Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản
1981
CÂU CHUYỆN VỀ THI CA
HUYỀN KHÔNG
LỜI MỞ ĐẦU
Nhà thi sĩ nói: “ Con người
sống ở đời như nhà thi sĩ.” Phải chăng, đời là một cõi mộng và con người
là kẻ đi trong cõi mộng này? Phải chăng, đời là một cõi thực và con
người không ai là không có riêng cho mình một cõi mộng từ trong những
khổ lụy của cái cõi thực kia? Hay phải chăng, đời chỉ là một cõi của lưu
đày và con người chỉ là kẻ mang niềm hoài vọng không nguôi, đi tìm lại
quê hương đã mất của mình? Câu nói lơ lững như chính cái lơ lững của
cuộc đời và của thi ca.
Nhưng chính vì thế mà,
người ta có thể nói rất nhiều về thi ca, nói mãi cũng không cùng mà lại
vẫn như không nói được gì. Cũng như con người, như cuộc đời…Tất cả vừa
như hiển bày ra đó mà lại cũng vừa như một ẩn số muôn đời, kêu gọi và
thách thức mọi tìm kiếm, khám phá. Thì ra, cái cụ thể nhứt-tưởng chừng
như dễ hiểu nhứt-lại cũng là cái bất định nhứt và như khó hiểu nhứt.
Triết lý, nghệ thuật, văn chương, thi ca…vốn không nằm trên một đường
thẳng cho con người dễ dàng định được nẽo tiến đường lui. Và vì thế mà,
những trình bày về thi ca ở đây chỉ là một “ CÂU CHUYỆN VỀ THI CA”, một
câu chuyện góp thêm vào muôn ngàn câu chuyện mà bao người đã nói trong
suốt cả cuộc đời dài. Nó không phải là một công trình nghiên cứu, biên
khảo để nhằm đưa ra một kết quả về mặt lý luận hay về lịch sử và khuynh
hướng của thi ca. Nó chỉ là một trao đổi những kinh nghiệm về một số
khía cạnh của thi ca mà chính thi ca đã tự mở ra trên con đường đi của
nó; những khía cạnh về bản sắc của thi ca và về mối tương quan của nó
với chân lý, triết lý, với cuộc đời, tôn giáo…Sự thiếu sót, do đó là
điều không thể tránh. Ở một hai khía cạnh về mối tương quan, nó lại chỉ
mới nói được một phần rất nhỏ với riêng một lãnh vực. Âu là xin mượn cái
phần nhỏ với riêng một lãnh vực đó mà nói chung cái phần lớn với những
lãnh vực tương tự vậy. Thêm nữa, nếu cuộc đời chỉ là cuộc đời với tôi
trong ý nghĩa mà tôi đã cho nó thì thi ca với tôi, trong ý nghĩa mà tôi
đã cho nó. Cái khách quan của những nhận định ở đây, đo đó cũng là điều
không thể đáp ứng được.
“Khách lại bất vấn nhân gian sự,
Chỉ bạng lan can khán thúy vi”
Ngày xưa, có một người
khách đã đến với cuộc đời không một câu thăm hỏi như thế. Người khách
đến chỉ là để nhìn ngắm mây trời màu trời. Bởi hơn bất cứ ai, người
khách biết rằng , có thăm hỏi, mở lời nói năng thì cũng chẳng biết thăm
hỏi, nói năng sao cho cùng. Thôi thì chỉ còn IM LẶNG. Nhưng ai dám bảo
ẩn sau cái im lặng kia, người khách đã không gởi lại cho đời cả một tấm
lòng?
Nghệ thuật, thi ca rồi cũng
sẽ đi trên con đường về của im lặng. Nhưng trên đường về của im lặng
này, nghệ thuật , thi ca đích thực rồi sẽ còn mãi những âm hưởng vô cùng
của cả một tấm lòng mà hơn một lần, nó đã được đem dâng hiến cho đời.
“CÂU CHUYỆN VỀ THI CA” ở
đây chỉ là câu chuyện về những tấm lòng đó đây mà người trao đổi đã từng
gặp gỡ cũng bằng cả cái tấm lòng của mình. Hay là bởi cái rung động của
tấm lòng kia vốn chân thành thi thiết mà không hay, thì đó do cái vụng
về của người trao đổi vậy.
Los Angeles, cuối xuân Tân Dậu
HUYỀN KHÔNG
I
- ĐẶT VẤN ĐỀ
Trước khi phân tích thi ca,
chúng ta hãy thử minh định lại vấn đề THI CA LÀ GÌ? Trong khuôn khổ của
phần này thì quả thực đây chỉ là thủ tục, nhưng đồng thời cũng là một
thủ tục cần thiết, như thủ tục chiếu khán nhập nội đối với một du khách
trước khi đi vào một xứ lạ vậy.
Thi nhân đi vào đời với cảm
nghĩ… “một con chom đến từ xứ lạ, ngửa cổ hát chơi.” (X.D) Chúng ta cũng
sẽ đi vào thế giới thi ca với đôi mắt tò mò, tra hỏi về những tiếng hát
lạ của những con chim lạ.
Trên căn bản câu hỏi “ Thi
ca là gì” chúng ta sẽ đi vào những câu hỏi chi tiết hơn, cụ thể hơn như
thế này:
-Điều gì giúp chúng ta phân
biệt đối tượng thông thường của cảm quan tri giác với đối tượng của thi
ca, của nghệ thuật?
Điều gì làm cho một câu thơ
khác với một câu văn, một bài thơ và một bức họa, một điêu khắc phẩm?
-Điều gì làm cho một bài
thơ hay khác với bài thơ dở?
-Điều gì làm cho tho Đạo
khác với thơ Đời? Làm cho thơ nhà Phật khác với thơ thông thường?
Đại để đó là những câu hỏi
thủ tục mà chúng ta không thể bỏ qua trước khi nói đến thi ca. Và chúng
ta sẽ dần dần đi vào từng câu hỏi một như đã nêu trên.
II
- ĐỐI TƯỢNG CỦA THI CA. ĐỐI TƯỢNG CỦA CẢM QUAN.
Nhắc đến thi nhân, người ta
vẫn thường lien tưởng đến những kẻ lêu bêu không tưởng, những người chỉ
nói lên những chuyện đâu đâu. Homère nói đến thế giới huyền thoại với
những tác phẩm trường thiên: Illiade và Odyssée.Dante nói đến Thiên Đàng
và Hỏa Ngục với Comédie Divine. Nguyễn Du với văn tế Thập Loại Chúng
Sanh ảo dị. Phái Dada ở Pháp làm thơ bằng cách xổ số ngôn từ: Viết trên
mỗi miếng giấy một chữ, vò lại và bốc ra gặp chữ nào thì ghi chữ ấy kết
lại mà thành “ câu thơ” bất kể ý nghĩa. Bích Khê thích nói về Tinh
Huyết. Huy Cận trước kia muốn đốt cháy cả cuộc đời để có ánh Lửa Thiêng.
Những sự kiện vừa nêu ra đã
tạo cho chúng ta ấn tượng. Cuộc đời của thi sĩ khác hẳn cuộc đời của thế
nhân bình thường và thi sĩ nhìn thấy những đối tượng mà đôi mắt trần tục
của những con người thường như chúng ta không hề nhìn thấy, không thể
nhìn thấy.
Quả thực đó chỉ là một cách
thần tượng hóa nhà thơ, thần tượng hóa thi ca. Trước khi LÀ một thi sĩ,
thì thi nhân ĐÃ LÀ một người. Trước khi ngôn ngữ trở thành tiếng thơ thì
ngôn ngữ ĐÃ LÀ tiếng người.
Thơ không phải là điều từ
trời cao rơi xuống, là một thiên ân phú bẫm hay một quà tặng của “Nàng
Thơ”. Thi nhân không phải là kẻ bị phát vãng xuống trần vì phạm tội trên
thiên cung. Nhà thơ là một người, và đối tượng của thơ, hay ít ra chất
liệu của thơ là cuộc đời. Không sống thì không có thơ, không có cuộc đời
thì cũng không có thơ, dù thơ có thể là một cách bạo hành với đời, một
cách chạy trốn cuộc đời, một cách vượt thoát hiện hữu.
Nói như vậy không có nghĩa
là xác nhận “ nghệ thuật vị nhân sinh” hay phủ nhận “ nghệ thuật vị nghệ
thuật”, nghĩa là làm sống lại cuộc đời cãi vã chẳng đi đến đâu từng kéo
dài bao thế hệ qua; thơ mà chỉ muốn vì đời sống thì tức là đã cực đoan
đẩy thơ đến chổ hò vè , hò bài chòi, hò giả gạo, văn công, thi công”.
Thơ mà chỉ muốn vị nghệ thuật tức là đã tự ly khai khỏi hiện hữu, tự
trừu tượng hóa cuộc đời. Có thơ vì có hiện hữu, nhưng không phải làm thơ
là chỉ vì hiện hữu, chỉ cho hiện hữu thường thái này.
Đối tượng của thơ và đối
tượng của hiện hữu thường thái, từ căn bản thực hữu, chỉ là một. Đối
tượng đó chính là “ muôn sự của chung” là “ kho trời chung” vậy.
Những đối tượng của thi ca
và nói cung của nghệ thuật lại cũng không phải chỉ là đối tượng của tri
giác thông thường. Nếu chỉ có “ kho trời chung” mà không có “ vô tận của
mình riêng”(NCT) thì sẽ không có thơ, không có nghệ thuật.
Sống là ở đời, nghĩa là mặc
nhiên tạo nên những quan hệ giữa tự ngã với người đời. Quan hệ đó có hai
đặc điểm, quan hệ sống mặc nhiên và quan hệ tra hỏi.
Chủ trương nghệ thuật vị
nghệ thuật hay quan niệm “ bài thơ hay nhất là bài thơ không bao giờ
được viết ra” chẳng hạn là những chủ trương và quan niệm đã bỏ quên cái
quan hệ hiện hữu mặc nhiên đó. Thi sĩ chẳng phải là kẻ trời sai xuống,
chẳng phải là kẻ có một sứ mệnh thiêng liêng hoặc ân thiên khải nào. Thi
ca cũng chẳng phải là một món quà ngoại thế, nhưng chính là sản phẩm của
một cách thế ở đời, một cách thế nhìn đời khác thường. Một cách thế nhận
thức về cái “ kho trời chung’ theo quan điểm “ vô tận của mình riêng”.
Thi sĩ chính là người có
cái nhìn vô tận, những ước vọng vô cùng khác thường đó. Khả năng lãnh
hội, khả năng nhận thức vô tận, vô cùng đó đã biến những đối tượng thông
thường của tri giác và cảm giác thông thường thành đối tượng của thi ca,
thành đối tượng của thơ. Thi ca chẳng nói điều gì khác đời, không phải
của đời. Đối tượng của thơ cũng chẳng gì khác hơn là trăng, là gió, là
mây nước, là nhớ thương, là người yêu, người ghét, người buốn,người
giận. Nghĩa là những đối tượng thông thường, những sự việc bình thường
đã tạo ra thành đời sống bình thường.
Tuy nhiên , trăng được đem
vào thơ thì không còn là trăng thường nữa. Và gió, và mây, và người yêu,
ngươi ghét cũng thế. Chẳng vì thi sĩ có chiếc đủa thần hay có một huyển
lực nào đó làm cho đối tượng thông thường trở thành khác thường. Đối
tượng trước sau vẫn là đối tượng đó. Khác chăng chỉ là cái nhìn về đối
tượng ấy mà thôi. Thi ca là một CÁI NHÌN BIỆT THUỘC về những đối tượng,
những tương giao bình thường.
Những tâm trí bất thường,
những người điên, những người bị bệnh thần kinh cũng có thể có những cái
nhìn biệt thuộc như thế. Và như vậy thì phải chăng những hạng người đó
cũng là thi sĩ? Rất có thể. Trang Chu có thể là kẻ đã mộng thấy mình là
bướm. Nhưng ai dám chắc là không phải bướm đã mộng thấy mình là Trang
Chu? Lý Bạch lầm trăng dưới lòng sông là trăng thật nên mới chết đuối,
hay chính vì Lý Bạch đã thấy rõ trăng trên trời và bóng trăng dưới lòng
sông cũng đều là trăng giả, và tất cả mọi sự đều là ảo hóa, giả tạm.
Hiểu như vậy, thì cái chết của Lý Bạch lại chính là một hành động “tự
tử” tuyệt đối phủ nhận cuộc đời chứ chẳng phải Lý Bạch đã chết vì say,
vì nhận lầm.
Giữa say với tỉnh, điên với
không điên, mộng với thực…biên giới quả là mong manh. Thi ca nằm ngay
trên biên giới đó. Những điểm đặc sắc của thi ca, điều làm cho thi ca
không phải là một chuyện điên khùng, ảo hoặc chính là ở chỗ thi ca cần
có sự THÔNG CẢM, THƯỞNG THỨC của kẻ khác. Giá trị của thi ca không phải
chỉ tùy thuộc vào bài thơ, hoặc chỉ tùy thuộc người thưởng thức hay độc
giả nhưng là tùy vào TƯƠNG QUAN GIỮA BÀI THƠ VÀ NGƯỜI ĐỌC THƠ. Thi sĩ có
thể là một con người cô đơn, nhưng thi ca không thể tồn tại trong sự cô
độc, thơ không phải là một cách độc thoại mà là một cách truyền đạt kinh
nghiệm cho tha nhân. Giá trị của thi nhân là một giá trị cần được tha
nhân bảo chứng. Thiên tài có thể là người nhiều kiêu hãnh và tự đắc,.
Không có niềm kiêu hãnh và tự đắc đó thì cũng không có thi ca, không có
nghệ thuật, nhưng kiêu hãnh và tự đắc không phải là điều kiện tất yếu
của thiên tài.
Không thiếu gì những thi sĩ
chán ghét tha nhân, thù hằn với hiện hữu của chính mình; cũng không
thiếu gì những thiên tài chỉ sống với niềm kiêu hảnh của sáng tạo, và đã
tự xem như là Thượng Đế của thế giới kinh nghiệm và cảm xúc của riêng
mình. Nhưng kiêu hãnh, hận đời, yếm thế và tự hào đến bao nhiêu chăng
nữa thì thi nhân vẫn không thoát khỏi lệ định của sự sáng tạo: sự vật
được sáng tạo phải có, nghĩa là phải tồn tại. Và bài thơ, cũng như bất
cứ một sự vật nào khác, cũng chỉ TỒN TẠI CÓ Ý NGHĨA với một ý thức,
nghĩa là với tha nhân, với đọc giả, với người thưởng ngoạn mà thôi. Đây
là điều kiện vinh quang mà cũng là nguyên ủy sa đọa của thi sĩ, nhưng
đây cũng là điều bất khả kháng. Nghệ thuật hay riêng thi ca, không phải
là tất cả những gì đã được sáng tác, trái lại là những sáng tác đã được
thưởng thức và còn được nhớ đến , nhắc nhở đến. Có những thiên tài lịm
chết hay qua đi trong lãng quên là vì vậy.
