Tuệ Tĩnh- Người mở đầu Ngành Y học Dân tộc Việt Nam -Sưu tầm
Xin cầu nguyện cho các bịnh nhân được bình phục, để được có cơ hội tu học, thoát khỏi khổ đau sinh tử luân hồi.
Chìa khóa đã giúp các bịnh nhân thành công trong việc chữa trị là NIỀM TIN và Ý CHÍ THỰC HÀNH.
Ghi chú: Chúng tôi với tinh thần giúp người không vụ lợi. Xin quý vị xem xét các tài liệu và chọn lựa cách thực hành thích hợp cho mình. Chúng tôi, cùng các tác giả đóng góp, xin được miễn trách nhiệm về những tài liệu trong trang nhà này. Kính mong sự thông cảm và hoan hỷ.
Quý vị khi dùng các bài thuốc dưới đây với kết quả tốt hay không, xin vui lòng gởi báo kết quả qua mục bình luận bên dưới để chúng ta có thể cùng kiểm chứng và đăng tải tính chính xác của các bài thuốc.
Có một số bài là file *.PDF , nên Qúy vị hãy download phần Adobe Reader về và cài đặt mới xem được.
TUỆ TĨNH –
NGƯỜI MỞ ĐẦU NGÀNH Y HỌC DÂN TỘC VIỆT NAM
26/05/2007
Nếu những kết quả nghiên cứu văn học, ngôn ngữ học Việt
Nam sau này không đưa thêm bằng chứng gì mới thì truyền thuyết địa phương và
những công trình nghiên cứu chuyên môn khác cho phép khẳng định Tuệ Tĩnh là
một nhân vật đời Trần. Ông chính tên là Nguyễn Bá Tĩnh, quê ở làng Nghĩa
Phú, tổng Văn Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (tỉnh Hải Dương ngày
nay).
Giáo sư Vũ Ngọc Khánh - Đỗ Thị Hảo
Mồ côi cha mẹ từ lúc 6 tuổi, Nguyễn Bá Tĩnh được các nhà
sư chùa Hải Triều và chùa Giao Thủy nuôi cho ăn học. Năm 22 tuổi, ông đậu
Thái học sinh dưới triều vua Trần Dụ Tông, nhưng không ra làm quan mà ở lại
chùa đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Những ngày đi tu cũng là những ngày
ông chuyên học thuốc, làm thuốc, chữa bệnh cứu người.
Năm 55 tuổi (1385), Tuệ Tĩnh bị đưa đi cống cho triều
đình nhà Minh. Sang Trung Quốc, ông vẫn làm thuốc, nổi tiếng, được vua Minh
phong là Đại y Thiền sư, mất ở bên ấy, không rõ năm nào. Bia văn chỉ làng
Nghĩa Phú (do Nguyễn Danh Nho soạn năm 1697) cùng các tư liệu khác ở địa
phương đều ghi như vậy.
Những năm ở trong nước, Tuệ Tĩnh đã chăm chú nghề thuốc: trồng cây thuốc, sưu
tầm kinh nghiệm chữa bệnh trong dân gian, huấn luyện y học cho các tăng đồ.
Ông đã tổng hợp y dược dân tộc cổ truyền trong bộ sách giá trị là bộ Nam
dược thần hiệu chia làm 10 khoa. Đặc biệt, ông có bộ Hồng Nghĩa tư giác y thư
(2 quyển) biên soạn bằng quốc âm, trong đó có bản thảo 500 vị thuốc nam,
viết bằng thơ Đường luật (nôm), và bài Phú thuốc Nam 630 vị
cũng dùng quốc ngữ. Thơ văn Nôm đời Trần rất hiếm, nếu quả thực đó là tác
phẩm của ông thì Tuệ Tĩnh không những có vị trí trong lịch sử y học mà cả
trong lịch sử văn học nữa.
Từ bao đời nay, giới y học Việt
Nam và nhân dân đều công nhận Tuệ Tĩnh có công lao to
lớn trong việc xây dựng một quan điểm y học độc lập, tự chủ, sát với thực tế
Việt Nam.
Câu nói của ông: "Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt" biểu hiện sự nhận thức
sâu sắc về quan hệ giữa con người và sinh cảnh, đồng thời cũng tiêu biểu cho
ý thức độc lập tự chủ. Ngay trong việc nghiên cứu dược liệu, ông cũng không
chịu phụ thuộc vào cách sắp xếp của những sách nước ngoài. Chẳng hạn, ông
không đưa kim, mộc, thủy, hỏa, thổ lên đầu mà xếp các cây cỏ trước tiên. Ông
cũng phê phán tư tưởng dị đoan của những người chỉ tin vào phù chú mà không
tin thuốc. Ông đã nêu ra nhiều phương pháp khác nhau để chữa bệnh như: châm,
chích, chườm, bóp, xoa, ăn, uống, hơ, xông,v.v.
Tuệ Tĩnh đã không dừng lại ở vị trí một thầy thuốc chữa
bệnh, ông còn tự mình truyền bá phương pháp vệ sinh, tổ chức cơ sở chữa bệnh
trong nhà chùa và trong làng xóm. Có tài liệu cho biết, trong 30 năm hoạt
động ở nông thôn, Tuệ Tĩnh đã xây dựng 24 ngôi chùa, biến các chùa này thành
y xá chữa bệnh. Ông tập hợp nhiều y án: 182 chứng bệnh được chữa bằng 3.873
phương thuốc. Ông cũng luôn luôn nhắc nhở mọi người chú ý nguyên nhân gây
bệnh, tìm biện pháp phòng bệnh tích cực. Tuệ Tĩnh nhấn mạnh tác dụng việc
rèn luyện thân thể và sinh hoạt điều độ. Ông nêu phương pháp dưỡng sinh tóm
tắt trong 14 chữ:
Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần.
Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình.
Tuệ Tĩnh còn tập hợp những bài thuốc chữa bệnh cho gia
súc. Có thể nói, ông đã góp phần đặt cơ sở cho ngành thú y dân tộc.
Nhiều thế kỷ qua, Tuệ Tĩnh được tôn là vị thánh thuốc
Việt Nam. Tại Hải
Dương, còn đền thờ ông ở xã Cẩm Văn, Cẩm Vũ, ở chùa Hải Triều làng Yên
Trung, nay là chùa Giám, xã Cẩm Sơn, huyện Cầm Giàng, có tượng Tuệ Tĩnh. Câu
đối thờ ông ở đền Bia viết, dịch nghĩa như sau:
Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh Sống
nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang.