PHẦN A:
GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
I. DẪN NHẬP
1. Giới thiệu đề tài:
Lịch
sử loài người là một quá trình chuyển hoá liên tục, không ngừng nghỉ. Sự
chuyển hoá xảy ra trên nhiều bình diện của cuộc sống và nó gắn liền với
môi trường xung quanh tạo thành một hợp thể tác động hai chiều thúc đẩy
loài người cứ thế phát triển mãi không ngừng. Yếu tố chuyển hoá là
nguyên lý vận động của các lực lượng tồn tại. Nếu không có yếu tố này mọi
giá trị tồn tại đi vào sự huỷ diệt. Quá trình chuyển hoá và quá trình
trao đổi chất trong cách thế tự điều tiết để giữ vị thế thăng bằng. Trong
giới tự nhiên, sự trao đổi chất có tính cách tự điều tiết, tự phân phối
điều hợp theo bản năng tự nhiên của chúng. Con người ở thời kỳ ban sơ,
còn mông muội, vẫn sống trong qui luật này, nhưng do quá trình lao động,
cọ xát với môi trường sống, con người dần dần tách mình ra khỏi lực lượng
thiên nhiên và xem lực lượng này như là đối tượng quan sát và chinh phục.
Lao động giúp cho trí não con người phát triển, biết tạo ra công cụ để lao
động tạo ra sản phẩm cho nhu cầu cuộc sống, biết tư duy, con người bây giờ
lần lần lột xác để bước vào thời kỳ khai sáng. Từ đó con người biết kế
thừa tiếp nối mạch khai sáng qua kinh nghiệm lao động kéo dài hàng nghìn
năm. Sự trao truyền và kế thừa nghiễm nhiên trở thành yếu tố quan trọng
cho sự tồn tại và phát triển của con người, nó quyết định khả năng tri
thức và khả năng sáng tạo, xa hơn nữa, nó đưa con người xích lại gần hơn,
cùng chung sống trong mối quan hệ trao đổi xây dựng và phát triển tính
chất toàn cầu.
Từ nhận
thức về hiện tượng giới khám phá ra nguyên lý vận hành và phát triển của
giới tự nhiên, con người đã tự đặt mình trong mối quan hệ tổng hoà giữa
các lực lượng tồn tại tạo nên sự trao đổi chất để chuyển hoá mọi hoạt động
nhằm nâng cao trí tuệ cải thiện đời sống của mình ngày càng tốt đẹp hơn.
Chính điều này tạo nên tiền đề để dần dần định hình nên một kỹ thuật giáo
dục con người tiến triển trên con đường thể nhận cái chân-thiện-mỹ. Giáo
dục có thể nói có từ rất sớm từ khi loài động vật có giác tính cao xuất
hiện trên hành tinh này. Do bản năng, các loài vật truyền đạt cho nhau
bằng những tín hiệu của chúng. Nhưng nơi con người, vì có cấu trúc sinh
lý rất thuận lợi, có lý trí, biết sáng tạo ra công cụ, có bộ óc tổ chức
tinh vi, có ngôn ngữ, có tổ chức xã hội, nên giáo dục của loài người phát
triển theo thời gian rất nhanh. Giáo dục chỉ xuất hiện trong môi trường
cộng đồng, không xuất hiện con người sống cách ly ra ngoài cộng đồng.
Giáo dục chính là sự tương hệ trao đổi để chuyển hoá nhằm nâng hệ giá trị
của cuộc sống ngày càng cao hơn.
2.
Phạm vi đề tài:
“Nguyênlý giáo dục của đạo Phật”, đó là đề tài của tập luận văn này.
Bài viết khảo hướng về nguyên lý tạo thành nền giáo dục của đạo Phật. Tuy
khảo hướng về nguyên lý giáo dục nhưng bài viết đề cập nhiều vấn đề về
phạm vi giáo dục được ứng dụng từ các nguyên lý đó. Về nguyên lý, tác giả
khảo hướng các nguyên lý sau đây trong tư tưởng Phật Đà:
-
Nguyên lý duyên khởi và hệ luận vô ngã
-
Tứ diệu đế được xem như nguyên lý giáo dục
Chính
các nguyên lý này đã tạo dựng nên nền giáo dục Phật giáo phong phú đa
Dạng.
Ngoài việc phân tích khảo hướng các nguyên lý trên theo định đề giáo dục,
tác giả còn tập chú các mặt khác của giáo dục như:
-
Mục đích giáo dục của đạo Phật
-
Phương pháp giáo dục của đạo Phật.
Đề cập
tính duyên khởi là nói đến tính tập khởi trong mối quan hệ đồng đẳng phụ
Thuộc
lẫn nhau, không cái nào quyết định cái nào, vì mọi hiện tượng đều xảy ra
bằng tác động hỗ tương. Tuy nhiên, ở giá trị định đề thì nó vẫn có tác
dụng nhất định và có thể lấy nó làm nhân tố chính để khảo sát và các điều
kiện khác được xem như giá trị phụ thuộc. Một hệ luận khác của duyên
khởi, đó là thuyết lý vô ngã. Nói vô ngã tức là đề cập đến bản thể của
hiện tượng, ngược lại nói duyên khởi tức là muốn đề cập đến hiện tượng của
bản thể. Vì nguyên lý này là bản chất của thực tại, là phạm trù bất biến
của thực tại và cũng là quy luật vận hành của thực tại. Nắm vững quy luật
của thực tại, đạo Phật xây dựng tư tưởng giáo dục trên hai phạm trù cơ bản
đó. Vì đây chỉ là một khảo hướng nên chưa đi sâu vào nguyên lý này. Có
thể nói đây được xem như là dự phóng sau bốn năm ngồi ghế nhà trường đã
rút tỉa được những gì từ giáo lý Phật đà và kinh nghiệm truyền thụ của các
bậc thầy đã dày công nghiên cứu.
Ngoài
việc phân tích duyên khởi và hệ luận của nó theo hướng giáo dục nguyên lý
bốn sự thật cũng được đề cập đến. Vì suốt cuộc đời của đức Phật, ngài chỉ
thuyết về khổ, con đường thoát khổ và diệt khổ. Trong 45 năm đi hoằng hoá
đức Phật không nói gì hơn ngoài bốn chân lý này. Bốn sự thật được xây
dựng trên định thức duyên khởi, do đó, ngay trong bốn sự thật, duyên khởi
bao hàm cả hai chiều vận động: sanh và diệt, tất nhiên, gạt bỏ duyên khởi,
không thể nhận thức được bốn sự thật. Từ nhận thức trên, những chủ đề còn
lại được khảo hướng theo tư tưởng Phật đà và mở ra một định hướng mới cho
sự nghiệp giáo dục có tính toàn cầu để tháo gỡ những khủng hoảng đang tồn
đọng đè nặng xã hội.
Trong
tập luận văn khảo hướng này, phạm vi tham cứu không giới hạn ở văn bản nào
của Phật giáo. Tất cả các lời dạy của đức Phật và các vị thánh đệ tử của
Ngài được kết tập qua ba tạng: Kinh, Luật, Luận đều là đối tượng tham
cứu. Vì giáo dục là một khái niệm mở nên trên địa hạt hoạt động của nó
rất rộng, nó đi vào tất cả các lĩnh vực khoa học. Và có thể nói tất cả
đều đan xen vào nhau tạo thành mạng lưới khổng lồ chằng chịt rất phức
tạp. Tuy nhiên, ở đây chỉ nêu ra những nguyên lý cấu thành cơ sở giáo dục
trong hệ giáo lý Phật Đà.
II. TỔNG LUẬN VỀ NGUYÊN
LÝ GIÁO DỤC:
1. Định nghĩa giáo dục:
Khái niệm
giáo dục rất phức tạp, do đó đi tìm định nghĩa rõ ràng về khái niệm của từ
này quả thật không đơn giản. Trong cuốn “The Educator encyclopedia” của
ba học giả Mỹ E.W. Smith, S.W. Krouse và M.M.Atkinson, 1969, USA, cho rằng
khái niệm giáo dục chuyển tiếp từ phương đông đến thái độ phương Tây. Vậy
thì trong các nhà giáo dục phương Đông đã định nghĩa như thế nào từ này?
Hứa thận, trong “Thuyết văn giải tự”, đã giải thích khái niệm giáo dục:
“Giáo thượng sở thi, hạ sở hiệu dã”. Và “Dục, dưỡng tử sử tác thiện dã.”
Mạnh tử nói: “Đắc thiên hạ anh tài nhi giáo dục chi”. Trong Larouse
Universelle của Pháp định nghĩa: “Giáo dục là toàn thể những cố gắng có ý
thức để giúp tạo hoá trong việc phát triển các năng lực thể chất, tinh
thần và đạo đức của con người, hướng về sự toàn thiện, hạnh phúc và sứ
mạng xã hội của con người.” (Trích dẫn từ Sư Phạm Lý Thuyết, nhiều tác
giả, nhà xuất bản Trẻ 1971). Trần Văn Quế trong một tác phẩm cùng tựa đề
Sư Phạm Lý Thuyết, 1968, định nghĩa về phép giáo dục: “Phép giáo dục là
toàn thể những động tác, những ảnh hưởng đã được sử dụng theo ý muốn của
một người đối với một người, hay nói đúng hơn, của một người cao niên với
một người thiếu niên và được hướng theo mục đích đào tạo ở người thiếu
niên những tính chất đủ các loại mà một khi trở nên trưởng thành người ấy
cần phải đạt được”. Thiết nghỉ đưa ra như thế cũng đủ rõ khái niệm giáo
dục rồi, tuy nhiên cần phải tiến thêm một bước nữa để tìm hiểu, từ điển
tiếng Việt (của viện ngôn ngữ học, Trung tâm từ điển học, Nxb Giáo dục,
1994, trang 379) có ghi: “Giáo dục 1. (động từ). Hoạt động nhằm tác động
một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của đối tượng
nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực
như yêu cầu đề ra. 2. (danh từ). Hệ thống các biện pháp và cơ quan giảng
dạy giáo dục của một nước”.
Các định
nghĩa trên, về quan điểm chung, điều cùng có một ý nghĩa. Chúng biểu hiện
trên hai mặt, đó là mặt triết lý giáo dục và khoa học giáo dục. Triết lý
giáo dục là sự áp dụng của triết học tự thân đối với việc nghiên cứu những
vấn đề, mà những vấn đề đó nằm trong phạm vi giáo dục. Một triết lý giáo
dục đúng đắn được sự đặt trên nền tảng triết lý sống tương xứng. Và khoa
học giáo dục giúp đỡ với ý nghĩa phương pháp kỹ thuật và công cụ sẽ được
dùng để nghiên cứu những mục đích được hoạch định thông qua triết lý giáo
dục. Mối quan hệ giữa khoa học giáo dục và triết lý giáo dục đồng đẳng
mật thiết không thể tách rời. (1)
2. Ý
niệm về nguyên lý và nguyên lý giáo dục:
a.
Ý niệm về nguyên lý:
Nguyên
lý là định luật cơ bản có tính chất tổng quát chi phối cả một loạt hiện
tượng(2). Nó còn có nghĩa là cơ sở đầu tiên, là điểm xuất phát, là khái
niệm trung tâm, là cơ sở của hệ thống khái quát và vận dụng quy luật nào
đó vào tất cả những hiện tượng khách quan mà từ đó diễn dịch ra, hướng dẫn
hoạt động tư duy, lý luận và thực tiễn của con người (3)
Ý niệm
về nguyên lý tuỳ theo góc độ nhìn mà có khái niệm cụ thể. Ở bình diện
luận lý học, nói đến nguyên lý tức là các chuẩn tắc cấu thành mệnh đề;
trên phương diện thực tiễn, nguyên lý chính là các nguyên tắc căn bản của
mọi hành động; về mặt triết học, nói đến nguyên lý là nhằm để chỉ các căn
nguyên của mọi sự vật và hiện tượng; theo tinh thần khoa học, nguyên lý
được xem như là những định luật, định lý căn bản nhằm thuyết minh sự thể,
hiện tượng.
b.
Nguyên lý giáo dục:
Đi từ ý
niệm trên, ý niệm về nguyên lý giáo dục nghĩa là nền tảng của hệ thống
giáo dục
mà từ đó nghiên cứu, vạch định và định hướng mục tiêu, nhiệm vụ, đối
tượng, nội dung, phương pháp và tổ chức giáo dục.
Nguyên
lý của giáo dục như thế nào thì nó nặn ra hệ thống giáo dục và con người
như thế ấy. Như nền giáo dục xã hội chủ nghĩa dựa trên nguyên lý duy vật
tạo ra con người chủ nghĩa xã hội duy vật khách quan, thoát khỏi đầu óc
duy tâm thần bí, giáo điều. Hoặc các nền giáo dục khác có các nguyên lý
khác nhau, như: Duy linh, Duy thực, Duy tâm, Duy nghiệm, hoặc các chủ
nghĩa, học thuyết khác…
3.
Khái luận về đạo Phật.
Đã tốn
khá nhiều giấy bút để viết về đạo Phật, và câu hỏi đặt ra cái gọi là đạo
Phật
Có phải là một tôn giáo không?. Thật có quá nhiều
bàn cãi về vấn đề này; Nói nó không phải là tôn giáo cũng đúng, nếu hiểu
tôn giáo theo kiểu các tôn Phương Tây; nói nó là một tôn giáo cũng đúng,
nếu hiểu theo ý niệm của các giáo thuyết phương Đông. Tuy nhiên, vấn đề
này ở đây không đem ra bàn cãi, vì đây là một tập luận thuyết về giáo dục
nên chỉ nhìn vị sáng lập ra đạo này như một nhà giáo dục, một bậc Thầy vĩ
đại của nhân loại mà trong suốt chiều dài lịch sử hình bong của Ngài đã đi
vào trang sử văn hoá của nhân loại. Những cống hiến
của Người thật vĩ đại. Nhân loại ghi ơn Ngài. Vị giáo chủ khai sáng ra
đạo Phật là Sakyamuni. Tên của Ngài là Siddhattha, họ Gotama, thuộc bộ
tộc Sakya, sinh năm 624, tại vương thành Kapilavatthu (thuộc Nepal ngày
nay, gần biên giới Ấn Độ), ở Bắc Ấn Độ. Cha của Ngài là vua Suddhodana
và mẹ là Mahà Màyà. Năm 16 tuổi Ngài lập gia đình với công chúa Yasodhara
và đã hạ sanh hoàng nam là Ràhula. Nhận thấy cuộc đời giả tạo, đau khổ
triền miên trong đêm dài vô minh, năm 29 tuổi, Ngài vượt thành xuất gia
học đạo. Trải qua nhiều năm học hỏi với các danh sư nổi tiếng đương thời
như: Alàràma Kàlàma, Uddaka Ramaputta…học thuyết của họ không đưa đến sự
giải thoát vĩnh hằng, Ngài từ giã họ ra đi, cuối
cùng, Ngài cùng với nhóm Kondanna ép xác khổ hạnh 6 năm trời, bấy giờ thân
thể Ngài chỉ còn da bọc xương. Nhận thấy lối tu này không đưa đến kết quả
mà càng ngày càng tiều tuỵ nguy kịch xác thân và làm
cho tinh thần hết minh mẫn, Ngài từ bỏ pháp môn ấy và đi theo con đường
Trung đạo, không khổ hạnh cực đoan và không đam mê dục lạc. Sau khi Ngài
tự chọn con đường, Ngài liền đến thiền toạ dưới tán
cây Pippala bên dòng sông Neranjara, nơi đây Ngài vượt qua tất cả mọi
chướng ngại và ánh bình minh chân lý xuất hiện, Ngài đã giác ngộ, thấu
triệt mọi nguyên lý vận hành vũ trụ, Ngài thấu triệt nguyên lý chi phối
con người. Từ đó, Ngài mở ra con đường để giải thoát khổ đau, Ngài đem
ánh sáng trí tuệ phá tan đêm dày vô minh của nhân loại. Suốt cả cuộc đời,
Ngài đã vì hạnh phúc lợi ích cho nhân loại, với những ai có duyên, Ngài đã
giáo hoá họ, ai chưa đủ duyên, Ngài tìm cách gieo
duyên. Kể từ khi Ngài đạt đạo năm 35 tuổi cho đến khi nhập Niết bàn lúc
80 tuổi, Ngài không ngưng nghỉ giây phút nào, Ngài dành trọn cuộc đời cho
sự nghiệp giáo hoá chuyển mê khai ngộ. Đêm cuối
cùng tại rừng Sàla nơi Uparattana ở Kusinàrà, sau khi dặn dò các đệ tử,
Ngài an n hiên nhập Niết bàn (4)
Nguyên
lý Duyên khởi và Tứ đế là hai thuyết lý căn bản của đức Phật. Nhựng gì
Ngài nói trong suốt 45 năm không đi ra ngoài hai thuyết lý đó. Đức Phật
xác định rõ, ai thấu triệt được Duyên khởi thì người đó thấy được Như Lai
(Tathagata) và ai ngộ được Tứ thánh đế tức là người ấy được giải thoát.
Duyên khởi và Tứ đế đóng vai trò nòng cốt trong giáo lý đạo Phật, được xem
cột sống của tư tưởng đạo Phật. Cho đến, sau khi Phật diệt độ, các môn đệ
của Ngài triển khai khuếch tán tư tưởng này thành nhiều chủ đề phong phú.
Duyên khởi và Tứ đế mở ra chân trời nhận thức luận về vũ trụ quan và nhân
sinh quan, nó giải thích mọi hiện tượng vũ trụ và con người. Từ hai
nguyên lý này, đạo Phật đã xây dựng một triết lý hành động để đi vào cuộc
đời nhằm chuyển mê khai ngộ và chấm dứt khổ đau đưa đến an lạc
PHẦN B:
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. NGUYÊN LÝ GIÁO DỤC
PHẬT GIÁO
Giáo dục là
một hiện tượng tiến hoá của xã hội loài người, không có giáo dục con người
chỉ sống theo bản năng của thú tính. Nhờ giáo dục, loài người thoát khỏi
trạng thái mông muội hỗn độn và phát triển dần dần về khí chất, từ con
người nô lệ trước lực lượng thiên nhiên đến con người chinh phục thiên
nhiên phục vụ cho đời sống, từ con người Australopithecus đến con người
Pitheanthropus Erectus (người khỉ đứng thẳng) rồi tiến hoá dần đến con
người Homo Sapiens; từ nền văn minh đồ đá tiến triển dần đến văn minh đồ
đồng, đến đồ sắt, rồi đến thời kỳ công nghệ hơi nước (Era of power
engineering), tiếp diễn đến thời đại cơ khí hoá (Era of Mechanization) và
đến nay là thời đại tự động (Era of Automation); từ đời sống cộng cư
thành từng bầy từng đàn đến tổ chức thành bộ tộc bộ lạc dần dần đi đến tổ
chức xã hội. Giáo dục chỉ xuất hiện ở con người xã hội, không có giáo dục
nơi con người tách rời ra khỏi cộng đồng xã hội. Từ những biến chuyển của
lịch sử, con người càng ngày càng ý thức cao về vai trò giáo dục, bấy giờ
giáo dục nghiễm nhiên trở thành một bộ phận quan trọng quyết định sự tiến
triển của nhân loại, nó có một vị trí xung yếu có tính cách toàn cầu trong
công cuộc duy trì bảo vệ những thành quả đã tạo và khám phá ra cái mới.
Vào thời
cổ đại, các nhà tư tưởng lớn làm công tác văn hoá giáo dục luôn luôn đi
tìm chân giá trị đích thực cho nền giáo dục, và mãi cho đến ngày nay, các
nhà làm giáo dục trên thế giới vẫn đang nghiên cứu hì hục đẩy mạnh giáo
dục để đưa nhân loại tiến nhanh hơn đến chỗ toàn mỹ. Thế thì, vấn đề đặt
ra là giáo dục dựa trên cơ sở nào để hình thành? Nói đến giáo dục là giáo
dục con người, vậy con người là gì? Xã hội là kiện khách quan ra sao? Đó
là hàng loạt vấn đề căn bản mà nhà giáo dục đặt ra để giải quyết nhằm đưa
đến hiệu quả cao trong lĩnh vực này. Trước những vấn đề của con người cưu
mang hàng thế kỷ, Đức Phật đã có thái độ thực sự, Ngài mang cả tính mạng
của mình để đi tìm ađ1p án giải quyết tận căn nguyên của vấn đề. Thể tính
chân lý hình thành và chi phối các hữu thể tồn tại đã được khám phá khi
ánh sao mai ló dạng, đức Phật đã tìm ra được nguyên lý của vũ trụ, từ đó,
Ngài vạch định con đường giáo dục xây dựng trên các nguyên lý đó đưa con
người vượt thoát những mê lầm, cởi bỏ mạng lưới thiên lệch, đạp đổ các
thành trì chủ nghĩa cực đoan giáo điều, gột sạch đầu óc chủ quan đầy ắp
những định đề, đưa con người đến cái nhìn thư thật (như thị tri, như thị
kiến) và thực tại như là thực tại (pháp nhĩ như thị). Nguyên lý Duyên
khởi và Tứ đế là hai thuyết lý căn bản làm nguyên tắc tư duy để giải thích
những vấn đề trên và cũng là nền tảng giáo dục của Phật Giáo.
1.
Nguyên lý Duyên khởi (Paticca-Samuppàda)
A. Quy luật duyên khởi và ý nghĩa 12 chi phần:
Con
người và vũ trụ là hai vấn đề muôn thuở. Vào thời đức Phật đã có hàng
trăm
Triết
gia đưa ra những lý thuyết nhằm lý giải vấn đề này. Kinh Phạm Võng có đề
cập đến 62 quan điểm của các triết gia đương thời. Thuyết lý của họ được
đức Phật nhận định: “Như những con cá lớn ở trong hồ nước nhỏ này, tất cả
chúng đều bị bao phủ trong tấm lưới này, dầu chúng có nhảy vọt lên, chúng
vẫn bị hạn cuộc bao phủ ở đây” (5). Trong các quan điểm đó, có thể phân
định thành ba loại: 1- Túc mệnh luận (Pubba-Katahetu), 2- Thần ý luận
(Issara-nimmanahetu), 3- Ngẫu nhiên luận (Ahetu apccaya). Ba luận thuyết
này đã chi phối toàn bộ hệ tư tưởng Ấn Độ đương thời mà đức Phật thường đề
cập đến trong các pháp thoại của mình. Túc mệnh luận chủ trương mạng sống
của người ta do tác nhân quá khứ định đoạt, đời này không thể làm gì thay
đổi được và thế giới cũng không ra ngoài quy luật này. Đại biểu chủ
thuyết này là Makkhali Gosàla. Thuyết Thần ý luận chủ trương tất cả thế
giới do vị hoá chủ sanh và ngài là đấng tối cao chi phối mọi hoạt động
vận hành của tất cả, đây là chủ thuyết của các trường phái hữu thần, trung
tâm chính đó là Ba la môn giáo. Thuyết Ngẫu nhiên luận hay vô nhân vô
duyên luận chủ trương tất cả đều tự nhiên hiện hữu không có tác nhân nào
hay yếu tố nào tạo ra, mọi hiện hữu đều theo qui luật tự nhiên hình thành,
ngay cả sự hiện hữu của con người chỉ là một hợp tố của bốn đại và sau khi
chết bốn đại trở về nơi tự thể của chúng. Đại biểu các chủ thuyết này có
Ajita Kesakambàli, Pùrana Kassapa và Pakudha Kaccàyana (6).