Thi ca vẫn được xem là một
nỗ lực thoát khỏi cuộc đời bình thường, cái nhìn bình dị. Nhưng giá trị
của thi ca thì vẫn gắn liền với cuộc đời , với thế nhân. Không có sự gắn
bó đó thì giá trị của thơ chỉ còn là một giả định. Không có nổ lực đó
thì thơ cũng sẽ không còn là thơ nữa.
Nếu với nhà thơ “ trăng
gió” chỉ là trăng gió theo nghĩa thông thường được ghi trong tự điển hay
trong các sách khoa học thì trăng gió TRONG thi ca sẽ không phải là
trăng gió CỦA thi ca. Nhưng thi sĩ lại cũng không phải là kẻ có toàn
quyền sáng tạo ra những Ý NGHĨA hoàn toàn mới cho ngôn ngữ thông thường,
hoặc sáng tạo ra những NGÔN NGỮ hoàn toàn mới. Nỗ lực của thi nhân là
khám phá ra những ý nghĩa còn đang bị che dấu, những khía cạnh còn đang
bị khuất mờ của thực tại chứ không phải là sáng tạo một thực tại mới mà
những quan điểm, những bận tâm, những chú ý khác đã không khám phá ra
được. Giá trị của thi nhân tùy thuộc ở nổ lực vượt thoát và cố gắng khám
phá vừa kể.
Thi ca không làm cho đời
vui thêm hay buồn thêm. Thi ca chỉ làm cho đời thêm “ mới lạ”. Và mỗi sự
mới lạ đều chỉ là mới lạ khi được so sánh với các cái cũ, cái đã có và
sẵn có mà thôi.
Khám phá điều mới lạ của
cuộc đời không phải là chạy trốn đời nhưng là đến gần đời hơn, sống
nhiều với đời hơn, để có thể yêu đời hơn. Cũng như yêu một người thì
phải làm cho người yêu không còn là người thường nữa. Thi ca và thi nhân
cũng thế. Thấy sự khác lạ của cuộc đời và làm cho cuộc đời trở nên mới
lạ là căn bản sáng tạo của cuộc đời và làm cho cuộc đời trở nên mới lạ
là căn bản sáng tạo của thi ca và của nghệ thuật nói chung vậy. Theo
nghĩa ấy mà xét thì ai cũng có thể là thi sĩ cả. Tuy nhiên điều khác
biệt ở đây chính là chổ thi nhân đã quyết định và lựa chọn một “KỸ
THUẬT” biệt thuộc để diễn tả kinh nghiệm khác lạ và mới lạ của mình. Kỹ
thuật đó là kỹ thuật thi ca vậy. Mặt khác, thơ cũng chỉ là thơ chứ không
phải như văn hay những hình thái diễn đạt khác không phải là thơ. Nói
cách khác thơ chỉ là thơ khi nào thi nhân MUỐN TÔN TRỌNG KỸ THUẬT của
thơ, và đọc giả cũng muốn nhìn thơ theo nhãn quan kỹ thuật đó.
Tóm lại, đến đây thì chúng
ta có thể xác nhận vài điểm như sau về sự dị đồng giữa thi nhân và
thường nhân, giữa cái nên thơ và cái bình thường: Giống nhau về ĐỐI
TƯỢNG và KINH NGHIỆM, khác nhau về CÁCH NHÌN và LỐI DIỄN ĐẠT
cái nhìn đó, kỹ thuật diễn đạt kinh nghiệm đó.
III - BẢN SẮC CỦA THƠ
Điều gì làm cho một bài thơ
LÀ một bài thơ, một bài thơ KHÁC một bài văn? Thơ là những nghệ thuật,
nhưng thơ KHÁC VỚI NHỮNG NGHỆ THUẬT KHÁC như thế nào?
Trước tiên hãy nói đến thơ
văn. Phải nhận rằng thơ chỉ là thơ khi người làm thơ tự nhận mình là nhà
thơ và mình làm thơ chứ không phải làm văn. Mặt khác, thơ cũng chỉ là
thơ và mình làm thơ chứ không phải làm văn. Mặt khác, thơ cũng chỉ là
thơ khi nào người đọc nhận cái điều mình đang đọc là thơ chứ không phải
gì khác. Bản sắc của thơ do đó mà tùy vào một sự XÁC QUYẾT và đồng thời,
một thừa nhận. Thơ là một quy ước để diễn tả một kinh nghiệm, và đồng
thời để lãnh hội sự diễn tả một kinh nghiệm.
Ngày xưa người ta có rất
nhiều cách xác quyết hay định nghĩa về thơ, nhưng tiêu chuẩn chính của
sự xác quyết ấy thì trước sau vẫn là NIÊM LUẬT. Niêm luật là định chuẩn,
là khuôn thước của thơ, không có niêm luật thì không có thơ.
Nhưng niêm luật để làm gì?
Bằng trắc để làm gì? Đã hẳn người ta có thể trả lời để cho bài thơ được
nhận như là bài thơ. Thế nhưng đó chỉ là một định nghĩa vụ hình thức.
Rất nhiều bài thơ dùng niêm luật nhưng lại không được nhận là một bài
thơ. Và đã là thơ mà không hay thì cũng chẳng cần đến thơ hay kỹ thuật
thơ làm gì nữa!
Niệm luật không phải tiêu
chuẩn thiết yếu để định nghĩa thơ LÀ thơ vì lẽ d6ẽ hiểu là không hề có
một niêm luật đơn nhứt tuyệt đối. Có rất nhiều thể thơ, nghĩa là có rất
nhiều loại niêm luật. Mà đã có nhiều loại niêm luật thì cũng không còn
là niêm luật nữa.
Niêm luật không phải là bản
sắc của thơ, mà chỉ có điều kiện làm cho bản sắc của thơ có thể hiển lộ.
Bản sắc đó chính là NHẠC TÍNH của thơ, nội dung của thơ vậy. Nhạc tính
là một HÌNH THÁI ÂM THANH của thơ, nội dung của thơ vậy. Nhạc tính có
một HÌNH THÁI ÂM THANH của thơ, là nhịp điệu, tiết điệu và âm điệu
của thơ. Không có tiết điệu và âm điệu thì thơ không còn gì là thơ nữa.
Thơ viết ra để mà NGÂM chứ không phải để mà đọc, như một bản nhạc được
viết ra để mà hát, mà trình tấu chứ không phải để mà đọc vậy. Thi nhân
ngày xưa thường đi đôi với “cô đầu”, ca kỷ là vậy.
Tiết điệu, âm thanh, nhạc
tính là bản sắc của thi ca. Niêm luật là một phương thế lm àcho bản sắc
ấy được hiển lộ. Cũng như những kỷ thuật tập luyện thể dục đã tạo điều
kiện cho bản sắc một lực sĩ đẹp được hiển lộ vậy. Do đó, làm thơ mà cứ
bo bo bám lấy niêm luật, để cho niêm luật ám ảnh thì cũng chẳng khác gì
một người vừa cúi nhắc cặp tạ vài cái đã ngỡ mình là lực sĩ đẹp vậy. Thơ
bảo đảm cho sự hiệu dụng của niêm luật, chứ không phải niêm luật bảo đảm
cho sự thành công của thơ. Bảo đảm cho sự thành công của thơ chính là âm
thanh, tiết điệu và nhạc tính của thơ vậy. Bảo đảm ở chỗ đó là những CHỈ
SỐ, những dấu hiệu cho thấy được sự thành công của nhà thơ, của bài thơ.
Thành công cái gì? Điều gì?
Vì quên mất hiện hữu uyên
nguyên, kinh nghiệm uyên nguyên về cuộc đời cho nên nhiều lúc người ta
cũng đã quên luôn bản chất của thơ là một kinh nghiệm, và cụ thể là một
cách diễn tả kinh nghiệm về cuộc đời. Thơ là một cách hiểu, một cách
sống với đối tượng, sống với hoàn cảnh. Có nhiều cách thế hiểu biết,
hiểu biết thường nghiệm, hiểu biết thực nghiệm, hiểu biết siêu nghiệm.
Hiểu biết gần với bản năng, hiểu biết thực nghiệm liên hệ với trí huệ,
hiểu biết siêu nghiệm gần với linh giác, trực giác. Hiểu biết thường
nghiệm chỉ là một cách né tránh hay sở hữu đối tượng, nghĩa là một cách
kinh nghiệm trong đó CHỦ THỂ chiếm ưu thế. Hiểu biết thực nghiệm như
khoa học là một kinh nghiệm trong đó ĐỐI TƯỢNG chiếm ưu thế. Hiểu biết
siêu nghiệm thì chẳng còn ưu thế của ĐỐI TƯỢNG mà cũng chẳng còn ưu thế
của CHỦ THỂ. Bergson gọi đó là trực quan. Trực quan hay linh giác là một
hiểu biết trong đó chủ thể và đối tượng đã không còn một biên giới
ngăn cách cụ thể nào. Connaitre la co-naitre ( hiểu là cùng sanh thành).
Hiểu biết đích thực không
phải là biết mình, biết người,nhưng là hiểu được “ mình với ta tuy
hai mà một” vậy. Nói cách khác, hiểu biết đích thực là một sư HÒA ĐỒNG,
hòa hợp vươn khói bản năng và trí tuệ vậy. Mình với ta tuy hai mà một,
có nghĩa là không còn mình, cũng không còn ta nữa. Trong trình độ hiểu
biết này, chủ thể đã tự xóa mình là chủ thể, để xóa luôn những ngăn cách
trí huệ, bản năng, thành kiến, lý luận giữa chủ thể và đối tượng.
Không xóa được những ngăn
cách đó thì cô thôn nữ sẽ không thế nào “ múc ánh trăng vàng”, thì Huy
Cận sẽ không thể nào mời gọi:
“Chiều ơi hãy đến thăm ta với
Thiên hạ đìu hiu đời trống không”
Người ta vẫn thường gọi
những cách hiểu nên thơ ấy là “nhân cách hóa”, là tỉ dụ, hoán dụ…Thực ra
, đó là một sự hòa đồng, hòa hợp. Không có được sự hòa đồng, hòa hợp đó,
không có được tình trạng đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu đó thì
thơ khó mà còn là thơ nữa.
Âm thanh, tiết điệu, nhạc
tính, niêm luật…chính là những điều phát xuất từ kinh nghiệm hòa đồng
hòa hợp ấy, và mặt khác là những phương tiện mở đường cho người đọc thơ
sống với, và sống lại kinh nghiệm hòa đồng hòa hợp đó của thi nhân.
Làm thơ không chỉ là thấy
sông LÀ sông, núi LÀ núi, nhưng là thấy được sông núi HỮU TÌNH, nghĩa là
sông núi có một mối giao hòa với con người , với thi nhân. Thể
nghiệm được mối giao hòa đó là SỐNG THƠ, diễn đạt được mối giao hòa la
LÀM THƠ, truyền đạt được kinh nghiệm giao hòa đó cho kẻ khác tức thành
công của thơ. Âm thanh, tiết điệu, nhạc tính giữ một vai trò tối quan
trọng trong sự thành công đó.
Nếu văn, họa, điêu khắc cột
chặt người thưởng ngoạn vào tác phẩm, thì trái lại, thơ và nhạc lại đưa
người ta vào một thế giới không còn nghệ phẩm, không còn nghệ sĩ, không
còn chủ thể thưởng ngoạn nữa. Bản sắc của thơ do đó cũng là siêu thực.
Siêu thực không phải không tưởng nhưng là sống với thực tạu bằng một ý
thức cao hơn ý thức duy sinh, duy dụng, duy lý. Ý thức cao hơn là thấy
được sự vật NHƯ LÀ sự vật, không theo một thành kiến, một nhãn quan thực
tiễn nào, hoặc chỉ theo thành kiến hay nhãn quan của “ con tim” nghĩa là
của cảm xúc, của rung động mà thôi.
Siêu thực không phải là phủ
nhận sự vật nhưng chính là thấy được sự vật như là sự vật vậy. Có thể
nói chính hiện hữu thường nhật, chính sự tính toán, suy luận, phân tích,
đo lường thực nghiệm, thực dụng mới là những cách phủ nhận sự vật. Với
cuộc sống thường nhựt, cái bàn chỉ ĐỂ MÀ viết, ghế ĐỂ MÀ ngồi, với cái
nhìn thực nghiệm thì không bao giờ có cái hoa ĐẸP, vì theo quan điểm
thực vật học chẳng hạn, hoa chỉ là một cơ quan sinh dục.
Muốn thấy được sự vật như
là sự vật thì phải ly khai với cái nhìn thường nghiệm, thực nghiệm nghĩa
là với thành kiến này hay thành kiến khác. Thơ là một nổ lực ly khai ấy.
Một sự ly khai gần như là phú bẩm, tự nhiên. Chính khả năng diêu thực
hóa thực tại, khả năng ly khai ấy đã giúp cho thi nhân biến “ kho trời
chung” thành “ vô tận của mình riêng”vậy.
Càng sống, càng lớn, càng
già, con người càng xa nguồn sống, càng xa thế giới uyên nguyên, hiện
hữu nguyên. Thế giới đó đã bị “ tiến bộ” vượt bỏ, lý trí phủ nhận, nhưng
thế giới đó vẫn tồn tại trong ký ức của mỗi người, mỗi dân tộc; thế giới
huyền thoại, nguyên thủy, trong đó người, cỏ cây và muôn thú đều hữu
tình, hữu ngôn. Thi ca chính là một cách phục hồi khả năng tái hoạt thế
giới ấy, một cách gọt giũa lại cái cảm xúc, rung động, đã chai lỳ, cùn
nhựt của kiếp người chỉ còn biết những gì là hữu ích, hữu dụng, hữu lý
mà thôi.
Vì muốn phục hồi và có khả
năng phục hồi thế giới đích thực và uyên nguyên ấy, phục hồi tính cách
tự tại của sự vật, tính cách thường hằng của đối tượng nên thi ca đã trở
thành siêu thực, thi ca phải ly khai. Ly khai với thành kiến, với chấp
kiến, vốn là những hàng rào ngăn cách con người với thực tại đích thực,
không cho con người thấy được bản chất đích thực của thực tại. Thành bại
hay giá trị của thi ca tuy thuộc ở khả năng siêu thực, khả năng ly khai,
và đồng thời là khả năng giao hòa như vừa nói vậy.
Nói đến thành bại, giá trị
đó của thơ là điều rất khó.
Bài thơ hay đã hẳn không
phải là bài thơ chưa hề được viết ra.
