Từ Thuốc Bắc, Thuốc Nam,Thuốc Dân Tộc, ... Đến Dược Thảo
Mai
Thanh Truyết
Những danh từ dùng cho tựa đề của bài
viết nầy đều có cùng chung một định nghĩa và ứng dụng tùy theo không gian và
thời gian. Thuốc Bắc ở Việt Nam dùng để chỉ các loại thuốc dùng cây, lá, rễ, củ,
hột, v.v., đã được biến chế do một Đông y sĩ người Trung Quốc khám bịnh và cho
toa. Còn thuốc Nam, tương tự như thuốc Bắc, nhưng do một Đông y sĩ người Việt
Nam đảm nhận. Các loại cây lá được biến chế trong thuốc Nam tương đối đơn giản
như phơi khô hoặc sấy khô, và cân lượng cũng không có yêu cầu chính xác như một
nắm lá khô, một muỗng bột rễ cây, ... thay vì một chỉ, ba ly, … như ở thuốc Bắc.
Người được chẩn bịnh sau khi nhận thuốc xong, mang về nấu trong một cái nồi đất
với (thông thường) ba chén nước và đun sôi. Khi nước "xắc" lại còn tám phân,
bịnh nhân "chắt" nước ra, để nguội và uống. Một thang thuốc có thể uống được
nhiều lần, thường là hai lần.
Thuốc dân tộc chỉ được dân
miền Nam nghe đến kể từ sau 30 tháng tư năm 1975 do miền Bắc xâm nhập vào. Thuốc
dân tộc không cần có Đông y sĩ chẩn mạch như thuốc Bắc và thuốc Nam. Thuốc đã
được bào chế sẵn cũng như được "nhà nước' công bố công dụng của từng loại cây,
lá, hay củ, ... dùng để chữa trị một bịnh nào đó. Và dân chúng cứ thế mà dùng,
cho dù có hiệu nghiệm hay không. Nếu chúng ta đã từng sống trong xã hội Việt Nam
khoảng năm năm đầu sau khi nước nhà được "thống nhất", chắc ai cũng còn nhớ cây
xuyên tâm liên. Thực sự, người viết chưa từng thấy cây nầy cũng như cung cách
chữa trị như thế nào, và trị bịnh gì? Nhưng, trong giai đoạn trên, mỗi lần đi
khám bịnh ở phòng y tế phường hay xã, đều được cán bộ chữa trị bằng xuyên tâm
liên. Người viết cũng đã từng nghe nhiều câu chuyện kỳ thú về xuyên tâm liên do
một anh bộ đội vượt Trường sơn kể như sau: "Nếu vợ chồng không có con trong một
thời gian dài, đôi vợ chồng nầy sẽ được cán bộ hướng dẫn là mỗi khi "ăn nằm" với
nhau, chỉ cần cột một dây xuyên tâm liên qua bụng người vợ. Thế là sẽ có con sau
đó ngay! ".
Còn câu chuyện dài dược thảo ở Hoa Kỳ thể
hiện "tính khoa học" còn cao hơn nữa, nhất là trong cộng đồng Việt Nam. Các Đông
y sĩ ở đây, nói chung đều mang (được mang, hay tự mang) những danh hiệu rất oai
là Bác sĩ Đông y (Oriental Doctor – OD) hay Tiến sĩ Đông Y ( Ph.D of Oriental
Medicine), cũng như nhiều danh xưng nổ khác nữa. Thật ra, ở đây cũng căn cứ vào
rễ, thân, củ, lá, hột như thuốc Bắc và thuốc Nam; tất cả được chế biến có tính
cách hoàn chỉnh hơn dược thuốc Bắc và thuốc Nam, gần giống như các loại thuốc
của y khoa hiện đại như dạng bột, viên, hay viên bọc nhựa, nước, hay dạng thuốc
tể, v.v..