Trước
những chủ thuyết như thế, đức Phật luôn có thái độ dứt khoát. Ngài không
chấp nhận các luận cực đoan trên, bởi vì các học thuyết không chấp nhận
con người và xem con người như một vật bị nô lệ, tai hại hơn thuyết Ngẫu
nhiên chối bỏ mọi nỗ lực của con người để đưa vào ý niệm tự nhiên. Đức
Phật quan niệm rằng tất cả đều tồn tại trong mối quan hệ biện chứng tác
động hai chiều và vận hành ở hai đối cực: sanh và diệt. Không có thực
tính cố định, mà chỉ có những khái niệm giả định trên dòng chuyển biến
liên tục của các pháp. Hiện hữu là một tổng thể đa phức nếu nhìn nó bằng
bất cứ thái độ nào cũng có nghĩa là bôi xoá hoặc cắt xén nó ra từng manh
mún. Nói như thế không có nghĩa thực tại là bất khả tri. Nhưng vì tính
đa phức của nó nên mọi ý niệm ngôn ngữ không lột tả hết được những gì
chúng hiểu hiện ra. Các nhà tư tưởng tập hợp rồi đưa ra ngôn luận đề luận
lý để mô tả hay chứng minh về nó, nhưng đó chỉ là giải pháp khái niệm đưa
các thuộc tính của nó trong trình tự luận lý, nhưng nó chỉ là giải pháp
khái niệm đưa các thuộc tính của nó trong trình tự luận lý. Đức Phật đdã
từng cảnh cáo lĩnh vực này vi tế, khó thấy, khó nhận mà chỉ có ai đạt được
trí tuệ thù thắng (7), còn không, chỉ là những lối mòn quẩn quanh trên mớ
khái niệm bằng những thuộc tính của nó. Định thức Duyên khởi được đức
Phật trình bày như là cánh cửa để đi vào thực tại, bởi vì qua Duyên khởi,
người ta thấy được thực trạng giữa chủ thể và thuộc tính, không thấy tính
chất duyên khởi vĩnh viễn không bao giờ thấy được chân lý tuyệt đối. Mối
quan hệ đa phức hay định thức duyên khởi mô tả thực trạng của các sự thể
tồn tại nương tựa vào nhau, do đó chúng không thể tự quyết định tính thể
của mình, hiện hữu khi không tự quyết định tính thể của nó, hiện hữu đó
không có tính thể (vô ngã-Anattan), được gọi là KHÔNG. Và mọi mệnh đề
khái niệm về sự thể được xem như giả lập, bởi vì không gian đa phức và
thời gian chuyển biến không ngừng trên sự thể đó, và Phật cũng đã tuyên
bố: “thật tướng các pháp vốn rất vắng lặng, không thể diễn tả bằng những
lời chữ, nhưng mà Như Lai áp dụng phương tiện nói pháp ấy ra cho năm tỳ
kheo”.(8). Thật tướng ở đây được đức Phật mô tả là “tướng như vậy, tánh
như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như
vậy, quả như vậy, báo như vậỵ, bản mạt cứu cánh như vậy” (9). Tuy cảnh
cáo trước với các môn đệ về tính siêu việt ngôn ngữ của thực tại, song
ngài cũng phải sử dụng ngôn ngữ đưa vào luận lý nhằm mô tả hay chứng minh
thực tại, và duyên khởi từ lòng thực tại đi ra, giờ đây, trở thành những
mệnh đề khái niệm giả định để thuyết minh chân lý. Duyên khởi vừa là thực
tại tính vừa là luận thức tư duy vén mở bức màn tri thức sai biệt đi vào
lòng thực tại. Luận thức duyên khỏi được đức Phật trình bày bằng các mệnh
đề đẳng hệ giản đơn trong kinh Phật tự thuyết:
Do cái
này có mặt nên cái kia có mặt.
Do cái
này không có mặt nên cái kia không có mặt.
Do cái
này sanh nên cái kia sanh.
Do cái
này diệt nên cái kia diệt. (10)
Các mệnh
đề nhằm mô tả tính đẳng lập chứ không phải đưa ra một nguyên nhân hay có
một tự thể hình thành một tự thể khác hoặc có một nguyên nhân hay tự thể
quyết định sự hiện hữu của tự thể khác. Nếu cho rằng có nguyên nhân hay
một tự thể nào đó quyết đ5nh hoặc hình thành một tự thể khác thì duyên
khởi không còn là duyên khởi nữa, vì nó tự mâu thuẫn cho mệnh đề, và nó tự
phá sản. Tính đẳng lập của các hữu thể tồn tại xác định mối quan hệ phụ
thuộc chứ không phải quan hệ bằng cách quyết định, và đồng thời chúng tác
động lẫn nhau trên hai chiều. Và ngay cả mỗi hữu thể cũng chỉ là những
tập hợp có tính đẳng lập mà thôi. Đức Phật đã triệt tiêu tận cùng mọi ngã
tính, Ngài dõng dạc tuyên bố không ngã tính trong các hữu thể. Định thức
này có thể mô tả bằng một hàm biến, nếu E là tập hợp của (x,y) như vậy
chúng không có ngã thể:
E = x.y.
E(x.y) =
0
Nếu một
tập hợp là vô ngã, vậy thì mỗi đơn thể có tự ngã không? Điều này đức Phật
cũng đã xác định rõ nếu đem các đơn thể đó ra chẻ thành manh mún nhỏ như
hư không chăng nữa, ta chẳng tìm thấy trong đó có một ngã tính khả hữu.
Như vậy ly do tồn tại của các pháp chính là duyên khởi. Thoát ra ngoài
mọi khuôn sáo, đức Phật không đi theo con đường luẩn quẩn theo kiểu con gà
và cái trứng của Bacon: Con gà đẻ ra cái trứng, cái gì đẻ ra con gà? Một
vòng tròn tái lập không có lối thoát, và đấy được đức Phật mệnh danh chỉ
là những thứ trò chơi lý luận, không giải quyết được vấn đề huyết mạch của
cuộc sống. Từ định thức có tính tổng quát trên, đức Phật đã ứng dụng đưa
nó vào trong luận lý chứng minh nhằm giải thích sự hiện hữu của con người
và các vấn đề thuộc con người. Thuyết lý mười hai nhân duyên phô diễn
tính khả biến theo thời gian ở mặt luận lý, đồng thời chứng minh mối tương
hệ nhân quả trong hai phạm trù vận hành: tập khởi và đoạn diệt.
“Này các
tỳ kheo thế nào là lý duyên khởi? Này các tỳ kheo, vô minh duyên hành;
hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên
xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên
sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy
toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Này các tỳ kheo, như vậy gọi là tập khởi.
“Nhưng
do ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành
diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên
sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do
thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não
diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các tỳ kheo, như vậy
gọi là định diệt.” (11)
Sau khi
trình bày tổng quát, đức Phật phân tích từng khái niệm của nhân duyên
trong một chuỗi vận hành đó.
“Và này
cá tỳ kheo, thế nào là già chết? Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng
sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ chúng sanh khác, sự
từ bỏ, huỷ hoại, tiêu mất, tử vong, các uẩn hư hoại, thân thể vứt bỏ. Đây
gọi là chết. Như vậy đây là già, đây là chết. Này các tỳ kheo, đây gọi
là chết.
“...Thế
nào là sanh? Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ
loại chúng sanh này hay thuộc bộ chúng khác bị sanh, xuất sanh, giáng
sanh, đản sanh, sự xuất hiện các uẩn, sự thành tựu các sứ. Đây gọi là
sanh.
“...Thế
nào là hữu? Có ba hữu này: Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu. Đây gọi là hữu.
“...Thế
nào là thủ? Có bốn thủ này: Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận
thủ. Đây gọi là thủ.
“...Thế
nào là ái? Có sáu ái thân này: Sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái xúc ái,
pháp ai. Đây gọi là ái.
“...Thế
nào là thọ? Có sáu thọ thân này: Thọ do nhãn xúc sanh, thọ do nhĩ xúc
sanh, thọ do tỷ xúc sanh, thọ do thiệt xúc sanh, thọ do thân xúc sanh, thọ
do ý xúc sanh. Đây gọi là thọ.
“...Thế
nào là xúc? Có sáu xúc thân này: Nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc thiệt xúc,
thân xúc, ý xúc. Đây gọi là xúc.
“...Thế
nào là sáu xứ? Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thân xứ, ý xứ. Đây gọi là xứ.
“...Thế
nào là danh sắc? Thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý. Đây gọi là danh. Bốn đại
chủng và sắc do bốn đại chủng tạo ra; đây gọi là sắc. Như vậy đây là
danh, đây là sắc. Đây gọi là danh sắc.
“...Thế
nào là thức? Có sáu thức thân này: Nhãn thức, nhĩ thứ, tỉ thức, thiệt
thức, thân thức, ý thức. Đây gọi là thức.
“...Thế
nào là hành? Có ba hành này: Thân hành, ý hành, có ba hành: Thân hành, ý
hành, khẩu hành. Đây gọi là hành
“...Thế
nào là vô minh? Không rõ biết khổ, không rõ biết khổ tập, không rõ biệt
khổ diệt, không rõ biết con đường đưa đến khổ diệt. Đây gọi là vô minh”.
(12)
Quy thức
12 nhân duyên được đức Phật trình bày trong hai chiều vận hành: Tập khởi
và đoạn diệt. Ở đây, trên hai chiều, đều khởi đầu là vô minh và kết thúc
là sanh, già chết. Mỗi chi phần được đức Phật định nghĩa rõ ràng. Đưa ra
hai chiều tập khởi và đoạn diệt, đức Phật chứng minh sự hiện hữu của hiện
tượng khổ và hết khổ. Phương pháp chứng minh ở đây theo luận thức nhân
quả. Duyên khởi 12 chi phần thuyết minh thế giới quan hay chính xác hơn
là nhân sinh quan, không như định thức giản đơn mô tả có tính tổng quát:
“Cái này có thì cái kia có...”
Mười hai
chi phần mô tả hiện tượng hoạt động tâm lý của con người xảy trên các mối
quan hệ giữa nhân tố với điều kiện. Vô minh và hành được xem là động lực
của thức nguyên thể (trong bản kinh khác, “thức” được hiểu như là thức tái
sanh, như vậy, thức trong phần định nghĩa này được xem như tâm thức hay
thức nguyên thể để hình thành Danh-sắc. Do đó khi đoạn kinh trên định
nghĩa thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý
thức cũng không có gì lấy làm khác biệt thức đi tái sinh, bởi vì cả hai
quan điểm đều muốn nói lên yếu tố tinh thần, tức là tâm của con
người)(13), có yếu tố thức nguyên thể, danh sắc hình thành, danh sắc là
yếu tố căn bản cho mọi hoạt động giữa chủ thể và đối tượng (sáu xứ, xúc)
để phát sinh tâm lý (thọ, ái, thủ), bên cạnh đó còn có sự chi phối của
hoàn cảnh và môi trường (hữu). Như trên đã nói, duyên khởi 12 chi phần
nhằm chứng minh sự hiện hữu của hiện tượng khổ của con người ở qui trình
tập khởi, và ở qui trình đoạn diệt, thì sự chứng minh ngược lại, do đó, có
thể nó 12 chi phần là một biện chứng thuộc tâm lý. Biện chứng này không
nhằm tách rời giữa tâm và vật hoặc tâm quyết định vật như kiểu các biện
chứng duy tâm của phương Tây mà mô tả tiến trình hoạt động của tâm lý tạo
ra cảm nhận khổ đau mà động lực chính là vô minh.
b.
Bốn phạm trù duyên khởi:
Vạn vật
điều tuân theo luật duyên khởi. Duyên chính là điều kiện, yếu tố hình
thành sự
vật hay hiện tượng. Khi phân tích về duyên khởi, các luận sư Phật giáo
đưa ra luật tắc bốn phạm trù của duyên. Bốn phạm trù này quyết định sự
hình thành hay huỷ diệt của sự vật hiện tượng. Phải nói rằng đó là phương
pháp phân tích độc đáo của Phật giáo, nó mở cho chúng ta cái nhìn chân xác
về con người và vũ trụ. Các luận sư đã sử nó như công cụ để giải thích
các hiện tượng sự vật, đồng thời, vượt trên tất cả, nó là qui luật tồn tại
khách quan, là qui luật phổ biến chi phối tất cả. Nếu qui thức 12 nhân
duyên là mô thức chứng minh và mô tả hiện tượng tâm lý tồn tại khách quan
thì luật tắc bốn phạm trù chính là nguyên tắc hình thành luận thức đó
-
Nhân duyên (Hetu-pratyaya)
-
Sở duyên duyên (Alambana-pratyaya)
-
Tăng thượng duyên (Adhipati-pratyaya)
-
Đẳng vô gián duyên (Samanatara-pratyaya)
*Nhân duyên (Hetu-pratyaya): Là yếu tố hạt nhân, là điều
kiện chính, là chủng
tử của hữu
thể. Yếu tố “nhân” này duy trì bản chất di truyền để hình thành kết quả.
Để trở thành cây lúa, yếu tố chính phải là hạt lúa. Từ hạt lúa, tức là
yếu tố chính của điều kiện, nó dẫn đến kết quả tương xứng. Nếu hiện tượng
và sự vật không có yếu tố “nhân” thì sự vật và hiện tượng đó không duy trì
được đặc tính bản chất của chúng mà chúng chỉ là một tập hổn độn, tức là
một sự tập hợp của các yếu tố không theo quy trình thống nhất vận động và
phát triển. Con người nếu không có yếu tố “nhân”, tức là tế bào di truyền
(gene), thì nó khôgn duy trì được chủng loại của nó và như vậy chỉ là một
mớ hỗn độn. Từ luật tắc tự nhiên này, con người rút ra được qui luật nhân
quả đưa vào ứng dụng trên mọi lĩnh vực của đời sống. Giá trị đó là một
giá trị tất yếu khách quan, tồn tại nơi hữu thể. Trong đạo Phật, phân
tích phạm trù này rất tỉ mỉ, chi li nhằm phân giải các hiện tượng thuộc
con người và vũ trụ. Định giá yếu tố nhân chỉ có tính tương đối, bởi vì,
nó là nhân chỉ ở phương diện hiện hành này nhưng ở phương diện hiện hành
khác nó không còn là nhân nữa mà là phi nhân. Trên mạch vận động của hữu
thể, người ta không thể đưa ra được một nhân tuyệt đối mà chỉ đua ra yếu
tố nhân trên mạch cắt đoạn mà thôi. Mạch này chính là thức hiện hành
trong sự ổn cố của chuổi vận động. Ví dụ như con gà và cái trứng, nói
trứng là nhân của con gà cũng được và ngược lại cũng xong. Vậy đề cập
đến nhân không có nghĩa là try tìm một nguyên nhân đầu tiên, tuyệt đối mà
phải xem như là đề cập đến tính ổn cố của mạch vận động liên tục rong dòng
chuyển động, tức là mối quan hệ nhân -quả.
*
Sở duyên duyên (Alambana-pratyaya): Là yếu tố, điều kiện
hỗ trợ cho điều
Kiện hạt
nhân hình thành. Thiếu yếu tố này, dù nhân có tốt đến mức độ nào chăng
nữa thì cũng như không. Một kế hoạch hay, một ý tưởng tốt nếu không có
nhân sự, hoàn cảnh chưa cho phép...thì vẫn như không; hạt lúa bụ bẩm đến
đâu, nếu không có đất trồng, không có khí hậu thích ứng, không có kỹ
thuật...thì hạt lúa đó vẫn cứ nằm lì trong kho. Nếu yếu tố nhân quyết
định hệ quả thì yếu tố hỗ trợ có nhiệm vụ giúp nó đi đến hệ quả đó. Cũng
như yếu tố Nhân, yếu tố Sở duyên duyên cũng có tính tương đối. Nên mối
quan hệ của nhân và sở duyên là mối qua hệ đẳng hệ, mỗi cái đóng vai trò
riêng của nó trong mối quan hệ. Các nhà học giả Phật học còn phân tích sở
duyên có hai phạm vi: Thân sở duyên duyên (Sở duyên trực tiếp) và sơ sở
duyên duyên (Sở duyên gián tiếp). Thân sở duyên là yếu tố có quan hệ trực
tiếp với nhân; sơ sở duyên là yếu tố có quan hệ gián tiếp với nhân. Như
đất nước, phân, khí hậu, ánh sáng mặt trời, nhiệt độ... là những yếu tố có
mối quan hệ trực tiếp vào sự nẩy mầm và phát triển của cây lúa; con người
và các công cụ lao động... là những yếu tố có mối quan hệ gián tiếp vào
nó. Đây chính là cơ sở lý luận của đạo Phật phân tích về phạm trù đối
tượng, về điều kiện hỗ trợ dẫn đến sự tác thành giữa yếu tố hạt nhân và
các điều kiện tuỳ thuôc.
*
Tăng thượng duyên (Adhipati –pratyaya): Điều kiện hỗ trợ
thì rất nhiều,
Không có
giới hạn, vậy thì một nhân muốn hình thành, phát triển đưa đến quả, cần
phải có điều kiện CẦN và ĐỦ, đây là điều kiện tốt nhất cho mọi sự vật hiện
tượng tồn tại vận động. Về phạm trù Tăng thượng duyên, các luận sư đưa ra
hai khái niệm: Thuận tăng thượng duyên và nghịch tăng thượng duyên. Đưa
ra hai khái niệm này các luận sư mô tả hai chiều vận động của một hữu thể
- một, hình thành và phát triển – hai, suy thoái và huỷ diệt. Yếu tố cần
và đủ được phân ra ba cấp độ khác nhau: Hạ (mức độ tối thiểu), Trung (mức
độ vừa phải), Thượng (mức độ hoàn chỉnh). Điều kiện CẦN ĐỦ là điều kiện
tất yếu tồn tại, không có yếu tố này, hữu thể không hiện hữu, khi mắt thấy
sắc, các yếu tố cần và đủ của chúng là: cơ quan thị giác (võng mạc, tinh
thể, thần kinh thị giác...) phải trọn vẹn, không được hư bất cứ bộ phận
nào; đối tượng phải là đối tượng của cơ quan này, không nhỏ quá, không lớn
quá, vật thể có thể cản quang tạo nên khúc xạ (nếu vật theẻ là một tinh
thể trong suốt không cản quang được thì mắt vẫn không thấy, dĩ nhiên muốn
nói đến mắt thường), khoảng cách chân không (khoảng cách không xa quá,
ngoài tầm thị giác; cũng không gần quá, nếu gần không tiếp nhận quang ảnh
rõ nét, vật thể bị nhoà), ánh sáng (ánh sáng không mờ quá, cũng không sáng
quá) và tâm thức... Nếu thiếu một trong các yếu tố cần và đủ này thì không
có được sự kiện thấy. Một cây chuối cũng cần có yếu tố cần và đủ để hình
thành và phát triển (hay hoại diệt), yếu tố cần của nó là: nước, đất,
phân, ánh sáng mặt trời, khí hậu..., còn yếu tố đủ là: nước hấp thu của nó
phải là ở độ ẩm từ 50-90%, đất phải tơi xốp, có dưỡng chất (hoặc hữu hoặc
vô cơ), phải tiếp cận được ánh sáng mặt trời, thời tiết phải ở nhiệt độ từ
150C –400C...Nếu thiếu yếu tố (cần) hay không đúng
chuẩn hấp thu (đủ) thì không tạo được năng lượng sống để tồn tại.
*
Đẳng vô gián duyên (Samanatara-pratyaya): Cuộc sống là một dòng
vận động
Không
ngừng, không có sự sống không vận động; vậy Đẳng vô gián duyên chính là
yếu tố vận động, chuyển động, sinh hoá của hữu thể. Cái gọi là tế bào chỉ
là sự hình thành của các chất qua trạng thái sinh hoá. Yếu tố vận động
tạo nên sự trao đổi chất, chuyển hoá hình thành nên hữu thể và phát
triển. Trong nhân (Hetu) và yếu tố sở duyên (Alambana) luôn luôn có sự
tiềm ẩn vận động. Nếu trong mỗi yếu tố không có tính chất vận động, lẽ
tất nhiên không thể nào kết hợp được để đưa đến hiện tượng sinh hoá. Có
vận động vạn hữu mới có chuyển hoá được. Hạt bắp và các yếu tố giúp nó
trở thành, nếu không có tính vận động ở thế tĩnh tại (theo nghĩa tương
đối) thì khi phối hợp chúng vẫn không chuyển hoá để trở thành cây bắp, tức
là không có sự nảy mầm phát triển và trưởng thành, đưa đến kết quả. Xã
hội cũng vậy, nếu xã hội không có yếu tố quan trọng của vạn vật. Yếu tố
này chuyển động không ngừng, hoặc ở thế tĩnh tại hoặc ở thế biểu hiện. Vô
thường là một tên gọi khác để nói lên tính chất của hữu thể vận động hay
chuyển hoá. Nơi con người nếu không có yếu tố Samanantara thì vĩnh viễn
không bao giờ tu tập được và cũng không bao giờ hấp thụ được những “chất”
có thể nuôi dưỡng thân tâm.
Bốn phạm
trù duyên khởi là định luật tất yếu, phổ biến khách quan, tồn tại nơi hữu
thể, chi phối tất cả. Nó tồn tại đồng thời, không có cái nào xảy ra
trước, cái nào xảy ra sau hay cái nào quyết định cái nào. Bốn phạm trù
nằm trong thể vận động thống nhất đưa hữu thể hình và phát triển, hoặc
cũng chính bốn phạm trù này đưa hữu thể đến sự hoại diệt, tiêu vong. Quy
thức 12 nhân duyên vừa mô tả vừa chứng minh hiện tượng tâm lý con người, ở
phương tiện hình thành đau khổ (hoặc hoại diệt) cũng dựa trên luật tắc bốn
phạm trù này để thuyết minh. Do đó đề cập đến duyên khởi không thể tách
ly bốn phạm trù căn bản này, nó thiết định một nền biện chứng duyên khởi
sâu sắc vừa có tính thực tại vừa có tính luận lý cao. Cả hai tính chất hỗ
trợ cho nhau, và luôn luôn làm tiền đề hỗ tương cho nhau
C.
Duyên khởi và hệ luận vô ngã (Anatta)
Từ khi đức
Phật tuyên bố, tất cả các hữu thể đều do duyên sinh thường được phô diễn
qua đoạn văn sau đây:
“ÔDocái
này có mặt nên cái kia có mặt
Do cái
này không có mặt nên cái kia không có mặt
Do cái
này sanh nên cái kia sanh
Do cái
này diệt nên cái kia diệt”
Kể từ
đó, Duyên khởi như là tiền đề cho tất cả luận thuyết về sau, và nó có
quyền lực ghê gớm cho sự thẩm định mọi giá trị của học thuyết của các
trường phái sau này. Duyên khởi là biểu tướng của thực tại, là thực tại
như nó đang là (Pháp nhĩ như thị). Đức Phật cũng đã xác quyết về tầm quan
trọng của Duyên khởi, qua đoạn kinh sau đây cũng đủ thấy rằng nó là tinh
tuý của giáo lý Phật đà: “Ai thấy được lý duyên khởi người ấy thấy được
chánh Pháp; ai thấy được chánh pháp, người ấy thấy được lý duyên khởi”
(14). Duyên khởi không nhằm biện minh cho một ý tưởng hay thái độ nào của
một học thuyết mà nó chỉ là tên gọi của cái hiện thực. Hiện thực đó bao
trùm và phổ biến, chi phối tất cả hữu thể tồn tại. Như vậy thừa nhận tồn
tại, tất nhiên không thể không thừa tính của chúng. Thế thì, do vô tính
nên duyên sinh. Vậy Duyên đó như thế nào? Những hữu thể được gọi là
duyên, khi chúng là điều kiện để một hữu thể hiện hữu. Nếu không có hữu
thể hiện hữu này, những hữu thể kia không thể gọi là duyên. Như thế,
duyên cũng không phải là những tự thể tự hữu. Do đó, duyên cũng vô tính.