Nhưng bài thơ hay cũng chưa
hẳn là bài thơ từng được số đông nhận là hay hay bài thơ đã được trúng
giải này nọ. Đó cũng chẳng qua chỉ là những lệ định. Hội đủ tất cả những
điều kiện cụ thể của một bài thơ hay chưa hẳn đã là có được một bài thơ
hay. Thơ là một kinh nghiệm sống thực chứ không phải là một sự kiện, sự
vật. Vấn đề tiên quyết đặt ra là kinh nghiệm sống thực đó có giúp thi
nhân, và kẻ thưởng ngoạn về sau đạt đến cùng đích của hiện hữu là giao
hòa với vũ trụ, với cuộc đời, với môi trường sống hay không. Nói đến giá
trị của thơ do đó là nói đến một giá trị TƯƠNG ĐỐI, không phải tương đối
theo nghĩa TƯƠNG QUAN hoàn cảnh sống thực của nhà thơ khi sáng tạo cũng
như của người thưởng ngoạn khi đọc, khi ngâm hay được nghe ngâm bài thơ
đó vậy.
Càng sống thực thì thơ càng
hay, và thơ càng hay thì càng cho người đọc nhiều cơ hội sống thực; Sống
thực không phải là sống với cái cụ thể, mà đồng thời cũng là cái phù ảo.
Sống thực chính là sống với cái thường hằng, siêu thực, vĩnh cữu. Sống
thực là hòa tình người với tình núi sông, cây cỏ, là hòa tiểu ngã với
đại ngã, là hòa hợp hồn cá nhân với hồn vũ trụ.
Sự hòa hợp đó cũng chính là
sự hòa hợp có tính cách tín ngưỡng vậy.
IV- THI CA VÀ CHÂN LÝ, CHÂN LÝ CỦA THI CA.
Thi ca là một lối sống, và
là một lối nhận thức, một lối dùng ngôn từ tiết điệu để diễn tả một
kinhnghiệm. Mục tiêu của sự sống , của nhận thức và nền tảng giá trị của
sự diễn tả kinh nghiệm đó là chân lý.
Thi ca có thể đạt đến chân
lý không? Chân lý của thi ca có những đặc điểm nào?
Từ Platon và Aristote, thi
ca đã được xem không phải như một hành động sáng tạo mà chỉ là một hành
động mô phỏng, bắt chước. Thi ca là của cảm giác, của tưởng tượng, hữu
hạn và sai lầm. Chỉ có lý trí, trí huệ mới là dụng cụ đích xác giúp con
người đạt đến chân lý. Đạt đến chân lý là đạt đến ý niệm, đạt đến yếu
tính trừu tượng và phổ biến của sự vật. Trong khi đó cảm giác và
tưởng tượng lại chỉ đạt đến hình sắc cụ thể. Thi ca không phải được xem
như một sư say sưa uỷ mị mà còn là một con đường lầm lạc.
Sự độc quyền lý trí thời
trung cổ đã được yểm trợ bằng sự độc tài của đức tin. Trung cổ Tây
phương là thời đại khó khăn khắc kỷ. Thi ca chỉ được phục hồi khi con
người Tây phương chán ngán kinh hoàng với nền độc tài của đức tin và lý
trí. Sự chán ngán đó là một trong những nguyên ủy của thời phục hưng,
thời lãng mạn và siêu thực.
Thi ca Tây Phương chỉ sống
động khi con người đã chán ngán với những công thức sống, những mệnh
lệnh nhận thức, những áp đặt của thần học. Sinh khì Thi Ca Tây phương
chỉ được phục hoạt khi con người muốn từ bỏ mọi rào cản của lý trí, của
tín lý, của đạo đức đã điều hướng cuộc sống và kinh nghiệm của mình để
tự mình trở về với chính mình, tự mình tìm đến với nhân giới và nhiên
giới, khi con người không còn muốn chỉ sống với lý trí, trí huệ mà còn
muốn sống bằng tình cảm, bằng tưởng tượng, bằng cảm xúc. Thi ca là một
làn hơi ấm thổi vào thế giới lạnh lung giá buốt của lý trí, một làn gió
mát thổi vào thế giới nóng bức của mặc cảm tội lỗi và lòng kinh sợ hỏa
ngục.
Bằng con đường tình cảm,
cảm xúc và tưởng tượng, thi ca quả cũng đã đạt đến một chân lý nào
đó.Một chân lý nồng nàn,sinh động và hữu hạn, hữu tình. Chân lý thi ca
chấn động con tim và khiêu khích khối óc, đề cao tưởng tượng và xem
thường lý trí, lựa chọn cái độc sáng đặc thừ và vứt bỏ cái phổ biến trừu
tượng. Thi ca nói lên một kinh nghiệm đơn nhứt, biệt thuộc, ngay bây giờ
và lúc này. Kinh nghiệm đó giúp con người trực tiếp với đối vật, sanh
thành với đối vật.
Thi ca lãnh hội được những
điều mà lý trí và đức tin không muốn thấy, không thể thấy. Nhà khoa học
không thấy NƯỚC mà chỉ thấy OH2. Thi nhân lại chỉ thấy nước của một bến
đò tiễn biệt, của một dòng sông hẹn hò, của một mặt hồ quạnh vắng, của
một cái giếng hun hút rợn người. Đó không phải là hai chân lý ( của khoa
học và của thi ca) nhưng là hai cách nhìn về một chân lý-một thực tại.
Cái nhìn thực nghiệm và cái nhìn nên thơ. Lý trí lãnh hội đối vật như
người ta hiểu một người qua bức hình chụp bằng quang tuyến X của người
đó. Thi ca lãnh hội một người như một người thực, sống động, đơn nhứt, “
không giống ai” và không ai có thể thay thế. Lý trí làm cho tất cả giống
nhau ( như những con số trên sổ thông hành). Tình cảm và cảm xúc làm cho
tất cả đều khác nhau.
Có người bảo thi ca là hão
huyền, là “ tưởng tượng” theo nghĩa không nói có, có nió không. Thực tế
thì thi ca đã nhìn thấy những điều mà nhận thức thường nhật và nhận thức
khoa học không thấy được mà thôi. Nói cách khác, thi ca không chỉ nhìn
thấy những gì khả dụng, khả lượng, khả tri. Khả dụng là đối tượng của
cái nhìn thường nhựt, khả lượng là đối tượng của cái nhìn khoa học,khả
tri là đối tượng của cái nhìn triết lý. Thi ca có thể nhìn thấy cái hữu
dụng của điều vô dụng và cái vô dụng của điều hữu dụng. Thi ca có thể
nhìn thấy cái khả tri như vô tri, cái vô tri như khả tri.
Người ta thường nhân danh
thực tại, nhân danh lý trí, nhân danh thực nghiệm để phán đoán về chân
lý của thi ca. Nhưng nhìn bằng mắt chưa phải là thấy được sự thật, và
diễn đạt một điều hợp lý chưa hẳn là hợp với thị giác. Như cây gậy cắm
vào nước thì GẢY, như hai đường tàu song song. Mắt nhìn cây gậy gảy
trong nước, nhưng lý trí lại thấy chắc là không gảy. Mắt nhìn hai đường
rầy chụm lại theo đúng phép phối hình viễn cận, nhưng thực tế, thì hai
đường tàu không hề chụm lại, và nếu vẽ lên hai đường tàu không hề chụm
lại thì mắt nhìn thấy không đúng…Một ngày bằng 12 giờ là một chân lý,
nhưng “nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại” lại cũng là một chân lý.
Điều nào đúng? điều nào sai? Thực tế thì cả hai đều đúng. Tuy nhiên , có
lúc nhân danh chân lý, người ta đã phủ nhận thi ca. Thái độ đó đã hàm ẩn
nhiều hệ luận.
-Chân lý chỉ có một, và
nhứt là chỉ có một cách đạt đến chân lý đó. Thi ca không phải là cách
ấy.
-Chân lý là điều bó buộc ta
phải hiểu dù ta không muốn hiểu, ta phải nhận dù ta không muốn nhận.
-Chân lý là điều có thể
diễn tả đầy đủ trọn vẹn và thi ca bất lực trong khả năng diễn tả ấy
thôi.
-Chân lý là chân lý của
nhiều người phải được nhiều người công nhận.
Thi ca đã phủ nhận hoàn
toàn quyết đáp độc tôn độc tài về chân lý ấy, và đồng thời xác quyết khả
năng thành đạt và diễn đạt chân lý của mình:
“Bút mực tôi
ai cướp giật đi,
Tôi sẽ cầm
dao viết văn lên đá…”
( Phùng Quán)
Hiện tượng luận đã chứng
minh “ chơn lý chỉ có một”, chỉ một giả định, một cuồng vọng. Con người
chỉ đạt đến những chơn lý tùy quan điểm, tùy hoàn cảnh sống mà thôi. Hột
‘ nhứt lục” là một nhưng không bao giờ người ta có thể thấy MỘT LƯỢT
cả sáu mặt của hột nhứt lục. Điều quan trọng không phải là những chơn lý
khách quan, con người chẳng mấy ai chịu hy sinh cho những chơn lý khách
quan như thế. Galilée “ thấy rõ” quả đất quqay chung quanh mặt trời,
nhưng ông đã không dại gì mà chết cho sự thấy rõ ấy. Điều đáng cho người
ta sống chết là những lý chủ quan, những chơn lý đến với người qua ngõ
con tim, qua lời cảm xúc, qua đường tình cảm. Người ta chỉ sống chết với
những điều thông thường hay tầm thường đã được nhận như là “độc nhứt vô
nhị” không thể thau thế: tự tử vì tình! Chơn lý của thi ca chính là chơn
lý sống thực và có tác dụng làm cho con người sống chết đó.
Khoa học, triết học, thần
học đã không còn đủ khả năng giúp con người lãnh hội chơn lý. Phương
thức diễn đạt và lãnh hội chân lý hữu hiệu nhứt là thi ca. Đó là kết
luận của Heidegger về thơ của Holderlin.
Điều đó, Đông phương đã
quyết đáp từ mấy ngàn năm trước.
V-
THƠ VÀ ĐẠO.THƠ VÀ CHƠN LÝ. THEO QUAN ĐIỂM ĐÔNG PHƯƠNG.
Người ta không thể đặt ra
tương quan giữa thơ với Đạo, nếu không xác định được Đạo là gì?
Thơ là một kinh nghiệm nhận
thức nặng phần cảm xúc, đầy hình sắc và âm thanh. Thơ vạch cho ta thấy
một khía cạnh “KHÁC” của thực tại nếu không muốn nói là một khía cạnh
sống động, đích thực của thực tại mà những lề lối nhận thức khác đã
không vạch ra được hay không muốn vạch ra. Thơ đã giúp chúng ta thưởng
thức được cái “ĐẸP” của thực tại, giống như vị tinh (bột ngọt) giúp cho
chúng ta thưởng thức được vị ngon của thức ăn vậy.
Trí thức, khoa học chỉ có
thấy cái khía cạnh LƯỢNG CHẤT của thực tại. Triết lý chỉ cho
ta thấy khía cạnh siêu cảm, trừu tượng, lý luận chỉ cho ta thấy khía
cạnh hữu lý hay vô lý. Chỉ có nghệ thuật, và riêng thơ, mới cho ta thấy
được cả cái hữu lý của cái vô lý, cái vô lý của cái hữu lý. Nhãn quan
bình thường cũng không phải là nhãn quan của thơ. Đó là một nhãn quan
thực tiển, chỉ đủ cho ta phân biệt cái hữu dụng với cái vô dụng, cái lợi
và cái bất lợi. Dưới nhãn quan đó, mọi sự đều trở thành thông thường, mà
đã là thông thường thì không còn gì là kỳ diệu, hấp dẫn, mới lạ thì cũng
không còn là thơ nữa. Thơ là một thứ “ CON MẮT THỨ BA”, một lối nhìn
“MỚI” ( so với lối nhìn bình thường),một lối nhìn khác (so với cái lối
nhìn chuyên biệt của luân lý, của khoa học, của triết học). Cái nhìn
mới, khác đó có lien hệ gì với ĐẠO? với TÌN NGƯỠNG?
Muốn trả lời câu hỏi này
thì trước tiên phải trả lời câu hỏi ĐẠO là gì?TÍN NGƯỠNG là gì?
Câu trả lời đúng nhứt đã
hẳn là yên lặng vì, như Lão tử nói: “Đạo khả đạo phi thường đạo”. Thế
nhưng chính lão tử lại cũng phải dùng cả một quyển Đạo Đức kinh để minh
giải lý do tại sao lại bất khả đạo về phi thường đạo. Ngôn từ là một sự
bất lực , nhưng là một sự bất lực cần thiết, chính với ý thức đó và
trong giới hạn đó mà ta có thể đtạ Đạo về Đạo vậy.
Đạo là con đường theo nghĩa
Trung Hoa, đạo là sự ràng buộc ( religare) theo nghĩa Tây phương. Con
đường dẫn đến đâu? Và ràng buộc với cái gì? Làm thế nào để đi đến đích?
Và đi bằng cách nào?
Có rất nhiều cách trả lời.
Đạo là đi về cõi khác, lên Niết-bàn xuống địa ngục, lên Thiên Đường. Trở
về với Phật tánh chơn như, trở về với Thượng Đế, trở về với Đại Ngã, trở
về với chơn giá trị của tự ngã…Bằng đức tin, bằng lý trí, bằng trí tuệ,
bằng cách xóa bỏ tự ngã, bằng cách “ Minh Minh đức” , hay sáng giá của
tự ngã. Tóm lại ta có thể có hàng trăm cách trả lời khác nhau, và
bao giờ nhơn loại còn tồn tại thì có lẽ sẽ còn hàng trăm cách trả lời
khác nhau, và bao giờ nhơn loại còn tồn tại thì có lẽ sẽ còn hàng trăm ,
ngàn cách trả lời khác nữa. Quả vậy, nếu Đạo là một vấn đề được
giải quyết thì nhân loại sẽ không còn tồn tại nữa, vì câu hỏi tối hậu đã
được giải đáp, như một bài toán sẽ không còn là bài toán nữa khi ta tìm
ra đáp số, như cuộc tình đã tự hủy vì mất “ VUI” mất “ĐẸP” khi “ĐÃ VẸN
CÂU THỀ”,khi “KHÔNG CÒN DANG DỞ” ( Hồ Dzếnh).
Còn hiện hữu, do đó,là còn
Đạo, còn những câu hỏi và những cố gắng giải đáp về Đạo. Những giải đáp
nêu trên, và nói chung những quan điểm bội tạp của con người về Đạo, tuy
có xung đối, khác biệt nhưng có lẽ gặp nhau ở một điểm sau đây: HIỆN HỮU
CÁ NHÂN VÀ CUỘC ĐỜI NÀY KHÔNG PHẢI LÀ MỘT SỰ TOÀN THIỆN, TỰ TẠI.Hiện hữu
do đó là đi, đi về, đi mãi cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt.
