay một nguời
bệnh trầm cảm bị các cơn buồn hành hạ đến muốn tự sát...Vấn đề là chỉ ngồi xuống
tập, đều đặn, kiên trì, dù tin, dù không tin, đừng mong chờ gì cả.
Phải nhận biết rằng đây là phương pháp lành mạnh,
không có tác dụng phụ, không tốn kém, và là phương pháp duy nhất không dùng
thuốc để góp phần vào việc điều trị, hay ít nhất cung hổ trợ giúp tránh việc
phải tăng liều thuốc. Nên nhớ rằng hàng triệu nguời lành mạnh đa tập thiền và
nhiều nguời đa đạt giác ngộ giải thoát.
3.- Đối với các thành viên trẻ tuổi của các gia đinh có
nguời bị bệnh tâm thần đây là căn bản để thiết lập nền tảng cho việc huấn
luyện để cải thiện nội quan (insight) giúp họ đối trị các triệu chứng, các con
trầm cảm, các ý nghi thôi thúc (trong obsessive compulsive disorder) một
cách hữu hiệu hơn.
Hiện nay trong các gia đinh này các thành viên trẻ
tuổi chưa mắc bệnh chỉ tự quan sát mình một cách âu lo mà không có một
biện pháp nào để mở một huớng đi tuong đối lạc quan cả. Nói xa hơn, nếu một
nguời trẻ tuổi với một động cơ mạnh mẽ, tự rèn luyện để có thể điều khiển tâm
mình thì người đó đã có một kỹ năng tuyệt vời để có một cuộc sống an lạc hạnh
phúc.
Hãy nhìn cuộc sống hiện tại cuả một bệnh nhân tâm thần
phân liệt, lúc mới phát bệnh thì sống với gia đình cho đến khi gia đình không
còn khả năng săn sóc thì được gởi vào các nhà săn sóc (board and care). cuộc
sống cuả họ là một chuổi ngày vào ra bệnh viện. Nếu đuợc sống trong một thiền
viện dành cho các bệnh nhân tâm thần, thuờng xuyên được nhắc nhở để giử chánh
niêm, giảm thiểu các tác nhân kích thích cuả xã hội, dành nhiều thời gian hành
thiền để giảm sự tái phát cuả bệnh thì không còn gì mong đợi hon.
4.- Để đạt đuợc các tuệ giác cần thiết, thời gian
phải tính bằng năm với sự tập luyện đều đặn, chứ không phải tháng hay ngày, điều
này nguời tập phải hiểu để chuẩn bị sự kiên trì. Động cơ mạnh và kiên trì là
điều kiện cần và đủ để đạt đến thành công.
5.- Buớc kế tiếp: sau khi đa đạt đuợc những tuệ giác cần
thiết để có thể kiểm soát tâm độc lập với các ý nghi, nguời tập có thể chủ động
gợi lại các ý nghi thuờng xảy ra trong con bệnh rồi tập kiểm soát các ý nghi đó.
Tập đi, tập lại nhu vậy người tập sẽ đạt được một kỹ năng để kiễm soát các con
kịch phát của bệnh mỗi khi chúng xảy ra.
* Cách tập:
Thời gian: mỗi ngày nên tập hai thời, sáng khi vừa thức
dậy và tối truớc khi đi ngủ. Mỗi thời độ 10 phút lúc mới khởi sự tập rồi tăng
lên thật từ từ tùy mức thích nghi của mỗi người. Thời gian trung bình của mỗi
thời tập là một giờ.
Một điều cung rất quan trọng (nhưng không nên mong cầu nó
xảy ra ngay) là ngoài giờ tập người tập nên tập trung nhận biết từng việc mình
đang làm (gọi là giữ chánh niệm). Sau một thời gian kiên trì giữ sự tỉnh thức,
nguời tập sẽ ngạc nhiên và hạnh phúc mà thấy rằng sự nhận biết (chánh niệm) sẽ ở
với mình một cách dễ dàng hơn mình tưởng nhiều và an lạc hạnh phúc nằm ngay
trong sự nhận biết đó. Nguời tập sẽ nhận ra mình kiểm soát đuợc mình nhiều hon
và nhu vậy các con bịnh bị đẩy luì, ít xuất hiện hơn. Sự nhận biết đó là một
phần cuả trí huệ (wisdom). Trong toàn bộ tiến trình tập luyện nguời tập sẽ không
bị cực khổ mệt nhọc gì mà còn thấy an lạc hạnh phúc càng ngày càng nhiều hon.
