I. Ông
Vua có tâm phật
Nghiên
cứu đạo Phật Việt Nam chúng ta thấy rất rõ, thời Trần
nổi bật những ông vua Phật tử đáng kính. Vua Trần Thái
Tông, nhìn với cặp mắt nhà Thiền có thể nói Ngài là một
ông Vua Thiền sư. Tuy ngồi trên Ngai Vàng nhưng Ngài hiểu thiền
rất sâu, tâm thiền rất sáng và sống thiền rất đắc lực.
Qua tác phẩm Khoá Hư Lục và giây phút rời bỏ cuộc đời
của Ngài đã nêu rõ điều đó
Vua
Trần Thánh Tông cũng Thế, Thánh Đăng Lục ghi rõ cho thấy,
sức sống thiền của Ngài thật là vững vàng, đến mé bờ
sinh tử vẫn có sức tự chủ và sáng suốt mà một vị xuất
gia bình thường khó theo kịp.
Riêng
vua Trần Nhân Tông, quả là một ông vua Phật của Việt Nam
đúng với sự tôn xưng từ trước tới nay. Ngài có duyên
sâu với Phật từ thuở nhỏ.
Sinh
ra, thân sắc vàng như sắc Phật . Lớn lên năm 16 tuổi, được
vua cha lập làm Hoàng thái tử, Ngài hai lần cố xin nhường
lại cho em là Đức Việp, nhưng vua Thánh Tông không cho, vì
thấy Ngài có khả năng ghánh vác việc lớn. Trong khi đó,
lịch sử lại biết bao trang sử đau lòng, chỉ vì ngôi vị
mà cốt nhục tương tàn. Hạt giống Phật đã ngầm chứa
sẵn trong Ngài mà biểu lộ ra như thế.
Rồi
một hôm. Ngài lại vượt thành tìm về Yên Tử tu hành . Điều
này đâu có ai dạy Ngài. Nếu không vì chúng Phật tử ngầm
chứa trong Ngài nó thúc đẩy, thì cái gì khiến làm Ngài như
thế? Với cái nhìn của nhà Phật, đều có nhân duyên chứ
không phải ngẫu nhiên. Việc này lại trùng hợp với đức
Phật, khi làm Thái Tử Tất Đạt Đa cũng đã vượt thành
xuất gia tìm đạo. Song với vua Trần Nhân Tông, lúc ấy Vua
cha cho người tìm gọi về, Ngài đành phải về. Thiền sư
Chân Nguyên đã thuật lại trong Thiền Tông Bản Hạnh:
Đêm
ấy thái tử thoát ra du hành
Tìm
về Yên Tử một mình,
Đến
Đông Cứu sơn, thiên minh rạng ngày.
Giả
tướng lệ người thế hay,
Vào
nằm trong tháp một dây đỗ dùng
Tăng
tự thấy tướng lạ lùng
Làm
bữa cơm thiết cúng dàng cho ăn
Hoàng
Hậu liền tâu Minh Quân
Rao
bảo thiên hạ quần thần Đông Tây
Tìm
tòi Thái tử chớ chầy
Bắt
em thay trị liền tay tức thì…
Thuở
ấy Thái Tử lại về,
Vua
cha nhượng vì cho trị vạn dân
Rồi
tuy ở địa vị cao sang, quyền quý mà ăn chay, sống đạm
bạc không thụ hưởng đến nỗi thân ốm gầy, vua cha lại
phải gọi lại than:” Nay ta đã già, chỉ trông cậy một
mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác sự nghiệp
của Tổ Tiên?”
Một
duyên lành với Ngài nữa là, được vua cha cho theo học với
Thượng Sĩ Tuệ Trung, một bậc Thiền Sư Cư Sĩ phi thường.
Nhân đây Ngài hiểu sâu về thiền. Trong lời tựa sách Tuệ
Trung Ngữ Lục, Ngài có thuật lại đoạn hỏi đáp với Thượng
Sĩ, Ngài hỏi:”Thế nào là tông chỉ của việc bổn phận?”.
Thượng Sĩ đáp:”Soi sáng lại chính mình đó là việc bổn
phận, chẳng tử nơi nào khác mà được”.
Ngài
được sâu ý chỉ này. Có thể nói, một câu đáp này thâu
tóm trọn cốt tuỷ của Thiền và gồm suốt giáo lý một
đời của đức Phật. Chư Phật, chư Tổ nói Phật đều vì
con người, người nghe pháp phải vượt qua ngôn ngữ văn tự
chết mà soi sáng lại nơi mình, chuyển những lời kinh khô
khan đó vào cuộc sống hiện thực đây, đó mới là Phật
pháp sống. Bởi vậy, thiền tông chủ trương “Giáo ngoại
biệt truyền, bất lập văn tự”, khiến người không chết
chìm trong đám rừng chữ nghĩa vô tri ấy. Vua Trần Nhân Tông
đã được Thượng sĩ khơi đúng mạch nguồn Phật pháp đó,
và Ngài tiếp nhận đúng lúc, lấy đó làm cửa mở vào Thiền.