Nghĩa là duyên sinh cũng vô tính. Hữu thể, vì không có tự tính quyết định
nên hiện khởi do nhân duyên. Hữu thể hiện khởi do nhân duyên, tức không
có tự tánh quyết định. Đó là ý nghĩa vô tính duyên sinh và duyên sinh vô
tính. Vô tính duyên sinh nên duyên sinh là giả. Duyên sinh vô tính, do
đó, duyên sinh là không. Đó là ý nghĩa Trung Đạo của định thức duyên
khởi (15). Với nhận thức tính vô tính của duyên sinh như thế, cả Đại Thừa
và Tiểu Thừa đều công nhận tính chất vô ngã (Anatta, nairàtmya) của vạn
pháp và là nền tảng cho mọi thuyết lý sôi nổi của các trường phái sau
này. Nhưng Đại Thừa vượt xa hơn, khai thác triệt để, cuối cùng nâng lên
thành một tổng đề phá vỡ mọi chấp thủ về ngã và ngã sở, tức là nhân vô ngã
(Pudgalanairàtmya), và ngay cả những gì từ kim khẩu của Như Lai nói ra
hoặc những gì chứng đắc được từ kinh nghiệm tự thân cũng chối bỏ luôn, tức
là Pháp vô ngã (Dharmanairàtmya), một sự triệt phá tận căn để của tư
tưởng, không bám víu những gì, đó là lập trường của tánh KHÔNG. Trong
kinh Ràhula, Thế Tôn tuyên bố: “Phàm sắc gì (thọ gì..., tưởng gì..., các
hành gì..., thức gì....), thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay
ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; tất cả pháp
cần phải như thật thấy với chánh trí tuệ rằng: “Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này phải tự ngã của tôi”. Biết như
vậy, này Ràhula, thấy như vậy có đối thân. Thức này và đối với tất cả
tướng ở ngoài, không có (tư tưởng) ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tuỳ
miên” (16)
Các pháp
hiện hữu do duyên sinh, vì duyên sinh nên vô tính và ngay cả duyên cũng
không có khả tính quyết định, do đó, duyên sinh vô tánh và vô tính duyên
sinh đẩy đến ý niệm vô ngã (Anatta), hay tính thể tuyệt đối (paramàrtha).
Nàgàrjuna vượt bỏ khái niệm phủ định của tiến tố AN trong ý nghĩa ANATTA
để nhảy vào lòng thực tại, và xem đó như tiền đề phá huỷ trong phương
tiện, nhưng lại là thiết lập trong cứu cánh. Phá huỷ và thiết lập trở
thành một thể thống nhất bằng ý nghĩa KHÔNG (Sùnyata) (17). Ý nghĩa
Sùnyata được Long Thọ (Nàgàrjuna) định nghĩa trong Trung Luận: “Chúng
duyên sở sanh pháp, ngã thuyết tức thị không” (Phẩm Tứ đế 24). Lời định
nghĩa trên đây không hàm chứa một giá trị phủ định nếu hiểu theo ý nghĩa
tất cánh. Bởi vì còn phủ định tức là còn phân chia giữa chủ thể và đối
tượng, còn có ngã và ngã sở. Do đó, vô ngã như một tiền đề nhận thức về
(cái gì) qua thái độ phủ định, đấy là mặt hạn chế của khái niệm từ này.
Các nhà Đại Thừa vượt hẳn lên thái độ đó, nhảy thẳng vào lòng thực tại,
không nói năng quanh co nữa mà tuyên ngôn: Tất cả các pháp là KHÔNG.
Chính các Pháp mang đặc tính là “không”. Tức là không có khả tính, không
có quyết định tính, nên các pháp hình thành, vận động và tồn tại. Các
pháp do duyên sinh, nên các pháp vô ngã, vì vô ngã các pháp KHÔNG. Dưới
nhãn quang này, tất cả vạn hữu không có pháp nào ra ngoài định luật này:
“Vị tằng hữu nhất pháp, bất tùng nhân duyên sinh. Thị cố nhất thiết pháp,
vô bất thị không giả”(18). Thuyết tánh giác, không xuyên qua một định đề
tri thức nào cả, dầu đó là định đề phủ định. Tánh KHÔNG không phải là một
mệnh đề hay công thức trừu tượng về một ý tượng không hư như có nhiều
người ngộ nhận. Mà tánh không lập thành các pháp: “Dĩ hữu không nghĩa
cố, nhất thiết pháp đắc thành; nhược vô không nghĩa giả, nhất thiết tắc
bất thành” (19). Sùnyata không mang ý nghĩa tiêu cực, nó còn được gọi là
Chân như (Tathatà), nó cũng là tính thể tuyệt đối, phổ biến của vạn hữu.
Không có pháp nào không có tính chất KHÔNG. Sùnyata vượt thoát ra ngoài
các ý niệm Thánh Phàm, Chân Tục. Đây là đỉnh cao của nhận thức, là kinh
nghiệm trực giác.
Thế thì,
khi xác định thực tính của hữu thể là Vô ngã, thì những ý niệm quyết định
ngã tính khả hữu nơi các pháp không thể hiện hữu được. Bởi vì các pháp
không tồn tại ở trong chuyển động: Tất cả các hành là vô thường; tất cả
các pháp là vô ngã (20). Trình bày vô ngã, đức Thế Tôn cố vén mở chân
tướng bất biến của các pháp, thực ra điều này không có ý nghĩa gì hết,
nhưng phải nói một cách thẳng thắn rằng, đức Thế Tôn chỉ muốn vén mở tri
kiến của chúng ta để thẩm thấu vào thực tại như thật. Chính vô ngã là
chân lý phổ biến, nên từ đó trong kinh điển Đại Thừa, phá vỡ đi những ranh
giới nhị nguyên, tàn dư của quá trình phân tích của thời kỳ A Tỳ đàm, để
hình thành những phán đoán độc đáo: “Sanh tử tức Niết bàn”, “phiền não
tức Bồ đề”, “vô minh thật tánh tức Phật tánh”... Ý tưởng vô ngã là tiêu
cực chỉ là lối nhìn cực đoan phiến diện, bởi vì nếu xem vô ngã như là tính
thể của vạn hữu thì ý tưởng nên không có giá trị nghiêm chỉnh của luận lý,
có thể nói, nó đánh mất đi bản chất thực tính phổ biến của tính thể này,
đấy chỉ là cái nhìn bằng ảo giác trên một định đề nào đó. Tư duy bám víu
trên một định đề, thì đó là cõi khô cằn của tâm thức. Trong khi đó, dòng
tâm thức lưu chuyển liên tục, vận động liên tục; cắt xén dòng lưu chuyển
để phán đoán. Thế thì, khi đặt một khái niệm để phơi bày thuộc tính nào
của hữu thể thì khái niệm đó chỉ có tính giả lập; vì nó không phô diễn
được tính đa phức của thực tại, do đó danh chỉ là giả danh.
Tiến
trình đi đến vô ngã phải đi qua chặng đường tỷ giảo, phân tích và phủ
định. Bởi vì, khi nhìn vào một vấn đề, tất nhiên phải đặt vấn đề đó trong
mối tương quan tổng thể, phải nhìn nó trong mối quan hệ vận động. Đề cập
đến duyên là đề cập đến yếu tố động, dù ở phương diện sinh khởi hay ở
phương diện biến diệt. Tỷ giảo là đặt cái này trong mối tương quan với
cái khác hay mối tương quan giữa chủ thể và đối tượng, giữa nhân và quả,
giữa nội tại và ngoại tại. Tri kiến là tri kiến về cái gì, tri kiến như
thế nào, không có thứ tri kiến không có chứa hàm số. Ý thức Thiện tức là
đang ý thức về ác, cảm nhận cái đẹp tức là cái xấu đã ở bên cạnh. Do đó,
cảm nhận sự vật, dù có ý thức hay không, thì thái độ tỷ giảo vẫn là chặng
đường hình thành tri kiến về thế giới. Nhưng tri kiến như thế nào thì đó
lại là chuyện khác, tức là đòi hỏi sự quan sát tinh tường nơi đối thể.
Như vậy, đến đây cần phải có một mức độ tri nhận cao hơn, bấy giờ, nhìn
đối thể không phải nhìn ở lớp hiện tướng nữa mà nhìn nó ở nhiều giai tầng
khác nhau đang chi phối. Đối thể hiện ra không phải là một khối mà là
những manh mún rời rạc. Các luận sư thường phân tích một đối thể trên hai
phương diện: không gian và thời gian. Trên phương diện không gian hữu thể
tồn tại được chia chẻ đến mức không còn chia chẻ được nữa, gọi là cực vi
(lân hư); trên phương diện thời gian cũng vậy: hạn kỳ giới hạn tồn tại ở
hai đầu sinh và diệt của nó được phân tích đến độ không thể phân tích được
nữa, mức độ này được gọi là sát na. Bằng lối nhìn này, đạo Phật chối bỏ
tính hằng hữu của đối thể, không thừa nhận tính quyết định của nó, các
pháp không có chủ tể quyết định tính khả hữu. Ngay cả địa hạt tâm lý cũng
bị chối bỏ triệt để. Trong kinh Sáu Sáu (Chadhakkasuttam) (21), có đề cập
đến lộ trình trên, phải nói rằng đây là bài kinh nổi tiếng trên mặt phân
tích theo trình tự luận lý duyên khởi: “Nếu ai nói rằng: “Mắt là tụ ngã”,
như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của mắt đã được thấy. Vì
rằng sự sanh và sự diệt đã được thấy nên phải đưa đến kết luận: “Tự ngã
sanh và diệt ở nơi tôi”. Do vậy, nếu ai nói rằng: “Mắt là tự ngã”, như
vậy không hợp lý. Như vậy, con mắt là vô ngã. Nếu ai nói rằng: “Các sắc
là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của các sắc đã
được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của các sắc đã được thấy, nên phải
đưa đến kết luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi”. Do vậy, nếu ai nói
rằng: “Các sắc là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Như vậy, con mắt là
vô ngã, các sắc là vô ngã. Nếu ai nói rằng: “Nhãn thức là tự ngã”, như
vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của nhãn thức đã được thấy. Vì
rằng sự sanh và sự diệt của nhãn thức đã được thấy, nên phải đưa đến kết
luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi”. Do vậy, nếu ai nói rằng: “Nhãn
thức là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Như vậy, con mắt là vô ngã, các
sắc là vô ngã, nhãn thức vô ngã . Nếu ai nói rằng: “Nhãn xúc là tự ngã”,
như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của nhãn xúc đã được thấy. Vì
rằng sự sanh và sự diệt của nhãn xúc là được thấy, nên phải đưa đến kết
luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi”. Do vậy, nếu ai nói: “Nhãn xúc là tự
ngã”, như vậy là không hợp lý. Như vậy con mắt là vô ngã, các sắc vô ngã,
nhãn thức là vô ngã, nhãn xúc là vô ngã. Nếu ai nói rằng: “Thọ là tự
ngã”, như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của thọ đã được thấy.
Vì rằng sự sanh và sự diệt của họ đã được thấy, nên phải đưa đến kết: “Tự
ngã sanh và diệt ở nơi tôi”. Do vậy, nếu ai nói rằng: “Thọ là tự ngã”,
như vậy là không hợp lý. Như vậy, con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã,
nhãn thức là vô ngã, nhãn xúc là vô ngã, thọ là vô ngã. Nếu ai nói rằng:
“Ái là tự ngã”, như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của ái đã
được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của ái đã được thấy, nên phải đưa
đến kết luận: “Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi”. Do vậy, nếu ai nói rằng:
“Ái là tự ngã”...(như trên). Nếu ai nói rằng: “Mũi là tự ngã”..(như
trên). Nếu ai nói rằng: “lưỡi là tự ngã”...(như trên). Nếu ai nói rằng:
“Thân là tự ngã”...(như trên). Nếu ai nói rằng: “Y là tự ngã”...(như
trên).
“Này
cáctỷ kheo, nhưng đây là con đường đưa đến sự tập khởi của thân kiến. Ai
quán mắt là: “Cái này là của tôi, cái này là của tôi, cá này là tự ngã của
tôi”...
“Nhưng
này các tỷ kheo, đây là con đường đưa đến sự đoạn diệt của thân kiến. Ai
quán mắt là: “Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là của
tôi, cái này không Phải là tự ngã của tôi”...
Với
người bình thường luôn luôn trong tri kiến mơ màng có một ngã thể thực
hữu. Nhưng bằng cái nhìn phân tích tận cùng của thực tại, không có ngã
thể nào tồn tại để thủ đắc; vì không thấy được tính vô thường của vạn hữu,
không nhận chân được bản chất vô tính của vạn hữu nên con người luôn luôn
dệt ra cho mình vô vàn ảo giác về ngã trên uẩn (thân tâm), xứ (6 cơ quan
thức giác và 6 đối tượng), giới (6 căn, 6 đối tượng và 6 thức). Khẳng
định tính chất vô tính nơi vạn hữu, tức là chối bỏ ngã thể (ngã và ngã sở)
và đồng thời loại bỏ thái độ chấp trước nơi một tự thể. Điều đó không
những loại bỏ cái thấy sai lầm nơi tự thân mà còn giúp cho mình cái nhìn
đúng với chân tướng của vạn hữu, tức là chân lý vô ngã. Thực vậy, chỉ có
cái nhìn vô ngã mới có thể giải phóng tâm thức vượt thoát mọi ràng buộc
của các tập khí tham, sân si và những định hệ thành kiến được dệt ra bởi
ảo giác. Giải thoát chỉ hiện hữu khi nào phản tỉnh lại nội tâm, quan sát
chân tướng của nó bằng cái nhìn thẩm thấu vô ngã thì tất cả những hệ phược
phi lý mới nổ tung ra từng manh mún. Đầu mối của vô minh, ngu dốt, bảo
thủ đều khởi nguyên từ một thái độ lầm lẫn “trông gà hoá cuốc”, tách rời
sự vật để thủ đắc, chứ không chịu nhìn nó trong mối quan hệ biện chứng,
mối tương quan tác động hai chiều, mối tương quan mà trong đó tích chất vô
ngã là tinh tuỷ cho sự lập khởi và hoại diệt.
2. Nguyên
lý tứ đế (Cattàri Ariyasaccàni):
Tâm điểm
của tư tưởng đức Phật không ra ngoài Tứ Đế mà ngay trong thời thuyết pháp
đầu tiên, ngài đã tuyên thuyết cho năm người bạn cũ đồng tu khổ hạnh tại
vườn Nai (Migadaya), ở Ba la nại (Baranesi). Tứ diệu đế thuyết minh chân
lý của cuộc đời trên hai phương diện: khổ (dukkha) và diệt khổ (nirodha).
Có thể nói, trong suốt bốn mươi lăm năm làm công tác giáo hoá, đức Phật
không nói gì hơn ngoài sự hiện hữu của khổ và thoát khổ như là chân lý
huyết mạch của cuộc đời và cũng là nguyên tắc giáo hoá của đức Phật, vì
thế nó không giả định về một tuyệt đối nào cả. Ngay cả Diệt đế (Nirodha)
được dựng lên cũng chỉ là một nguyên tắc hiển nhiên của phương thức luận
lý thiết lập trên mối quan hệ ngược chiều với nó, hơn nữa, do đòi hỏi kinh
nghiệm đối hướng về một lý tưởng đế thoát ly nào đó nên Diệt đế được xem
như lý tưởng tối hậu cần phải đạt đến.
Tuyên
thuyết về khổ không phải đức Phật tung một đám mây mù ảm đạm trên thế gian
này, hay đẩy con người vào nhận thức bi quan tận ngõ cụt của cuộc đời.
Nhiều học giả vẫn nhầm lẫn trước những lời thuyết giáo này của đức Phật,
rồi từ đó, họ cho rằng đức Phật ru ngủ cuộc đời bằng cơn mị mộng bi
thương. Có người có vẻ triết lý hơn, họ lập luận, vì cuộc đời vốn dĩ là
khổ đau nên cần phải đối diện với nó, thái độ lẫn tránh chỉ tạo nên phản
ứng tâm lý chối bỏ thêm bi đát. Thật sự những thái độ trên chưa có cái
nhìn nghiêm túc về vấn đề này mà chỉ nhìn theo kiểu phân cực, tách bạch.
Tứ diệu đế được thiết lập trên mối tương quan của định thức duyên khởi, do
vậy phải nhìn nó bằng lối nhìn quan hệ tổng thể, tránh lối nhìn cực đoan,
phiến diện. Trình bày Tứ diệu đế trên định thức duyên khởi, đức Phật phô
diễn nó trên hai chiều: nhân quả lưu chuyển, Khổ (Dukkha) và Tập
(Samudaya); nhân quả hoàn diệt, Diệt (Nirodha) và Đạo (Magga). Sự phân bố
về mặt hình thức này nói lên hai tính cách của thực tại: tương đối và
tuyệt đối (Nhị đế). Một đằng phô diễn thực tại hiện hành trong kinh
nghiệm sai biệt của tri thức thường nghiệm, đó là Tục đế. Còn đằng khác
lại phô diễn tính thể thực tại mà tri thức sai biệt không thể nào với tới
được, vượt hẳn khái niệm ngôn ngữ, ở đây mọi hoạt động của tâm đều bất
lực, đây là cảnh giới vô phân biệt, siêu nghiệm, tức là chân đế. Như vậy
ngay nơi đây nó lại hàm chứa những mâu thuẫn nội tại thuộc nguyên tắc luận
lý. Phương pháp luận lý không cho phép đưa ta một sự kiện hay là một mệnh
đề mà trong mệnh đề đó lại bao gồm cả thuận và nghịch. Hoặc là thuận hoặc
là nghịch chứ không có cả hai; đúng hoặc sai chứ không có việc cả đúng cả
sai. Sử dụng nguyên tắc luận lý này để nhìn thực tại, lẽ tất nhiên, không
thoát khỏi hạn chế suy lý. Vì biện chứng thực tại khách quan nó không thể
chịu nổi khung luận lý. Do đó ngôn ngữ chỉ có tính ước lệ về (một cái
gì...). Mô tả một dòng nước, không thể mô tả được vì dòng nước chảy liên
tục, mô tả đoá hoa cũng chỉ lệ thuộc tính nào đó của nó, còn đoá hoa thực
tại không thể mô tả được, ngôn ngữ trở nên bất lực trước thực tại. Tự đế
(Samvrtisatya) là chân lý thường nghiệm, còn lại là thế đếhay thế tục đế,
đây là biểu tướng của hiện tượng mà tri thức sai biệt dệt trên một mớ khái
niệm ngôn ngữ để suy lý. Tục đế mở đường cho hiện tượng đa thù, sai biệt
và thuộc tính của nó hiện ra trong quá trình hoạt động của nhận thức, đi
từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính. Đó là lớp sóng biến dịch
liên tục không ngừng, do vậy, đức Phật xem nó như huyễn như mộng, không
có thực tính.
Ỳ nghĩa
của Dukkha, theo cách dùng thông thường có nghĩa là đau khổ, đâu đón, khốn
cùng, không sảng khoái, tương phản với từ Sukkha, nghĩa là hạnh phúc,
thoải mái. Nhưng Dukkha ở đây có ý nghĩa sâu sắc hơn, phải theo ý nghĩa
Triết học. Vì Dukkha không phải mô tả một trạng thái cảm giác thuần tuý,
mà nó mô tả thực trạng con người trong cuộc sống, con người bị chi p hối
bởi các quy luật sanh diệt, biến dịch. Con người vì k hông sống theo luật
thiên nhiên, không thấu rõ quy luật sanh diệt, biến vạn hữu nên cố ghì kéo
tất cả theo ý mình, muốn chiếm hữu tất cả và nhốt vạn hữu trong lồng định
đề hữu ngã bất biến, do đó nó không chịu đựng nổi cá phi lý ngược ngạo của
con người và như thế đường ai nấy đi, quy luật kia vẫn sừng sững vận hành
bất tuyệt, còn ai đó cứ miệt mài hì hục cố kéo ghì! Thật là một thái độ
bướng bỉnh tạo nên một sức phản động ngộ nghĩnh rồi kết án: Trời đất bất
nhân, coi vạn vật như loài chó rơm (22). Quả thật, quy luật thiên nhiên,
hay “luật trời đất” rất công bằng, không vị cảm bất cứ loài nào. Hết đông
rồi sang xuân, hạ về tiễn xuân đi, hạ qua thu lại đến, thu tàn đông lại
về, thời tiết cứ thế mà xoay vần, không phải vì con người thích mùa xuân
mà luật “trời đất” ban cho loài hoa kia mãi mãi là mùa hè. Tư duy trên
hữu ngã là một thái độ bướng bỉnh ngông cuồng và bao giờ cũng muốn chọc
phá thiên nhiên thì thử hỏi làm sao thiên nhiên có thể tha thứ được?. Thế
thì, tính chất của Sanh, Lão, Tử không có một ý nghĩa đau khổ nào, nhưng
điều đức Phật cho nó khổ, chính là điều cần phải hiểu theo thái độ triết
lý, nghĩa là bao giờ con người còn tư duy trên định đề hữu ngã, còn bám
víu để thủ đắc một tính thể khả hữu nào đó thì con người vẫn còn bị chính
các quy luật tạo ra nó nghiền nát nó trong vòng xoay chuyển. Đó là cái bi
của kiếp người, cá khổ bất tuyệt của kiếp người. Những bậc minh triết sở
dĩ họ không cảm thấy đau khổ, mặc dầu họ vẫn sống trong thế giới này, vẫn
sống trong quy luật đó, là vì họ không nhìn thấy sự vật bằng cõi khô cằn
hữu ngã của tư duy mà, họ phóng nhiệm trong cái quy luật hằng chuyển thong
dong tự tại, họ lướt trên sóng sanh tử chập chùng không vướng bận (Ư chư
sanh tử bất quan hoài) (23). Họ mỉm nụ cười người đời đang bị nhận chìm
trước bánh xe “trời”, thế là họ bị người đời kết án là kẻ đồng lõi với
trời đất: Minh triết là kẻ bất nhân (thánh nhơn bất nhân, dĩ bách tánh vi
sô cẩu) (24).
Đức Phật
không phủ nhận giá trị hạnh phúc của cuộc đời, nhưng đức Phật xem những
thứ hạnh phúc đó chỉ là thứ giả tạo chỉ nhằm để thoả mãn con người trong
chốc lát và thứ dục lạc này được đức Phật dùng ảnh dụ cũng như người bị
ghẻ ngứa, họ càng gãi càng thấy đã ngứa nhưng sau đó lại cảm thấy rát
bỏng, lở loét đau nhức. Vì thế, khổ ở đây được xem như là ý niệm vô
thường, biến dịch, sự biến đổi của vạn hữu. Con người vì không nhận thức
được tính thể vô tính vận động của nó nên cứ bám víu vào biểu tướng sinh
diệt rồi cảm nhận sự đau khổ. Ngay nơn tự thân của con người là một hợp
thể cấu tạo bởi năm yếu tố, nó không có một tự ngã trong khối tập hợp đó,
và ngay cả từng yếu tố cũng chỉ là những giả hiệu ước định chứ không có tự
ngã nào tồn tại trong đó cả. Chúng hiện hữu vì điều kiện tất yếu hội tụ
và chúng tan rã khi điều kiện đó ra đi. Truy tìm một ngã thể tồn tại
trong hữu thể. Chẳng khác nào đi tìm một giá trị thật trong cõi mộng, đó
là điều không thể có được. Đức Phật không phải là người chạy trốn hay lẫn
tránh cuộc đòi, hay cố tình gán cho cuộc đời những thứ bi quan chán
chường. Vốn thực thế và khách quan, đức Phật nhìn cuộc đời qua ba khía
cạnh để phê phán: vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly. Con người bao giò
cũng chấp nhận vị ngọt và xem vị ngọt như lá mục đích hướng đến cuộc sống,
nhưng thật ra, đó chỉ là những ảo giác thoáng hiện trong giây lát rồi biến
mất, điều đó cũng có thể chứng minh được cái gọi là hạnh phúc của con
người như thế nào rồi. Ngay cả những trạng thái hỷ lạc trong thiền (Tứ
thiền) cũng được nhìn dưới ba khía cạnh trên. Đức Phật chối bỏ tất cả
những giá trị gọi là hạnh phúc được xây dựng trên tri kiến hữu ngã, vì nó
chỉ tạo ra những ảo giác lạc thọ từ những chiếc bóng hạnh phúc này đến
những chiếc bóng hạnh phúc khác không ngừng nghỉ. Thật ngớ ngẩn khi đón
nhận một thứ hạnh phúc mà con người tin chắc rằng không thật sự trường
tồn, như vậy, vừa đưa tay mặt ra đón bắt chiếc bóng hạnh phúc, đồng thời,
cũng đưa tay trái đón bắt đau khổ. Một trạng thái tâm lý đối nghịch dệt
ra vô vàn cái phi lý mà con người phải hứng chịu. Có lần Thế Tôn cùng
Rahula đi đến khu rru2ng Andhavana để nghỉ ban ngày, nơi đây Thế Tôn hỏi
Tôn giả Rahula:
-“Này
Rahula, ông nghĩ thế nào?. Con mắt là thường hay vô thường?