Ý thức về lộ trình tối hậu
đó là Ý THỨC ĐẠO ĐỨC, ý chí dấn thân vào lộ trình tối hậu đó là Ý CHÍ
ĐẠO ĐỨC.
Sống Đạo và sống với Đạo là
trở về. Đông Phương cũng đã có rất nhiều quan niệm trở về. Vệ Đà và Do
Thái Giáo thì trở về có nghĩa là về với thần linh. Nhưng tổng quát mà
xét thì Đông Phương đã rất sớm thoát khỏi quan niệm hữu thần đó.
Upanishad, Vedanta và Jaina của Ấn Giáo, Phật Giáo và Nho Giáo cũng như
Lão Giáo đều là những khuynh hướng muốn thoát khỏi con đường tín ngưỡng
hữu thần sơ thủy của ý thức về Đạo. Vấn đề Thần Linh đã không bị phủ
nhận, nhưng cũng không còn cấp thiết, sắc bén như trong khuynh hướng hữu
thần. Trở về ở đây là trở về với Đại Ngã (Ấn Giáo) , với Chân Như ( Phật
Giáo) , với Thiên Địa ( Nho Giáo), với Phi Thường Đạo ( Lão Giáo). Nhìn
chung thì những khuynh hướng này đều có mấy đặc điểm sau đây:
-Với ĐỐI TƯỢNG TÍN NGƯỠNG
thì chú trọng đến khía cạnh vô ngã hơn là hữu ngã, chú trọng đến tha
nhân hơn là bản ngã.
-Với CHỦ THỂ TÍN NGƯỠNG
thì chú trọng đến tự lực hơn tha lực. Nói cách khác, bản sắc của Đạo Đức
Đông Phương là ĐƯA VÀO TỰ LỰC ĐỂ ĐẠT ĐẾN , ĐỂ TRỞ VỀ VỚI MỘT ĐỐI TƯỢNG
VÔ NGÃ. Mà tự lực để đạt đến một đối tượng vô ngã tức là tự lực xóa bỏ
hay giảm thiểu bản ngã vậy. Đạo học Đông Phương có tính cách vừa VỊ THA
( với thế giới bên ngoài) vừa có tính cánh KHẮC KỶ ( với chính tự thân)
là vì vậy.
Và đó cũng chính là ý
nghĩa của ĐẠO HÒA của Đông Phương. Ý thức Đạo là Ý thức Hòa, ý chí Đạo
lấy chí Hòa. Hòa là đạt đến, là trở về, là thông hợp với một đối tượng
khác không phải để làm cho bản ngã thêm phong phú, lớn lao hơn nhưng là
để giảm thiểu phạm vi của bản ngã, giảm thiểu tầm mức của ý thức tự ngã.
Nhưng thông thường thì tìm
đâu cho ra cái ĐỐI TƯỢNG đó? Tìm đâu cho ra những điều kiện HÒA đó?
Đương nhiên là trong nhân giới hay nhiên giới vậy.
Nhưng thông thường thì tìm
đâu cho ra cái ĐỐI TƯỢNG đó? Tìm đâu cho ra những điều kiện HÒA đó?
Đương nhiên là trong nhân giới hay nhiên giới vậy.
Muốn HÒA thì trước tiên
phải đừng đặt nặng bản ngã. Ý thức tự ngã vốn là một ý thức phòng vệ,
tham lam, muốn tất cả là của mình, muốn vo tất cả vào cho mình. Ý thức
tự ngã như vậy là một ý thức làm cho tự ngã ngăn cách và xa cách với đối
tượng của hòa, là làm trở ngại cho sự hòa hợp. Xóa bỏ ngăn cách và trở
ngại đó là một hành động đạo đức. Nhưng với Đông Phương thì không chỉ
đạo đức mới làm được công việc ấy. Đó là một trong những ý nghĩa của qun
niệm “ văn dỉ tải đạo” vậy.
Lâm-Ngữ-Đường đã cho rằng,
với người Trung Hoa, thơ đã thế vai trò của Đạo. Câu nói đó có thể làm
cho người ta hiểu lầm là người Trung Hoa không có đạo, như người ta đã
có thể hiểu lầm với quan niệm của Phùng-Hữu-Lan. Người ta có thể hiểu
rằng Nho,Lão cũng như Phật Giáo chủ trương “ vô đạo” khi người ta quan
niệm đạo là trở về với Thần LInh, với Thượng Đế. Hay nói cách khác, khi
người ta dựa vào một đối tượng của Đạo để định nghĩa hành động Đạo. Vô
đạo ở đây là đồng nghĩa với vô thần. Tuy nhiên, nếu hiểu đạo là một ý
hướng hòa tuyệt đối, nghĩa là giảm thiểu tối đa bản ngã thì Phật,
Nho, Lão đều là Đạo, đều là hữu Đạo. Thơ văn Trung Hoa chính là một cách
sống Đạo của người Trung Hoa vậy. Bằng chứng là một trong những “ Thánh
Kinh” của Nho Giáo là Kinh Thi cũng như “ Thánh Kinh” của Lão Giáo là
tập thơ trường thiên “Đạo Đức Kinh” vậy . Phật Giáo là một biệt lệ. Kinh
điển Phật Giáo không có thơ, thế nhưng một trong những cách sống Đạo và
Hoằng Đạo cụ thể sống động nhứt của Phật Giáo lại cũng là thơ. Văn
chương Thiền của Trung Hoa, Nhựt Bổn, Cao Ly, Việt Nam chẳng hạn là
những bằng chứng.
Thơ là một cách sống Đạo,
hay là một phương thế giúp người đông phương sống Đạo, hành Đạo và hoằng
Đạo vì thơ là phương tiện giúp cho con người HÒA dễ dàng nhứt với đối
tượng.
Lý trí, trí tuệ chỉ tạo sư
ngăn cách và xa cách. Chỉ có tình cảm, chỉ có cảm xúc, trực giác mới đem
lại sự gần gủi, thân thiết, mới tạo sự cảm thông, mở đường cho sự “
chung sống” nghĩa là mở đường cho một sự hiểu biết đích thực, hòa hợp
đích thực với đối tượng. Đó là công việc của thơ vậy.Không HÒA, không
CẢM là không có thơ, không SỐNG THỰC với đối tượng là không có thơ.
Chúng ta hãy đi vào vài
nhận định cụ thể hơn, để thấy rõ tương quan giữa Đạo và Thơ, và mặt
khác, thấy rõ điểm dị đồng giữa quan niệm về tác dụng của thơ ở Đông
Phương cũng như ở Tây Phương.
VI- TỪ HOMÈRE ĐẾN HOLDERLIN HAY CON ĐƯỜNG THI CA TÂY PHƯƠNG.
Tổng quát mà xét, Thơ và
Đạo của Đông Phương gắn bó với nhau bao nhiêu thì trong diễn trình phát
triển ở Tây Phương, Thơ và Đạo lại càng xa nhau nếu không muốn nió là
chống nhay bấy nhiêu.
Nói như vậy không có nghĩa
là từ khởi nguyên tư tưởng, Tây Phương đã không biết đến thơ. Trái lại
nữa là khác.
Đúng vậy, theo quan điểm
tín lý độc tôn, người ta vẫn nói Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo là một sản
phẩm mặc khải, nghĩa là do Thượng Đế “đóc” cho MỘT lúc nào đó. Những lời
lẽ của Thánh Kinh do đó chỉ có một nghĩa, phải đọc hiểu theo một nghĩa
duy nhứt, như ngôn ngữ toán học hay khoa học mà thôi: nói cách khác,
phải được hiểu theo quan điểm luận lý đồng nhất rằng A là A chứ A không
thể là “không A” hay là B được.
Trước ngôn ngữ của Thánh
Kinh, con người hoặc chỉ nhận hoặc không nhận chứ không thể nhận một
cách khác hay theo quan điểm riêng tư của mình. Cơ quan hay tổ chức có
nhiệm vụ xác định ý nghĩa của Thánh Kinh như thế là Giáo Hội. Giáo Hội
là cơ quan độc quyền làm tự điển tôn giáo. Ngoài những định nghĩa của
Giáo Hội, ngôn từ của Thánh Kinh sẽ không có một giá trị hay tác dụng
khác được. Ai không chấp nhận ý nghĩa đó, ai muốn định nghĩa một cách
khác thì sẽ không phải tín đồ và hơn nữa là phản đồ, phản Thượng Đế.
Trường hợp Luther, Calvin là bằng chứng cụ thể. Luther và Calvin là
những kẻ không hề nuôi tham vọng thành lập một tôn giáo mới, trái lại
chỉ là những kẻ muốn ĐỊNH NGHĨA và GIẢI THÍCH KHÁC HƠN Thánh Kinh mà
thôi. Họ là những kẻ không hề làm “cách mạng” để triệt hạ tôn giáo của
mình, trái lại họ chỉ nuôi ước vọng cải tạo (reforme) Thiên Chúa Giáo
bằng cách phủ nhận sự độc quyền giải thích Thánh Kinh của Giáo Hội. Cũng
vì vậy, đạo Tin Lành mới gọi là Đạo cải cách (Le Reformisme) hay cải
lương Giáo Hội. Nhưng khốn nổi, quyền lực của Giáo Hội lại hoàn toàn dựa
trên sự độc quyền kiến giải Thánh Kinh. Cũng vì vậy, muốn phủ nhận độc
quyền kiến giải Thánh Kinh của Giáo Hội lại hoàn toàn dựa trên sự độc
quyền kiến giải Thánh kinh của Giáo Hội để nhằm cải cách tôn giáo thì
đồng thời Luther và Calvin cũng đã trở thành những nhà cách mạng cố ý
hay vô tình lật đổ quyền lực của Giáo Hội vậy. Điều này giải thích lý do
tại sao trước đây Giáo Hội La Mã đã khắc khe với tín đồ Tin Lành còn hơn
cả với những kẻ ngoại đạo nghĩa là xem họ HOÀN TOÀN chưa biết hoặc hoàn
toàn không muốn biết đến Thiên Chúa Giáo.
Nhưng chủ trương hiểu Thánh
Kinh một chiều như vậy hình như đã không phải là tinh thần nguyên thủy
của Thiên Chúa Giáo. Nói cách khác, ngôn ngữ nguyên ủy của Thánh Kinh
không phải là ngôn ngữ toán học hay khoa học.
Thật vậy,nếu chủ trương “
nói thế nào thì phải hiểu thế ấy” thì người ta sẽ không thể nào hiểu
được những điều đã nói trong Cựu Ước Kinh, nhứt là trong sách Sáng Thế
Ký. Dần dần người ta buộc lòng phải hiểu những điều nói trong Thánh Kinh
như là những ký hiệu,những biểu tượng, những cách ví dụ mà thôi, và đã
là biểu tượng thì mọi người có thể hiểu mỗi cách tùy trình độ, tùy tâm
trạng, tùy hoàn cảnh và thời gian của mình.
Khổng giáo hay Nho giáo đã
rất sớm tránh được tình trạng mâu thuẫn giữa lý trí và đức tin, giữa lý
trí và tình cảm như Thiên Chúa Giáo bằng cách hướng mục địch tín ngưỡng
về chính chủ nhân tín ngưỡng chứ không phải đối tượng tín ngưỡng.
Chủ trương thờ phượng
Thượng Đế của Nhứt Thần Giáo thì cũng chẳng khác gì chủ trương thờ
phượng tổ tiên của Nho giáo vậy. Nếu chỉ chú trọng đến đối tượng thờ
kính mà thôi và cho đó như là yếu tính của hành động tín ngưỡng thì đến
một lúc nào đó chủ thể tín ngưỡng sẽ vấp phải NHỮNG CÂU HỎI không thể
nào bỏ mà cũng không thể nào nhận được như là hiển nhiên, minh bạch, hợp
lý. Những câu hỏi đó là:
-Thượng Đế có thực hữu hay
không ‘(với Nhứt thần giáo) hay tổ tiên chết rồi có tồn tại nữa (để có
thể hưởng dùng những phẩm lễ con cháu dâng cúng)hay không (với Nho
giáo)?
-Thượng Đế là gì, là ai?
Linh hồn tổ tiên ở đâu, như thế nào?
Nhứt thần giáo đã giải
quyết vấn đề đó bằng chủ trương tín đồ phải chấp nhận tuyệt đối lối giải
thích hay trả lời chính thức của Giáo Hội, không được băn khoăn, thắc
mắc riêng tư. Nho giáo thì trái lại, đã giải quyết vấn đề theo một chiều
hướng ôn hòa hơn bằng cách thừa nhận con người có hai cách hiểu biết
khác nhau. Biết bằng lý và biết bằng tình. Trường hợp đối với tổ tiên và
linh hồn của người tháo yên sau khi chết thì Nho giáo cho rằng nếu đứng
về LỲ mà xét thì không thể quả quyết có linh hồn cha mẹ, tổ tiên đã
khuất được. Nói cách khác, quả quyết tổ tiên cha mẹ vẫn “ còn sống” sau
khi đã chết là một quả quyết VÔ LÝ và BẤT TRÍ. Tuy nhiên, nếu chỉ vì như
cầu của lý trí mà cho rằng chết là hết, con cháu với ông bà sẽ không còn
một liên hệ nào sau khi chết thì đó là một quả quyết VÔ TÌNH, BẤT NHÂN,
tàn nhẫn với chính mình.Con người không thể vô lý, mà cũng không thể vô
tình và nếu theo quan điểm độc tôn mà xét thì cũng như vấn đề Thượng Đế
thực hữu của Nhứt Thần giáo, trong trường hợp này con người hẳn phải lựa
chọn một trong hai đường: hoặc theo lý bỏ tình, hoặc theo tình bỏ lý.
Nho giáo quả thực đã không
muốn dẫn con người đến chỗ cực đoan như vậy. Do đó, Nho giáo đã đưa ra
giải pháp theo đó điều quan trọng của một hành vi tín ngưỡng không phải
chỉ là đối tượng của tín ngưỡng mà còn là chủ thể tín ngưỡng nữa. Nói
cách khác, điều quan trọng không chỉ là “ tin cái gì” mà là “ tin như
thế nào”, “để làm gì”, “ có ích gì cho người tin” trong việc ở đời với
chính mình và với kẻ khác. Đó chính là căn bản tôn giáo tổ tiên hay đạo
Hiếu của Nho giáo. Thờ kính tổ tiên chẳng phải vì tổ tiên, vẫn còn sống
sau khi chết nhưng chính là vì sự thờ kính đó sẽ làm cho con người trở
nên tốt với nhân quần xã hội. Kẻ bất hiếu không phải là kẻ vô tín hoặc
biết tôn trọng những yêu sách của lý trí, kẻ bất hiếu chính là kẻ bất
nhân vậy. Nói cách khác, nho giáo đã khuyến cáo người ta “tin” chẳng
phải vì đối tượng của đức tin đòi hỏi như vậy,( như Thượng Đế đòi hỏi
con người phải tin Thượng Đế, và chỉ tin Thượng Đế nếu không sẽ bị trừng
phạt)mà chính là vì điều ấy có ích cho nhu cầu của cá nhân và xã hội.
Nhứt thần giáo đã không thể
quay về con đường tâm đạo và đạo nhân theo kiểu Nho giáo. Nói cách khác,
Nhứt Thần giáo không chấp nhận tôn giáo như là MỘT SẢN PHẨM CỦA CON
NGƯỜI mà là MỘT SẢN PHẨM CỦA THƯỢNG ĐẾ CHO CON NGƯỜI. Điều tiên quyết do
đó là phải chấp nhận lời Thượng Đế NHƯ LÀ lời Thượng Đế nói về
Thượng Đế chứ không phải như là lời của con người nói về Thượng Đế.
Hiểu như vậy thì kinh điển
tôn giáo sẽ chỉ là một bài toán khó khăn chặt chẻ một chiều một nghĩa mà
thôi. Tuy nhiên, nếu ta có thể nhìn Thánh Thư, Thánh Điển Nhứt Thần
giáo, Nho giáo, Lão giáo thì có lẽ ta sẽ có dịp thấy rằng THÁNH KINH của
Thiên Chúa Giáo đã có rất nhiều giá trị của thi ca, hiểu theo nghĩa là
có rất nhiều GIÁ TRỊ BIỂU TƯỢNG. Sáng Thế Ký, sách của tiên tri Jeremie,
của Isaie, sách của Job, của Thánh Kinh quả đã chứa đầy nững hình ảnh
những tình cảm đầy giá trị tượng trưng, chủ quan, sống động và nên thơ
vậy.
Một nguyên ủy tư tưởng khác
của Tây Phương cũng không thiếu màu sắc thi vị đó là tư tưởng Hy Lạp
chưa phân biệt rõ đâu mà lý đâu là tình, đâu là thơ và đâu là triết lý,
đâu là huyền thoại và đâu là lịch sử, đâu là siêu hình học và đâu là
khoa học. Người ta phải tự hỏi giữa Homère và Platon thì ai là kẻ đánh
động lương tâm và ý thức nhiều nhứt, người ta cũng có thể tự hỏi tại sao
suốt đời “hành đạo” mà Socrate lại không hề viết một chữ nào? Socrate
không biết chữ hay Socrate đã ý thức rõ chữ nghĩa chính là điều để đưa
con người đến chỗ cực đoan, quá khích , độc tôn?
Về tôn giáo, triết lý cũng
như tư tưởng nói chung ta có thể nói rằng ĐIỀU HỢP LÝ là điều dễ nhớ,
nhưng điều mà ai cũng thích nhớ, muốn nhớ lại chính là điều nên thơ là
những gì gần gũi, sống động, là tiếng nói của con tim vậy.
Nguyên ủy nên thơ của tư
tưởng Tây phương đã dần dà tàn lụi với sự thành hình của siêu hình học
của Platon, luận lý học của Aristote để rồi trở thành những phương tiện
cho Thánh Thomas và Thánh Augustin xử dụng để hợp lý hóa và thuận lý
hóa…Thi ca đã bị loại khỏi phạm vi tư tưởng thời Trung cổ để rồi trở
thành một phương tiện đào thoát và phản ứng tiêu cực thời Phục hưng
trước những áp bức và độc tài tín ngưỡng. Phong trào Phục hưng Tây
phương có thể nói là phong trào quay về với tư tưởng tiền Socrate, quay
về với thiên nhiên, nghĩa là quay về với biểu tượng và Thơ vậy.
Nhưng phản ứng của thời
phục hưng lại chỉ mở đường cho sự phục hoạt của lý trí chứ không hẳn là
của tình cảm , phục hưng chỉ có lợi cho khoa học và cho những khuynh
hướng mới chứ không có lợi cho văn học và thi ca bao nhiêu. Thơ văn chỉ
là phương tiện của lý trí sống động tự do dùng để chống lại độc tài lý
trí, và độc tài tín ngưỡng. Khoa học và triết lý đã thế vào khoảng trống
do sự rút lui của độc tôn để lại . Cảm quan, con tim, biểu tượng vẫn
không tìm thấy được một chổ đứng đích thực.
Nếu thời phục hưng là phản
ứng của lý trí chống độc tài tín ngưỡng thì thời lãng mạn là một phản
ứng của tình cảm, của con tim, của con người sống động toàn diện
chống lại độc tài lý trí trên cả hai bình diện tâm linh và xã hội. Một
phản ứng nhân danh “ những lý lẽ mà lý trí không hiểu thấu được”.
Nhưng có thực, theo quan
niệm trên đây, nghệ thuật nói chung , và thi ca, chỉ là một kinh nghiệm
về cái phi lý ( nghĩa là cái lý trí không thể hiểu được) không? Theo
quan điểm Tây phương về thế lưỡng biến chân-ngụy, lý trí –tình cảm,
thiêng liêng- trần tục, vô hình- hữu hình, khách quan- chủ quan thì thi
ca thường chỉ được gán cho những đặc điểm tình cảm, trần tục, hữu
hình, chủ quan, ngụy, nghĩa là giả ảo, vô thường mà thôi. Thi ca không
giành được một chổ đứng đáng kể nào trong sinh hoạt thực tiễn cũng như
sinh hoạt tri thức vậy.
Trong những nổ lực đáng ghi
nhận nhằm xác định một vị thế cho thi ca và nghệ thuật nói chung trong
diễn trình nhận thức có lẽ là nỗ lực của Hegel (1770-183) với
giảng văn mỹ học ( Esthetique) mà Hegel đã đào sâu để giảng dạy tại Đại
Học Berlin từ năm 1818-1828 và sau được học trò của ông góp lại in thành
sách.
Nhưng cho đến ngày nay, một
khẳng định về vị thế của thi ca vẫn như chưa được giải quyết một cách
dứt khoát và thỏa đáng. Và vì thế, con đường thi ca của Tây Phương vẫn
như chưa được khai thông để ta có thể thấy trước được viễn tượng của nó.
VII- THI CA VÀ CUỘC ĐỜI.
Người làm thơ mà nói về thơ
thì chẳng khác chi vũ công vừa múa vừa nhìn vào gương để xem mình múa
vậy. Bản thể của thi ca cũng như cuộc đời là “chạy trốn” trước mọi ý
hướng bắt đầu bằng ngôn từ…Suy nghĩ về thơ, thì thơ chỉ còn là một sự
kiện, lặng đứng, nằm im bất động trong khi thực sự thơ là sống, thơ là
một lối sống, một dòng sống, một nhịp sống cùng khởi động, cùng tan
biến, cùng lịm tắt với những cảm xúc có một không hai duy chỉ có người
làm thơ mới có. Suy nghĩ về thơ, nói về thi ca do đó là một sự mất mát,
là mân mê những đất, những cát, những vôi hồ mà lòng thì vẫn nghĩ đang
nâng niu một báu vật.
Cách nói về thi ca và cuộc
đời hay nhứt là nói bằng thơ. Dù vậy, ngoài nhịp sống của thi ca lại còn
những nhịp sống khác, cũng dung dị, thường tình: nhịp sống của cảm
thông, truyền đạt và đối thoại. Buổi nói chuyện hôm nay, do đó, không
phải đối thoại về thi ca mà là đối thoại với thi ca. Tất cả chúng ta sẽ
cùng nói về thơ, và cùng nói với thơ vậy.
Và nói về thơ quả thật đã
là một thất bại, như sự thất bại của một vị vua hào hoa, đa tình, điên
cuồng thương nhớ đến độ muốn “đập vở kính ra tìm lấy bóng. Xếp tàn y lại
để dành hơi”vậy.
Mỵ Nương nhớ Trương Chi thì
hình ảnh người thương hiện ra trong đáy chén, nhưng Mỵ Nương nghĩ đến
cuộc tình tan vỡ của mình mà thầm khóc cho duyên kiếp thì hình ảnh người
yêu tan . Nói về thi ca thì cũng vậy. Đó là điều khiến chúng tôi e ngại.
Và ước vọng của chúng tôi là âm thanh tan biến thì sẽ không phải chỉ còn
lại hư vô im lặng nhưng là còn lại âm hưởng của thơ, còn lại một chút gì
rất thơ.
Nói đến thi ca và sự liên
hệ giữa thi ca và cuộc đời thì trước hết phải nói đến thi nhân. Nhưng
thi nhân là gì?
Đã hẳn thi nhân là người
làm thơ. Tại sao lại là làm thơ mà không làm chiến tranh, không làm hòa
bình, quan hay lính, thiên đàng hay hỏa ngục? Tất cả đều là thơ, và ngay
cả cái chết của chính mình cũng là thơ nữa. Cũng bởi vì vậy mà Cao Bá
Quát đã nhìn thấy:
Một chiếc cùm lim chân có
“đế”
Ba vòng xích sắt bước thì
“vương”
Thi ca đã thực hiện cho nhà
thơ Cao Bá Quát những điều mà một Cao Bá quát phiến động đã không thực
hiện nỗi bằng gươm đao vậy.
Xuân Diệu bảo rằng thi sĩ
chỉ là một con chim đến từ núi lạ, ngứa cổ hát chơi.Mà thật vậy, chỉ khi
nào con người ý thức được rằng mình muốn tất cả chỉ là đồ chơi và ngay
cả hành động của mình cũng chỉ là trò chơi, thì mới có thơ vậy. Muốn làm
chơi nghĩa là chẳng muốn đến đâu cả, chẳng muốn đạt đến mục đích nào cả,
xa lạ với mọi mục đích, mọi phương tiện của đời này. Mà xa lạ với chính
lối nhìn, với chính những mục đích và phương tiện của đời này cho nên,
có thể nói, thơ là một cách trốn thực tại, và trong cuộc đời này nhà thơ
chỉ là một người xa lạ giữa loài người xa lạ:
“Ba mươi chín
trung thu về trước
Một gã Kim đồng
rơi xuống trần
Giữa lúc trăng
thanh lùa gió mát
Nam Tào ghi sổ:
Kiếp thi nhân
Lòng ngóng thơ
ngây, trời bắt được
Lại đày Ngọc Nữ
xuống trần gian
Cho chừa những
thói “trăng hoa” ấy
Nhưng đày hai
đứa đi hai ngã
Bắt lạ lùng
nhau suốt một đời
Kẻ ở đầu sông
người ở cuối
Xa vời mây
nước, lá vàng trôi…
Trần giới bao
giờ trang trắng nợ
Hạc vàng trở
lại chốn Thiền môn
Chư tiên chờ
đón mừng rơi lệ
“ Cửu biệt
trùng lai nghệ sĩ hồn?
( Nguyễn Tố. Trung Thu nhớ Tiền
Thân)
Vì là một người xa lạ ở đời
này, cuộc đời thực tế và bon chen này cho nên ngôn ngữ của thi ca đã trở
thành một ngôn ngữ xa lạ . Trăng không còn là trăng, nước không còn là
nước và hiện hữu cũng chẳng còn lạ hiện hữu nữa. Cũng vì thế mà Lý Bạch
đã cố sống trọn vẹn với trăng bằng cái chết của chính mình.
Thi ca không phải nói lên
những gì mà chúng ta đã biết, biết bằng suy tư, luận lý.
Phân tích phê bình, giảng
giải thi ca bằng đôi mắt tò mò, bằng thái độ “ gò gè bớt một thêm hai”
sẽ giết chết tinh thể thi ca và đuổi thi nhân ra khỏi thiên đường mộng
ảo của họ. Thi ca cũng không phải phụng sự cho mục đích này, hay một mục
tiêu nọ như nhiều người đã cưỡng chế và mong muốn. Một cách trung thực,
thi ca là thi ca, là tiếng nói của lòng người, là cảm xúc chân thành, là
nói lên cái ước vọng của con người muôn thuở và muôn nơi, là tiếng kêu
thương hay niềm hoan lạc của con người trước thực trạng mà nó đang sống
trong đó, một cuộc sống vốn bằng những cảm hứng và ảnh tượng, và do vậy,
thi nhân ở bất cứ thời nào và bất cứ ở đâu đều mang cái “Tâm tình một
nẽo Quê Chung, Người về cố quận muôn trùng ta đi”(H.C).
Nếu cuộc đời chỉ là cuộc
đời thông thường mà không phải là nghịch thường , khác thường thì không
có thi ca, không còn là thi ca nữa. Nhưng cuộc đời bình thường lại không
phải là cuộc đời thật mà chỉ là cuộc đời đã bị vặn méo vì những lo âu,
những bận tâm, những hăm hở, những thất vọng và hy vọng bình thường.
Cuộc đời bình thường là cuộc đời đã bị phóng thể. Sự phóng thể có thể là
đối tượng của thi ca nhưng cuộc đời bị phóng thể đó thì không. Ý thức
của thi nhân về cuộc đời đã bị phóng thể đó là một ý thức lưu xứ, lưu
đày, một ý thức u hoài và bi đát:
Một chút
linh hồn nhỏ
Mang mang
thiên cổ sầu
(Huy Cận)
hay:
Ai người
trước đã qua
Ai người sau
chưa đẻ
Nghĩ trời
đất vô cùng
Một mình
tuôn giọt lệ.
(Trần Tử Ngang-Võ Liêm Sơn dịch)
Cuộc đời của thi nhân là
cuộc đời không bị phóng thể, cuộc đời như là cuộc đời, hay nói như
Husserl, cuộc đời đã bị đóng ngoặc đối với mọi thành kiến, thiên kiến,
chấp kiến.Nhà danh họa Kandinsky, một buổi chiều đến phòng làm việc,
bỗng thấy trong phòng mình có một bức tranh quá đẹp, sắc màu hòa hợp
diệu vợi trong ánh nắng chiếu lung linh. Kandinky sửng sờ trên ngưỡng
cửa, băn khuăn tự hỏi chẳng hiểu kiệt tác đó của ai, nếu là của ông thì
ông đã vẽ lúc nào? Và cuối cùng ông đã khám phá đó chỉ là một bức tranh
do chính ông sáng tác, và nó đã trở thành kiệt tác đó của ai, nếu là của
ông đã vẽ lúc nào? Và cuối cùng ông đã khám phá đó chỉ là một bức tranh
do chính ông sáng tác, và nó đã trở thánh kiệt tác chỉ vì…nó bị treo
ngược.Chính kinh nghiệm đó đã khởi đầu cho phong trào nghệ thuật siêu
thực.