II. Con đường
xuất thế:
Sau
hai lần lãnh đạo quân dân Đại Việt đánh thắng giặc Mông,
năm 1293 Ngài nhường Ngôi cho Anh Tông, lên làm Thái Thượng
Hoàng và chuẩn bị con đường xuất thế cho mình. Bước đầu
Ngài ở Vũ Lâm như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại:”Bấy
giờ Thượng hoàng ngự đi Vũ Lâm dạo chơi hang đá. Cửa
núi đá hẹp, Thượng hoàng đi chiếc thuyền nhỏ, Thái Hậu
Tuyên Từ ở đằng đuôi thuyền, gọi Văn Túc Vương lên đằng
mũi thuyền. Chỉ cho một phu chèo thuyền mà thôi. Kịp đến
khi Thượng hoàng xuất gia, khi Thượng hoàng sắp ra đi, bèn
mời Đạo Tải vào điện Dưỡng Đức, cung Thánh Từ ban cho
ngồi ăn đồ biển, làm thơ rằng:
Chân
rùa bóc đỏ mọng,
Yên
ngựa nướng vàng thơm.
Sơn
Tăng giữ giới sạch,
Cùng
ngồi chẳng cùng ăn.
(Hồng
thấp bác quy cước,
Hoàng
hương chá mã yên.
Sơn
Tăng trì tịnh giới,
Đồng
toạ bất đồng san).
(Trích
Toàn Tập Trần Nhân Tông)
Lúc
này vua đã ăn chay, giữ tịnh giới, chuẩn bị cho bước xuất
gia xắp tới.
Đến
tháng 7 năm 1299, Ngài cho xây dựng một am thiền trên núi Yên
Tử gọi là Ngự Dược Am, và theo Thánh Đăng Lục thì qua
tháng 10 năm ấy vua mới thực sự lên núi Yên Tử xuất gia
tu hành, sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Thiền Tông
Bản Hạnh ghi:
“Kỷ
Hợi Nhân Tông ra ngoài,
Quyết
lên Yên Tử tu chùa Hoa Yên.
Quần
thần nghĩa sĩ dưới trên,
Đưa
vua tu đạo thoát duyên phàm trần.
Đến
chùa Long Động mới phân,
Tất
trừ phiền não ái ân phát nguyền.
Nhân
Tông khắn khắn lòng tin,
Thành
tâm trai giới bước lên chiền già.
Cung
tần thể nữ trở ra,
Người
về phối thất, kẻ ra Kinh kỳ.
Mai
ai ra chợ về quê,
Canh
nông buôn bán làm chi mặc lòng”.
Tức
là lúc này quần thần, quyến thuộc tiễn đưa Nhân Tông vào
núi Yên Tử xuất gia tu hành, đến chùa Long Động mới chia
tay. Với cung nữ, Ngài cho tự do về quê lập gia đình hoặc
làm gì tuỳ ý, dứt khoát buông xả hết không coi là của
mình. Đây mới thật sự cắt đứt ân ái, xuất gia hành đạo.
Do đó có câu chuyện suối Giải Oan và làng Nàng làng Mụ.
Rày
trẫm đầu Phật xuất gia,
Trăm
đường rũ hết lòng hoà tiếc chi.
Chị
hầu, bà mụ, cung phi,
Mộ
đạo chẳng về cảm đức ở đây.
Lòng
vua thấy vậy thương thay,
Phán
rằng cho ở một nơi tâm tuyền.
Cho
nên tích để lưu truyền.
Làng
Nàng làng Mụ, phúc duyên đã chầy”.
(Thiền
Tông Bản Hạnh)
III. Tu hành
ở Yên Tử:
Vào
Yên Tử Ngài quyết tâm sống đời xuất gia giải thoát, từ
bỏ những hưởng thụ của thế gian, thực hành 12 hạnh Đầu-đà,
tức sống khổ hạnh, đạm bạc, lấy hiệu là Hương Vân
Đại Đầu-đà, sau đổi là Trúc Lâm Đầu-đà. Tên Trúc Lâm
này cũng là hiệu của Quốc Sư Trúc Lâm –viên chứng, một
bậc Thiền Tổ của Yên Tử đã khai thị cho vua Trần Thái
Tông”Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Tâm
ta lặng mà biết đó chính là tâm Phật. Nếu bệ hạ giác
ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ,
không cần đi tìm cực khổ ở bên ngoài”.
( Lời
tựa Thiền Tông Chỉ Nam).
Một
ông vua anh minh, tiếng tăm vang dội, lại sống cuộc đời
đạm bạc đến mức tối đa nơi rừng núi, thì phải biết
lòng mộ đạo của Ngài rất chân thành. Trong đài Đắc Thú
Lâm Tuyền Thành Đạo Ca, một bản văn bằng chữ Nôm, Ngài
đã bộc lộ:
Công
danh chẳng trọng
Phú
quý chẳng màng.
Tân
Hán xưa kia,
Xem
đà nhàn hạ.
Kiếm
chốn dưỡng thân.
Khuất
tịnh non cao,
Náu
mình sơn dã
Vượn
mừng hủ hỷ
Làm
bạn cùng ta.
Vắng
vẻ ngàn kia
Thân
lòng hỷ xả.
Rồi
Dốc
chí tu hành,
Giấy
sồi vó vá
Và
Thân
này chẳng quản,