Trong phần trình bày sau đây, chúng tôi sẽ bàn
về định nghĩa, nguồn gốc, cách dùng và những vấn nạn có thể xảy ra sau khi dùng
thuốc dược thảo. Danh từ "thuốc" dùng ở đây để chỉ tất cả các loại cây, cỏ, rễ,
thân, lá, củ, hột, … chứ không nói đến những hóa chất khác được gian thương cho
thêm vào để làm tăng một vài đặc tính trị liệu mà không cần lưu tâm đến những di
hại về sau, như arsenic, đồng, chì, thủy ngân, selenium, thậm chí vàng (gold)
nữa.
Nguồn Gốc Và Định Nghĩa Dược Thảo
Theo quan điểm của các nhà khoa học Hoa Kỳ, khoa dược thảo chỉ có thể được xem
như là một phương cách trị liệu bổ túc (complementary therapy), chuyên dùng các
loại cây hay hóa chất ly trích từ cây. Do đó, đây là một ngành y khoa riêng biệt
đặt trọng tâm chữa trị bằng cây cỏ có trong thiên nhiên. Và danh từ herbalism
dùng để chỉ hệ phái dùng cây cỏ để trị liệu hầu hết các bịnh gần giống như tất
cả những bịnh liệt kê trong ngành y khoa hiện đại.
Nguồn
gốc của ngành y khoa dược thảo được xem như xuất hiện từ khi có sự hiện diện của
con người trên quả địa cầu. Và nếu đi xa hơn nữa, nguồn gốc nầy đã có trước khi
loài người xuất hiện (qua sự tiến hóa từ khỉ). Giống khỉ Chimpanzees đã biết ăn
một loại lá cây đặc biệt để diệt các ấu trùng trong bao tử. Loài nai đã biết
truy tìm các lá dùng để kích thích tâm thần (psycho-active). Một số thú vật khác
cũng đã biết tìm đến nấm như penicillin và các loại nấm chống nấm (antifungals)
để trị liệu hay tiêu diệt các loại bò chét ngoài da. Sau đó, con người mới biết
áp dụng trong trị liệu như những liều thuốc kháng sinh.
Ngành dược thảo đúng nghĩa đã góp phần không nhỏ vào việc trị liệu bổ túc và
song hành với ngành y khoa hiện đại. Thuốc phiện (morphine) được trích ly từ cây
thuốc phiện (poppies), aspirin từ cây liễu, và digoxin dùng để chữa trị nhịp tim
đập không đều đến từ cây đuôi chồn (foxglove).
Ngành dược
thảo không ngừng ở mặt trị liệu từng bộ phận hay từng bịnh mà còn có "tham vọng"
chữa trị toàn cơ thể con người, và "khuyến khích" cơ thể tự "hoàn chỉnh" hay
điều chỉnh qua thuốc cây cỏ. Các nhà chuyên môn của ngành nầy nghĩ rằng, những
hóa chất trong một tập hợp cây cỏ sẽ làm cân bằng cơ thể và tạo nên những phản
ứng hỗ tương để chữa trị toàn thể con người.
Có thể nói ngành y khoa cây cỏ ngày nay phát triển rất nhanh trên toàn thế giới.
Mức tiêu thụ ước tính khoảng 23 tỷ Mỹ kim trong năm 2004 căn cứ vào báo cáo của
cuộc triển lãm quốc tế lần thứ hai về dược thảo. Hiện tại, có khoảng 34% người
Hoa Kỳ lớn tuổi đã hơn một lần viếng các Bác sĩ Đông y dược vào năm 1990.
Vấn Đề An Toàn Của Dược Thảo
Có một khái niệm hết
sức thông thường và tự nguyện của người đời là, dược thảo nghĩa là cây cỏ
(herbal), là tự nhiên (natutal), và là an toàn (safe); vì vậy, dược thảo ao toàn
hơn các loại thuốc bằng hóa chất hay tổng hợp hóa chất do ngành y dược khoa hiện
đại bào chế.
Do có suy nghĩ trên, cho nên một số người
Hoa Kỳ và dĩ nhiên, một số không nhỏ người Việt ở hải ngoại vẫn thường dùng các
loại thuốc cây cỏ trong công việc phòng bịnh và trị bịnh. Đối với dược thảo, các
nhà sản xuất không cần phải khai báo với Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) về
cơ cấu của thuốc, cũng như tính hiệu nghiệm, cùng phản ứng phụ, và mức an toàn
của thuốc đặc chế. FDA cũng không đòi hỏi thông tin cần được liệt kê trên nhãn
hiệu của các lọ thuốc. Do đó, kết quả dù tích cực hay tiêu cực, hay ảnh hưởng
dài hạn lên cơ thể hoàn toàn không được biết đến và cũng không có một cuộc
nghiên cứu dài hạn nào để thẩm định mức an toàn của thuốc.
Thí dụ như nước trích từ cây nhàu (gingko biloba) đã đưộc quảng cáo rầm rộ trong
cộng đồng Việt Nam trước đây, và hiện nay vẫn còn lai rai, là có khả năng trị bá
bịnh. Có mấy ai biết được, qua nghiên cứu khoa học, phản ứng của thuốc nầy có
thể gây ra hiện tượng chảy máu bên trong cơ thể, và có thể gây ra phản ứng với
các yếu tố làm chống đông máu có sẵn trong máu của con người.
Mặc dù Luật Dietary Supplement Health & Education Act năm 1994 cho phép các loại
thuốc thực vật trên được ghi trong nhãn hiệu hướng dẫn cách dùng và tính hiệu
nghiệm của thuốc, nhưng trên thực tế ngoài thị trường, các nhãn hiệu trên hoàn
toàn không ghi rõ về cách định bịnh, chữa trị hay phòng bịnh gì cả!
Thêm một điều nữa là dược thảo không bị đòi hỏi phải cung cấp tỷ lệ các thành
phần hóa học cấu tạo ra thuốc, cũng như tính tinh khiết (purity) như các loại
thuốc dành cho ngành y khoa hiện đại. Do đó hiệu quả của cùng một loại thuốc,
cùng một nhãn hiệu có thể không giống nhau vì do những tạp chất có trong thuốc
thay đổi trong lúc sản xuất như phấn hoa, chất gây dị ứng cho cơ thể, bào tử của
hoa, v.v .. Và tỷ lệ khác biệt nầy có thể thay đổi tính hiệu nghiệm của thuốc,
đôi khi gây ra những phản ứng bất lợi cho bịnh nhân.
Do
đó, mặc dù một số dược thảo có thể trợ giúp giải quyết một số bịnh của con
người, nhưng điều đó không có nghĩa là dược thảo đạt được mức an tòan. Theo
khuyến cáo của ngành y dược khoa tân tiến, phụ nữ đang mang thai không nên dùng
dược thảo vì có thể có phản ứng bất ngờ và có thể bị trụy thai.
Đối với các loại thuốc trong ngành dược khoa, dựa vào hóa chất tổng hợp hay một
số trích ly từ cây cỏ, hay nấm trong thiên nhiên, nhưng các thuốc nầy đã được
nghiên cứu kỹ lưỡng, với cân lượng chính xác, và được thí nghiệm lên thú vật hay
con người trong một thời gian dài trước khi tung ra thị trường. Và dĩ nhiên,
những thuốc trên cũng có thể có những phản ứng phụ hay phản ứng khi dùng nhiều
loại thuốc khác nhau trong cùng một thời điểm. Điều nầy cũng đã được liệt kê
trên nhãn thuốc hay được bác sĩ khám bịnh khuyến cáo và lưu ý bịnh nhân khi kê
toa.
