Vài vấn đề về tư tưởng Phật giáo nhân gian.

 

.

 

Vài vấn đề về tư tưởng
Phật giáo nhân gian

Tác giả : Diêm Hiến Thần
Việt dịch : T.N. Nguyện Liên

---o0o---

 

Sau khi thành lập đất nước mới, giới học giả Phật giáo Trung Quốc đã đưa ra tư tưởng “Phật giáo nhân gian”: Trang nghiêm quốc độ, Lợi lạc hữu tình... Bất luận là ai, những người chủ nghĩa Mác hay những tín đồ của Phật giáo... thì họ vẫn là những công dân của đất nước Trung Quốc, đều có căn bản thống nhất về lợi ích chính trị và kinh tế trong cộng đồng dân tộc. Tính nhất trí ấy tạo thành tinh thần thống nhất, khiến cho mọi người cùng nhau hăng hái phấn đấu, cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ðặc biệt hơn mười năm nay, theo sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và kinh tế, Trung Quốc đã tiến bước mạnh mẽ trên con đường hiện đại hóa xã hội. Cùng nhịp điệu này, Phật giáo với tư cách là giới ý thức xã hội, trước xu thế phát triển đương thời, đã có những đóng góp lợi ích thiết thực đối với xã hội mà hiệu quả khách quan không nghi ngờ được. Trên cơ sở đó, bài viết dựa vào vài vấn đề để nói lên giá trị hiện đại và cơ sở thay đổi chuyển biến theo thời đại logic của tư tưởng Phật giáo nhân gian.

Nội dung cơ bản của tư tưởng Phật giáo nhân gian

Tháng 12 năm 1983 trong buổi đại hội kỷ niệm tròn 30 năm ngày thành lập Hiệp Hội Phật giáo Trung Quốc, những vấn đề về tư tưởng Phật giáo nhân gian đã đưa ra thảo luận một cách rõ ràng, vì sự tiếp nhận rộng rãi của đại đa số tín đồ Phật giáo Trung Quốc nên tư tưởng này đã trở thành tư tưởng chỉ đạo của Phật giáo Trung Quốc đương thời. Cũng trong buổi Ðại hội này, ông Triệu Phác Sơ đã giới thiệu hệ thống tư tưởng Phật giáo nhân gian. Ông nói Phật giáo nhân gian chính là phải thực hiện tư tưởng tịnh độ tại nhân gian, nghĩa là phải phát huy tinh thần Phật giáo Ðại thừa làm cho lợi lạc hữu tình và thực hành tư tưởng nông - thiền kết hợp v.v... đây là vấn đề chủ yếu trong lý luận Phật giáo đương thời. Tất cả hoạt động của Phật giáo hiện nay đều dựa vào sự chỉ đạo của lý luận này mà triển khai và tiến hành nghiên cứu toàn diện, thấu đáo và vạch ra tác dụng thiết thực đối với xã hội đương thời làm cho mọi người thấy rõ nội dung sâu sắc của nó.