- Bạch
Thế Tôn, là vô thường.
- Cái gì
vô thường là khổ hay lạc?
- Bạch
Thế Tôn là khổ.
- Cái gì
vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi
quán cái
ấy: “Cái này là của tôi, ái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?”
- Thực
không vậy, bạch Thế Tôn.
- Này
Rahula, ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường? (25)..
Khổ, qua
đoạn kinh trên, nói đến tính chất vô thường biến dịch của con người.
Thông qua số phận của bản thân, con người tri nhận tính chất vô thường của
thế giới ngoại tại. Đức Phật phân tích cái gọi là con người từng bộ phận
để tìm tự thể của nó nhưng chỉ thấy toàn là những biến thướng chuyển động
âm ỉ dưới lớp biểu tướng. Nắm lấy các biểu tướng này và xem chúng có thể
quyết định nào đó, đấy là con người tự chuốc lấy đau khổ. Kiến thiết nền
tư duy hữu ngã, con người đi vào sự tự huỷ, đây là cuộc tự huỷ bi đát nhất
của con người: cố gắng kiến thiết tức là phá huỷ. Do vậy, nói đến dukkha,
ngoài những ý nghĩa khổ, đau đớn không sảng khoái thông thường ra, nó còn
nhìn ở khía cạnh khác, đó là khía cạnh biến hoại, huỷ diệt, chuyển biến,
biến dịch, vô thường của vạn hữu trước thái độ duy hữu ngã của con người.
Trong khi đó Chân đế (Paramartha-Satya) vượt ngoài phạm trù tư duy đối
đãi. Thực tại bấy giờ hiện ra không phải là những biểu tướng hay những
thuộc tính giới hạn, tất cả những thứ đó không có giá trị nào cả, ngay cả
những nhận thức sai biệt hoặc các lĩnh vực hoạt động tâm lý cần phải gột
tẩy tất cả những dấu vết của vọng tưởng mới có thể thấy được thực tính của
thực tại, tức là tâm thức bây giờ không dệt theo những biểu tượng của tri
thức phân biệt sai lầm nữa mà nhìn thực tại với tri kiến như thật
(Yathàbhùtam). Tục đế và Chân đế chỉ có trong khái niệm, không có trong
thực tính, bởi vì thực tính lá bất nhị Tư tưởng này về sau các nhà Đại
Thừa triển khai lên đến đỉnh cao của tư tưởng chiết trung. Kinh Hoa
Nghiêm đưa ra bốn phạm trù của thực tại đó: sự pháp giới, lý pháp giới,
lý sư vô ngại pháp giới, sự sự vô ngại pháp giới. Sự pháp giới là
biểu tướng của hiện tượng sống động; Lý pháp giới muốn nói đến chân
lý bình đẳng, nhất như; lý sự vô ngại pháp giới nghĩa là lý nhân sự
mà hiển lộ, nội dung được biểu hiện trên hình thức, sự y nơi lý mà thành,
hình thức dựa trên nội dung mà lập, lý và sự hỗ tương dung nạp vào nhau,
không mâu thuẫn trở ngại nhau; sự sự vô ngại pháp giới, tức là đề
cập đến tính hỗ tương, tương tức, tương nhập và bao hàm của sự sự vật vật,
trùng trùng vô tận.
Với cái
nhìn tổng quát trên, Tứ diệu đế mà đức Phật nói ra không phải là một thái
độ bi quan hay yếm thế như nhiều học giả ngộ nhận. Trình bày Tứ diệu đế,
đức Phật vạch ra lối nhìn chân xác, trung thực về bản chất con người và
cuộc đời, bên cạnh đó, ngài đưa ra giải pháp nhằm giải phóng con người
thoát khỏi vòng lẩn quẩn mà con người đang mắc phải không lối thoát.
a.
Khổ đế (Dukkha-ariyasaccàni)
Thế nào
là khổ đế? Đức Phật định nghĩa: “Đây là Thánh đế về khổ, này các tỷ
Kheo.
Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não
là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly khổ, cầu không được là khổ. Tóm
lại, năm ngủ thủ uẩn là khổ” (26). Đoạn kinh trên được giải thích: “Này
chư hiền, thế nào là sanh? Mỗi mỗi hạng chúng sanh, trong từng giới loại,
sự xuất sản, xuất sanh, xuất thành, tái sanh, tái sanh của chúng, sự xuất
hiện các uẩn, sự hoạch đác các căn. Này chư hiền, như vậy gọi là sanh”.
“Này chư
hiền, thế nào gọi là chết? Mỗi mỗi hạng chúng sanh, trogn từng giới loại,
sự tạ thế, sự từ trần, thân hoại, sự diệt vong, thời đã đến, các uẩn đã
tận diệt, sự vất bỏ tử thi. Này chư hiền, như vậy gọi là chết”.
“Này chư
hiền, thế nào gọi là sầu? Này chư hiền, với những ai gặp phải tai nạn này
hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác,
sự cầu của người ấy. Này chư hiền, như vậy gọi là sầu.”
“Này chư
hiền, thế nào gọi là bi? Này chư hiền, với những ai gặp phải tai nạn này
hay tai nạn khác; với những cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự
bi ai, sự bi thảm, sự than vãn, sự than khóc, sự bi thán, sự bi thống của
người ấy. Này chư hiền, như vậy gọi là bi.”
“Này chư
hiền, thế nào gọi là khổ? Này chư hiền, sự đau khổ về thân, sự không sản
khoái về thân, sự đau khổ do thân cảm thọ, sự không sảng khoái do tâm cảm
thọ. Này chư hiền, như vậy gọi là khổ.”
“Này chư
hiền, thế nào gọi là ưu? Này chư hiền, sự đau khổ về tâm, sự không sảng
khoái về tâm, sự đau khổ do tâm cảm thọ, sự không sảng khoái do tâm cảm
thọ. Này chư hiền, như vậy gọi là ưu”.
“ Này
chư hiền, thế nào gọi là não? Này chư hiền, với những ai gặp phải tai nạn
này hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ
khác, sự áo não, sự bi não, sự thất vọng, sự tuyệt vọng của người ấy. Này
chư hiền, như vậy gọi là não”.
“Này chư
hiền, thế nào là cầu bất đắc khổ? Này chư hiền, chúng sanh bị sanh chi
phối, khởi sự cầu mong: “Mong rằng ta khỏi bị sanh chi phối! Monh rằng ta
khỏi phải đi thác sanh.”. Lời cầu mong ấy không thành tựu. Như vậy gọi là
cầu bất đắc khổ. Này chư hiền, chúng sanh bị già chi phối... chúng sanh bị
bệnh chi phối...chúng sanh bị chết chi phối...chúng sanh bị sầu, bi, khổ,
ưu, não chi phối, khởi sự cầu mong: “Mong rằng ta khỏi bị sầu, bi, khổ,
ưu, não chi phối! Mong rằng ta khỏi đương chịu sầu, bi, khổ, ưu, não!”.
Lời mong cầu ấy không được thành tựu. Như vậy gọi là cầu bất đắc khổ.”
“Này chư
hiền, như thế nào là tóm lại năm thủ uẩn là khổ? Như sắc thủ uẩn, thọ thủ
uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này chư hiền, như vậy tóm
lại , năm thủ uẩn là khổ.” (27)
Phân
tích khái niệm “khổ” của định nghĩa trên thì Dukkha không phải là một khái
niệm cảm giác thuần tuý, hay khổ trái nghĩa với lạc (Sukkha). Cái gọi là
Dukkha chính là một sự tập khởi của hiện tượng tâm lý bị chi phối bởi các
hiện tượng của quy luật vận hành của lực lượng tồn tại. Sanh, lão, bệnh,
tử - quy luật của loại hữu tình, tự nó không nó lên bất kỳ khái niệm nào
đau khổ mà chúng chỉ là quy luật hình thành, tồn tại và biến hoại của loài
hữu tình. Cũng như quy luật của các sự vật: thành, trụ, hoại và không hay
sanh, trụ, dị, diệt, tự thân của nó cũng vậy chỉ âm thầm hoạt động liên
lỉ, không ngừng, theo vòng xoay của nó mà vận hành, nó không nói lên một ý
nghĩa nào đau khổ.
b.
Tập đế (Samudaya-ariyasaccàni)- nguyên nhân của khổ đau:
Thế nào
là Thánh đế về khổ tập?. Đức Ph65t định nghĩa: “Đây là thánh đế về khổ
tập, này
các tỳ khoe, chính là ái này đưa đến tái sanh. Câu hữu với hỷ và tham, tìm
cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái” (28). Tập
thánh đế chỉ cho nguyên nhân đau khổ hay nơi phát xuất khổ đau, cảm nhận
khổ đau. Nói như thế không có nghĩa là niêu ra một nguyên nhân đầu tiên
đưa đến khổ. Bởi vì, theo đức Phật, không có sự kiện nào xảy ra do một
nguyên nhân đầu tiên dẫn phát, mà chúng xuất hiện và tồn tại trong sự
tương quan, tương liên, Ái, trong đoạn văn định nghĩa trên cũng chỉ xem
như nhân tố chính của khôuẩn và nó cũng tuỳ thuộc vào các yếu khác phát
sinh, đó là “ thọ”, và “thọ” phát sinh tuỳ thuộc vào “xúc”, xúc phát sanh
từ sự hiện hữu của sáu xứ, sáu xứ hiện hữu tuỳ thuộc vào Danh-sắc....Sự
hiện hữu của Ái là một mối dây chuyền kết nối liên tục giữa cái này và cái
khác bất tận, vì thế, khi phân tích Tứ đế, nếu gạt nguyên lý duyên khởi
ra, thì không thể nào nhận thức được Tứ diệu đế. Ái được xem như là
nguyên nhân trực tiếp, rõ rệt nhất, từ “Ái” đưa đến “Thủ”, và từ “Thủ” dẫn
đến “Hữu”. Có thể nói thuyết lý mười hai nhân duyên mô tả tiến trình khởi
hiện khổ uẩn, và nó cũng cho ta thất sự tập khởi khổ bắt nguồn từ kinh
nghiệm sai lầm nguyên thuỷ, đó là vô minh.
Như phần
trước đã nói, sanh, lão, tử hay ngũ uẩn không phải là khổ; vô thường huỷ
diệt hay biến hoại, biến dịch cũng không phải là khổ. Những hiện tượng đó
chính là quy luật của vũ trụ, con người cũng là một vũ trụ nên cũng không
ra ngoài quy luật này. Thế thì, khổ tất phải thoát khởi từ nhận thức sai
lầm nguyên thuỷ là vô minh dẫn dắt con người đi trong mê lộ hữu ngã, từ đó
truy tìm và khát ái, chấp thủ chiếm hữu sự vật. Tham dục là nghĩa khác
của Ái, vì thế còn gọi là tham ái hay ái dục. Vô minh biến hình đa dạng
và hoạt động dưới mười hình thái căn bản, đó là: tham, sân, si, mạn, nghi,
thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ. Mười hình thái
này gọi là mười kiết sử, năm phần đầu gọi là độn sử và năm phần sau gọi là
lợi sử. Mười kiết sử này ràng buộc và dẫn dắt con người xoay vần trong
khổ não. Con người một khi bị vô minh chi phối, không nhận được tính để
thể của thực tại, không thấy được chân tướng của vạn hữu mà luôn luôn bị
vây kính bởi bức màn hữu ngã và tưởng tượng có một ngã thể hay linh hồn
trường cửu tồn tại nơi vạn hữu hoặc tồn tại sau khi chết. Vì không thấy
được chân tướng của vạn hữu là duyên sanh vô tánh và vô tánh duyên sanh,
nên cứ truy tìm nơi sự thể một ảo giác ngã thể, từ đó ái trước rồi thủ đắc
vào ảo giác này. Vô minh là yếu tố, là động lực thúc đẩy con người đi vào
hành động tạo tác - Nghiệp. Trong abhidharma kósa, Nghiệp được phân tích
thành hai bộ phận chính đó là Tư nghiệp và Tư dĩ nghiệp. Tư nghiệp chính
là những hiện tượng hoạt động của tâm lý và Tư dĩ nghiệp chính là phần
hoạt động biểu hiện ở trên thân và khuẩu sau quá trình hoạt động của tâm.
Đức Phật
đưa ra khổ thánh đế như là hình thái biểu hiện cụ thể xảy ra trong cuộc
sống thường nghiệm và những gì đức Thế Tôn trình bày về khổ chỉ có tính
ước lệ, do vậy, khi cọ xát trong cuộc sống, những vấn đề nào tạo nên sự
bức bách cũng được xem là khổ, như chiến tranh, sự khủng bố, sự xung đột,
cuộc khủng hoảng kinh tế, nạn thất học, dốt nát... Điều cần phải phân biệt
rõ là khổ thánh đế như là hiện tượng kết quả đi từ nguồn gốc vô minh. Do
vậy giải quyết khổ không thể bắt đầu từ ngọn ngành mà phải truy tận nguồn
gốc để giải quyết. Vạch trần bộ mặt khổ đau của cuộc đời và chỉ rõ nguyên
nhân dẫn đến khổ đau, đó là phương pháp đi tìm một luận chứng cho tiền đề
để rồi đưa ra biện pháp chấm dứt khổ đau, đem lại hạnh phúc an lạc.
c.
Diệt đế (Nirdha – ariyasaccàni) - sự chấm dứt khổ.
“Thế nào
là khổ diệt thánh đế?. Sự diệt tận không còn luyết tiếc tham ái ấy, sự xả
ly, sự khí xả, sự giải thoát, sự vô nhiễm (tham ái ấy). Này chư hiền, như
vậy gọi là khổ diệt thánh đế.” (29) Đây là chân lý cao cả về sự diệt khổ.
Ở đây được trình bày “sự diệt tận tham ái”, “sự giải thoát”, “sự vô
nhiểm”, tức là sự đoạn tận hoàn toàn các nguyên nhân đưa đến khổ đau, sự
phủ nhận hoàn toàn cái “tôi” do vô minh tưởng dệt ra, sự thanh lọc tất cả
phiền não rỉ tiết từ tư duy hữu ngã. Do vậy giác ngộ và giải thoát là mục
đích tối hậu của đạo Phật, là lý tưởng hướng đến của hành giả tu tập theo
con đường thoát khổ, đây còn gọi là Niết Bàn (Nibbàna hay Nirvàna). Y
nghĩa Niết bàn là sự dập tắt, sự vắng lặng hoàn toàn, tức là sự dập tắt
hoàn toàn vô minh khác ái, sự diệt hẳn dục vọng, sự giải thoát khỏi các
triền phược của ba cõi: dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu. Trong kinh
Mahasaropamasuttam, khi đề cập đến giải thoát, có đưa ra hai khái niệm là
thời giải thoát và phi thời giải thoát- thời giản thoát nghĩa là khi hành
giả nhập tứ thiền hay tứ không được tự tại, không bị các phiền não cấu uế
chi phối; phi thời giải thoát nghĩa là, vị hành giả không cần nhập vào các
định xứ nhưng cũng được giải thoát, không bị cấu phược, tức là giải thoát
toàn phần. Và kinh Màlùnkyàputta đưa ra hai trạng thái giải thoát thuộc
tâm chứng, đó là tâm giải thoát, do tu chỉ, nhất tâm là chủ yếu; tuệ giải
thoát, do tu quán, tuệ là chủ yếu. Trong kinh Giới phân biệt
(Dhatuvibhangasuttam), Trung bộ III, khi mô tả một vị giải thoát, đạt ngộ,
vị ấy đạt được bốn thắng xứ tối thượng.
-Tối thắng huệ xứ: Ở đây khi cảm giác một cảm thọ lấy thân làm
tối hậu, vị ấy tuệ tri: “tôi cảm giác một cảm thọ lấy thân làm tối hậu”.
Khi cảm giác một cảm thọ lấy sinh mạng làm tối hậu, vị ấy tuệ tri: “tôi
cảm giác một cảm thọ lấy sinh mạng làm tối hậu”; vị ấy tuệ tri: “sau khi
thân hoại mạng chung, mọi cảm thọ hoan hỷ ở nơi đây trở thành thanh
lương”. Do vậy tỳ kheo thành tựu như vậy là thành tựu với tối thắng tuệ
thắng xứ này.
-Tối
thắng đế thắng xứ: “Vì rằng, này tỳ kheo, như vậy là tối thắng
thánh tuệ, nghĩa là trí biết sự đoạn tận mọi đau khổ. Sự giải thoát ấy
của vị này an trú vào chân đế, khôgn bị dao động. Này tỳ kheo, cái gì có
thể đưa đến hư vọng, thời thuộc về hư vọng thời thuộc về chân đề, Niết
bàn. Do vậy, vị tỳ kheo thành tựu như vậy là thành tựu với tối thắng đế
thắng xứ này”.
-Tối
thắng huệ thí thắng xứ: “Vì rằng, này các tỳ kheo, như vậy là tối
thắng Thánh đế, tức là Niết bàn, không có thể đưa đến hư vọng. Và những
sanh y vô ý thức trước của nó đã được đầy đủ, đã được thành tựu. Chúng
được đoạn tận, chặt tận gốc rễ, làm cho y như thân cây tala, không thể
hiện hữu nữa trong tương lai, không có khả năng sinh khởi nữa. Do vậy,
một tỳ kheo thành tựu như vậy là thành tựu với tối thắng huệ thí thắng xứ
này”.
-Tối
thắng tịch tịnh thắng xứ: “Vì rằng, này các tỳ kheo, như vậy là
tối thắng Thánh huệ trí, tức là sự xả ly tất cả sanh y. Và tham ái vô trí
thức trước của nó thuôc tham dục, tham nhiểm; pháp ấy được đoạn tận, chặt
gốc rễ, làm cho như thân cây tala, không thể hiện hữu nữa trong tương lai,
không có khả năng sanh khởi nữa. Và sư phẫn nộ vô trí thức trước của nó,
thuộc sân hận, thuộc tội quá, pháp ấy được đoạn tận, cắt tận gốc rễ, làm
cho như thân cây tala, không thể hiện hữu nữa trong tương lai, không có
khả năng sanh khởi nữa. Và vô minh vô trí thức trước của nó thuộc si mê,
thuộc tội qua; pháp ấy được đoạn tận, cắt tận gốc rễ, làm cho như thân cây
tala, không thể hiện hữu trong tương lai, không có khả năng sanh khởi
nữa. Do vậy, tỳ kheo thành tựu như vậy là thành tựu tối thắng tịch tịnh
thắng xứ. Này tỳ kheo, như vậy là tối thắng Thánh tịch tịnh, tức là sự
tịch tịnh tham sân si”. (30)
Giải
thoát chính là sự tiêu tận tham sân si. Niết bàn là không sanh tử, không
ô nhiễm, không ưu phiền, thoát ngoài sanh lão bệnh tử, vượt khỏi thành trụ
hoại không mọi ý niệm tương đãi không đủ để diễn đạt hay mô tả trạng thái
tâm chứng Niết bàn. Trung luậ, phẩm Niết bàn, Long thọ mô tả Niết bàn
bằng khái niệm phủ định toàn triệt các ý niệm, định đề của tư tưởng, bởi
vì không còn cách nào hữu hiệu hơn bằng cách triệt phá lối tư duy lưỡng
phân, và Long thọ giải thích rất giản đơn: “Thọ chư nhân duyên cố, luân
chuyển sanh tử trung. Bất thọ chư nhân duyên, thị danh vi Niết bàn” (vì
bị chi p hối bởi các yếu tối, điều kiện nên luẩn quẩn xoay vần trong sống
và chết. Và khôgn bị chi phối bởi các yếu tố, điều kiện thì đấy gọi là
Niết bàn). Một bộ kinh khác nổi tiếng trong văn hệ Đại Thừa, kinh Lăng Già
(Lankàvatàra sùtra) phủ định luôn cả khái niệm Niết bàn, vì e rằng nếu đưa
ra khái niệm về nó tức là xây dựng một ý niệm đối nghịch lại với sanh tử,
như vậy trở thành phân cực lưỡng biên. Đức Phật phá vỡ toàn diện thái độ
đó bằng cách chối bỏ luôn những gì mà ngài đạt được: “Nhất thiết vô Niết
bàn, vô hữu Niết bàn Phật, vô hữu Phật Niết bàn. Viễn ly giác sở giác,
nhược hữu nhược vô hữu, thị nhị tất câu ly” (tất cả không Niết bàn, không
Niết bàn của Phật không có Phật Niết bàn. Xa lìa giác, sở giác. Hoặc có
hoặc không có, cả hai thảy đều lìa ) (31)
Vì Niết
bàn là cảnh giới sở hành tự chứng (Pratyatmagatigocara), là sự tự chứng tự
nội (Svasiddhanata), nên “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”; vì nó là
chân lý tuyệt đối, vượt ngoài phạm vi thường nghiệm nên mọi mô tả về nó
chỉ có giá trị miễn cưỡng. Trong kinh điển, đức Phật rất ít đề cập đến
lĩnh vực này, và khi có ai hỏi đến, ngài thường lặng thinh. Để có khái
niệm về Niết bàn, đoạn kinh sau đây trong kinh Na Tiên tỳ kheo ghi lại lời
thoại giữa vua Di Lan Đà (Milinda) và tỳ kheo Na Tiên (Nagasena) về cảnh
giới Niết bàn ở đâu thật là lý thú.
“Vua
hỏi: -Bạch Đại đức, thật có Niết bàn không?
- Tâu
Đại vương, có.
- Đại
đức có thể cho biết hiện đức Phật đang an trú ở chổ
nào
trong cõi Niết bàn ấy không?
-
Phật đã vào Niết bàn, mà Niết bàn là tịch diệt thì làm sao chỉ
được!
-
Xin cho ví dụ.
-
Ví như có người đốt lên đám lửa lớn. Sau khi lửa tắt, có thể chỉ
ngọn
lửa ấy
hiện đang ở chỗ nào không?
-
Thưa không. Vì ngọn lửa đã dứt.
-
Cũng như thế đó làm sao chỉ được đức Phật hiện đang an trú ở chỗ
này
hay ở
chổ kia trong Niết bàn! Duy chỉ có pháp thân của Ngài, tức giáo pháp Ngài
truyền lại là có thể chỉ được mà thôi.” (32)
Đến đây,
có thể nói rằng mọi diễn tả về Niết bàn đều trở nên bất lực vì vốn thể
Niết bàn là bất động như như, nếu sử dụng bất cứ khái niệm nào mô tả về nó
đề có tính phản động, đây là lĩnh vực siêu tứ cú tuyệt bách phi, chỉ có
thể biết được bằng cách thân chứng.
d.
Đạo đế (Magga-ariyasaccàni) – Con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau.
“Này chư
Hiền, thế nào là khổ diệt đạo thánh đế? Đó là thánh đạo tám ngành, tức là
chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh
tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
“Này chư
Hiền, thế nào là chánh tri kiến? Này chư Hiền, tri kiến về khổ, tri kiến
về khổ tập, tri kiến về khổ diệt, tri kiến về khổ diệt đạo. Này chư Hiền
như vậy gọi là chánh tri kiến.
“Này chư
Hiền, thế nào là chánh tư duy? Tư duy về ly dục, tư duy về vô sân, tư duy
về bất hại. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh tư duy.
“Này chư
Hiền, thế nào lá chánh Ngữ? Tự chế không nói láo, tự chế không nói hai
lưỡi, tự chế không ác khẩu, tự chế không nói lời phù phiếm. Này chư Hiền,
như vậy gọi là chánh ngữ.
“Này chư
Hiền thế nào là chánh nghiệp? Tự chế không sát sanh, tự chế không trộm
cướp, tự chế không tà dâm. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh nghiệp.
“Này chư
Hiền, thế nào là chánh mạng? Này chư Hiền ở đây vị thánh đệ tủ từ bỏ tà
mạng, sinh sống bằng chánh mạng. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh mạng.
“Này chư
Hiền, thế nào là chánh tinh tấn? Này chư Hiền , ở đây tỳ kheo, đối với các
ác, bất thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn không cho sanh khởi; vị này
nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm trì chí. Đối với các ác, bất thiện pháp đã
sanh, khởi lên ý muốn trừ diệt; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm trì
chí. Đối với các thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn khiến cho sanh
khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm trì chí. Đối với các thiện pháp
đã sanh khởi, khởi lên ý muốn khiến cho an trú, không làm cho băng hoại,
khiến cho tăng trưởng, pháp triển, viên mãn; vị này nỗ lực, tinh tấn,
quyết tâm, trì chí. Này chư hiền, như vậy gọi là chánh tinh tấn.
“Này chư
Hiền, thế nào là chánh niệm? Này chư Hiền ở đây tỳ kheo sống quán thân
trên thân, nhiệt tâm, tĩnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở
đời...trên các cảm thọ...tren các tâm...quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm
tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Này chư Hiền như vậy gọi
là chánh niệm.
“Này chư
Hiền, thế nào là chánh định? Này chư Hiền, ở đây tỳ kheo ly dục, ly ác bất
thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, với tầm, với tứ. (vị tỳ kheo ấy) diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú
thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ,
nội tỉnh nhất tâm. (Tỳ kheo) ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân
cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền
thứ ba. (Tỳ kheo ấy) xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và
trú thiền thứ tư, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này chư Hiền, như vậy
gọi là chánh định.” (33)
Từ bỏ
lối sống cực đoan, một chạy theo dục lạc, hưởng thọ khoái lạc giác quan,
tìm và đắm say nơi thú vui vật chất và một chạy theo đời sống ép xác khổ
hạnh, làm liệt tê các cảm thọ, tiêu huỷ năng lượng sống của xác thân dưới
nhiều hình thức, cả hai đều không đem lại lợi ích thực tiễn nào cho bản
thân, khổ vẫn hiện hữu và chi phối nghiền nát con người từng hơi thở một,
đức Phật đã tự tìm cho mình một giải pháp cho vấn đề đau khổ đau và cũng
là phương pháp giải quyết các mâu thuẩn, xung đột trong mỗi cá nhân và xã
hội, đó là Bát chánh đạo (Ariya-Atthangica-magga), con đường còn được mệnh
danh là Trung đạo (Majjhimà Patipadà). Con đường còn này vốn là pháp sở
hành của đạo Phật mà hầu như trong suốt 45 năm đi giáo hoá, dù dưới hình
thức nào, đức Phật đều giảng giải bằng những lối khác nhau, bằng những từ
ngữ khác nhau cho những đối tượng khác nhau tuỳ theo trình độ hấp thu của
họ. Tám chi phần này là một bảng hệ thống lại tất cả những giá trị đi từ
Tri đến Hành tạo thành một hợp thể thống nhất trong phương thức giải quyết
những vấn đề bắt đầu từ con người và kết thúc ngay nơi con người. Tám chi
phần này đồng thời hoàn thiện nhân cách sống, làm mẫu mực cho đời sống
giải thoát (Giới –Sila), phát triển đời sống tâm linh đến mức tinh khiết,
gạn lọc tất cả các cấu uế vô minh lậu hoặc (Định –Samàdhi) và phát triển
trí tuệ, nhìn sự vật vạn hữu đúng như thật là nó (Tuệ - Pannà)
Bát
chánh đạo được sắp xếp trình tự làm thành ba nhóm của tiến trình giải
thoát: Giới - Định - Tuệ.
*
Giới (Sìla) đóng vai trò quan trọng trên lộ trình giải thoát,
là lối sống chuẩn
Mực, là
ngọn đuốc ý thức soi chiếu trong đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân. Giới
là bề mặt của đời sống đi vào nội tâm, là mô thức quy phạm của đời sống
cộng trú, vượt xa hơn nữa, trong giới, hàm tàng một tình thương bao la vô
bờ đối với tất cả mọi loài, có thể nói giới được xây dựng trên hai nền
tảng Bi (Karunà) và Trí (pannà). Ở đây, phân tích giới nằm trong ba chi
phần thuộc Bát Chánh Đạo.
-Chánh
ngữ, theo định nghĩa của đoạn kinh trên bao gồm các ý nghĩa: 1.
Không nói láo. Phải nói lời chân thật, nói trung thực, ngay thẳng. Nói
những lời có giá trị xây dựng, tạo được niềm thông cảm, hiểu biết, không
được nói những lời dối trá gạt gẫm tạo sự mất niềm tin lẫn nhau trong đời
sống giao tiếp ứng xử; hay nói gạt gẫm nhằm thu lợi về cho mình, cho cá
nhân vị kỷ của mình hay những tập đoàn tài phiệt. 2. Không nói hai lưỡi,
không nói những lời gây chia rẽ, ly gián tình nghĩa hai bên hoặc lời dẫn
đến đấu tranh, xung đột, mâu thuẫn căm thù lẫn nhau. Nên nói những lời có
tính chất hoà hợp, hoà giải, đưa đến sự tin tưởng đoàn kết hoà bình. 3.
Không nói ác khẩu, nói vu khống, nguyền ủa người khác. Lời nói cộc cằn
thô lỗ đầy căm giận, lời nói thiếu tế nhị nhã nhặn ôn hoà mà phải dùng lời
nói tư hoà thanh nhã. 4. Không nói lời phù phiếm, tức là nói bàn những
điều nhảm nhí hoặc đưa tin đồn nhảm hay những lời dèm pha nịnh hót. Nên
nói những lời có ích, những lời có tinh thần xây dựng đem đến lợi lạc cho
mình cho người.
-Chánh
nghiệp là chi thứ nhì trong nhóm giới. Theo định nghĩa của đoạn
văn kinh trên, chánh nghiệp là hành động tự chế trong ba hành động. 1.
Không sát sanh, tức là không giết hại mạng sống, hoặc là tự mình sát hại,
hoặc bảo người sát hại. Hoặc sát hại gián tiếp bằng cách huỷ hoại môi
trường, tàn phá hệ sinh thái, làm ô nhiễm nguồn năng lượng thiên nhiên bảo
hoà cho sự sống, mà cần phải bảo vệ và tôn trọng sự sống bằng cách không
sát hại hay tàn phá môi trường, hệ sinh thái, không thích thú khi thấy kẻ
khác tàn sát hay phá hoại. Phải chan rãi tình thương đến muôn loài và
chống lại bất cứ thế lực nào có hành động tàn sát, hoặc sử dụng các loại
vũ khí hay chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. 2. Không trộm cướp, không
lọc lừa hay lừa đảo, hay không được dùng thủ đoạn bịp bợm trong cuộc cạnh
tranh kinh tế cưỡng ép người khác để chiếm đoạt tài sản, không được lường
gạt hoặc gian lận trong việc kinh thương. Hoặc là cướp công, cưỡng chế
sức lao động của người khác. 3. Không tà dâm, đây là đời sống bảo vệ hạnh
phúc gia đình, bảo vệ giá trị luân lý đạo đức của đời sống gia đình và
cũng là nền tảng trật tự xã hội. Đời sống gia đình nếu không bảo vệ vững
chãi sự thanh khiết thì đấy là nguy cơ đưa đến tan vỡ, và cũng là sự hủ
hoá gia phong của mình và người khác, đó là hành động đồi phong bại tục.
Xã hội đã chứng kiến biết bao nhiêu thảm cảnh tan với gia đình do công
việc không chung thuỷ hoặc có biết bao nhiêu những sự hiếp dâm làm tàn hại
cả đời người khiến họ phải chôn chân vào vòng tội lỗi. Hiện nay thế giới
đang chứng kiến những thảm hoạ lây lan bệnh HIV, con bệnh của thời đại, do
không tự kiềm chế được lòng dục.
-Chánh mạng, đây là đời sống hướng nghiệp chân chánh của cuộc
sống nghề nghiệp của con người. Người sống đời sống chân chánh phải biết
lao động bằng sức lực tay chân hoặc bằng trí óc của mình mà không hải tàn
hại đến người, vật và môi trường, hệ sinh thái. Không được sống trên
xương máu của người khác hay bóc lột người khác, không tham nhũng, không
buôn lậu, hay buôn bán hàng hoá làm lũng đoạn nền kinh tế quốc dân hay thế
giới, không buôn bán các thứ vũ khí, thuốc đầu độc con người làm băng
hoại tinh thần và thể xác con người như thuốc phiện, rượu...Nếu ai có đời
sống chánh mạng chính là đang bảo vệ mình, bảo vệ xã hội và bảo vệ môi
trường, bảo vệ tiến độ sống, tạo nên mức sống công bằng, đồng thời, biểu
hiện lòng từ đền với tha nhân, muôn loài.
*
Định (Samàdhi), giới hạnh là giai đoạn đầu trên tiến trình giải
thoát, kế đến là định, tức là kỷ luật trau dồi tâm trí, không bị giao động
trước hoàn cảnh nội tại hay ngoại tại. Gồm có ba chi phần trong Bát
chánh.
-
Chánh tinh tấn (Sammà-váyamà) tức là siêng năng nỗ lực dứt bỏ
những việc làm đem đến sự tổn hại cho mình, cho người, cho xã hội, và môi
trường, và luôn luôn tỉnh táo đề phòng trước cám dỗ của điều ác, bất
thiện; bên cạnh đó luôn luôn dũng mãnh đem hết tâm lực làm những việc có
ích cho mình, cho người, cho xã hội và môi trường sống. Sự cần mẫn liên
tục, đó là ý chí và nghi lực của sức sống của tâm linh luôn luôn cần được
phát triển.
-
Chánh niệm (Sammà-sati), tức là thắp sáng ngọn đuốc ý thức trên sự
Sống. Ở
đây, ý thức trên bốn lĩnh vực. 1. Ý thức về các hoạt động thuộc về thân.
2. Ý thức các hoạt động thuộc cảm giác. 3. Ý thức về các hoạt động tư duy
đối hướng. 4. Ý thức về sự hiện hữu của các lực lượng tồn tại. Do ý thức
được thân, cảm giác, tư duy và tồn tại nên kiểm soát được thân hành và tâm
hành và có khả năng thẩm thấu được bản thể của thực tại nhờ vào sự ý thức.
-
Chánh định (Sammà samàdhi), chánh định là năng lực dẫn tâm tập
trung vào đối tượng vững chắc, không lay động. Sự nhất tâm chuyên chú đó
có khả năng phát triển tâm linh và có khả năng gạn sạch tâm, phát triển
trí tuệ như thật, không thủ trước. Không bám víu vào đối tượng nào, hành
xả là tâm định tối thắng giúp hành giả thoát khỏi buộc ràng, được hoàn
toàn giải thoát. Trong đoạn kinh văn trên mô tả về tứ thiền, đây là tâm
định có khả năng dẫn tâm đến tuệ vô lậu giải thoát.
*
Tuệ (Pannà). Đây là chặng đường cuối cùng của lộ trình giải thoát
và cũng là mục đích tối hậu để đạt đến của đạo Phật. Trí tuệ được xem như
là công cụ xung yếu trong các giai đoạn tu tập. Trong kinh tạng. Thường
trình bày thứ lớp đi từ giới định tuệ, nhưng thật ra việc phân lập theo
trình tự chỉ có tính sư phạm hành động hoặc lý thuyết, còn trên thực tế,
cả ba đều có vị trí hỗ tương, nhưng ở giai đoạn nào, trình độ nào cần sự
hỗ trợ của phần nào, vậy thôi. Tuệ, ở đây, xuất hiện trên hai lĩnh vực,
chánh tri kiến, và chánh tư duy.
-Chánh
tri kiến (Sammà-ditthi), chánh kiến là sự thấy biết đúng đắn như
thật, tức là sự vật xảy ra như thế nào thấy đúng như thế ấy (Yathabhutam),
không phải sự thấy biết thông qua sự tích tập, tàng trữ kiến thức, hay sự
thấy biết bởi định đề nào. Chánh tri kiến vượt khỏi những thái độ tri
kiến ấy, thấy như thật sự tập khởi của Dukkha, thấy như thật nguyên nhân
của khổ (Samudaya), thấy như thật sự chấm dứt khổ (Nirodha) hay Niết bàn
(nibbàna) và thấy như thật con đường đưa đến sự chấm dứt đau khổ (Magga)/
-Chánh
tư duy (Sammà-Samkappa), đây chỉ cho thái độ khước từ, chối bỏ tất
cả những tư duy đạt nền móng trên hữu ngã, phủ nhận mọi giá trị tập khởi
từ tư tưởng hữu ngã. Thể tính của vạn hữu là vô ngã và các hữu thể cũng
chỉ tồn tại trên tính thể này và quy luật vận động tồn tại cũng lấy vô ngã
làm nền tảng. Ngay cả hợp thể Ngũ uẩn cũng chỉ tồn tại theo quy trình vận
động vô ngã này; khi tư duy như thế mọi chấp thủ ái trước bị rơi rụng,
không có bám víu vào một mảnh nào của vạn hữu. Và nhìn tất cả nằm trong
hoà điệu tương quan duyên khởi, do đó dẹp bỏ tư duy ích kỷ, chiếm hữu, như
thế, tư duy trở về với tính thể của nó-tính thể không tịch, vắng bặt các
định đề.
Bát
chánh đạo là một lối sống có tính khắc kỷ mở rộng cho tất cả, phù hợp với
đủ trình độ, một lối sống lành mạnh thăng tiến mà mỗi người khi thực hành
chắc chắn sẽ có lợi ích thiết thực nơi tự thân xã hội. Nó là phương pháp
có tính kỷ luật cao, khắc chế tự thân, tạo nhân cách sống đứng đắn về mặt
đạo đức và nó cũng là nền kỷ luật tâm linh tạo con người một nếp sống tỉnh
táo, không vong thân tuỳ vật, sống tự chủ khai phóng, không nô lệ những
cám dỗ thấp hèn và buông trôi theo vật dục. Cuối cùng nó rèn luyện cho
con người kỹ năng tư duy, phán đoán đúng đắn trước những hiện tượng với
xác suất chính xác cao.
Đạo Phật
xây dựng học thuyết của mình bằng giá trị tâm chứng, không phải từ giá trị
định lượng suy luận hay phán đoán. Duyên khởi là thành quả tất yếu của
quá trình khám phá chân lý của đức Phật. Duyên khởi là nguyên lý cấu trúc
nên sự vật và cũng là quy luật vận động phát triển của sự vật. Xuyên qua
quy luật này, đức Phật quan sát con người và chứng minh thực tại, gạt bỏ
những quan niệm sai lầm cố kết như một ý thức liên hệ. Quy thức duyên
khởi mở đường cho phép biện chứng đa phức và phương pháp luận áp dụng cho
đời sống thực tiễn. Điều này được mô tả rất phong phú và đa dạng trong cả
hai văn hệ Nam truyền và Bắc truyền. Với cái nhìn duyên khởi, tác giả đi
từ biện chứng đến phương pháp luận để trình bày nền giáo dục của đạo Phật,
và bên cạnh đó, Tứ diệu đế là chân lý của cuộc đời trình bày trên hai mặt
Tục đế và Chân đế cũng được xem như là nguyên lý giáo dụ của đạo Phật. Đó
là giá trị xuyên suốt của hệ tư tưởng của đạo Phật từ biện chứng tính thể
của thức tại đến biện chứng hành động.
II. MỤC ĐÍCH GIÁO
DỤC CỦA ĐẠO PHẬT
Trong
đạo Phật, giáo dục là yếu tố cực kỳ quan trọng trong các phương tiện
chuyển hoá, do vậy việc xác định đường hướng mục đích giáo dục là một vấn
đề thiết yếu không thể thiếu. Trên thế giới, những sản phẩm văn hoá,
những công trình khoa học hay sự nghiệp trí thức của nhân loại là một sự
khám phá và chuyển tiếp liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác, nếu yếu
tố khám phá hay chuyển tiếp thiếu vắng, sự nghiệp đó sẽ đi vào tiêu huỷ.
Vì thế các nhà giáo dục lớn trên thế giới luôn đi tìm tòi khám phá để
truyền đạt lại những công trình mà họ đang trên đường khám phá cho những
người đi sau tiếp tục tiếp nối. Chân lý luôn luôn là một ẩn số và vĩnh
viễn là một ẩn số. Từ xưa đến nay, các nhà giáo dục từ Đông sang Tây đều
có nhiều cách nhìn riêng, những quan điểm riêng về giáo dục, do vậy mục
đích cụ thể nhắm đến không đồng, tuy nhiên mục đích giáo dục nhìn chung
trên lý thuyết đều có vẻ có hướng chung nhất là làm sao cho cá nhân tiến
triển đến mục đích cuối cùng là: Chân, Thhiện, Mỹ, đó là ba tiêu đích mà
hầu như tất cả các lý thuyết gia về giáo dục đều nhắm đến.
Bertland
Arthur William Russell (1872-1970) trong tác phẩm “Giáo dục và trật tự xã
hội”, viết vào năm 1932, ông đưa ra ba mục tiêu của các lý thuyết giáo dục
đang phổ biến hiện thời: “Có ba lý thuyết giáo dục được ngày nay chấp
nhận. Lý thuyết thứ nhất cho rằng mục tiêu duy nhất của giáo dục là cung
cấp các cơ hội phát triển. Lý thuyết thứ hai chủ trương rằng mục tiêu của
giáo dục là đem đến cho các cá nhân sự phát triển tri thức (văn hoá) và
phát triển các khả năng đến ca điểm. Lý thuyết thứ ba thì quả quyết rằng
giáo dục phải được xem có mối liên hệ với cộng đồng hơn là liên hệ với cá
nhân, và công việc chính của giáo dục là đào tạo các công nhân hữu
dụng...”. Sau cùng ông nêu quan điểm là “không một lý thuyết giáo dục nào
trong ba lý thuyết trên được thoả đáng.” (34) Đến đây trước khi tìm hiểu
mục đích giáo dục của đạo Phật, thiết nghĩ cũng cần tìm hiểu qua một số
nhà giáo dục, tư tưởng gia, nhà văn hoá lớn từ Đông sang Tây trên thế
giới, xem họ đã có những tiêu đích nào nhắm đến và những tiêu đích đó có
gì nổi bật hay có còn là một món ăn cho thời đại của chúng ta hay không,
giả nó có thể bổ ích gì cho nền giáo dục Phật giáo.
Khổng
tử (551-479 BC), nhà giáo dục vĩ đại của Trung Quốc tôn sùng với danh
hiệu “Vạn thế sư biểu”, đường lối giáo dục của ông nhằm đào tạo ra bậc
thánh nhân quân tử, làm cho người thông đạt, biết lập thân và trở thành
người tốt, hữu dụng. Người quân tử phải đủ Tam cương (vua-tôi, cha-con,
vợ-chồng) hoặc Ngũ luân (vua-tôi, cha-con, vợ-chồng, anh-em, bằng-hữu),
Ngũ thường (Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín). Cuộc đời và kinh nghiệm giáo dục
của ông nhằm đạt đến hai giá trị thiết thực hữu dụng: Con người cá nhân và
con người xã hội. Với con người cá nhân, ông đưa một hạng người kiểu mẫu,
mà nhân cách là điều đáng được đề cao và trân trọng. Nhân cách con người,
ông đã sớm nhận thấy không chỉ bị quyết định bởi hoàn cảnh, điều kiện thực
tế, do vậy, ông bèn lập ra thuyết Chính danh, định phận tạo nên cung cách
đạo đức cá nhân trong việc giao tiếp, ứng xử với xã hội. Với xã hội, theo
ông, giáo dục có tác động trực tiếp đến mọi lãnh vực đời sống xã hội, đến
tôn ti trật tự hay đời sống thịnh vượng của con người cộng cư. Điều đó
nói lên được vai trò của giáo dục trong mối quan hệ hoạt động đời sống
tinh thần cũng như vật chất đến con người xã hội. Từ nhận thức căn bản đó
của giáo dục của ông, chúng ta cũng không lấy gì làm ngạc nhiên khi ông
nhận xét: bước chân vào một quốc gia có thể biết được nền giáo dục ở đó
thế nào và nhìn vào của Khổng tử mà ông nhắm đến và ông được xem như là
minh triết giáo dục vĩ đại của phương Đông.
Socrate
(470-399 BC), nhà hiền triết xứ Athens, Hy Lạp cổ đại, ông không để
lại tác phẩm nào. Qua các tác phẩm của Platon, dấu ấn thiên tài đã nổi
len khiến cho người đời phải cuối đầu khâm phục trước bộ óc vĩ đại này.
Đối với mục đích giáo dục ông cho rằng: “Mục đích giáo dục là làm cho tiêu
tan sự lầm lẫn và khám phá chân lý”.
Platon
(427-347 BC), đây là một mình triết “to lớn” đúng như tên gọi của ông
là môn đệ lỗi lạc của nhà hiền triết Hy Lạp Socrate, tên thật là
Aristoctes, sinh tại Athens. Mục đích giáo dục theo ông” “Giáo dục đem
lại cho thể xác và linh hồn tất cả mọi sự hoàn hảo có thể có được”. Đạt
được mục đích này, con người mới đủ khả năng gánh vác những công việc,
trọng trách khó khăn nhất mà gia cấp của người đó hoặc xã hội giao phó.
Aristotes
(384-322 BC) là tị tổ của ngành luận lý học phương Tây, là nhà văn hoá
lớn đem ánh sáng khoa học làm rạng rỡ phương Tây và đưa các nước này phát
triển nhanh chóng. Ông mở ra nhiều chân trời mới trên diễn đàn triết học,
chính trị học đạo đức học, vật lý học, siêu hình học và nghệ thuật...Khi
đề cập đến giáo dục, ông quan niệm rằng giáo dục phải nhằm thăng tiến con
người đạt đến mức độ hoàn toàn hảo và hạnh phúc, và: “mục đích giáo dục là
đạt được hạnh phúc và đức hạnh hoàn toàn”.
Martin
Luther (1483-1546) là nhà cải cách tôn giáo đầu tiên chống giáo hội
Thiên Chúa giáo ở Đức, sinh tại Eisleben, Saxony thuộc nướic Phổ. Ông chủ
trương giáo dục không những phát triển các cá nhân thành người hữu dụng mà
còn thăng tiến quốc gia xã hội và tôn giáo: “Giáo dục là sửa soạn để
phụng sự tôn giáo và quốc gia hữu hiệu hơn, sự huấn luyện những bổn phận
đối với gia đình, tôn giáo và quốc gia.
Montatigne
(1533-1592), nhà giáo dục người Pháp, nhấn mạnh đến giá trị tri thức
như là công cụ khám phá chân lý, chinh phục thiên nhiên để phục vụ con
người, theo ông, đó là tất cánh của giáo dục: “Giáo dục là phương tiện đưa
con người đến một cứu cánh, cứu cánh đó là sự chế ngự của loài người đối
với mọi sự vật.?
Pestalozzi
(1746-1827) ông chủ trương giáo dục phải “cho đời sống và do đời
sống”. Mục đích của giáo dục là cải tiến xã hội bằng cách giúp đỡ người
ta phát triển các năng lực, lòng tự trọng, tự tin và trạng thái an lạc của
họ.