Tuy nhiên, điều trên đây không xảy ra đối với dược
thảo về các điều kiện bào chế thuốc. Hiện tại, hầu hết các sản phẩm dược thảo
đều nằm ngoài tầm kiểm soát của những luật lệ quy định cho ngành y khoa. Điều đó
có nghĩa là không có gì bảo đảm cho sự hiệu nghiệm của thuốc, cũng như thành
phần cùng cân lượng của những chất hoá học cấu tạo ra thuốc. Ngay cả nhà bào chế
thuốc cũng không đạt được tính chính thống của ngành, mỗi nhà bào chế (sản xuất)
theo từng trường phái dược thảo khác nhau. Thí dụ thuốc nhàu của nhà bào chế A
sẽ khác thuốc của của nhà bào chế B. Một thí dụ khác điển hình là nếu bạn bị
bịnh về tim, bị đau ngực do hẹp tắc các động mạch vành tim (angina), cao áp
huyết, hay bịnh cao áp suất mắt (glaucoma), một số dược thảo dùng để trị liệu
các chứng bịnh kể trên sẽ đưa đến những phản ứng có thể làm chết người đối với
bịnh nhân bị tiểu đường loại I hay bị chứng phong giựt (epilepsy). Thêm nữa, các
dược thảo quảng cáo cho những bà mãn kinh nguyệt và hay bị chứng nóng mặt (hot
flashes) là các loại cỏ và rễ của cây Black Cohosh, Black Snake, Bugwort, Rattle
weed. Thực sự nếu dùng các loại dược thảo kể trên, các bà có thể giảm chứng nóng
mặt lúc ban đầu nhưng hậu quả sẽ phải trả là một giá rất đắt, đó là bịnh ung
thư. Nên nhớ, nếu không dùng thuốc chi cả, chứng nóng mặt sẽ biến mất sau một
thời gian.
Từ những nhận định trên, câu hỏi được đặt ra
là, chúng ta có nên dùng dược thảo không?
Hiệu Năng
Của Dược Thảo
Đối với ngành y dược khoa, một thuốc
mới sắp ra sẽ phải được kiểm chứng qua nhiều giai đọan như vừa kể trên, điều đó
không những bảo đảm được tính hiệu nghiệm và an tòan của thuốc, mà còn đi xa hơn
nữa là liệu thuốc mới vừa được tung ra thị trường có an tòan hơn (safer), và
hiệu nghiệm hơn không khi so sánh với các loại thuốc đã sản xuất trước kia và có
cùng một mục đích trị liệu.
Nhưng đối với dược thảo,
hoàn toàn không có một nghiên cứu nào cả mà chỉ dựa vào cảm tính (intuition)
nhiều hơn. Do đó, nhiều khi bịnh nhân phải trả một chi phí cao cho dược thảo mà
không nhận được kết quả trị liệu nào cả, không kể đến những phản ứng phụ có thể
xảy ra.
Để trả lời câu hỏi trên, quan điểm của một số
nhà y dược học là:
- Một số dược thảo được xem như là một
loại thức ăn bổ túc (food additive) như các loại sinh tố thiên nhiên và vô hại
cùng những loại muối khoáng, cũng như không ảnh hưởng và phản ứng phụ cho người
tiêu dùng.
- Ủy ban An toàn Y khoa (Committee on Safety
of Medicine) khuyến cáo bịnh nhân cần phải tham khảo với bác sĩ về các loại dược
thảo đang dùng trước khi được giải phẫu, vì có rất nhiều loại dược thảo dị ứng
với hóa chất gây mê, chống đông máu, và những thuốc xử dụng trong và sau khi
giải phẩu.
- Còn Viện Quốc gia Những Nhà Sưu tầm Dược
thảo (National Institute of Medical Herbalists) khuyến cáo nhà dược thảo cần
phải theo dõi từ ba đến năm năm ảnh hưởng lên con người của dược thảo đã được
bào chế trước khi tung ra thị trường.
Vì những lý do trên
cùng những hạn chế thông tin về dược thảo, lời khuyên hay nhất cho người xử dụng
dược thảo là cần phải tham khảo bác sĩ gia đình và những bác sĩ chuyên môn về
dược thảo (herbal practictioner) trước khi dùng.
Cũng
cần nên tham vấn nhà dược thảo trị liệu để họ có thể hiểu rõ hơn điều kiện sức
khoẻ tổng quát của bịnh nhân, cùng các loại thuốc đã hay đang xử dụng, cuộc sống
thường nhật của bịnh nhân và lịch sử về sức khoẻ gia đình. Và sau một thời gian
trị liệu bằng dược thảo, bịnh nhân cần phải đến tham khảo thêm để có thể chận
đứng được những phản ứng phụ kịp lúc nếu có.