Như chúng ta đã biết không chỉ hôm nay mà từ ngàn xưa, Phật giáo Trung Quốc thời cổ đại đã thể hiện tinh thần cơ bản tư tưởng Phật giáo nhân gian. (Ðại thừa khởi tín luận) nói: “Nhất thiết chúng sanh bổn lai thường trú nhập ư Niết Bàn”. (tất cả chúng sanh vốn thường trụ trong Niết Bàn), hoặc (Triệu luận) cũng nói: “xúc sự tức chân”, “Chân tục bất nhị...”(tất cả sự sanh diệt sai biệt của sự vật hiện tượng giới đều là một chân lý thường trụ chân thật), (chân đế và tục đế là không hai), điều này đã bao hàm tư tưởng xuất thế gian bất ly thế gian. Trong Pháp Bảo Ðàn Kinh Lục Tổ cũng trình bày rõ ràng: “ tư tưởng Phật pháp tại thế gian”. Ðến nay Thái Hư Ðại Sư cũng nhắc đến tư tưởng “Phật giáo nhân gian”. Ngài chủ trương học Phật trước tiên bắt đầu từ việc học đạo làm người, Ngài cho rằng người học Phật phải “Phục vụ xã hội”, “Làm lợi ích cho quần sanh”v.v... và Ngài giải thích tính hiện thực của nó, đồng thời chỉ rõ vũ trụ nhơn sanh là thực tướng pháp giới mà Kinh Phật đã đề cập đến. Từ đoù, hành giả học Phật đem lời Phật nói biến thành chữ nghĩa hiện thực chân chính. Một vị học giả khác tên Dương Ðộ cũng đưa ra thuyết Tân Phật giáo về “Luận vô ngã”. Ông nói: “Thành Phật tức thành Thánh, nghĩa là làm ngươøi với tư tưởng mới”, cho nên không nói đến quá khứ, vị lai, chỉ nói hiện tại; không nói xuất thế chỉ nói nhập thế; không nói thần đạo chỉ nói việc của con người. Ông cho rằng trên đường phố đều là Thánh hiền, khắp nơi đều là đất Phật. Ông còn nói: “nhất thiết thế pháp, vô phi Phật pháp, nhất thiết nhơn sự, vô phi Phật sự”, (tất cả các pháp thế gian đều là Phật pháp, tất cả các sự việc của con người đều là việc Phật sự).

Từ quan điểm này cho thấy, thế giới cực lạc mà ông ta hướng về chính là thực hành thế giới bình đẳng tự do tại thế gian này, ông miêu tả thế giới ấy: “Thử cực lạc thế giới trung, vô Phật, vô chúng sanh, vô tham sân si, diệc vô giới định tuệ”. Nghĩa là trong thế giới cực lạc, không có Phật, không có chúng sanh, không tham sân si, cũng không có giới định tuệ. Vì sao? Ông nói: “Cố thử thế giới trung, nhân y thực bình đẳng, vô nhơn vô tư tài. Toàn thế giới trung,...... bình đẳng sanh sản, bình đẳng phân phối, bình đẳng tiêu hao, thực lực hỗ trợ, vô sở cạnh tranh”, (trong thế giới này, sự ăn mặc của loài người là bình đẳng, không có phân chia của người, của ta, không coù tài sản riêng tư. Trong tất cả thế giới... bình đẳng sản xuất, bình đẳng phân chia, bình đẳng tiêu dùng, cùng chung sức hỗ trợ cho nhau, không có chỗ cạnh tranh). Thật vậy, Phật giáo nhân gian mà Dương Ðộ đưa ra chính là phaûi thực hành thế giới hoàn toàn tự do bình đẳng trong thế giới loài người. Có thể thấy Phật giáo nhân gian là tư tưởng mới mà các học giả Phật giáo thời cận đại của nước Trung Quốc đã cùng nhau đề xướng, đồng thời đó cũng là di sản mà tư tưởng Phật giáo Ðại thừa diễn biến phát triển trên lịch sử nước Trung Quốc, nó không những bắt nguồn từ xã hội hiện thực mà còn bắt nguồn từ cội nguồn lịch sử. Vì vậy chúng ta nên nghiên cứu cẩn thận sâu sắc xem học thuyết này từ đâu có, tìm hiểu xu thế và trạng thái phát triển, tìm kiếm nguồn gốc xã hội để nắm vững vàng tư tưởng thực chất của nó, đồng thời thúc đẩy tư tưởng ấy phát triển và quán triệt đươïc trong cuộc sống Phật giáo hiện thực.