Thơ chỉ là thơ, họa chỉ là
họa khi núi sông không chỉ là sông núi trở ngại mà là sông núi vô
thường, khi cuộc đời không chỉ để mà sống chết mà là cuộc đời “như là”
cuộc đời, cuộc đời đã làm cho Roquentin của Sartre phải choáng váng, rợn
ngợp. Khách quan chỉ là khách quan với chủ quan, và một khi đã trở thành
vô thường tuyệt đối cũng sẽ trở thành chủ quan tuyệt đối. “Ta với mình
tuy một mà hai” (Tản Đà) và cũng vì vậy mà “người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ”.Sự thế chỉ vì biên cương giữa thi nhân và cuộc đời
đã không còn nữa, nhờ vậy mà thi nhân không còn nhìn về cuộc đời, mà
chính cuộc đời trong thi nhân đã nhìn về cuộc đời như Lamartine đã nói.
Le spectacle est dans les yeux (cảnh ở trong đôi mắt)
Và bởi vì cuộc đời với thi
nhân là một, cho nên cuộc đời của thi ca cũng đã chuyển thái theo nhịp
sống của thi nhân.
Cuộc đời đối với em bé là
bình minh nắng dịu, là cỏ xanh, trời hồng. Đâu đâu cũng thấy hiển hiện
hoa và phảng phất hương.
Sang đến tuổi thanh niên,
cái tuổi rực rỡ, huy hoàng và tươi sáng, họ không còn đuổi bướm hái hoa.
Thế giới của họ mở rộng và mời gọi thiết tha từ những hương sắc trong
vườn hoa, trong công viên: đó là bầu trời đầy sao, mặt đất ướp đầy
hương, đó là thế giới trong huyết quản, vì tình lý còn sôi sục miên man,
vì tình yêu muôn thuở vẫn là hương, biết mấy lòng thơm nở giữa đường”
nên họ cảm thấy yêu đời một cách cuồng nhiệt, vội vàng: “Mau với chứ
vội vùng lên với chứ! ( Xuân Diệu).
Rồi lớn hơn, ở cái tuổi tam
thập nhi lập, khi mà những ngậm ngùi, cay đắng của tình đời, khi mà nợ
áo cơm và thê nhi ràng buộc níu kéo, họ trực nhận ra rằng đời thôi hết
là màu hồng, thôi không còn những đam mê thời xuân sắc, bây giờ chính là
lúc cảm nhận những ê chề, những thương đau vô lý mà thấy hồn mình se
sắc:
Trời hỡi
trời! Hôm nay ta chán hết
Những sắc
màu hình ảnh của trần gian.
(Chế Lan
Viên-Tạo Lập)
hoặc:
Thời gian
chảy đá mòn, sông núi lở
Lòng ta muôn
còn mãi vết thương đau.
( Chế Lan
Viên-Thời Oanh Liệt)
Trước cái nỗi đời cơ cực
như vậy làm sao chúng ta không kinh hoàng trước sự đổi thay và tàn phai
của cuộc sống:
Trưa! một ít
trưa, lạc vào lăng tẩm
Nhập làm hồn
những tượng xưa u thảm
Trưa, theo
tàu, bước xuống những sân ga
Dựng buồn
lên xa gởi đến Muôn Xa
(Chế Lan
Viên-Trưa Đơn Giản)
Với thi nhân, sống với cuộc
đời là thể nhập với đời. Sông núi là ta, ta là sông núi. Nhịp đập
của con tim là nhịp rung động của cành là, ta nói là đời nói, đời nói là
ta nói. Cuộc đời trở thành thần thoại, thi nhân trở thành thần tiên và
ngòi bút, ngôn từ của thi nhân chính là chiếc đủa thần. Thi nhân gọi tên
sự vật là sự vật “ phải có” thi nhân trở thành phù thủy để có thể bắt
tràng nằm sóng soải trên cành liễu (HMT) , bắt gió hôn trên má
xuân nữa như Xuân Diệu đã làm, hoặc tự buộc kiếp sau của mình phải
làm cây thông đứng giữa trời mà reo như Nguyễn Công Trứ.
Không có ngôn từ ma thuật,
thần thông đó thì thi ca sẽ không còn là thi ca nữa. Không có cái nhìn
thần tiên huyền thoại đó thì cuộc đời này sẽ không còn là cuộc đời của
thi nhân nữa. Và ngôn từ thần thông, cái nhìn huyền thoại đó, nói cho
cùng chính là cái nhìn giúp thi nhân trực nhận được bản thể của cuộc
đời. Trực nhận được bản thể của cuộc đời chính là một trực nhận triết lý
vậy.
VIII- THI CA VÀ TRIẾT LÝ.
Trong kho tàng thi ca không
thiếu gì “ thơ triết”. Nhưng thơ triết thường không có nghĩa là triết lý
bằng thi ca. Nhà thơ không thể đi vào con đường triết lý. Vì lẽ triết lý
là phần tỉnh, là lui để nhìn về, nhìn lại trong khi thi ca là trực nhận,
là sống thực , là sống trực nhiên. Có sao sống vậy, hay “ còn ăn hết
nhịn” thi ca chạy tìm cái tuyệt đối trong khoảnh khắc, chạy tìm “một
phút huy hoàng rồi chợt tối” ( Xuân Diệu), trong khi bản chất của
triết lý là perennis philosophia, là chân lý tự tại, miên viễn.
Thi nhân chạy theo triết lý
thì chỉ làm cho thi ca trở thành khô cằn, cứng nhắc, chỉ làm cho nàng
thơ chạy trốn. Thi ca có thể là đối tượng của triết học, nhưng thi nhân
không thể đi vào con đường triết lý. Triết lý có những giới hạn, thi ca
thì vô cùng. Triết lý dừng lại ở biên giới tột cùng của lý luận. Thi ca
thì vược biên giới đó bằng chính sự rung cảm, bằng chính cái nhìn và
ngôn-từ thần-thoại,ma thuật của mình. Cũng vì thế, khi đã thất bại
với
Zein und Zeit, thì Heidegger mới có thể quay về với Rilke, với
Hoderlin. Quay về với Rilke, với Holderlin vì thi nhân sẵn có những giải
pháp riêng của thi ca cho những bế tắc triết-lý.
Giải pháp triết lý “ riêng’
của thi ca chính là chỗ thi nhân đã sống với triết lý mà không suy nghĩ
theo lề lối của triết gia. Chỉ có sự sống, chỉ có hành động mới giải
quyết được những mâu-thuẫn và bế tắc của tư tưởng. Mọi vấn đề, mọi cảm
nghĩ được đẩy đến chỗ tuyệt đối trở thành siêu hình, trở thành triết lý
cả. Thi nhân khi sống với rung động của tâm hồn đã trở thành những triết
gia vô thức và đã đặt những vấn đề triết lý một cách vô tình.
Một Tản Đà với những cuộc
tình bơ vơ trong mộng, với nỗi đời cơ cực, với định mệnh oan-nghiệt của
một người đứng giữa cơn giao-động mãnh-liệt của buổi giao-thời ly-loạn,
của những yêu sách đổi thay giữa mới và cũ. Thế mà sống trọn vẹn với
đời, Tản Đà vẫn giữ được cái phong thái thung dung, cái chí trượng phu
của một người thơ.
Điều đặc biệt đáng chú ý là
những thất bại liên tiếp trên đường đời đã khiến cho Tản Đà chán nản,
tuyệt vọng để từ đó thơ. Người đầy chất “ ngông” và “rượu”. Ấy thế mà,
một hôm đẹp trời nào đó, Tản Đà đã cảm nghiệm sâu xa lý thuyết luân hồi
Phật Giáo:
“Non xanh đã
biết hay chưa?
Nước đi ra
bể lại mưa về nguồn.
Nước non hội
ngộ còn luôn
Bảo cho non
chớ có buồn làm chi.
( Tản Đà-Thề Non Nước)
Ở Chế Lan Viên ảnh -hưởng
Phật Giáo rõ rệt hơn mà ít ai ngờ tới bởi lẽ trong thơ ông, chúng ta
không tìm thấy một thuật ngữ nào của Phật Giáo. Và ngay đến cả
Chế-Lan-Viên có lẽ cũng không ý thức được, vì Phật Giáo đã thâm nhập vào
hồn ông tự bao giờ trong yên lặng:
“Sao ở đâu
mọc lên trong đáy giếng
lạnh như hồn
u tối vạn yêu ma?
Hồn của ai
trú ẩn ở đầu ta
Ý của ai
trào lên trong đáy óc?
…………………………………
Ai bảo giùm:
Ta có ta không?”
( Chế-Lan-Viên Ta)
Nói đến Phật Giáo là nói
đến luân- hồi,kiếp trước, thời gian xa xăm muôn vạn kiếp:
Lòng em nhớ
lòng anh từ vạn kỷ
Gặp hôm nay
nhưng hẹn đã ngàn xưa
(Huy Cận-Tình tự)
hoặc……………………………….
Về đâu, về
đâu thời gian đã
In dấu mong
manh trên càng đào
…………………………………….
Về đâu hạt
bụi vàng thao thức?”
(Huy Cận)
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương cũng
nói đến cái Ta như Chế Lan Viên, nhưng ở họ Vũ, ảnh hưởng của đạo Phật
còn đậm đà hơn.
“…………………………………
Nhớ thuở xưa
khi chưa có ta hề đường đi thênh thênh,
Kịp đến khi
có ta hề chông gai mông mênh.”
Tác giả “ Quê Ngoại” thì
lại gợi lên một mối cảm hoài nhẹ nhàng từ những hình ảnh, sắc màu, âm
thanh hiện thực:
“Hàng năm
tôi đi lễ chùa
Chuông vàng
khánh bạc ngày xưa vẫn còn
Chỉ hơi thấy
vắng trong hồn
Ít nhiều
hương phấn khi còn ngày thơ
Chân đi, đếm
tiếng chuông chùa
Tôi ngờ năm,
tháng thời xưa trở về”
Một thi sĩ khác: Lưu Trọng
Lư mà tiếng thơ của người thi sĩ đầy mộng mơ này đã làm lòng ta thổn
thức với những vang vọng thiết tha của những cuộc tình dang dở…Kiếp này
không thỏa ước-nguyện, nhà thơ đã hẹn với người yêu ở kiếp luân hồi mai
sau.
………………………………………..
“Đợi đến
luân hồi sẽ gặp nhau
Cùng em nhắc
lại chuyện xưa sau
Chờ anh bên
gốc sim già nhé
Em gái đưa
anh đóa mộng đầu”
(Lưu Trọng Lư-Một
Chút Tình)
Trong bài Đi Chùa Hương
của Nguyễn Nhược Pháp, chúng ta chứng kiến tình yêu chớm nở của hai
nhân vật chánh trong không khí trầm hương, đạo vị, lòng mộ đạo thiết tha
của ông bà thân sinh ra thiếu nữ, chúng ta còn bắt gặp hình ảnh một đức
Phật bao dung, giúp cho những người yêu nhau thành đạt những mơ ước của
đời sống thế tục:
…………………………………………
“Em đi,
chàng theo sau
Em không dám
đi mau
Ngại chàng
chê hấp tấp
Số gian nan
không giàu
Mẹ bảo đường
còn lâu
Cứ vừa đi ta
cầu
Quán Thế Âm
Bồ Tát
Là tha hồ đi
mau”
Em ư? Em
không cầu
Đường vẫn
thấy đi mau
Chàng cũng
cho như thế
Ra ta hợp
tâm đầu
………………………
Ngun ngút
khói hương vàng
Say trong
giấc mơ màng
Em cầu xin
giời Phật
Sao cho em
lấy chàng”
Nhưng trong trường hợp của
Hàn Mạc Tử là một trường hợp khá đặc biệt, cần lưu ý. Hàn Mạc Tử vốn là
người được nuôi dưỡng trong Thiên Chúa Giáo, bổn tánh vốn hiền hòa,
ngoan đạo và sự ngoan đạo ngày càng lớn mạnh, vững chắc khi căn bệnh
càng trầm trọng.thế mà khi làm thơ, Hàn Mạc Tử đã mặc nhiên nói lên cái
ảnh hưởng của Phật Giáo:
…………………………
“Thơ tôi
thơm huyền diệu
Mọc lên đạo
từ bi”
hoặc
…………………………
“Trời từ bi
cảm động ứa sương mờ”
Ngay đến cả bài “ Thánh Nữ
Đồng Trinh Maria”. Hàn Mạc Tử cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng bàng
bạc và sâu xa của Phật Giáo:
…………………………
“Tôi ưa nhìn
Bắc Đẩu với bình minh
Chiếu cùng
khắp ba nghìn thế giới”.
Làm sao chúng ta có thể cắt
nghĩa được hiện tượng như hiện tượng của Hàn Mạc Tử mà không chấp nhận
rằng tư tưởng Phật Giáo đã lắng sâu trong hồn dân tộc, trong nếp sống
hàng ngày, gần gủi và thân thiết với chúng ta như cơm ăn, nước uống mà
nhiều khi chúng ta không ý thức được.
Với lối kiến trúc đặc biệt,
những ngôi chùa bao giờ cũng ẩn dấu sau lũy tre xanh, dưới gốc cây đa, ở
một nơi thanh tịnh như bổn chất khiêm cung, mộc mạc, hồn nhiên, thích
ứng và hòa hợp của Phật Giáo. Mái chùa còn chất chứa một sức mạnh vạn
năng của đời sống tâm linh và tư tưởng Việt:
………………………….
“Mái chùa
che chở hồn dân tộc
Nếp sống
muôn đời của tổ tông”
(Huyền Không-Nhớ Chùa)
Đây nhà thơ
Nguyễn Bính:
……………………………
“Quê tôi có
gió bốn mùa
Có trăng
giữa tháng có chùa quanh năm
Sương hôm
gió sớm trăng rằm
Chỉ thanh
đạm thế, âm thầm thế thôi
Mai này tôi
bỏ quê tôi
Bỏ trăng bỏ
gió, chao ôi bỏ chùa.”
Hay:
…………………………….
“Trên đường
cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn
thâm, rẫy hội chùa
Gậy trúc dắt
bà già tóc bạc
Lần tần
tràng hạt niệm nam mô…”
(Nguyễn Bính-Xuân
Về)
Chúng ta nhận thấy rằng mỗi
khi nói đến cuộc sống thanh bình, an lạc của quê hương là các thi nhân
không làm sao quên được ngôi chùa, tiếng chuông điệu mõ, tiếng nam mô…
Tình đạo không chỉ thấp
thoáng trong tình đời mà lắm khi tình đạo còn thay thế cả tình đời. Phật
Giáo đã trở thành giòng suối mát không chỉ cho “ những anh hùng mạt
vận”, mà cho cả những tâm hồn thường thái bị” thiên hạ bỏ đìu hiu”
Đúng như thế, yêu là hy
vọng, là quả quyết, là van xin, là thề hứa. Như Lưu Trọng Lư đã hẹn “đến
luân hồi”, như Huy Cận nhớ về muôn kiếp:
……………………………..
“Lòng em nhớ
lòng anh từ vạn kỷ
Gặp hôm nay
nhưng đã hẹn ngàn xưa”
( Huy
Cận-Tình Tự)
Như Xuân Diệu đã khẩn cầu
một tình yêu sắt son không lay chuyển:
………………………………..