Karl
Marx (1818-1883) là nhà phát hiện ra những quy luật kinh tế chi phối
sự phát triển của xã hội, một triết gia duy vật lỗi lạc, sinh tại Trèves,
nước Phổ (Đức). Ông đề cập đến mục đích “công tác giáo dục sẽ làm cho
những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản
xuất trong thực tiễn là cho họ có thể lần lượt chuyển từ ngành sản xuất
này sang ngành sản xuất khác tuỳ theo nhu cầu của xã hội tuỳ theo sở thích
của bản thân họ. Do đó, công tác giáo dục sẽ làm cho họ thoát khỏi tình
trạng một chiều mà sự phân công lao động hiện nay đang buộc mỗi một người
phải theo” (Tuyển tập Mác Ăngghen, Tập 1, nhà xuất bản Sự Thật, 1980,
trang 460)
Herbert
Spencer (1820-1903) cho rằng giáo dục không thể tách rời với đời
sống. “Chuẩn bị con người sống một cuộc sống đầy đủ trong nền văn hoá, xã
hội củ họ, đó là tác dụng chính của giáo dục. Ta phải căn cứ vào tác dụng
ấy để bình phẩm bất cứ một chương trình giáo dục nào. Chúng ta phải luôn
luôn đạt mục đích ấy ở ngay trước mặt để chọn những chương trình học vấn
và những phương pháp giáo dục cho thích hợp trong việc giáo huấn con em
của chúng ta”.
Emile
Durkheim (1858-1917), nhà xã hội học Pháp, vấn đề giáo dục, ông phát
biểu: “Con người mà pháp giáo dục muốn thực hiện ở ta không phải là con
người mà thiên nhiên đã tạo ra mà là con người mà xã hội muốn được như
thế”. Lời của Emile Durkheim cho thấy hai đường lối giáo dục khác biệ:
giáo dục theo quan niệm xã hội và giáo dục theo quan niệm tự nhiên. Ông
nhấn mạnh đến giáo dục xã hộ, do vậy mục đích của nền giáo dục này là con
người phục vụ xã hội, hay là con người xã hội.
Trên đây
là những mục đích giáo dục của các tư tưởng gia hay những nhà giáo dục lỗi
lạc từ Đông sang Tây trước khi đi vào mục đích của giáo dục đạo Phật. Mục
đích giáo dục đạo Phật là gì? Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật tuyên ngôn:
“Ta vì một đại sư nhân duyên xuất hiện ở trong thế gian, khai thị cho
chúng sanh thấy và sống tri kiến Phật”. Vậy thì tri kiến Phật là tri kiến
gì?. Phật (Buddha) có nghĩa là giác ngộ, giác ngộ có ba phương diện: tự
giác, giác tha, và giác hạnh viên mãn. Thế thì giáo dục của đạo Phật nhắm
đến con người chính nó, con người xã hội và con người toàn diện, tất
nhiên, điều đó không loại bỏ vấn đề chấm dứt vô minh, ngu dốt, khổ đau đưa
đến đời sống trí tuệ và an lạc hạnh phúc.
1.
Con người chính nó
Con
người cá nhân là con người biểu hiện thể chất, tâm tính, tư duy, tình cảm
và
Vị trí
của nó trong hoạt động tồn tại tự nhiên. Giáo dục con người cá nhân là
nhắm vào các đặc tính sẵn có và đánh thức những gì tiềm ẩn trong con người
trỗi dậy. Đặc tính đó không phải hoàn toàn đều tốt, do vậy nhà giáo dục
phải có trách nhiệm chỉ bảo cho nó ý thức được những gì cần phát triển và
những điều gì cần ngăn chặn và chuyển hoá. Một cá nhân xuất hiện không
chỉ là một thể chất mà còn mang cả dấu ấn tiềm tàng của một quá trình, cái
mà đức Phật gọi là Nghiệp, do vậy bản năng của nó không gì hơn chính là
nghiệp, hay là những nội kết thuộc nhân quá khứ. Bản năng đó là được xem
như là kết quả và nó được biểu hiện trên ba tính chất: Thiện, Ác và Trung
tính. Nhà giáo cần phải nắm bắt được những bản năng hoạt động của đối
tượng giáo dục để kịp thời có những phương thức phù hợp trong việc tác
động trên các mặt biểu hiện của nó tuỳ theo tính chất hoặc tốt hoặc xấu
hoặc trung tính bộc lộ. Giáo dục như thế tạo sự phát triển những bẩm tính
tốt đẹp, có năng lực hoạt động về cả thể chất lẫn tinh thần, đồng thời,
đánh thức ý thức dậy, ý thức được sự biểu hữu của những dòng lưu hiện trên
tâm thức. Ví dụ, như việc ngăn chặn tính tham lam, nhưng như vậy chưa đủ
mà phải khơi dậy nguồn ý thức để cho đối tượng giáo dục ý thức sâu xa về
bản chất của tính tham và tác động lợi hại của nó ở hai mặt như thế nào
trên dời sống tự thân và xã hội. Đức Phật không phải là người làm nhiệm
vụ trao truyền kiến thức, vì kiến thức là một cái gì đó cứng nhắc, không
có sức sống và mục đích giáo dục không phải truyền đạt những ý chết hay
những thông tin chết, làm như vậy, đối tượng giáo dục không có lợi ích gì
cả, đó chỉ là một trò chơi ngôn ngữ vô vị. Do vậy điều cần thiết trong
giáo dục hoàn thiện cá nhân là đánh thức ý thức giác ngộ cao vượt ra ngoài
những tư duy bám víu vào hữu ngã.
Một nhà
khoa học muốn khám phá chân lý, điều trước tiên phải dẹp bỏ những kiến
thức chết tức là những kiến thức thâu lượm được, những kiến thức này chỉ
những khái niệm khô cằn mà cuộc sống là sự linh hoạt vận động liên tục.
Giá trị tự giác trong đạo Phật có vị trí quan trọng, vì chỉ có tự giác mới
có khả năng hoàn thiện được con người chính nó. Một câu nói chí lý:
“Thắng muôn vạn quân địch, không bằng tự thắng mình”, đây là hoàn thiện
giới đức, tâm đức và tuệ đức. Nền giáo dục này khai phóng con người vượt
thoát bản ngã nhỏ hẹp ích kỷ, không bị bó buộc vào những khung kiến thức
cằn, lột trần tất cả những mặt nạ ảo giác để tiến tới cá nhìn thẩm thấu
vào thực tại như thực. Cá nhân là một tính thể tự nhiên, vì thế, khi giáo
dục con người chính nó, phải ý thức rằng, làm thế nào cho cá nhân đó sống
phù hợp với quy luật tự nhiên, điều đó có nghĩa sự sống là một chuỗi vận
động nên con người không thể tách ra khỏi cuộc vận động để tự thu mình
trong một điểm trú ẩn nào. Giáo dục con người chính nó điều đó không có
nghĩa đi vào chủ nghĩa cá nhân vị kỷ mà là hoàn thiện cá nhân đó với nhân
cách, năng lực nội tại và trí tuệ, tiêu dùng cá tôi (ngã) và những sở
thuộc của tôi (ngã sở) nhỏ bé hạn hẹp để hướng đến cái đại hoà điệu, cái
tổng hoà tồn tại tương liên tương tức.
2. Con người xã hội.
Xã hội
là do những đơn vị cá nhân lập thành, mà mỗi ác nhân là con người xã hội.
Con
người từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành đều có mối quan hệ xã hội,
mối quan hệ đầu tiên chính là mối quan hệ huyết thống. Do vậy, khi đặt ra
vấn đề giáo dục con người trở thành con người xã hội, quả thật là một vấn
đề nan giải, bởi vì xã hội vốn muôn mặt muôn hình, xã hội đầy rẫy những
bất công áp bức, và chế độ phân tầng dã tạo nên những thứ buồn nôn, đầy
rẫy những chủ thuyết, chủ nghĩa, những tập đoàn, thể chế. Như vậy vấn đề
đặt ra giáo dục con người để trở thành con người xã hội theo kiểu nào? Hay
chỉ là một khái niệm suông? Đối với vấn đề xã hội, đức Phật thường có thái
độ thận trọng, tuy nhiên vẫn có thái độ dứt khoát với những cá nhân, tập
đoàn hay những thành phần nào làm lũng đoạn xã hội, hoặc đưa xã hội vào
cảnh bế cùng. Giáo dục cá nhân để trở thành con người xã hội, đức Phật
luôn luôn tạo nơi người đó một niềm tin, sự thông cảm sâu xa, một tình
thương vô bờ, sự hiểu biết, một tinh thần buông xả và thái độ hành động vị
tha, xây dựng, phát triển cuộc sống xã hội hoà bình an lạc. Trong một bài
diễn văn của thượng toạ Dhammaratana dưới tựa đề “Phật giáo trong quá khứ
và ý nghĩa Phật giáo đối với hiện tại” (Buddhism in the past and its
significance for the present) đọc tại viện đại học Vạn Hạnh: “Những vị sứ
giả này không đi như các sứ giả của những kẻ thiết lập đế quốc. Họ cũng
không dùng sức mạnh hoặc những sự cám dỗ để thuyết phục người đời đi theo
con đường của đức Phật. Họ cũng không có những ý đồ thầm kín vào trong
công việc truyền bá chánh pháp. Họ chỉ hoạt động vì tâm nguyện đại từ và
đại bi. Vì vậy bất cứ nơi nào họ đến, mọi người đều tiếp đón họ nồng
nhiệt, và ngày nay họ vẫn còn được dân chúng tưởng nhớ với tấm lòng tri ân
và ngưỡng mộ. Giáo pháp vi diệu của đức Phật vẫn tiếp diễn đem lại lẽ
sống, ánh sáng, hoà bình và hạnh phúc cho hàng triệu người và sẽ tiếp tục
như thế chừng nào mà con người còn tin tưởng vào cái giá trị cao siêu của
cuộc đời”. .(Those greatmissionaries did not go as the massengers of
empire builders. The did not use force or temptation to convert the
people to the Buddha’s way. They had no ulterior motives in the
propagation of the Saddharma. They were inspired bye maitri and karuna
love and compassion. So wherever they went, people received them with
great joy and even today they are remembered with a sense of gratidude and
veneration. The Sublime message of the Buddha has continued to give life
and light, peace and happiness to millions of people, and it will continue
to do so as long as man has faith in the higher values of life)
Đoạn văn
trên thiết tưởng cũng đủ để nói lên giá trị con người xã hội theo hướng
giáo dục của đạo Phật. Chuẩn mực để định giá con người xã hội mà đạo Phật
nhắm đến, người đó phải sống được con người chính mình như trên đã trình
bày, và khi tiếp xúc xã hội, cần phải có tinh thần vô ngã vị tha, niềm
thông cảm sâu xa đối với cuộc đời, và trên hết, đó là tình thương bao la
và sự hiểu biết kiên định cùng với tinh thần vô uý, tức là trong con người
xã hội phải có bốn đức tính căn bản (vô ngã, từ bi, trí tuệ và dũng) mới
có thể phụng sự xã hội, kiến thiết xã hội phát triển trong ổn định trật
tự.
Giáo dục
con người xã hội, theo đạo Phật, không có nghĩa là đánh mất con người
chính nó, con người cá thể hoặc theo kiểu con người xã hội rập khuôn máy
móc của Karl Marx, mà chính là giáo dục con người xã hội trong mối tương
quan biện chứng hai chiều giữa cá nhân và xã hội, tạo thành động lực giữa
xã hội hỗ tương và phát triển. Tức là nền giáo dục trong đó bao gồm sự
phát triển tâm linh, sự quan hệ huyết thống và sự quan hệ xã hội trong
những chuẩn mực nhất định.
3. Thoát khổ, được an
lạc hạnh phúc.
Trong
suốt 45 năm hoằn hoá, đức Phật đi giáo hoá khắp nơi, đủ mọi đối tượng, và
kho tàng kinh tạng để lại không đi ra ngoài ý nguyện của ngài “vì hạnh
phúc cho số đông, vì lợi ích cho chư thiên và loài người”. Dưới nhìn của
ngài cuộc đời là khổ, “nước mắt chúng sanh nhiều hơn biển cả”, vì lẽ đó,
ngài đã tích cực hoằn hoá khắp nơi để đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc an
lạc cho mọi người. Hạnh phúc, theo đạo Phật, không phải là sự hưởng thụ
dục lạc vật chất mà chính là sự giải phóng khỏi mê lầm dục vọng, ngu si.
Trong đạo Phật không có sự hưởng thụ dù hiểu theo bất kỳ ý nghĩa nào. Vì
hưởng thụ đồng nghĩa với trí tuệ, bảo thủ và dốt nát, và đó là sự cản trở
củ sự tiến hoá tâm linh, sự phát triển xã hội. Tinh thần buôn xả là một
thái độ tự do không nô lệ. Chính tư tưởng này tạo nên động lực thúc đẩy
xã hội phát triển không ngừng. Đấy là ý nghĩa đích thực của đạo Phật nhắm
đến.
III. PHƯƠNG PHÁP GIÁO
DỤC CỦA ĐẠO PHẬT
Muốn
thực hiện công việc gì, trước tiên phải có phương pháp làm việc thì công
việc đó mới có hiệu quả cao. Phương pháp tốt, hiệu quả thu hoạch ức phải
tốt; còn phương pháp chưa cao tất nhiên không thể đòi hỏi có một hiệu quả
mỹ mãn được. Một tay cưỡi ngựa, không phải tự dưng anh ta có thể phốc một
cái có thể phi nước đại, mà phải có những kỷ thuật thích hợp trong tư thế
ngồi làm sao cho vững vàng, nắm dây cương ra sao, không phải ai cũng có
thể cưỡi ngựa được. Chúng ta có thể quan sát một thư ký văn phòng xem thử
cô ta làm việc như thế nào. Phương pháp tổ chức công việc trong ngày, bố
trí công việc theo lịch, việc xử lý hồ sơ, lưu trữ hồ sơ..., nếu một gã
tầm thường chưa biết gì về phương pháp làm việc chắc chắn không khỏi rơi
vào lúng túng hoặc không có đầu óc tổ chức, làm gì cũng vụng về, hiệu quả
đạt được không là bao. Như vậy phương pháp là con đường vạch định để đạt
đến mục đích cao nhất trong khoảng thời gian ngắn nhất.
Phương
pháp, theo nguyên ngữ Hy Lạp Methodos, có nghĩa là con đường thẳng dẫn đến
mục đích nhất định hay phương pháp tìm kiếm tri thức. Vì phương pháp được
xem như con đường thẳng tắt, và nếu đi đúng con đường ấy thì sẽ đến đúng
mục tiêu đã định, nghĩa là làm công việc gì nếu có phương pháp và tất
nhiên hiệu quả cũng cao hơn. Triết gia Bacon dí dỏm: một gã què nếu theo
đường thẳng thì sẽ tới đích trước một kẻ lành lặn chạy nhanh nhưng lạc
đường hoặc chạy quanh co. Nhận định trên của Bacon quả thật xác đáng.
Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, có mẫu chuyện ngụ ngôn nói về cuộc
chạy giữa rùa và thỏ, rùa con vật chậm chạp, thỏ con vật lanh lợi nhanh
nhẹn, nhưng cuối cùng cuộc đua đó phần thắng lại là rùa. Phải chăng rùa
cò đầu óc cần cù, theo nguyên tắc tổ chức và hành động trên đường thẳng,
còn thỏ chỉ biết miệt mài trong men say tài lực, ỷ lại, và cứ quanh co
không nhắm vào mục đích.
René
Descartes, một tư tưởng gia người Pháp, đánh giá cao về giá trị của phương
pháp: “Thiếu phương pháp thì người tài cũng lỗi, có phương pháp thì người
tầm thường cũng làm được những việc phi thường.” và Paul Rousselot định
nghĩa phương pháp một cách xác đáng: “Phương pháp chính là con đường thẳng
và chắc chắn nhất để tìm ra chân lý, hay để truyền đạt chân lý ấy”.
Con
đường thể nhận chân lý mà đức Phật khám phá ra, đó là con đường trung đạo,
đay là phương pháp thực nghiệm và thể nhận chân lý: “Tránh xa hai cực
đoan, này các tỳ kheo, là con đường Trung đạo, do Như Lai chánh giác, tác
thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn”
(35). Đức Phật xác định rõ giá trị của phương pháp có công năng đưa hành
giả đến mục tiêu nhất định. Mối quan hệ phương pháp và mục đích chính là
mối quan hệ nhân quả, từ phương pháp chuẩn xác dẫn đến mục tiêu chính xác,
thiếu phương pháp hay phương pháp lệch lạc sẽ dẫn đến kết quả lệch lạc,
điều đó là một sự thật hiển nhiên.
Để đạt
mục đích giáo dục, người làm công tác giáo dục cũng phải có phương pháp
giáo dục. Tức là phương pháp truyền đạt thông tin kiến thức đến đối
tượng. Giáo dục không có nghĩa đơn thuần là dạy mà bao gồm cả sự học, do
vậy phương pháp giáo dục chính là phương pháp dạy và học, nghĩa là bằng
cách nào để truyền đạt tốt nhất có hiệu quả nhất và bằng cách nào có thể
tiếp thu mau nhất, có kết quả cao nhất. Đức Phật được mệnh danh là bậc
đạo sư, vậy phương giáo dục của ngài đã ứng dụng như thế nào trong suốt
cuộc đời giáo hoá, và, đến nay phương pháp đó là hiệu quả như thế nào.
1. Vấn đề
chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục.
Dạy, trong
ý nghĩa thông thường, là một người truyền đạt kiến thức cho người khác.
Nhưng như vậy chưa đủ, bởi vì nói như thế không có nghĩa đích thực của
tinh thần trách nhiệm của cả hai. Ví dụ anh A có bao nhiêu kiến thức khoa
học phổ thông truyền đạt cho anh B hết, không cần tìm hiểu xem về trình độ
tiếp nhận của anh B như thế nào, và anh B có hiểu gì về những thông tin đó
không ông, và hiểu ở mức độ nào... A cứ việc nói thao thao, còn B thì cứ
ngồi gãi tai ngáp ruồi, như vậy không đúng nghĩa dạy và học. Vậy trước
khi bàn đến phương pháp, cần phải xác định vị trí chủ thể giáo dục và đối
tượng giáo dục, đây là yếu tố quyết định để nhìn thành các phương pháp cụ
thể giữa đôi bên.
A.
Chủ thể giáo dục.
“Không thầy
đố mày làm nên”, đó là câu tục ngữ Việt Nam. Câu nói ấy phản ánh quyền
lực của vị Thầy quyết định người học trò thành công hay thất bại trong
cộng việc. Lẽ dĩ nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ, nhưng suy cho
cùng bất cứ một thiên tài nào cũng bắt đầu từ một nguồn cội nào đó, không
thể có con người sinh ra không có sự tiếp nhận học hỏi mà có thể biết
được, dù học tập ở một cách thế đơn giản nhất hay khoảng thời gian ngắn
nhất. Một câu nói phát ra từ miệng của đứa trẻ lên ba làm cho ta thay đổi
cả đời, hay một hình ảnh nào đó trong cuộc sống tác động vào ta làm ta cải
đổi tâm tư ý thức. Như vậy, những gì tác động đến ta, như đứa bé, một
hình ảnh làm cho ta thấu hiểu sâu xa, khiến phải thay đổi cả đời, vậy thì,
đó có được xem như là vị Thầy không? Có thể nói, được xem như vị thầy..
Như ở đây, chủ thể giáo dục được nhìn nhận dưới những góc cạnh sau đây:
Vị Thầy
là một người hướng dẫn: Đức Phật từng tuyên bố: “ta chỉ là người chỉ
đường, còn đi hay không là các người”. Ngài là bậc Đạo sư dẫn dắt chúng ta
tìm về ánh sáng chân lý. Một vị hướng dẫn đòi hỏi có nhiều kinh nghiệm
dày dạn trong lĩnh vực chuyên môn của mình và biết được nhiều nẻo đường đi
đến mục đính. Do vậy họ mới có những phương pháp thích nghi cho đủ loại
trình độ. Muốn đi đến Hy Mã Lạp Sơn không nhất thiết phải đi bằng xe hơi
mà con nhiều phương tiệc khác và nhiều con đường khác để cho nhà du lịch
đến đó tuỳ theo sở thích của mình. Người hướng dẫn lắm lúc phải mở đường
mới cho người khách đi nếu tất cả con đường kia đều bị bế tắc. Vai trò
người hướng dẫn rất quan trọng bởi vì, vận mệnh của người khách nằm trong
tay của họ. Như vậy nhà giáo là một người hướng dẫn học viên trên tiến
trình học vấn. Họ chỉ đóng vai trò hướng dẫn còn chịu đi hay không thì
đấy không phải trách nhiệm của họ.
Vị thầy
là một người dạy học: Người dạy học có trách nhiệm là truyền trao kiến
thức của mình cho học viên và giảng giải những điều gì mà học viên không
hiểu, bên cạnh đó, còn phải chỉ dẫn kinh nghiệm học tập như thế nào cho
đạt hiệu quả. Vị giáo sư không thể truyền đạt như một cái máy mà phải
xuất phát từ tình thương và lương tâm của một vị thầy. Sự truyền đạt như
một cái máy tất nhiên rất có nhiều hạn chế và những thông tin phát ra
không làm sống được nơi tâm ý của người nhận, vì đó là những kiến thức
chết, sự truyền đạt kiểu đó chỉ có giá trị lập lại thiếu hẳn tinh thần
sáng tạo của người dạy và người học. Trong cuộc tiếp xúc của người dạy và
người học, một yếu tố cực kỳ quan trọng, đó là yếu tố tâm lý, sự cảm thông
sâu xa giữa người dạy và người học không thể thốt thành lời được, và một
giá trị thiêng liêng xuất hiện từ đây mà sau khi học viên rời ghế nhà
trường vẫn còn in đậm hình ảnh của vị Thầy không bao giờ phai nhoà, dù mai
sau trên đường đời nó thất bại hay thành công, vị Thầy vẫn giữ nguyên vị
trí trong tâm khảm của nó.
Vị thầy
là một người đổi mới hay một nhà hiện đại hoá: Nhịp độ phát triển mỗi
khác, vị thầy phải nắm được, phải bắt kịp nhịp độ này ở mặt cơ bản nhất để
có thể truyền đạt kiến thức phù hợp hiện đại hơn, và chương trình dạy phải
luôn luôn hiện đại hoá. Ví dụ những môn hướng nghiệp nếu không bám sát
tiến độ phát triển khoa học kỹ thuật thì những môn đó rất dễ bị lỗi thời,
và số học viên đào tạo ra không làm được gì cả. Đây là kinh nghiệm xương
máu của đất nước chúng ta, điều đáng mừng là các nhà giáo dục đã kịp thời
thấy được việc này nên đã cải cách giáo dục kịp thời. Đây là yếu tố động
của giáo dục. Yếu tố này buộc vị Thầy luôn luôn “học”, tìm tòi và bám sát
tiến độ phát triển của thời đại, của xã hội và rộng hơn là cả thế giới.
Vị thầy
là một mô phạm: Một người dầu thông thái đến đâu, bác học đến đâu nếu
không có nhân cách, không có phong cách đứng đắn thì vị đó nói dẫu có hay
chỉ có đá mới nghe. Người học viên không chỉ học nơi người Thầy những
kiến thức truyền thụ mà còn học nơi vị Thầy đi, cách nói, cách ngồi, nét
mặt nghiêm nghị, ánh mắt hiền từ...đó là sức sống của vị Thầy, đó là nhựa
sống, chất sống mà người học viên học được nhiều hơn kiến thức mà thầy
truyền đạt. Tấm gương của một nhà giáo gắn liền với nhà giáo suốt cả cuộc
đời, họ không chỉ là tấm gương trước những học viên của họ mà còn là tấm
gương cho cả xã hội soi vào. Mọi người có thể chấp nhận một vị thầy hơi
vụng về về kiến thức nhưng không thể chấp nhận vị thầy thiếu nhân cách.
Đặc biệt nền văn hoá phương Đông, về phương diện này, mọi người rất chú
trọng.