Phật giáo nhân gian hướng đến sự chuyển đổi và thực hiện một Phật giáo hiện đại

Những khái niệm sơ bộ về ý nghĩa tư tưởng Phật giáo nhân gian vừa trình bày ở trên giúp chúng ta thấy được trào lưu hiện đại hóa đương thời. Văn hóa Trung Quốc đang trải qua giai đoạn chuyển hóa mới, lấy hiện đại hóa làm mục tiêu tiến đến. Vậy Phật giáo Trung Quốc có thể đưa đến sự phản ánh tương ứng hoặc thuận theo tiến trình hiện đại hóa văn hóa Trung Quốc để thực hiện sự chuyển đổi hiện đại của chính mình không? Ðây không những là vấn đềà lý luận trong Phật giáo nhân gian mà còn liên quan đến sự tồn tại và phát triển Phật giáo, thậm chí tất cả những Tôn giáo khác, nếu không muốn tự mình bị đào thải bởi quy luật của xã hội thì cũng cần quan tâm đến vấn đề này.

 Phật giáo được xem là một hiện tượng lịch sử xã hội, là một hình thức tư duy, suy nghĩ của nhân loại đối với tự ngã và thế giới bên ngoài bao hàm tính tích cực, thậm chí là những nhân tố của pháp biện chứng, cho dù là gặp những câu chuyện thần bí, khi họ giảng giải chân lý Phật Ðà thì vẫn có thể biến nó trở thành những triết lý có giá trị đạo đức tu hành cho nhân loại. Ðiều này đã phản ánh được con người đối với nhận thức nhất định về thế giới bên ngoài và tự thân.

Từ ý nghĩa này, chúng ta không thể một mực khiển trách Tôn giáo là ngu muội, vô tri, nên thấy được tác dụng và ý nghĩa văn hóa xã hội mà nó hàm chứa, và cũng cần xét lại cách suy nghĩ sai lầm về phương diện phán đoán giá trị Phật giáo. Nói rõ hơn, Phật giáo cho đến tất cả Tôn giáo đều là một hiện tượng chuyển hóa mang tính xã hội mà nó tất nhiên phải sản sanh khi nhân loại đạt được ý thức tự ngã, đối với một số nhận thức hư vọng của chính mình, đối với sự bổ sung thêm về tính yếu đuối của chính mình. Do vậy dựa vào một số nhận thức, tư tưởng Phật giáo nhân gian hướng đến khả năng chuyển đổi hiện đại, tức trên thực tế làm thế nào để ứng đối một cách chính xác đối với hai chủng tính của bản thân Phật giáo, nghĩa là phải bắt đầu kế thừa bằng sự phê phán, tìm ra tư tưởng làm căn cứ để có thể hướng đến thực hiện sự chuyển đổi hiện đại.

Thứ nhất, Phật giáo nhân gian thời hiện đại nên chú trọng nghiên cứu về thế giới nhơn sanh hiện thực. Ðiều này cho thấy, Phật giáo trong quá trình phát triển lịch sử vì các điều kiện lịch sử xã hội không giống nhau đã xuất hiện nhiều trường phái, đồng thời biểu hiện đủ loại hình thức. Song bất kể trường phái nào, hình thức biểu hiện nào cũng đều có điểm giống nhau, tức đều lấy nhơn sanh làm chủ đề, nhưng trên bình diện thế giới quan thì cách nhìn nhân sinh dựa vào cuộc sống cá thể làm đối tượng, lấy sự giải thoát tự ngã làm mục tiêu sẽ khác với cuộc sống cộng đồng xã hội; hai chữ “số phận” giữ theo quan điểm bị định lực chi phối hoặc với thái độ thờ ơ lạnh nhạt không gắn bó quan tâm đến xã hội của tư tưởng tiêu cực, với đà tiến triển của xã hội thì chắc chắn không thể đuổi kịp với sự tăng tiến vô cùng mau chóng, ảnh hưởng lớn của Phật giáo Ðại thừa, lấy lợi tha cứu giúp chúng sanh làm tông chỉ.

Thứ hai, đối với cuộc sống từ một Phật giáo tiêu cực với thái độ chán ngán, xa lìa, buông bỏ dần dần để thay thế vào một Phật giáo tích cực khẳng định giá trị hiện thực của cuộc sống.