“Em hãy là
nơi mấy khóm dừa
Dầm mình
trong nước đứng say sưa
Để anh là kẻ
qua sa mạc
Tạm lánh hè
gay thế cũng vừa”
“Vừa”
trong tình yêu chính là vừa tuyệt đối. Và bởi nhịp đập con tim chỉ là
hữu hạn, sắt son chỉ tồn tại với kiếp người cho nên yêu cũng là thất
vọng, thề nguyện cũng là một cách hứa hẹn phản bội khiến cho đóa mộng
đầu trở thành mật đắng. Tình yêu muôn mặt cho nên tình lỡ và thất vọng
cũng muôn hình. Thi ca trở thành những âm thanh thổn thức vì thực tế phủ
phàng, vì hờ hững, vì trắc trở, vì lãng quên, vì phản bội.
Thi ca trở thành bách khoa
tự điển về nổi thống khổ của con tim. Và chính vì tình yêu bao la của
Phật Giáo đã không đòi hỏi một trả đáp nào, đã không chối từ một ai ngay
cả những kẻ đã từ bỏ mình, đã như người mẹ tựa cửa chờ đứa con hoang
đãng trở lại. Thế nên, thất vọng với tình đời thi nhân cũng như con
người thường quay về với tình đạo. Lúc hy vọng và men tình ngây ngất
người ta đã “ cầu Quán Thế Âm Bồ Tát” ( Nguyễn Nhược Pháp) thì lúc thất
vọng người ta cũng chỉ còn một đường để đi:
“Cửa Phật
đây rồi tôi đến đây
Van xin nước
tịnh gội đêm say
Tôi người mê
muội ham cùng cả
Xóa nhạt
trăm năm hận một ngày”
(Thanh
Tịnh)
Phật giáo quan niệm rằng
cái nhỏ nhứt chứa trọn vẹn cái lớn nhứt, cái lớn nhứt thâu vào trong cái
nhỏ nhứt. Một là tất cả, tất cả là Một..(tiểu nhi vô nội, đại nhu vô
ngoại). Quan niệm này thể hiện trọn vẹn trong bốn câu thơ của Thi sĩ
Thạch Trung Giả sáng tác cách đây trên 20 năm.
“Trâu đi vết
lại
Thăm thẳm in
trời
Ngàn ánh sao
rơi
Mấy đời tang
hải”
Bước chân trâu in vết trên
đường quê vào một ngày mưa để rồi đêm đến, khi trăng lên, ngàn sao xuất
hiện, cả bầu trời cao xanh thăm thẳm, thanh tịnh, hiện ra tròn đầy trong
vết chân trâu.
XI- MÀU SẮC TÔN GIÁO TRONG THI CA.
Chính vì có khả năng hội
nhập với những vấn đề tuyệt đối, có khả năng giải quyết vấn đề tuyệt đối
đó bằng hành động, nghĩa là bằng tâm tình và cảm xúc, bằng cả hiện hữu
toàn diện cho nên thơ đã rất gần với Đạo. Điều này giải thích lý do tại
sao những tôn giáo nguyên thủy đều đã dùng “văn cùng thơ” để có Đạo. Vệ
Đà của Ấn giáo; Kinh Dịch, Kinh thi của Nho giáo; Đạo Đức Kinh của Lão
gáo; Thánh Kinh của Cựu Ước…đều là thơ, là cách dùng thơ để đem lòng
người đến gần Đạo, thể nhập ý Đạo với thơ.
Sư liên hệ giữa thi ca với
Phật giáo, nhứt là thi ca Việt Nam với Phật giáo Việt Nam lại còn cụ thể
hơn nữa. Những bài thơ Việt đầu tiên là những bài kệ, những bài thị
chúng, những nhà thơ Việt đầu tiên là những thiền sư, những cư sĩ Phật
tử. Tư tưởng Phật giáo trước tiên đã đi vào tâm hồn người Việt không
phải bằng những giáo lệnh không phải bằng những giới răn, không qua
trung gian của quyền lực thế tục bằng những giới răn, không qua trung
gian của quyền lực thế tục bằng những chỉ dụ, sắc lệnh của vua chúa
nhưng là bằng lời thơ, bằng phong thái thi nhân của các Phật tử.
Đạo Phật gần với thơ vì cả
hai đều có và đều muốn đạt đến một cái nhìn giống nhau về cuộc đời. Nhìn
đời như một sự kiện vô thường, nhìn đời như một sự kiện “ như thị, như
thị”, hay nói như J.Paul Sartre, nhìn đời như “ il est la comme ca?”
Tư tưởng Phật giáo đã lắng
sâu, lắng mãi vào tận tâm hồn dân Việt, tạo nên một sức sống tràn đầy
cho dân tộc. Tư tưởng Phật giáo đã thể hiện hồn nhiên, dung dị trong
toàn diện nếp sống tâm linh của dân tộc.
Vì chất liệu tâm linh dạt
dào, phong phú đó nên những nhà thơ Việt Nam, qua những thi phẩm đã mang
nặng màu sắc Phật giáo. Chẳng hạn, nữ sĩ Anh Thơ qua Bức Tranh Quê
đã thể hiện hồn nhiên dung dị trong toàn diện nếp sống tâm linh của dân
tộc.
“Trong chùa
điện hương đèn nghi ngút sáng
Tiếng mõ,
chuông hòa nhịp trống bên đình.
Lời cầu cúng
truyền theo làn khói thoảng
Quyện cô hồn
nương gió lại nghe kinh…”
(Anh Thơ-Rằm
tháng bảy)
Sau khi đã chán nản mọi sự,
chùng mình trong cái buốt lạnh của đêm tàn cô đơn, Tản Đà chỉ còn biết
tha thiết chờ đợi tiếng chuông chùa:
“Ngồi hết
đêm sương, sương chẳng hết,
Chùa xa ai
điểm mấy hồi chuông…?
Với Lam Sơn, tiếng chuông
chùa như một bóng mát, một an ủi, vỗ về, xoa dịu:
“Chùa xa đưa
lại lời an ủi
Của tiếng
chuông ngân dịu vỗ về…”
Trần gian đầy những
khổ đau, những gạt gẫm phỉnh phờ, u tối. Thanh Tịnh đã tìm thấy trong
ngôi chùa mầu nhiệm, ánh đèn đầu lung linh lóe sáng, nụ cười bất diệt và
giải thoát của Đức Phật hiện lên làm cho nhà thơ mãn nguyện:
“Gió luồn
khe cửa chao đèn Phật,
Một nụ cười
xưa mãn thệ nguyền…”
Chùa cũng còn là nơi
trú ẩn cho những tâm hồn đau khổ, nơi đón nhận những kẻ sa cơ, lỡ vận,
điều này chứng tỏ có sự liên hệ mật thiết giữa thi nhân và cửa Thiền.
“Phù thế đã
nhiều duyên nghiệp quá,
Lệ lòng mong
cạn chốn am không
Cửa Thiền
một đóng duyên trần dứt
Quên hết
người quen chốn bụi hồng…”
( J.
Leiba-Bến Giác)
Đạo Phật đến với cuộc đời
bằng tình yêu, cho nên sống với tình yêu thì con người cũng như thi nhân
sẽ gặp đạo Phật. Tình đời đi gần với tình Đạo, và trong tình đời đã thấp
thoáng tình Đạo.
Các thi nhân thời tiền
chiến sống một hoàn cảnh mà lịch sử có nhiều biến thiên lớn lao., nhiều
đổi thay mau chóng và bị ảnh hướng nặng nề thi ca Pháp, tâm hồn họ đã bị
Âu hóa đến chỗ sâu nhứt trong hồn. Ấy vậy mà ảnh hưởng của Phật giáo
cũng phát lộ mạnh mẽ và sâu xa trong các thi phẩm của họ. Thế mới biết
cái ảnh hưởng của Phật giáo trong thi ca tình yêu lớn mạnh đến ngần nào.
Chẳng hạn bài Rằm Tháng
Giêng của Hồ Dzếnh:
“Ngày xưa
còn nhỏ…ngày xưa
Tôi đeo
khánh bạc lên chùa dâng nhang
Lòng vui
quần áo xênh xang
Tay cầm
hương, nến , đinh vàng mới mua
Chị tôi vào
lễ trong chùa
Hai chàng
trai trẻ khấn đùa hai bên
“Lòng thánh
lễ vật đầu tiên
Cầu cho tiểu
được ngoài giêng đắt chồng
Chị tôi
phụng phịu má hồng
Vùng vằng
suýt nữa quên bồng cả tôi
Tam quan
ngoài mái chị ngồi
Chị nghe
đoán thẻ, chị cười luôn luôn
Quẻ thần,
thánh mach mà khôn
Số nàng
chồng đắt, mà con cũng nhiều
Chị tôi nay
đã xế chiều
Chắt còn nhó
mãi những điều chị mơ…”
Ở đoạn cuối bài thơ, thi
nhân tỏ lộ niềm hoài vọng về một quá khứ, trong một khung trời thơ mộng
đượm màu sắc Phật Giáo.
Tìm đến cửa Phật bởi vì:
Phù thế đã
nhiều duyên nghiệp quá
Lệ lòng mong
cạn, chốn am không
Cửa Thiền
một đóng duyên trần dứt
Quên hết
người quen chốn bụi hồng
( J. Leiba- Bến
Giác)
X-
KẾT THÚC: SỰ CHÂN THÀNH CỦA THI NHÂN
Đời không có thơ, đời vẫn
có. Thơ không có đời, thơ không có.Nhưng bám chặt cuộc đời với đôi mắt
thế nhân thường tình thì cũng không có thơ, ngay cả khi thi nhân hướng
nhìn những cảnh thông thường, bình dị nhứt như thi nhân vô danh nhìn
người thôn nữ tát nước tưới ruộng.Người thôn nữ có thể đẹp nhưng đối
tượng của thơ chính là những “ánh trăng vàng” bị người thôn nữ múc đổ
đi.
Đời, do đó chỉ là chất liệu
cho thi nhân tô điểm, làm cho hồng thành hồng thắm, xanh thành xanh
biếc, âm u trở thành hắc ám. Tắt một lời, làm cho đời trở thành một sự
kiện tuyệt đối, một sự kiện đáng sống, đáng yêu, và do đó, cũng có thể
trở thành đáng chán, đáng ghét. Thi ca là một cách sống, một cách nhìn,
và hơn nữa, thi ca là một cách sống tuyệt đối, là một cái nhìn bản thể.
Thi nhân là kẻ lật mặt nà cuộc đời, để tô thêm hồng thắm, mà cũng có thể
để bôi thêm lem luốc. Nhưng gì đi nữa thì thái độ tất yếu của thi nhân
vẫn là sự chơn thành. Sự chơn thành của thi nhân là chơn thành với đời
và với chính mình.
………………………………
Bút giấy tôi
ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng
dao viết văn lên đá.
( Phùng Quán)
Không có sự chơn thành đó
thì thi nhân sẽ không còn là thi nhân, và đời cũng chỉ là đời đã bị
phóng thể vì ý thức hữu dụng. Ý thức đó làm cho con người không còn mơ
mộng, nghĩa là không còn làm thơ, làm cho cuộc đời trở thành thực, nghĩa
là không còn nên thơ nữa. Và như vậy cũng sẽ không đủ khả năng để thúc
con người dám liều:
Thà một phút
huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn
le lói suốt trăm năm
( Xuân Diệu)
Cuộc đời hôm nay, con người
hôm nay đang đi vào những lo sợ của Aldous Huxley, của George Owens, của
Alain Toffer. Phải chăng, đến lúc và đã có lúc con người phải lựa chọn
giữa “Người máy và hoa sen”, giữa kỉ thuật là thi ca.
Trở lại với thơ, nếu không
phải là điều tất yếu thì ít ra cũng là một điều cần thiết để còn có thể
tiếp tục dấn thân, để khỏi chai đá, để khỏi trở thành máy móc giữa một
khung cảnh đang ngập khói xe và tiếng động cơ giới.
ĐÂY NGÀY PHẬT ĐẢN
Đây cả non sông còn vẹn mới
Đường vừa khai mạc đón người đi
Đây niềm hoài vọng ngàn thiên giới
Gót ngọc vờn qua lưu lại gì
Đây nắng ban đầu mưa gió dứt
Cỏ cây hớn hở đượm vui nhiều
Đây người cô quạnh nằm ray rức
Như được lòng đời đón ấy yêu
Đây cảnh thanh bình đang hé dậy
Muôn chim rộn rịp hót trên cành
Đây vàng, đây bạc vừa tìm thấy
Nhựa sống dâng đầy ngập tuổi xanh
Đây ánh trăng rằm soi xứ vắng
Đêm dài quên ngủ mãi vui say
Đây hồn dân tộc đang thầm lặng
Theo tiếng chuông ngân vọng tháng ngày
Đây cảnh chia ly vừa hội ngộ
Cảm thông, hoan lạc tận bao giờ
Đây niềm giao cảm qua hơi thở
Vũ trụ chìm trong thế giới thơ
Đây phố phường trong ngày Đại Hội
Hát ca vang dội khắp đô thành
Đây đàn con dại về bên gối
Lòng mẹ bao la bát ngát tình
Đây nước sông Hương ngừng đứng lại
Soi hình Phật Đản những năm qua
Đây đoàn rước Phật đi, đi mãi
Mạch sống dâng cao khắp nước nhà
Đây những sen xinh bừng nở mạnh
Mừng ngày Phật Đản thuở xa xưa
Đây đàn chim dại vừa tung cánh
Sắc nước, trời xanh vẫn đợi chờ
Đây lá cờ thiêng hồn Phật Giáo
Năm màu sắc Phật lộng muôn phương
Đây hương lòng thoảng thềm tôn giáo
Phật Đản: Ngày vui khắp nẻo đường
NHỚ CỐ HƯƠNG
Gởi Nguyên
Đạt và tất cả anh em, với niềm thương nhớ Quê Hương không nguôi.
Mưa gió chiều nay thấy nhớ nhung
Trời ơi, sao lạnh thấm vô cùng
Chuông xưa ngân lại trong chùa mới
Người Việt muôn đời vẫn thủy chung
Thấm thoát bao ngày nhớ cố hương
Ruộng đồng, sông núi nặng tơ vương
Thời gian đếm mãi từng giây phút
Đất nước vời xa mấy dặm trường
Xứ lạ quê người mây trắng bay
Cố hương nhớ mãi suốt đêm ngày
Tên đường, phố cũ còn nguyên đó
Tình cảm bao giờ có đổi thay
Đất mới trăng rằm cũng sáng trong
Nhìn lên Bảo Điện gợi đau lòng
Quê nhà khuất bóng từ khi ấy
Chín tháng qua rồi, có nhớ không?