Vị thầy
là một người cố vấn: vai trò này khá đặc biệt, nó theo người học trò suốt
đời. Vị thầy bây giờ không phải lên chương trình, soạn giáo án nữa mà chỉ
điểm khi nào học viên có như cầu cần giải quyết vấn đề gì hoặc từ bài vở
hoặc từ thực tế công việc hay cuộc cọ xát với trường đời. Vị thầy chỉ
giúp ý kiến và bàn lẽ hơn thiệt, việc nào cần làm việc nào không cần làm,
việc nào nên làm hoặc không nên làm. Vị thầy còn có khả năng tháo gỡ
những khúc mắc kết chặt trong tâm tư hoặc những khủng hoảng trong đời
sống. Đây thuộc về những kiến thức thuộc về kinh nghiệm riêng của vị
thầy, những kiến thức không có trong chương trình, những kỹ xảo không
thuộc phạm vi học đường mà đây là kinh nghiệm cá nhân đúc kết cả đời
người.
Vị trí
và vai trò của vị thầy có rất nhiều mặt, như vị thầy là một nhà sưu tầm
nhà sáng tạo, là một nguồn cảm hứng của sự tưởng tượng, là người hành tác
của phong tục tập quán cũ, là người đập vỡ những khuôn mặt giả tạo, là một
nhà nghệ sĩ, hay một nhà định giá hoặc là nhà đối diện thực tại...Xác định
vị trí và vai trò chủ thể giáo dục tức là đang mở ra chân trời hành động
cho phù hợp với đối tượng cụ thể
B.
Đối tượng giáo dục
Khi nói đến
giáo dục, không thể không đề cập đến đối tượng giáo dục, đây là yếu tố hạt
nhân của giáo dục. Vì nói đến dạy, phải có đối tượng để dạy. Và đối
tượng đó phải nằm trong khuôn nhất định, điều đó có nghĩa đối tượng phải
là con người xã hội, không thể là con người tách ly xã hội, con người được
xã hội chấp nhận là con người. Một sự kiện xảy ra và được khám phá có
tính ngẫu nhiên, có một em bé khi mới sinh ra không hiểu vì lý do gì bị
chó sói tha vào rừng và chú sói đó nuôi em bé cho đến khi trưởng thành.
Điều éo le là thân của em là thân người nhưng hoạt động, ngôn ngữ và tư
duy của em lại là của loài sói. Sau người ta bắt em về tập cho em thính
nghi với hoàn cảnh với cộng đồng người, tập cho em nói, nhưng em lại không
chịu được, cuối cùng em chết. Như vậy đối tượng giáo dục không thể là con
người không mang tính xã hội.
Gần đây,
phần nhiều các nhà giáo dục chú trọng đến giáo dục trẻ em. Trong giai
đoạn tiền học đường (preschool-edcation), sửa soạn cho trẻ tinh thần sống
đời sống xã hội thu nhỏ và sẵn sàng đón nhận chương trình giáo dục. Sau
khi hết chương trình học đường, giáo dục còn tiếp tục chứ không phải chỉ
kết thúc khi rời ghế nhà trường, đó là giai đoạn hậu học đường
(postsschool-education), giai đoạn này, đòi hỏi chương trình phải tiếp cận
với thực tế, không còn mang tính nhồi sọ hay bài bản công thức nữa, tức
là học viên phải mở ra những cuộc giảo nhiệm những gì đã thu hoạch từ nhà
trường áp dụng trên thực tiễn rồi rút ra những bài học cho mình. Hiện nay
vấn đề giáo dục không còn hạn hẹp trong ba giai đoạn đó nữa mà còn có
những chương trình giáo dục suốt đời (lifelong-education) đã phổ biến một
cách rộng rãi. Đặc biệt là giáo dục thai nhi. Điều này quả thực không có
gì lấy làm lạ, trong truyền thống đạo Phật đã xuất hiện một chương trình
giáo dục này rồi. Khi bà mẹ mang thai, cần phải có những ý hướng tốt đẹp,
như không có ý nghĩa về sự giết hại, tà dâm, nói dối, trộm cướp; phải có
tình thương chan rãi để muôn loài, tâm ý luôn hướng thiện. Và ngay cả
những thành viên trong gia đình cũng vậy, vì họ là những người có ảnh
hưởng gián tiếp đến thai nhi qua trung gian người mẹ. Người mẹ phải luôn
luôn trau dồi thể lực, đạo đức và trí tuệ, có như vậy, khi đứa bé chào dời
đã có sẵn những hạt giống năng lực mà trong lúc người mẹ mang thai đã cấy
sẵn vào trong đó cộng với biệt nghiệp của nó.
Đối
tượng giáo dục trong đạo Phật rất rộng. Có thể nói những ai chưa kiện
toàn giới đức, tâm đức và tuệ đức, chưa giải phóng được những xiềng xích
của vô minh dục vọng còn bị nô lệ bởi các điều kiện thì đạo Phật phải đi
đến và phải giáo hoá họ. Bất luận gia tầng, đẳng cấp hay vị trí nào trong
xã hội, nếu chưa thoát khỏi ngục tù của tham vọng, của hận thù, chưa thoát
ra được bản ngã ích kỷ thấp kém, chưa có thái độ bao dung bình đẳng, họ
đều là những người cần có điều kiện thuận lợi để tiếp xúc ánh sáng của văn
hoá giác ngộ.
2. Nội dung giáo dục
Chương
trình giáo dục thường xây dựng nội dung trên ba lĩnh vực chính: thể dục,
đức dục và trí dục. Với nội dung này được biểu diễn theo từng lứa tuổi
của đối tượng giáo dục theo quy trình từ thấp đến cao, từ đơn giảng đến
phức tạp. Nội dung giáo dục phải bám sát tiến trình phát triển của các
ngành khoa học, của xã hội để kịp thời thích ứng giữa học đường với môi
trường xã hội, với trình độ khoa học kỹ thuật. Do vậy chương trình cải
đổi liên tục, nhất là các bộ môn về khoa học tự nhiên và khoa học kỹ
thuật. Do vậy nội dung truyền đạt phải thích hợp với trình độ của từng lứa
tuổi, từng hoàn cảnh, nội dung truyền đạt phải thích hợp với trình độ của
từng lứa tuổi, từng hoàn cảnh, nội dung đó phải được hiểu, có khả năng
tiêu hoá được trong đời sống.
Đạo
Phật rất chú trọng đến nội dung, bởi vì nội dung như thế nào thì mục đích
đạt đến như thế ấy. Nội dung giáo dục của đạo Phật không phải biểu hiện
trên từng lứa tuổi mà theo từng trình độ thích ứng. Có năm trình độ để
thích ứng năm nội dung giáo dục:
-Nhân
thừa: Căn bản là năm giới cấm, bên cạnh đó còn có những nội dung
khác: quan hệ các thành viên trong gia đình, quan hệ thầy trò, quan hệ bạn
hữu, quan hệ với môi trường sinh thái, quan hệ xã hội, giáo dục văn hoá
truyền thống, giáo dục về tâm lý học, giáo dục về triết học...Phải nói
rằng nhân thừa là một mảng khá phong phú trong chương trình giáo dục của
đạo Phật, vì khả năng của con người và vị trí của con người được đức Phật
đánh giá rất cao: nhân vi tối thắng.
-Thiên
thừa: căn bản là thập thiện nghiệp đạo và các phương pháp tu tập
bốn thiền và bốn định.
-Thanh
văn thừa: căn bản là Tứ diệu đế.
-Duyên
giác thừa: căn bản là thuyết Duyên khởi và lý thập nhị nhân duyên
-Bồ
tát thừa: trình độ này trong Phật giáo đại thừa rất chú trọng và
nâng lên thành lý tưởng thực thụ để hành động, chương trình căn bản cho
hạng này là Lục ba la mật.
Hiện nay
nội dung giáo dục Phật giáo (đây chỉ bàn về giáo dục Phật giáo Việt Nam
hiện thời) có tính rời rạc, không được thống nhất, không có tính cập
nhật, phương pháp vụng về, tính sư phạm hầu như thiếu hẳn. Điều này hẳn
nhiên có nhiều lý do mà các nhà giáo dục Phật giáo không thể một sớm một
chiếu có thể khắc phục được. Nhân sự có khả năng đảm đương công việc này
không có là bao, nếu có vị có khả năng quả thật rất ít. Hoặc có những vị
có trình độ nghiên cứu nhưng lại thiếu khả năng chuyên môn do vậy tạo nên
những thứ rời rạc, khô khan, vốn dĩ kinh điển khúc triết, bây giờ lại trở
nên mịt mù hơn. Một yếu tố có tính quyết định, là tài chính và tổ chức.
Đây là vấn đề nan giải nhất của ngành giáo dục Phật giáo Việt Nam hiện
thời. Ở đây trong phạm vi bài viết, không thể đi sâu vào những vấn đề đặt
ra trên. Ban giáo dục cần phải có chương trình soạn thảo sách giáo khoa,
giáo trình cho các cấp học từ sơ cấp, cơ bản và cao cấp, bên cạnh đó,
những chương trình giáo lý cho cư sĩ, Phật tử cũng phải soạn thảo để phổ
cập hoá từ thành thị đến nông thôn và vùng hẻo lánh. Nội dung có thể tuỳ
theo trình độ của lứa tuổi mà soạn thảo. Và chương trình này đặc biệt, là
các nhà soạn thảo phải nắm được chương trình học đường của các em để có bộ
sách giáo khoa Phật học cho phù hợp. Nội dung có thể tiêu hoá dễ dàng,
trong sáng, ứng dụng vào đời sống không có miễn cưỡng hay khó khăn.
Chương trình giáo dục Phật tử phải đẩy mạnh trên nhiều phương diện, lĩnh
vực vì nếu đạo Phật chỉ tồn tại trên mặt giáo lý quả thật quá khô khan
cứng nhắc, mà nội dungcu3a nó phải chan hoà vào đời sống văn hoá, vào nghệ
thuật và đi vào trong các tư trào của thời đại như là một phương cách định
hướng tư tưởng. Các vũ điệu, vũ khúc, nó không phải một thứ gì đó ghê tởm
để người học Phật phải xa lánh, nó như là sản phẩm của văn hoá tinh thần,
vậy ở đâu có sản phẩm của tâm là nơi đó có Phật chất, vì thế chúng ta chỉ
việc đến và khơi dậy tính Phật đó như một hướng đi của từng vũ điệu mà các
vũ sư hay vũ công đón nhận như một nguồn cảm hứng sáng tác, biểu diễn.
Nói tóm
lại, nội dung phải được phổ cập hoá một cách cụ thể theo từng thời đại,
từng lĩnh vực văn hoá, từng hoàn cảnh, từng tiến độ phát triển khoa học,
từng lứa tuổi, trình độ tiếp thu. Có như thế ngành giáo dục đạo Phật mới
phát triển phổ cập đến từng đối tượng được, đừng nhốt nó và trong nhà
chùa, tu viện, hay thiền viện mà phải biến nó thành Phật chất của cuộc
đời.
3. Phương pháp khế
cơ, khế lý, khế thời:
Một vị
giảng viên dù giỏi đến đâu, thông kim bác cổ, từ Đông sang Tây không có
vấn đề gì không biết, nếu không nắm vững ba nguyên lý căn bản khi đứng lớp
thì sự thất bại là việc nắm chắc. Đức Phật rất linh hoạt ba nguyên tắc
này, và trước khi ngài muốn nói điều gì, ngài phải tìm hiểu trình độ của
đối tượng và có thể tiêu hoá được, cuối cùng là chọn thời điểm nào. Điều
này tưởng chừng như đơn giản, nhưng thực ra đòi hỏi khả năng vị thầy có
kinh nghiệm tâm lý thật công phu, nếu không, bao nhiêu công trình đều trôi
theo biển cả. Đây là nguyên tắc mà một vị thầy luôn luôn nắm vững và thấu
triệt.
4. Quy nạp và diễn dịch:
A.
Phương pháp quy nạp (méthodes inductive)
Phương pháp
quy nạp là phương pháp nghiên cứu từ những cái đơn lẻ, từ những cái đơn lẻ
đó rút ra cái chung, điểm giống nhau, và đi đến định luật tổng quát.
Ví dụ:
Khi quan sát các pháp đức Phật thấy:
-Sắc là pháp duyên hợp nên vô thường.
-Thọ là pháp duyên hợp nên vô thường
-Tưởng là pháp duyên hợp nên vô thường
-Hành là pháp duyên hợp nên vô thường
Rồi đi đến kết luận, Phàm pháp hữu vi (hiện tượng sự vật hình thành và tồn
tại có điều kiện) là vô thường
B. Phương pháp suy diễn (Méthodes déductive):
Phương pháp suy diễn còn gọi là diễn dịch pháp, là phương pháp đi từ
nguyên lý chung, phổ biến, có tính tổng quát đến các trường hợp cá biệt,
riêng lẻ.
Ví dụ:
Tất cả các sự vật hiện tượng hiện hữu đều phụ thuộc vào các điều kiện, do
đó, không có tính thể (Nhân duyên sở sanh pháp, ngã thuyết tức thị không –
Trung luận).
-Thân người là vật phụ thuộc các điều kiện
-Ngọn núi là vật phụ thuộc các điều kiện
....Vậy chúng ta không có tính thể
Phương
pháp quy nạp và diễn dịch đã xuất hiện từ lâu, phổ biến rộng rãi, được xem
như là một phương pháp để tư duy, lập luận nghiên cứu và truyền đạt cho có
mạch lạc. Nó cho chúng ta có đầu óc quan sát sự vật và hiện tượng tinh
tường hơn, nắm bắt được cái chung nhất, cái riêng biệt, cái đơn lẻ, cái dị
đồng và từ đó khám phá ra những quy luật, định luật chi phối sự vật hiện
tượng. Có thể nói không một nhà giáo nào không sử dụng đến phương pháp
quy nạp hay diễn dịch, dù bất cứ dưới hình thức nào hay trên mặt lý thuyết
dùng để mô tả hoặc chứng minh, hoặc dùng để vấn đáp kích thích trí năng
của học viên.
5. Khái niệm ngôn ngữ
và định nghĩa:
Khái
niệm là công cụ của tư duy, đồng thời là công cụ tìm về uyên nguyên bản
thể. Một nhà giáo không nắm vững khái niệm, không biết sử dụng từ, không
xác định được ý nghĩa cụ thể thì lời diễn đạt không tránh khỏi sự ngộ
nhận, có thể đưa đến hiểu lầm, thậm chí nhiều khi học viên không hiểu vị
thầy đang nói gì, hay muốn nói gì, vì khái niệm sử dụng lầm lẫn, ý nghĩa
không phù hợp với hoàn cảnhA
a.
Khái niệm
Khái
niệm là một hình thức tư duy của con người, nó phản ánh những thuộc tính
Chung
nhất, chủ yếu, bản chất của sự vật và hiện tượng.
Như khái
niệm động vật dùng để chỉ những con vật có những thuộc tính chung, chủ yếu
là hoạt động.
Xét về
mặt khái niệm, có thể phân ra thành hai nhóm: khái niệm chân thật, khái
niệm giả dối, và phạm trù là xét trên mặt nội hàm của khái niệm. Và xét
trên mặt ngoại diên, ta có, khái niệm đơn giản, khái niệm chung, khái niệm
tập hợp, khái niệm cụ thể, khái niệm trừu tượng.
B.
Ngôn ngữ (langguage)
Ngôn ngữ là
công cụ biểu đạt ý nghĩ, tình cảm, nguyện vọng và là phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất của con người. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội và nó
gắn liền với tư duy, không thể tách rời, làm thành một thể thống nhất hữu
cơ. Ngôn ngữ không thể tồn tại nếu không có tư duy và ngược lại. Ngôn
ngữ hình thành và phát triển tuỳ thuộc vào cộng đồng người, vào hoàn cảnh
địa lý, dân tộc, lịch sử và văn hoá của cộng đồng đó. Vì thế, cũng là
ngôn ngữ, nhưng tiếng Anh khác tiếng Việt, và tiếng Anh sử dụng cho một
nhóm người nào đó, tiếng Việt cũng vậy. Do tiến bộ phát triển của khoa
học nên, về mặt ngữ nghĩa, ngôn ngữ biến đổi liên tục theo từng thời đại,
từng lĩng vực chuyên môn và do hoạt động đa dạng của xã hội nên ngôn ngữ
và ngữ nghĩa ngày càng phong phú. Sự giao lưu của các nền văn hoá của
các dân tộc cũng tạo nên sự phát triển đa dạng của ngôn ngữ. Do đó, nếu
xét trên mặt ngữ âm, nó là phần ổn định của ngôn ngữ, là thể tĩnh; xét về
mặt ngữ nghĩa là phần động phần luôn luôn biến đổi của ngôn ngữ. Ngôn ngữ
tồn tại dưới hai dạng thức biểu âm và biểu hình.
Do bản
chất của ngôn ngữ như thế, đức Phật sử dụng ngôn ngữ đến mức điêu luyện,
chính xác cao về mặt khái niệm ngữ nghĩa. Trong kinh Vô tránh phân biệt
(Aranavibhangaruttam), đức Phật khuyên các tỷ kheo không được chấp trước
địa phương ngữ và không đi quá xa ngôn ngữ thường dùng (36). Điều này
chứng tỏ rằng đức Phật luôn luôn đối diện với con người của thực tại, và
lời nói nhằm cho đối tượng hiểu, nhận thức được vấn đề chứ không phải nói
nhằm phô trương kiến thức tạo nên vẻ cầu kỳ lập dị khó hiểu trong việc sử
dụng ngữ biểu ý. Ngày hôm nay chúng ta là những con người của thời đại
mới, của thế kỷ hai mươi (sắp bước sang thế kỷ 21), đang đối diện với
thời đại, cũng như đức Phật, ngài là con người của thời đại của ngài, ngài
phải đối diện thời đại của Ngài. Vì thế, chúng ta không có lý do gì chạy
trốn thời đại của chúng ta để tìm về đối thoại với con người cổ đại, tư
duy trong khuôn khổ tháp ngà, mà phải tư duy Phật bằng chất liệu ngôn ngữ
của thời đại, và công cụ truyền thông phải là ngôn ngữ của thời đại.
C.
Định nghĩa (definition)
Thông
qua ngôn ngữ con người hiểu nhau. Ngôn ngữ được xem như chiếc cầu nối giữa
người nói và người nghe, giữa người nghe và điều muốn biểu đạt. Mỗi sự
vật và hiện tượng khi muốn biểu đạt, phải được khái quát hoá và trừu tượng
hoá bản chất, những đặc tính, thuộc tính. Nhờ đó ta mới có thể thẩm thấu
được đối tượng. Bất cứ một khái niệm nào cũng có thể được biết bằng cách
định nghĩa.
Định
nghĩa là sự xác lập, diễn tả những dấu hiệu cơ bản của đối tượng hay chính
xá hoá ý nghĩa của thuật ngữ tồn tại trong khoa học. Định nghĩa phải tuân
theo các quy tắc sau đây:
-Quy tắc
tương xứng-nghĩa là ngoại diên của khái niệm được định nghĩa và khái niệm
định nghĩa phải bằng nhau.
-Không được
nói vòng quanh, luẩn quẩn.
-Không nói
theo cách phủ định.
-Định nghĩa
phải đầy đủ.
-Không được
nói mập mờ, không rõ ràng hoặc nói tỷ dụ.
-Định nghĩa
phải ngắn gọn. (37)
Ví dụ:
khi định nghĩa về khái niệm “Sanh”, đức Phật diễn tả ý nghĩa của nó:
“Thếnào là
sanh? Mỗi mỗi hạng chúng sanh, trong từng giới loại, sự xuất sản, xuất
sanh, xuất thành, tái sanh của chúng, sự xuất hiện các uẩn, sự hoạch đắc
các căn” (kinh Phân biệt về sự thật, Trung bộ III ĐTKVN -tập 7, trang
571).
6. Phương
pháp trực giác và các phương pháp khác.
A.
Phương pháp trực giác.
Trực
giác là hình thái nhận thức trực tiếp vào đối tượng sự vật, không qua
trung gian ngôn ngữ, khái niệm hay suy luận nào cả. Hình thái này Duy
Thức học gọi là hiện lượng (pratyaksapramàna). Dùng phương pháp trực
giác, học viên có thể trực tiếp tiếp xúc “vật” trước khi “lời” xuất hiện.
Nó là điểm khởi đầu cho tư duy phán đoán của con người, có cơ may tiếp cận
chân lý thực tại và khám phá thực tại. Ở điểm này, Phật giáo có điểm
tương đồng với Immanuel Kant (1725-1804): nhà bác học người Đức,
ông quan niệm trực giác là sự nhận thức trực tiếp các sự vật, không cần
tìm tòi suy nghĩ, hay nương nhờ bất cứ khái niệm nào, nơi đây mọi khái
niệm đều bị tước bỏ.
Có nhiều
loại trực giác, nhưng theo các nhà giáo dục, trực giác khảo sát, nghiên
cứu và ứng dụng thành ba loại:
*Trực
cảm giác (intuition sensible) là sự hiểu biết trực tiếp những
hiện tượng ngoại giới bằng các giác quan. Dạy cho học viên bằng trực cảm
giác giúp cho các em biết sự vật, hiện tượng ngày càng tinh nhạy, nhất là
các môn cần phải có khả năng quan sát cao
*Lý
trí trực giác (intuition mentale) là sự hiểu biết trực tiếp
những ý niệm trừu tượng, những lời nghĩa sâu kín đang rì rào dưới lớp sóng
hiện tượng mà không cần có sự tư duy hay phán đoán can thiệp vào. Sử dụng
phương pháp này đưa đến trực giác phát minh giúp cho các nhà bác học khám
phá ra những định luật của vũ trụ, thế giới.
*Đạo
đức trực tiếp (intuition morale) là sự hiểu biết trực tiếp
những giá trị chân lý đạo đức lưu xuất từ tâm hồn của con người. Đạo Phật
rất chú trọng đến giá trị đạo đức này, đây là nền tảng cho đạo đức xã hội.
Một học viên nếu có đạo đức trực giác nhạy cảm, khi em nhìn một bà già
nghèo nàn khốn khổ phải xin từng chén cơm qua ngày, em động lòng trắc ẩn,
tình thương người của em tuôn rạt rào trong tâm hồn em, có thể em ứa lệ.
Tình thương người này không chờ đợi một sự giáo dục nào, mà nó là một nền
đạo đức vô hành từ trong tiềm thức của em trào dâng, nó không chờ đợi vào
những quy luật hay những giá trị luân lý đạo đức của xã hội.
Giáo dục trực giác giúp cho con người hướng tới cái chân, thiện, mỹ
đích thực, không bị các khái niệm đánh lừa.
B.
Phương pháp quan sát-thí nghiệm (hay thực nghiệm)
Phương pháp quan sát-thí nghiệm giúp cho học viên tiếp xúc với sự vật
hiện tượng. Đây là phương pháp có vị trí xung yếu trong việc phát minh và
đã đem lại những thành quả to lớn trong khoa học. Nếu không có sự quan
sát quả táo của Isaac Newton (1642-1727) thì không có định luật vạn
vật hấp dẫn và nếu không có sự quan sát của Archimèdes (287-212 BC)
về chiếc thân của mình trên mặt nước thì định luật về sức đẩy của nước vẫn
ngủ vùi, nếu không có sự quan sát tinh tường của đức Phật về hiện tượng
thì nguyên lý vô ngã và định luật vô ngã duyên sinh và duyên sinh vô ngã
vẫn mê trong cơn mộng vũ trụ...Và biết bao nhiêu nhà bác học khoa học ngày
đêm ở trong phòng thí nghiệm, hy sinh cả đời mình cho sự nghiệp khoa học
để tìm ra những phát minh cống hiến cho đời.