Thứ ba, kế thừa Phật giáo Ðại thừa, cải tạo và phát triển nguyên tắc luân lý Phật giáo thời kỳ đầu, đối với cuộc sống lấy phổ độ chúng sanh làm điểm xuất phát, tiến tới và đẩy mạnh tư tưởng “chúng sanh bình đẳng”, “từ bi hỷ xả”, “tự lợi lợi tha”, “tự giác giác tha”, “phương tiện tùy duyên” v.v... lấy sự thống nhất quan điểm giải thoát chúng sanh và cá nhân làm mục tiêu giải thoát chân chánh của con người. Ðiều này thể hiện nổi bật ở sự hình thành nguyên tắc luân lý nhân sinh của Phật giáo, đó cũng là tư tưởng lôgic của Phật giáo Tiểu thừa và Ðại thừa dung hợp được Phật giáo Trung Quốc. Ba điểm này từ trong Phật giáo Trung Quốc chúng ta có thể rút ra được những thuyết minh lợi ích về sự hiện hữu và phát triển của Phật giáo nhân sinh.

Phật giáo Ðại thừa truyền vào Trung Quốc, trước tiên dựa vào Huyền học của đời Ngụy Tấn, sau đó hòa nhập vào học thuyết tâm tánh của Nho gia phát triển thành một tông phái lớn, cùng với Nho, Ðạo nhị giáo (tức Khổng, Lão) trở thành cái đỉnh ba chân. Từ đó sản sinh ra trào lưu tư tưởng xã hội quan trọng ảnh hưởng rất lớn đối với các phương diện của xã hội Trung Quốc. Phật giáo Ðại thừa chú trọng đến lợi tha và tư tưởng giải thoát tự ngã để phù hợp với nhu cầu tinh thần người Trung Quốc, vì thế càng khiến cho người Trung Quốc tiếp nhận Phật giáo dễ dàng. Phật giáo Ðại thừa được thạnh hành trên lịch sử Trung Quoác đã gợi cho chúng ta thấy: sự phát triển tiến lên của Phật giáo Trung Quốc không thể là một Phật giáo với hình thức đóng khuôn, tự lợi, mà phải là một tinh thần Ðại thừa mang tính phóng khoáng mở cửa, đặt vào sự lơïi ích tha nhân, chính tinh thần này là căn bản quan trọng đưa tư tưởng Phật giáo nhân gian chuyển đổi hướng đến hiện đại và thực tiễn.

Chúng ta có thể đi vào phân tích cụ thể như sau: Nguyên tắc luân lý Phật giáo trực tiếp thể hiện tư tưởng “Bỏ ác hành thiện”, “Từ bi bình đẳng”, “Tự lợi lợi tha”.

Bỏ ác hành thiện là một trong những giáo nghĩa cơ bản trong Phật giáo, dựa vào giải thoát luận mà ước định, thiện tức là những điều phù hợp vơùi giáo nghĩa, giáo quy của Phật giáo, nó có thể đoạn trừ được những thống khổ, chiêu cảm được chánh quả, có lợi đối với hành vi, tư tưởng phẩm cách của giải thoát. Ngược lại những hành vi, tư tưởng, phẩm cách chướng ngại đến giải thoát, gây ra quả khổ, không phù hợp với giáo nghĩa, giáo quy của Phật giáo, đó chính là ác. Phật giáo sở dĩ khuyến khích thực hiện hạnh lành là muốn độ khắp chúng sanh ra khỏi biển khổ, khiến cho họ nâng cao trí tuệ, đến cảnh giới giác ngộ, hiểu rõ chân đế của cuộc sống, để đạt được hạnh phúc vĩnh hằng. Ơû đây tuy dùng chủ nghĩa cấm dục tuyệt đối và chủ nghĩa xuất thế để đổi lấy công đức viên mãn trong việc tu trì hạnh lành, nhưng song song theo đó, Phật giáo luôn lấy sự tu trì “Thiện tâm”, “Thiện niệm” làm luân lý Tôn giáo. Ðối với việc bỏ ác hành thiện, loại trừ các ác tư niệm, tịnh tâm tự ngộ, thể ngộ bổn tâm thì điều này trở thành một trong những nội dung chính của giáo nghĩa Phật giáo, đều có ý nghĩa rộng rãi; cụ thể hơn, việc thúc đẩy lòng người hướng thiện đã thể hiện được tính tích cực, hoặc có thể nói, trong phạm vi và điều kiện nhất định đều có tính hiện thực và nhân tố lợi ích. Ðây là một trong những căn cứ mà tư tưởng Phật giáo nhân gian có thể chuyển đổi phương thức hoằng pháp để hướng đến thực hiện một Phật giáo phù hợp với hiện đại.