Los
Angeles, chùa Việt Nam cuối March 1978.
PHẬT ĐẢN: NHỚ QUÊ HƯƠNG
Kỷ niệm ba
năm xa quê hương
Ba năm rồi sống xa quê
Đến ngày Phật Đản chưa hề dám quên
Ở đây, bàng bạc hương Thiền
Việt Nam Phật Giáo triền miên muôn đời
Ngày xưa dưới cánh hoa tươi
Hôm nay Thái Tử ra đời độ sinh
Thế gian còn đó ảnh hình
Vô Ưu hoa nở tươi xinh sắc màu
Tình người vẫn giữ trước sau
Nhớ ngày Phật Đản lòng đau không cùng
Ai mang một mối tình chung
Quê Hương, Đạo Pháp trùng trùng nở hoa
Bây giờ ray rức tâm ta
Bèo mây phận nước, xót xa phận mình
Thắp lên một nén hương trinh
Cho ngày Phật Đản đượm tình Việt Nam
Cúi đầu dưới ánh Từ Quang
Cầu mong Phật độ vô vàn đó đây
Xa cành chim nhớ thương cây
Nửa vòng trái đất mang đầy tâm tư
Quê hương nhớ tự bao giờ
Mái chùa, dân tộc, hồn thơ, ruộng vườn
Ngày Phật Đản: nhớ Quê hương
Niềm đau xin gởi mười phương kiếp người
Los
Angeles, Mùa Phật Đản 2524
ĐẠT ĐẠO
Qua Thiền Môn: thấy trời xanh
Kim Cang kinh tụng chân thành từng trang
Khói hương quyện, cảnh mơ màng
Hư không là chiếc y vàng quấn thân
Thiền Môn xưa sạch phong trần
Kim Cang kinh phép trầm luân thoát rồi
Ta từ sanh tử về chơi
Ngồi trên chót đỉnh mỉm cười với trăng
Thân ta là giải đất bằng
Tâm ta là nước sông Hằng mênh mông
Tình ta là đóa hoa hồng
Ý ta là cả cánh đồng tâm linh
Còn đâu nữa Kim Cang kinh
Thiền Môn biến mất mà mình vô ngôn
Bình minh về ngập hoàng hôn
Kêu lên một tiếng tỉnh hồn ngàn xưa
Los
Angeles, mồng 9 tháng 9 Canh Thân
BÊN CÁNH SONG
Không thể làm sao tả hết lời
Khi chiều thu vắng bóng chiều rơi
Bao nhiêu thương nhớ với mây nước
Lòng mẹ bao la gởi cuối trời
Quê cũ nghìn năm quá phũ phàng
Mà sao lòng mẹ ngập không gian
Mùa thu mang lại niềm vui cũ
Dù mẹ không còn giữa thế gian
Chuông vẳng đâu đây xao động lòng
Mục Liên sống dậy: nước sông trong
Phù Tang mây quyện Vu Lan đến
Hiếu hạnh đương về bên cánh song
Lý trí thua rồi với tháng năm
Ôi, tình mẹ sáng hơn trăng rằm
Bấy nhiêu ôm trọn tình lưu luyến
Đất lạ, Vu Lan về viếng thăm.
Tokyo, Vu
Lan Nhâm Dần
NHỚ CHÙA
Từ thuở ra đi vắng bóng chùa
Đường đời đã nhọc chuyện hơn thua
Trong tôi bừng dậy niềm chua xót
Xao xuyến mơ về lại cảnh xưa
Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng
Có con đường đỏ chạy lang thang
Có hàng tre gợi hồn sông núi
Im lặng chùa tôi ngập nắng vàng
Có những cây mai sống trọn đời
Bên hàng tùng bách mãi xanh tươi
Nhìn lên phảng phất hương trầm tỏa
Đức Phật từ bi miệng mỉm cười
Tôi nhớ làm sao những buổi chiều
Lời kinh giải thoát vọng cao siêu
Đây ngôi chùa cổ ngày hai buổi
Cầu nguyện dân làng sống mến yêu
Vì vậy làng tôi sống thái bình
Sớm khuya gần gủi tiếng chuông linh
Sắn khoai gạo bắp nuôi dân xóm
Xây dựng tương lai xứ sở mình
Mỗi tối dân quê đón gió lành
Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi
An ủi dân hiền mọi mái tranh
Trầm đốt hương thơm bay ngạt ngào
Thôn trên xóm dưới dạ nao nao
Dân làng tắm gội lên chùa lễ
Mười bốn, ba mươi mỗi tối nào
Biết đến bao giờ trở lại quê
Phân vân lòng gởi nhớ nhung về
Tang thương dù có bao nhiêu nữa
Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê
Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông .
Sài Gòn
1956
TỈNH GIẤC CHIÊM BAO
Viết cho
Tánh Thiện (Đ.Phước) với những buổi công phu khuya đầy thiền vị
Hôm qua mộng thấy tụng kinh
Tỉnh ra mới biết chính mình là trăng
Bao nhiêu cát của sông Hằng
Là bấy nhiêu kiếp đã tằng tử sinh
Lang thang, nghiệp chướng, tội tình
Con chim nó hót, bình minh đến rồi
Thời gian phủ mộng đầy nôi
Mĩm cười bé ngủ xa xôi kiếp nào
Nôi hồng tràn ngập chiêm bao
Mà nay ta đã đi vào trần gian
Đêm ngày ngồi tụng Kim Cang
Sắc không mộng huyễn cưu mang với người
Trong mơ thấy đóa hoa tươi
Bây giờ tỉnh dậy ta cười với ta
Giang tay đón cả Ta Bà
Lòng nghe rợn ngợp hằng sa kiếp rồi
Ngày xưa Trang Tử bồi hồi
Giữa mình và bướm ai ngồi ngắm nhau
Bây giờ xuân đến lòng đau
Ai mang áo cũ bạc màu mùa đông
Cho xin một đóa hoa hồng
Đem về cắm giữa giòng sông cuộc đời
Hương thơm bát ngát tình người
Say sưa tụng mãi những lời kinh xưa
Los Angeles, cuối Xuân Canh Thân.
ĐƯỜNG HOLLYWOOD
gởi Linh
Chi
Thấy không sao rụng lề đường
Tên ai gắn bó đang vương kiếp này
Nghìn năm còn đó mây bay
Đôi chân bước mãi tháng ngày nghe đau
Nơi đây sáng chói sắc màu
Nhân gian rộn rịp, hồn đau bao lần
Lại qua những dấu phù vân
Người ơi, có thấy tinh thần độc tôn
“Quê nhà khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng gợi buồn lòng ai!”
Patrioge
Bookstore, một chiều tắt nắng.
HỒN CHÂU Á
Gió vờn qua cây cành
Rung rinh hàng tre xanh
Gió đi không trở lại
Trời xanh mây hiền lành
Hồ thu con nhạn sang
Nước trong tim mơ màng
Trăng treo cao lồng lộng
Bóng nhạn chìm mênh mang
Ngàn năm không giữ gió
Hàng tre đứng âm thầm
Hồ trong không lưu bóng
Nhạn qua rồi bặt tăm
Thao thức sao bóng chiều
Hồn Châu Á cao siêu
Ngàn năm ngàn năm vẫn
Như gấm dệt hoa thêu
TRẺ THƠ
Chùa xưa mái ngói cũ
Trèo lên nắm cây sào
Đêm khuya rồi không ngủ
Kéo rụng bao nhiêu sao?
NỤ
CƯỜI
“Niêm hoa
vi tiếu…” Gởi Pháp hữu Nhất Hạnh
Khát khao một nụ cười
Khi thấy cành Sen tươi
Mơ về ba ngàn cõi
Vào ra vạn cuộc đời
Bao giờ nhìn hạt cát
Là vũ trụ mênh mông
Ta-Bà là Cực-Lạc
Ta nhập với vô cùng
Ngày xưa ngài Ca Diếp
Nhìn hoa cười tự nhiên
Nụ cười qua muôn kiếp
Ngào ngạt làn hương Thiền
Cười khóc đã bao lần
Những tâm tình thế nhân
Vui buồn bay thấp thoáng
Trời xanh mây xoay vần
Khuya nay vừa tỉnh mộng
Ta cười đếm ngón tay
Ô, mình là Vang Bóng
Ngoài hiên, trăng sáng đầy
RA
ĐI
Ra đi: biển cả vô cùng
Tâm tư góp lại, nhớ nhung gởi người
Biển lòng sóng vỗ mù khơi
Quê Hương, Đạo Pháp, Nụ Cười còn đây
Trăm năm vẫn ánh trăng đầy
Nghìn năm sau nữa vẫn mây cuối trời
Ta mang chút lửa trong người
Đem về sưởi ấm cuộc đời lao sinh
Ô hay! non nước của mình
Mà sao ta phải dứt tình ra đi?
Los
Angeles, ngày 6-4-1978
THIỀN MÔN CÒN ẢNH HÌNH THẦY
Kính tặng:
Giác Linh H.T. THÍCH THIỆN MINH kỷ niệm ngày giỗ đầu của Hòa Thượng.
Trời chẳng bao giờ vắng bóng mây
Thiền môn còn đó ảnh hình Thầy
Tối khuya chuông vẳng nơi nào nhỉ
Có thấy lòng buồn khắp đó đây
Cách biệt Thầy ơi, mới tháng nào
Cuộc đời như thế giấc chiêm bao
Bích Khê còn đó, hồn quê cũ
Mường tượng từ dung bỗng nghẹn ngào
Lòng nghẹn chưa từng nói được đâu
Làm sao hết được nỗi u sầu
Mai này lá rụng xin về cội
Đốt nén tâm hương LỄ GIỖ ĐẦU
Thâm cảm thân người kiếp khổ không
Ngàn năm vẫn nhớ nổi đau lòng
Con đường lịch sự Thầy qua đó
Phật giáo dâng lên một đóa hồng
Tôi đã đêm đêm tưởng nhớ Thầy
Mái chùa, sông núi quẩn quanh đây
Đời như mộng huyễn sao mình khóc
Lệ đổ dâng cao nổi hận này
Los Angeles, ngày 17-10-79
VU
LAN ĐẾN GIỮA LÒNG NGƯỜI
Xót xa giữa bến trần gian
Phút giây rợn ngợp, Vu Lan lại về
Cô đơn bao hủ bốn bề
Trời xanh còn lại hồn quê trong lòng
Bao giờ rũ áo chờ mong
Thị phi rồi cũng xuôi giòng thời gian
Đi lên tột đỉnh đồi hoang
Một mình mình biết, cơ hàn ai hay
Dừng chân trong mái chùa này
Sớm khuya kinh kệ, tháng ngày đi qua
Đi lên tột đỉnh đồi hoang
Một mình mình biết, cơ hàn ai hay
Dừng chân trong mái chùa này
Sớm khuya kinh kệ, tháng ngày đi qua
Ngậm ngùi nhớ nước nhớ nhà
Vu Lan đến giữa lòng ta phiêu bồng
Lạnh lung như cả mùa đông
Nắng vàng không ấm, mây hồng bay xa
Hôm nay cầu nguyện quê nhà
Qua cơn hoạn nạn, rồi ra môi cười
Vu Lan đến giữa lòng người
Mục Liên ẩn hiện sáng ngời độ sinh
Nhớ quê, tụng một thời kinh
Lắng nghe tất cả đạo tình mênh mông
Chùa Việt Nam, mùa Vu Lan 2524
NẮNG MỚI
Nắng mới
Sương sa
Hoa mới nở
Lòng Xuân phơi phới đổi lòng trời
Đạo Pháp chưa tròn
Quê Hương nợ,
Việt Nam gọi mãi suốt muôn đời
Kỷ niệm
Một Xuân mới trên đất mới Los Angeles, chiều 8 June 1978
GỌI TÔI
Có ai gọi mãi tên tôi
Hai năm xa xứ đứng ngồi không yên
Quê Hương, Đạo Pháp chưa quên
Con tim ôm trọn ba miền nhớ thương
Gọi tôi chi suốt đêm trường
Chuông chùa vang vọng trên đường tôi đi
Gọi tôi, tôi biết làm gì
Nắng mưa đổ xuống lầm lì thời gian
Trăm năm trong chiếc áo vàng
Hoàng hôn đứng đợi đò ngang không bờ
Tôi đi giữa phố bơ vơ
Hai tay sờ soạng tôi chờ tìm tôi
Năm nay, năm mốt tuổi rồi
Đáy hồn ray rức nổi trôi kiếp người
Tha hương còn đó hoa tươi
Gọi tôi, xin gởi nụ cười đắng cay
Gọi tôi trên bến đò này
Sông kia núi nọ chia tay thuở nào
Sàigòn, còn đó chiêm bao
Gọi lên một tiếng, ngọt ngào nghìn năm…
Los
Angeles, S.Olive chiều 20-3-1979
TA
GỌI XUÂN VỀ
Ta gọi xuân về, xuân ở đâu
Núi sông xa lạ nắng vương sầu
Tâm tư một kiếp còn nguyên vẹn
Thế sự bao lần hóa biển dâu
Ta gọi xuân về, xuân vẫn đang
Mênh mông trời biển gió lang thang
Ngồi trong đêm lạnh quê hương nhớ
Chùa cũ, vường xưa hoa cải vàng
Ta gọi xuân về, xuân đến chưa
Hồn xuân chưa đến giữa mong chờ
Hương xuân chưa ấm hồn dân tộc
Ngày tháng đi về trong ước mơ
Ta gọi xuân về, xuân quá cao
Lệ đâu ray rức mãi tuôn trào
Chuông xưa không đánh mà vang vọng
Tiếng pháo giao thừa mãi khát khao
Ta gọi xuân về, xuân đại dương
Khói chiều lam quyện bóng quê hương
Sóng dâng dào dạt tình thương nhớ
Nam Việt kêu hoài vẫn nhớ thương
Ta gọi xuân về, xuân ở đây
Hai tay nâng một đóa hoa này
Đong đưa cánh bướm vàng bay đến
Đã thấy xuân về với cỏ cây
Ta gọi xuân về, xuân bướm bay
Trang Sinh nằm mộng biết bao ngày
Thời gian dù có ngàn năm nữa
Xuân đến lâu rồi, ai có hay
Ta gọi xuân về, xuân của ta
Tâm xuân tô điểm cả Ta-Bà
Như trăng chiếu xuống khắp trần thế
Mỗi một con người mỗi đóa hoa
Ta gọi xuân về, xuân tự nhiên
Thoáng trong hơi thở có hương Thiền
Cành mai, khóm trúc vương mùi Đạo
Thế giới trong ta lắng não phiền
Ta gọi xuân về, xuân lặng thinh
Đẹp như trời mộng Kim Cang Kinh
Trước chùa một cánh đào xinh nở
Là cả vườn xuân của thái bình
Los
Angeles, Xuân Tân Dậu