Quan sát là sự xem xét đối tượng nào đó một cách tỉ mỉ, đầy đủ, chính
xác trải qua quá trình tư duy phân tích tổng hợp, từ đó, khám phá ra được
nguyên lý, nguyên nhân và quy luật của chúng. Cần phân biệt rõ hai khái
niệm: quan sát khoa học (observation scienctigique) và quan sát thường
nghiệm (observation empirique). Quan sát thường nghiệm là nhằm để thoả
mãn nhu cầu hay thị hiếu cảm giác. Đức Phật thường khuyến cáo các môn đệ
của mình hãy quan sát như thật (như thị quán): Nhất thiết hữu vi pháp, như
mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điển, ưng tác như thị quán (kinh kim
cương)
Thí
nghiệm hay thực nghiệm là nghiên cứu, điều tra hay kiểm chứng sự vật hiện
tượng bằng cách can thiệp, “đi vào” cụ thể để chứng nhận tính xác thực về
một giả thuyết. Có hai dạng thí nghiệm: thí nghiệm để xem và thí
nghiệm để kiểm chứng. Đạo Phật rất chú trọng đến vấn đề thực nghiệm,
vì chỉ có thực nghiệm thì mới dẫn đến chứng nghiệm chân lý giải thoát, mới
chứng nghiệm tính thể thực tại.
c.
Phương pháp mô hình hoá.
Mô
hình hoá là biểu diễn một đối tượng nghiên cứu nào đó bằng một hình thái
biểu đạt nào đó, hình thái biểu đạt này gọi là mô hình. Sử dụng phương
pháp mô hình hoá khi đối tượng nghiên cứu phức tạp, đa dạng hay kích thước
quá lớn.
D.
Phương pháp biểu minh.
Phương pháp biểu minh là phương pháp biểu đạt một vấn đề nào đó bằng
hình ảnh cụ thể tương ứng để người nghe có thể qua đó hiểu được điều mình
muốn nói. Đức Phật khi thuyết giảng cho môn đệ của Ngài, Người thường
dùng những hình ảnh cụ thể hoá điều ngài nói, như hình ảnh chiếc bè để ví
dụ cho giáo pháp của ngài có giá trị như chiếc bè đưa khách sang sông;
hình ảnh người trúng tên độc không lo chữa trị mà chỉ hỏi những chuyện vu
vơ để ví cho những hạng người chỉ lo phiêu lưu trong các lĩnh vực siêu
hình mà đánh mất đi tính hiện thực của cuộc sống được giải quyết; hay hình
ảnh của một khúc cây trôi giữa dòng sông nếu không tấp bên kia bờ hoặc bên
này bờ, không bị con nước xoáy nhân chìm hay không bị người vớt thì nó sẽ
trôi vào Đại dương để ví cho con đường Trung đạo của ngài sẽ đưa hành gỉ
vào biển giải thoát...
Sử
dụng phương pháp này nhằm cụ thể hoá những khái niệm trừu tượng khó hiểu
và giúp cho học viên có đầu óc liên tưởng phong phú từ lý thuyết đến thực
tiễn.
E.
Phương pháp sách giáo khoa và dụng cụ giáo khoa
Phương pháp này có tính thời đại, nó giúp cho học viên phát triển và
tiếp thu nhanh hơn, đây là điều kiện ưu việt trong nền giáo dục hiện đại.
Cần phải trang bị đầy đủ các dụng cụ và sách giáo khoa bằng cách phổ biến
rộng rãi hoặc trong mỗi cơ sở giáo dục phải sắm đủ dụng cụ và lập thư viện
học sinh tiện bề học tập, tra cứu, tham khảo...
Có
thể nói phương pháp rất nhiều và đa dạng, nhà giáo dục phải biết ứng dụng
một cách linh hoạt bằng nhiều phương pháp cụ thể trong từng trường hợp
từng hoàn cảnh, đối tượng thì hiệu quả giáo dục mới cao được, bên cạnh đó,
cần phải kết hợp các phương pháp vấn đáp, kỷ luật, thưởng phạt, uốn nắn
nhằm cho học viên kép mình vào khuôn khổ để vươn lên.
Hiện nay, ngoài việc sử dụng các phương pháp căn bản trên còn có các
phương pháp do các nhà giáo dục nổi tiếng áp dụng trong nhà trường như
Freinet, Montessori, Decroly, La Martinière, Winnetka, Dewey hay đồ án
Dalton và đồ án Gary và các phương pháp thể dục thể hình
theo chiều hướng: quan niệm lực sĩ, quan niệm quân sự của các trường phái
Armosros, phương pháp của trường Joinville, phương pháp Thuỵ
Điển, phương pháp tự nhiên, phương pháp thể dục nhịp điệu của Jacques
Dalcoze, thể dục lực sĩ của Georges Demery, phương pháp thể dục
của Raymond Ducan, và phương pháp thể dục theo lối y khoa (theo lối
vệ sinh ba sạch và các phương pháp phòng bệnh, sửa chữa ngực lưng
bụng...). Vì hạn chế của tập luận văn nên chúng tôi
rất lấy làm tiếc không thể nêu cụ thể các phương pháp của các nhà giáo dục
nêu trên được và tôi cũng rất lấy làm tiếc có những vấn đề mà do sự giới
hạn của tập luận văn nên không thể đóng góp thêm
được trong việc khảo hướng giáo dục, có lẽ, trong tương lai, một thiên
khảo luận về giáo dục, một đề tài nóng bỏng cho giáo hội và cho cả xã hội,
mà mỗi con người chúng ta muốn đóng góp cho sự phát triển toàn diện, không
thể lãng quên hay làm giáo dục để cho có làm, sẽ có thể ra đời đóng góp
và sự nghiệp chung ấy.
PHẦN C:
KẾT LUẬN
KẾT
LUẬN.
Xác định
nền tảng giáo dục của đạo Phật để đưa tư tưởng đạo Phật đi vào đời sống
nhằm giải quyết những tình trạng bế tắc của con người và xã hội là việc
làm cần thiết của nhà giáo dục Phật giáo nói riêng và các nhà làm công tác
giáo dục nói chung. Nguyên lý Duyên khởi có vai trò quan trọng trong việc
xác lập hệ tư tưởng của đạo Phật, và qua duyên khởi, đức Phật thiết lập
nền nền giáo dục dựa trên vô ngã duyên sinh để cải tạo con người; và cái
gọi là con người chỉ là một tổ hợp vận hành của năm yếu tố mà tồn tại.
Con người do không có ngã tính thường hằng nên con người có thể chuyển hoá
được và có khả năng chuyển hoá.
Sự phát
triển khoa học và kỷ thuật đã tạo nên một sự đảo lộn trật tự đời sống xã
hội, mọi giá trị của con người nhường bước cho khoa học kỹ thuật, đưa đến
sự khủng hoảng trầm trọng về mặt đạo đức và tâm linh. Con người chạy theo
các sản phẩm thời đại đánh mất đi chính mình là cội nguồn nương tựa của lẽ
sống, cuối cùng họ không biết mình là ai, và đáp án chỉ là những nhu cầu
thoả mãn cho sự thèm khát vô tận của con người. Đứng trước những ảnh
tượng này, các nhà giáo dục phải xác định lại đường hướng giáo dục để kéo
con người ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay: hoặc giáo dục con người
theo chiều hướng tư duy hữu ngã tức là đang kiến tạo nên một nền tảng dục
vọng, thèm khát, một nền tảng xây dựng cuộc sống bằng các giá trị thoả mãn
dục vọng của con người. Chính nền giáo dục này đã gây nên không biết bao
nhiêu cuộc thánh chiến, những thảm hoạ xâm lăng tàn sát con người hàng
loạt, những tư trào nổi loạn xã hội, và những cuộc khủng bố trên thế giới,
những cuộc chiến tranh vì tôn giáo, vì sắc tộc nổ ra hàng loạt trên thế
giới. Một nền giáo giáo dục như thế quả thật quá đen tối và không biết sẽ
đẩy con người đi đến đâu trong tương lai, đến nỗi John Millet phải
ngán ngẩm, cho rằng giáo dục là một điều nguy hiểm, ông nó: “Giáo dục là
một việc nguy hiểm, vì giáo dục là chấp nhận đổi thay. Nó sẽ biến đổi cá
nhân vì nó gia tăng kiến thức và phát triển khả năng lý luận của họ, ngoài
ra, người được giáo dục có thể trở thành người giúp vào công việc đổi
thay6...”
“Giáo
dục cấp đại học là một điều rất nguy hiểm, vì nó luôn luôn đưa đến những
sự xáo trộn hệ thống quyền thế trong xã hội, mà vì nó mà cá nhân và định
chế trong xã hội có thể chấp nhận tư tưởng mới và thái độ mới. Sự thật mà
giáo dục cấp đại học truyền lại và phát triển không khi nào có tính cách
vĩnh viễn, mà chỉ tạm thời”. Nói giáo dục là một điều nguy hiểm quả thật
hơi quá đáng, nhưng điều đó không phải không xảy ra. Có người khi đọc
xong lời lên án giáo dục của John Millet liền vội phản đối ngay6:
“Giáo dục không nguy hiểm gì cả. Trái lại: không giáo dục mới nguy hiểm”.
Và nông nổi hơn họ cho rằng đó chỉ là những con người quay lưng lại với
tượng lai. Một cuộc cãi cọ thật vô ích. Điều cần xác định ở đây là
John Millet đã lên án nền giáo dục theo kiểu nào, hẳn nhiên, đó là một
nền giáo dục tô bồi cho hướng tư duy hữu ngã, xây dựng một “cái tôi”
thường hằng, không biến dịch, xây dựng cái tôi và sở thuộc của tôi hẹp hòi
ích kỷ, và chỉ biết tôn thờ những kiến thức khoa học và xem chân lý khoa
học như là chân lý tối hậu giải quyết mọi vấn đề về cuộc sống. Thất là
một sai lầm lớn đến nỗi nhà triết gia Bertrand Russel đã phải lên
tiếng cảnh cáo rằng khoa học không thực sự giúp cho loài người tiến bộ.
Ông nói:
“ÔChođến
ngày nay, con người không thực hiện được những điều họ mong muốn vì không
biết lấy phương tiện ở đâu. Nhưng khi họ đã tinh thông, họ có thể uốn nắn
mọi vật, xã hội và chính họ theo mẫu mà họ cho là tốt nhất. Nếu họ sáng
suốt, khả năng mới này sẽ đem lại cho họ những điều lành; nếu họ ngu xuẩn,
thì ngược lại họ sẽ bị hại. Như vậy có nghĩa muốn một nền văn minh khoa
học thành một nền văn minh tốt, ngoài sự gia tăng kiến thức cần có thêm sự
gia tăng sáng suốt. Theo tôi, sáng suốt là một quan niệm đúng về đời
sống. Mà quan niệm đúng này, khoa học không thể cung cấp cho ta được.
Cho nên, sự gia tăng khoa học tự nó không đủ để đảm bảo tiến bộ thự sự,
tuy nó cho là một trong những thức cần thiết mà tiến bộ đòi hỏi” (Bertrand
Russel, The Scientific Outlook, New York, Norton and Co, 1962)
Russel
đế cập đến “khả năng sáng suốt” làm hướng đạo cho các kiến thức khoa
học kỹ thuật mà tiến bộ đòi hỏi. Đây là một ý hướng mới, chân xác để
thiết lập một nền giáo dục, nhất là trong thời đại hiện nay, một thời đại
đang lâm và cảnh khủng hoảng bởi chiến tranh nguyên tử có nguy cơ xảy ra.
Một cuộc hoảng các giá trị đạo đức con người đang bị đẩy lùi trước sức
mạnh vũ bão của tư tưởng cạnh tranh sinh tồn của nền kinh tế thị trường
làm cho các giá trị luận ly61 của xã hội rơi vào ngõ cụt, thiên nhiên bị
tàn phá, môi trường bị ô nhiễm, một cuộc khủng hoảng về sự gia tăng dân
số, từ đó nạn đói kém tràn lan ở châu Phi và các cuộc đi di dân định cư
làm cho các nước có nền kinh tế phát triển mạnh phải náo động. Vì thế
việc định hướng một nền giáo dục mới là vấn đề cấp thiết cho thế giới hôm
nay và nó phải có tính toàn cầu. Việc vạch ra một đường hướng một nền
giáo dục mới không có nghĩa là gạt bỏ tất cả sản phẩm văn hoá cũ và những
tri thức khoa học khác mà là xác lập một hướng đi tạo sự cân bằng các giá
trị tâm linh và những thành tựu của khoa học. Albert Einstein, nhà
vật lý kiêm toán học lỗi lạc của thời đại chúng ta, cũng có một lối nhìn
tương tự như Russel, ông nói:
“Dạy
con người về chuyên môn chưa đủ. Qua khả năng chuyên môn, cá nhân trở
thành một thứ máy móc công cụ hữu ích mà không phải là một nhân cách phát
triển một cách hoà điệu. Rất căn bản rằng người học viên nắm được sự hiểu
biết và cảm nhân sinh động về các giá trị... Người học viên phải học hiểu
các động cơ của con người, vô minh và nỗi khổ đau của con người để nắm bắt
sự liên rõ ràng đối với các cá nhân đồng loại và đối với cộng đồng của
mình (Trích dẫn trong “Lý thuyết về nhân tính qua kinh tạng Pàli”, Thích
Chơn Thiện).
Quan
niệm trên của Einstein đáng trân trọng mặc dù ông không nêu lên
được bản chất nhân tính của con người là gì. Vấn đề Einstein đặt
ra chính là cánh cửa của sự giải phóng các xiềng xích của sản phẩm của nền
giáo dục định hình trên hữu ngã mà loài người đã bị đè ép từ ngàn xưa.
Con
đường vẫn còn quanh quẩn, thế giới cứ chạy vòng vo đi tìm lối thoát hết
thế hệ này đến thế hệ khác. Đức Phật vẫn trầm lặng dưới rặng tuyết sơn âm
thầm chuyển tiếng hải triều từ ngàn xưa đến nay vẫn chưa dứt. Tiếng vọng
ngàn đời của chân lý ban sơ u huyền trong cõi tịch lặng dội về. Đó chính
là tiếng nói đích thực về thế giới và con người, tiếng nói vượt lên các
phạm trù tư duy hữu ngã, tiếng nói ấy mang chất liệu của nhân tính chân
thật, của quy luật vận hành duyên khởi. Đạo Phật xây dựng nên một con
đường chuyển hoá của chất liệu vô ngã để kiến trúc nên một tri thức mà
trong đó những vô minh, căm thù và tham vọng bị đập tan, không còn hiện
hữu. Khoa học chính là sự thiết định vị trí con người không bị nô lệ hay
hạn cuộc vào một giới vức nào, mặc dù đó là sản phẩm do con người tạo ra
và phải nhìn cuộc sống là một sự tương quan khổng lồ. Đấy chính là biện
chứng giáo dục của đạo Phật. Đưa ra con đường giáo dục bằng định hướng vô
ngã, thực sự không có gì mới mẽ, vì từ ngàn xưa đức Phật đã sử dụng nó
trên bước đường chuyển hoá biến con người vô minh thành người giác ngộ.
Kể từ khi khoa học phát triển vị trí con người dần dần bị tước đoạt và bị
đẩy đến bờ vực thẳm, lúc ấy họ mới tự nhận ra rằng cái gọi là nền văn minh
khoa học có thể đưa nhân loại đến tột đỉnh của hạnh phúc chỉ là những ảo
vọng điên cuồng mà họ đã hì hục trong mấy thế kỷ qua. Đấy chính là điểm
kết thúc của khoa học chính ngay điểm khởi đầu của đạo Phật. Bấy giờ thế
giới mới nhận ra vẫn còn lối mòn cũ đang tồn tại trải qua bao lớp bụi thời
gian ở phương Đông, nơi mà vị hành khất xưa kia đang chuyển vận vũ trụ.
Tìm về
vô ngã là đang khám phá bản chất con người và giải phóng con người. Chừng
nào con người tư duy theo lề thói hữu ngã thì tham ái, chấp thủ và lòng vị
kỷ có cơ hội để tồn tại thách thức nỗi đau khổ của con người. Đạo đức và
khoa học nếu xây dựng trên hữu ngã thì đạo đức bao giờ cũng bị khủng hoảng
và khoa học mất hướng đi. Tìm về chân lý cuộc đời tức là về lại với cội
nguồn nguyên thể của chính mình để cảm thông cho mình đã bao nhiêu lần lầm
lạc trong đen tối, để tình thương khai mở suối nguồn tưới mát cho đời, để
chân thân Bồ tát mở cõi lòng hạnh nguyện vị tha giúp cho đời thoát khỏi
ngục tù của cố chấp, bảo thủ, và điên cuồng trong bạo lực và dục vọng thấp
hèn. Đó là hướng đi mới của nền giáo dục biết tìm về bản chất con người
và sự thật cuộc đời.
(1)
The educator’s encyclopedia, page 39.
(2)
Hoàng Phê và tgK. Tự điển tiếng Việt, nxb Giáo dục, Hà Nội. 1994,
tr. 671.
(3)
Từ điển Triết học, bản Việt dịch, nxb Tiến bộ và Sự thật, Matxcova,
1975, tr. 391. Hữu Ngọc và tgk, Từ điển Triết học giản yếu, nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987, tr 321.
(4)
hỏng theo Đức Phật và Phật pháp, narada, Phạm Kim Khánh dịch, Thành
hội ấn hành, TPHCM, 1989 và kinh trường bộ I, ĐTK Viet Nam, Viện nghiên
cứu Phật học Việt Nam ấn hành, TPHCM (VNCPHVN), 1991.
(5)
Kinh Phạm Võng, kinh Trường bô I, ĐTK Việt Nam, VNCPHVN, 1991, tr
89.
(6)
Kinh Samôn quả, Trường bộ I, ĐTKVN, 1991. Kimura Taiken, Nguyên
thuỷ Phật giáo tư tưởng luận, Quảng Độ dịch, nxb, Khuông Việt, 1971.
(7)
Kinh thánh cầu, Trung bô I, ĐTKVN, VNCPHVN, 1992, tr. 375.
(8)
Kinh Pháp Hoa, T. 1, Phẩm phương tiện, Trí Quang dịch, nxb, TPHCM,
1994, tr. 159
(9)
Ibid, tr. 86.
(10)Thích Chơn Thiện,
Phật học khái luận, ban giáo dục tăng ni ấn hành, 1993, tr. 138
(11)Kinh Tương Ưng bộ II,
ĐTKVN, số 13, VNCPHVN, 1993, tr. 10
(12)Ibid, p. 11
(13) Kinh Đại Duyên , số
14, Trường bộ I, ĐTKVN, tập I, VNCPHVN, 1991, tr. 523.
(14) Trung bộ I, số 28.
ĐTKV tập 5, VNCPHVN, 1992, tr. 420, 422.
(15) Tuệ Sỹ, Triết học về
tánh Không, nxb. An Tiêm, Sài Gòn, 1970.
(16) Tương ưng bộ III,
ĐTKVN-14, VNCPHVN, 1993, tr. 244.
(17) Tuệ Sỹ, IBid.
(18) và (19) Trung luận,
phẩn Tứ đế. 24
(20) Tương Ưng III,
ĐTKVN-14, VNCPHVN, 1993, tr. 239.
(21) Trung bộ III,
ĐTKVN-7, VNCPHVN, 1992, tr. 632.
(22) và (24) Lão Tử, Đạo
đức kinh, Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú, nxb, Văn học, 1991. tr. 53.
(23) Thích Thanh Từ,
Thiền sư Việt Nam, Thành hội Phậg giáo TPHCM, 1992, tr 115.
(25) Trung bộ III, ĐTKVN
tập 7, VNCPHVN, 1992, tr. 624.
(26) Tương Ưng V, ĐTKVN
tập 16, VNCPHVN, 1993, tr. 611
(27)Trung bộ II, ĐTKVN
tập 7, VNCPHVN, 1992, tr. 561.
(28) Tương Ưng V, ĐTKVN
tập 16, VNCPHVN, 1993, tr. 612.
(29) Trung bộ III, ĐTKVN
tập 7, VNCPHVN, 1992, tr. 564.
(30) Trung bô II, ĐTKVN
tập 7, VNCPHVN, 1992, tr. 553
(31) Kinh Lăng Già Tâm
ấn, Thanh Từ dịch, tu viện Chân Không, 1975, tr. 28.
(32) Kinh Na tiên tỳ
kheo, Cao Hữu Đính dịch, nxb, Minh Đức, 1971, tr. 124.
(33) Trung bộ III, DTKVN
tập 7, VNCPHVN, 1992, tr. 564.
(34) Thích Chơn Thiện,
Hướng mới giáo dục, tập văn Vu Lan, số 36, 1996.
(35) Tương Ưng bộ V, sdd.
(36) Trung bộ III, DTKVN
tập 7, VNCPHVN, 1992, tr. 536.
(37) Hữu Ngọc và các tác
giả, Từ điển Triết học giản yếu, nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp
1987, tr, 225.
Kinh Trường bộ I và II, Đại tạng kinh Việt Nam (ĐTKVN).
Kinh Trường A hàm I và II, ĐTKVN
Kinh Trung bộ I, II, III, ĐTKVN.
Kinh Tương ưng bộ I, II, III, IV, V, ĐTKVN
Kinh Lăng già tâm ấn, Thanh Từ dịch, Tu Viện Chân Không xuất bản, 1975
Kinh Pháp hoa, Trí Quang dịch, nxb. TP Hồ Chí Minh 1994.
Dinh Duy Ma, Trí Quang dịch, nxb. TP Hồ Chí Minh, 1994.
D.T. Suzuki, Nghiên cứ Kinh Lăng già, Thích Chơn Thiện- Trần Mẫn dịch, ban
giáo dục Tăng Ni ấn hành, 1992.
Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận, Ban giáo dục Tăng Ni ấn hành, 1993.
Nàrada, Đức Phật và Phật Pháp, Phạm Kim Khánh dịch, thành hội P6, TP. HCM
ấn hành 1989.
Kimura Taiken, Nguyên Thuỷ Phậg giáo tư tưởng luận, Quảng Độ dịch, Khuông
Việt ấn hành 1989
Kimura Taiken, Tiêu Thừa Phật giáo tư tưởng luận I và II, Quảng Độ dịch,
tu thư Đại Học Vạn Hạnh, 1969.
Kimura Taiken, Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Quảng Độ dịch, Tư thư Đại
Học Vạn Hạnh, 1969.
Thích Chơn Thiện, lý thuyết về nhân tính qua kinh tạng Pàli, luận án tiến
sĩ, Đại Học Delhi, 1996.
Nhất Hạnh, Vấn đề nhận thức trong duy thức học, nxb. Lá Bối, 1969.
Nhất Hạnh, Đạo Phật hiện đại hoá, nxb. Lá Bối, 1995.
Nhất Hạnh, Đạo Phật đi vào cuộc đời, nxb Lá Bối 1995.
Lê Thanh Hoàng Dân và tgk, Các vấn đề giáo dục, nxb trẻ 1971.
Lê Thanh Hoàng Dân và tgk, Sư phạm lý thuyết, nxb trẻ 1971.
Trần Văn Quế, Sư phạm lý thuyết, Bộ giáo dục trung tâm học liệu xuất bản,
1968.
Trần Văn Quế, Sư phạm thực hành, Bô giáo dục trung tâm học liệu xuất bản,
1969
Nguyễn Khắc Hoạch, xây dựng và phát triển văn hoá giáo dục, Lửa Thiêng,
1970
Nguyễn Thanh Nhân, Đóng góp một nền giáo dục dân chủ Việt Nam trong tương
lai, Minh Tâm, 1969.
Descartes, Phương pháp luận, Trần Thái Đỉnh dịch, Nam chi thùng thư, 1973.
Lê Tử Thành, Lôgích học và phương pháp nghiên cứu khoa học, nxb Trẻ, 1993.
Lê Tử Thành, Tìm hiểu lôgích học, nxb Trẻ, 1993.
Trung luận (bản Hán)
EDWARD W. SMITH et al, the Educators Encyclopedia, Prentice Hall, Inc,
Englewood Cliffs, N.J. 1961.
Earl V. Pullias and James D. Young, A Teacher is many things, fawcett
Publication, Inc. 1968.
Tuyển tập Mác-Angghen, nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1983.
--- o0o ---
Vi tính: Đồng Thanh.
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật:
01- 5- 2004