Tư tưởng từ bi bình đẳng cũng là nguyên tắc cơ bản của Phật giáo đối với nhân sanh để nói lên mối quan hệ giữa người với người, giữa người với những sinh vật khác. Bình đẳng là chỉ sự quan tâm đối với tha nhân, đối với sinh vật. Bình đẳng cũng là tư tưởng cơ bản của từ bi, và từ bi là thể hiện đạo đức bình đẳng. Phật giáo xem từ bi bình đẳng là nguyên tắc luân lý chủ yếu nhất trong cuộc sống, có thể nói từ bi bình đẳng chính là đại bác ái. Loøng bác ái này không chỉ giới hạn ở nhân loại mà còn bao trùm tất cả vạn vật, nó thể hiện sự đồng cảm, thương xót đối với mọi loài. Nên nói, dùng tình cảm thương yêu để phổ độ chúng sanh cùng giải thoát là mục tiêu cao nhất trong Phật giáo.

Chúng ta cũng nên thừa nhận tinh thần bác ái của Phật giáo cũng giống như tư tưởng nhân ái của Nho gia, trên lịch sử tinh thần bác ái đã có những tác dụng quan trọng nhưng cũng không ngừng nhận được sự khiêu chiến trong cuộc sống, song tư tưởng này đã thể hiện tinh thần Phật giáo Ðại thừa làm lợi lạc hữu tình, đó cũng là một trong những căn cứ để tư tưởng Phật giáo nhân gian có thể chuyển đổi hướng đến thể hiện hiện đại hóa.

Tư tưởng tự lợi lợi tha cũng cho thấy nguyên tắc luân lý quan trọng của Phật giáo Ðại thừa là vì chúng sanh mà phục vụ. Nguyên tắc luân lý tự lợi, lợi tha của Phật giáo Ðại thừa là mối quan hệ mật thiết về cách nhìn cuộc sống giữa nhơn và ngã, là phép quán nhất thể không hai. Phật giáo Ðại thừa cho rằng mình và tha nhân hoàn toàn không đối lập với nhau mà dung hợp với nhau. Trong kiếp luân hồi sanh tử triền miên, sự giải thoát của mình và người là việc khó có thể tách rời. Vì vậy chúng ta yêu quí mình cũng nên yêu quí người, độ mình cũng nên độ người. Cá nhân chỉ có thể từ trong sự giải thoát của chúng sanh mới có thể giải thoaùt cho chính mình. Ðối với tư tưởng này, trong lịch sử Trung Quốc có những vị cao Tăng và những kẻ sĩ thường chủ trương Phật giáo không nên trốn mình trong hang sâu núi vắng, xa lánh nhân gian, ở hang trú cốc tìm nơi yên tĩnh tu hành, mà nên dấn thân vào con đường cứu thế lợi sanh. Trong cuộc sống nên xem mình cũng như người, xem người cũng như mình, tất nhiên tự mình thành Phật khiến cho người khác thành Phật cũng đều quan trọng như nhau. Vậy Phật giáo Ðại thừa có còn đem cái lợi của người khác làm thước đo tiêu chuẩn để phân biệt tốt, xấu không? Từ đây có thể thấy, điểm trọng yếu của nguyên tắc luân lý cuộc sống tự lợi, lợi tha trong Phật giáo Ðại thừa vaãn là lợi tha, đây chính là sự phát triển tiến bộ hơn của tư tưởng từ bi. Ðiều này có thể đưa ra cho mọi người một sự gợi ý: ở thời đại ngày nay, pháp môn tu hành chỉ chú ý đến tự ngã của mình và hướng Phật giáo giải thoát tự ngã thật sự không còn phù hợp và phát triển quá chậm, Phật giáo đương thời phải làm cách nào để hướng đến sự phát triển cho nhân loại, hướng đến việc cứu thế giúp đời. Ðó chính là nhân tố giúp cho Phật giaùo đẩy mạnh sự phát triển.