Sau cùng,
Viện Sức khoẻ Quốc gia (National Institute of Health) có một mạng lưới tập trung
về những nghiên cứu liên quan đến dược thảo cũng cần được tham khảo thêm qua
Trung tâm Quốc gia về Y khoa Bổ túc và Tương ứng (National Center for
Complementary & Alternative Medicine).
Thay Lời Kết
Ngày hôm nay, ngoài những bữa ăn chính, nhiều người cần phải có thức ăn dinh
dưỡng bổ túc (dietary supplements) tùy theo điều kiện sức khỏe của cơ thể cả về
vật chất lẫn tâm sinh lý. Do đó, xử dụng dược thảo cũng phụ giúp một phần nào
trong việc trị liệu với điều kiện là bịnh nhân cũng như người chẩn đoán bịnh và
cho thuốc cần hiểu rõ căn bịnh và nhu cầu cần phải có dược thảo bổ túc thêm cho
việc trị liệu.
Nhưng trên thực tế, nhất là trong cộng
đồng người Việt, đặc biệt tại Hoa Kỳ, dược thảo đã trở thành một kỹ nghệ béo bở
cho rất nhiều người. Ngành dược thảo ở đây hoàn toàn độc lập, và hoàn toàn tùy
thuộc vào người bào chế (?) và hầu như những nhà bào chế Việt Nam là những cá
nhân hoạt động riêng rẽ, không nơi nào giống nơi nào.
Qua truyền thông như phát thanh, báo chí, truyền hình, ..., chúng ta hàng ngày
nghe ra rả những quảng cáo rất nhiều loại thuốc dược thảo dùng để trị liệu nhiều
bịnh khác nhau, cũng như trị "bá bịnh". Nhiều khi cùng một nguồn gốc dược thảo,
những nhà bào chế đã trình bày những phương cách trị liệu và liều lượng khác
nhau. Chúng ta dễ dàng kiểm chứng điều nầy qua các quảng cáo về thuốc nhàu Noni,
thuốc cây lô hội, v.v..
Thậm chí, có những
nhà bào chế không biết lấy từ nguồn nguyên liệu nào gọi là sữa ong chúa rồi chia
ra thành lọ thuốc mang những con số vô tình khác nhau như: 7, 9,14 , 26, v.v.,
để trị bách bịnh hay bá bịnh. Giả sử như sữa ong chúa có tính chất trị bá bịnh
đúng như quảng cáo, mỗi người trong chúng ta thử đặt một câu hỏi nhỏ cho nhà bào
chế nầy là, làm thế nào để có đủ lượng sữa ong chúa để sản xuất hàng trăm ngàn
chai lọ thuốc như trên? Nên nhớ, mỗi tổ ong chỉ có một con ong chúa và khả năng
chứa sữa (?) của một con ong chúa không đạt được 0.05 cc, tức nhỏ hơn một giọt
nước. Người viết không rõ người bào chế định nghĩa chữ "sữa" như thế nào, nhưng
qua tài liệu tham khảo đọc được, Honey Bee Venom, tức là nọc của loài ong mật có
thể trị được chứng đau cơ sơ hóa tức là Fibromyalgia mà thôi!
Cộng đồng người Việt chúng ta ở hải ngoại quá dễ dãi để cho gian thương lợi dụng
mà không có một phản ứng nào cả. Cộng thêm một số đồng bào vì dễ tin và nhẹ dạ
cho nên vô hình chung đã tiếp tay cho việc làm bất chính trên. Thiết nghĩ, ngày
hôm nay, đã đến lúc chúng ta cần góp bàn tay để làm sạch cộng đồng, ý thức bổn
phận dân sự (civic duty) của chính mình để ngăn đừng cho những cung cách làm ăn
không đứng đắn được tồn tại trong cộng đồng nữa. Nên nhớ, ảnh hưởng và các phản
ứng phụ khi dùng hoá chất không đúng cách có trong dược thảo sẽ diễn ra sau vài
thập niên xử dụng chứ không phải là một ảnh hưởng tức khắc.
Khẩn mong Quý bà con lưu ý đến những điều trình bày trên đây.