Cách ngồi: Nếu khởi sự tập từ nhỏ, còn mềm dẻo, thì nên
ngồi kiết già hoặc bán già vì đây là cách ngồi tạo ra sự vững chải cho thân và
tâm. Nếu thấy khó, có thể ngồi hai chân xếp lại chân truớc chân sau, với
một cái gối nhỏ để trên hai chân làm nơi tựa của hai bàn tay. Nếu không quen
ngồi xếp bằng thì có thể ngồi trên ghế.
Mô hình gợi ý:
Tổ chức một board and care cho người bệnh tâm thần trên một diện tích rộng
độ vài acres ở một noi thoáng mát yên tịnh và một thiền đuờng nhỏ. Ban
điều hành gồm những nguời có tập thiền. Có thể kết hợp với sự tập thiền cuả
những nguời bình thừong để làm gương cho nguời bị bệnh.
Điều kiện để tập:
1.- Điều kiện đầu tiên là bệnh nhân phải ở trong trạng thái tinh thần ổn
định khi khởi sự tập luyện. Do đó nếu bịnh nhân bị trầm cảm, hoặc bị tâm thần
phân liệt (schizophrenia) thì phải ổn dịnh bằng thuốc và phải tiếp tục dùng
thuốc thật đều đặn trong suốt quá trình tập luyện. Bệnh nhân chỉ giảm thuốc với
sự cho phép cuả bác sĩ, tùy theo sự luợng định cuả chính bản thân theo kết quả
luyện tập mà mình đạt đuợc
2.- Đối với thành viên cuả các gia đinh có nguời bị bệnh tâm thần thì cần
khởi sự tập thiền từ lúc còn nhỏ tuổi. Cần giải thích rõ lý do tập để tạo ra một
động cơ mạnh.
Kết luận:
Mỗi loại thuốc thích hợp cho một số nguời này mà không hợp cho một số nguời
khác. Tương tự như vậy, phương pháp nầy sẽ có thể thực hiện đuợc bởi một số
nguời nầy mà không thực hiện được bởi một số nguời khác. Bệnh tâm thần là bệnh
cuả tâm. Thuốc uống vào trong thân trong một mức độ nào đó giúp điều trị cái
tâm.
Sau hai ba mươi năm điều trị, tình trạng của nguời bệnh là sự phối hợp cuả
sự tiến triển cuả bệnh theo thời gian và ảnh huởng cuả các tác dụng phụ của
thuốc. Nếu trong một cơ may nào đó, thiền vipassana góp được phần nào trong việc
giúp ổn định bịnh mà không cần tăng liều lượng thuốc hay may mắn hon giảm được
liều thuốc để giảm các ảnh huởng cuả tác dụng phụ thì đấng từ phụ sẽ mĩm cuời vì
có thêm nhiều đứa con đã nhận ra con đuờng mà ngài đa từ bỏ cung vàng điện ngọc
để tìm ra.
NOTES:
* Chữ "insight" thuờng dùng trong khoa tâm thần có nghiã
hơi khác hơn chữ insight dùng trong thiền vipassana. Trong khoa tâm thần
"insight" dùng để diển đạt ý một bệnh nhân nhận biết cái ý tưởng mà họ đang có
là bệnh lý, là bất thu6ờng và nhu vậy họ không tin vào đó và nhu vậy xác suất để
họ hành động theo lệnh cuả ý nghi đó sẽ giảm đi. Ví dụ: có bệnh nhân có ý nghĩ
rằng mình là đức chuá Jesus. Nếu bệnh nhân nầy không có insight thì họ sẽ nghĩ
đó là sự thật và họ hành động như họ là chúa trời thật sự.
Chữ insight dùng trong thiền vipassana có nghiã là tuệ
giác. Tuệ giác là một cảm nhận mà từng cá nhân tập thiền có đuợc sau một thời
gian tập luyện kiên trì tinh tấn. Những tuệ giác nầy khó diển tả bằng ngôn ngử.
Tuệ giác cãm nhận đuợc các ý nghĩ tự nó sinh khởi và tự nó sẽ diệt đi trong từng
khoảnh khắc cuả thời gian là một tuệ giác quan trọng cần thiết cho bệnh nhân tâm
thần vì với tuệ giác đó tâm quán sát sẽ nhìn ý nghĩ một cách khách quan, không
bị ý nghĩ chi phối chánh niệm, diễn đạt một cách cho dễ hiểu, là một tình
trạng tỉnh thức trong đó tâm quán sát lấy công việc mà thân đang làm, làm đối
tuợng; hoặc nếu thân không làm gì thì lấy hơi thở làm đôí tuợng. Tùy theo tiến
trình và kết quả của việc tập thiền, nguời tập sẽ có những cảm nhận sâu hơn về
từ cách tập này.
PHẠM TÂM TỊNH
Nguồn: www.quangduc.com