Người tín ngưỡng Phật giáo tiến lên một bước nữa là luôn quan tâm đến việc nghiên cứu Phật giáo nhân gian để đẩy mạnh luân lý Phật giáo nhân sanh, thay đổi thích ứng với tính xã hội một cách rộng rãi. Còn một điều quan trọng hơn nữa trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, đó là sau đời Tùy Ðường, Thiền tôn đã trở thành danh từ của Phật giáo Trung Quốc, nhưng chỗ chủ yếu nhất của Thiền tôn là quy tất cả chúng sanh, chư Phật, chư Pháp về tự tâm, tự tánh. Nói về tự tâm, tự tánh tức quay trở về tính người của chính mình. Do vậy sau khi cải cách Phật giáo, người ta xưng là Thiền tôn “Lục Tổ cách mạng”. Thực chất của tinh thần cách mạng Lục Tổ tuyệt đối không phải là thay đổi lôgic để gọi danh xưng mà chính là nói Thiền tôn lấy nhân tâm nhân tính thay thế thực chất tự tâm tự tính của Phật giáo truyền thống, tức dùng cuộc sống hiện thực thay theá một Phật quốc hư ảo. Thiền tôn đã điều chỉnh, làm thay đổi thái độ sống của một số người học Phật, không còn chán ngán xa rời cuộc sống, chê bỏ hiện thực, đồng thời khẳng định cho biết, người học Phật phải tìm thấy giá trị, ý nghĩa của cuộc sống. Ðó chính là tính tích cực trong Phật giáo hiện đại. Vì vậy chúng ta không còn nghi ngờ gì khi đem Phật giáo qui thành tư tưởng nhân sanh để giúp cho tăng cường sức sống của Thiền tông. Từ đó tư tưởng Phật giáo nhân gian hướng đến khả năng chuyển đổi, thể hiện tính khế lý, khế cơ trong xã hội hiện đại.

 Phật giáo nhân gian cũng chú trọng đến việc nghiên cứu đạo đức về luận nhân quả báo ứng. Thuyết nghiệp baùo là một lý luận cơ bản của Phật giáo. Lý luận này cho rằng: tất cả hoạt động thân tâm của con người, tức hành vi thiện ác của ba nghiệp thân, khẩu, ý tạo tác nhất định đưa đến quả báo tương ứng, trong đó đặc biệt xem trọng đến tác dụng của tâm ý,và nhấn mạnh tâm là cơ sở, căn nguyên đưa đến đắc đạo. Mỗi một suy tư của tâm con người, cho dù chưa hành động, hoặc đã hành động cũng đều thọ lấy báo ứng. Vì vậy yêu cầu người tu hành theo Phật giáo phải thận trọng cho riêng mình, đặt nặng đạo đức ý thức tu hành, không sanh khởi bất cứ ác niệm nào.

Luận nhân quả của Phật giáo còn đưa ra vấn đề tự làm tự chịu của người tạo nghiệp. Luân lý học thường trực tiếp liên hệ hành vi và hậu quả của con người, chủ trương tự mình chịu trách nhiệm đối với mình, nghĩa là tự mình chịu trách nhiệm với hành vi và hậu quả của mình. Ðiều này có ý nghĩa đạo đức rõ ràng, xác thực, không nên oán trách trời, buồn rầu người đối với những việc mình gặp phải, vì tất cả những điều mình gặp phải đều do mình tự chọn lấy, là kết quả tất nhiên về hành vi của chính mình, và không tồn tại một sự thao túng của kẻ thống trị vận mệnh con người hoặc quản lý báo ứng họa phước. Cho dù người phàm không thấy được mối liên hệ này, song điều quan trọng quyết định ở nhân loại cảnh giác hành vi ngay trước mắt của mình, đương nhiên con người không thể thay đổi được quá khứ nhưng có thể thông qua những hành vi được chọn lựa ngay hiện tại mà thay đổi được một tương lai tươi sáng, phóng khoáng, tràn đầy những dấu ngoặc khả năng tính. Vì vậy chủ trương của Phật giáo, con người không nên trở thành những người nô bộc do định nghiệp quá khứ biến thành những người thừa nhận bị động, mà nên đứng vững với sự lựa chọn trước mắt, không ngừng vượt lên với chính mình, giải thoát khỏi luân hồi sanh tử ưu bi khổ não.

Luận về nhân quả, sự liên đới của mối quan hệ đời trước và đời hiện tại có người cho rằng, đây là một thuyết minh tiêu cực, vì luôn xem con người là vật tồn tại bị qui định không tự do, nhưng đứng trên quan hệ hiện tại và tương lai để nhìn, thì đó lại là một lý thuyết tích cực, nó không những yêu cầu con người thông qua sự chọn lựa hành vi đạo đức ngay hiện tại của chính mình để thay đổi tương lai mà còn vượt lên hạn chế ngã sở hữu của mình.

Bản chất của luận nhân quả báo ứng đứng về mặt phân tích có thể thấy, tư tưởng đạo đức của người tín ngưỡng Phật giáo ít nhất cũng cho mọi người một số gợi ý: trước tiên chọn lựa đạo đức của người tín ngưỡng Phật giáo xét cho cùng là chọn lựa hành vi. Những nhà tâm lý học chủ nghĩa hành vi đương thời nói về sự nghiên cứu phương thức hành vi của nhân loại đã biểu thị rõ, nhân loại đối vơùi viêc chọn lựa phương thức hành vi của họ là chịu kết quả của hành vi; đợi đến hành vi báo đền sẽ hướng đến lặp lại, nhận được hành vi trừng phạt sẽ hướng đến tránh né; con người luôn chọn lựa những sự báo đền lớn nhất và trừng phạt nhỏ nhất có thể đạt được, thậm chí không nhận chịu phương án trừng phạt.

Luận nhân quả báo ứng của Phật giáo tuyên bố: hành thiện sẽ được quả báo thiện, thậm chí giải thoát thành Phật; hành ác thì sẽ nhận lấy hậu quả trái ngược lại tức bị đọa làm súc sanh hoặc đọa địa ngục. Luận báo ứng thiện ác trong những hành vi qui tắc của con người có thể thực hành và có thể không thực hành, giao phó trong việc nhận lời làm những hành vi không giống nhau và báo ứng không giống nhau, xác lập quan hệ hợp lý tương đối về hành vi và sự phản hồi. Ðiều này rõ ràng là thức tỉnh con người hãy quan tâm hết lòng về vận mạng của chính mình, làm cho con người vui với việc làm thiện và sợ hãi việc làm ác. Ðây là nguyên nhân tác động tâm lý chọn lựa đạo đức phù hợp với con người, là quy luật chung phù hợp với cá thể của nhân loại về mặt chọn lựa hành vi.

Mặt khác, luận nhân quả báo ứng đã nhấn mạnh việc có nhân ắt có quả, “đã làm thì không mất, chưa làm thì không gặt”, điều này khiến cho con người đối với cuộc sống không hy vọng, mong đợi việc ban thưởng của thiên thần, đồng thời cũng loại bỏ sự bất mãn đối với hiện thực bên ngoài mà quay trở lại với chính mình, thực hành tỉnh thức nội tâm, hướng nội truy tìm sự an lạc giải thoát. Từ đó xác lập việc chọn lựa đạo đức bỏ ác tùng thieän trong nội tâm và trở thành lực lượng thúc đẩy mạnh mẽ sự tự giác trong nội tại. Nói cách khác tinh thần và sức ép của loại đạo đức này là sự bảo đảm quan trọng của Phật giáo tiến hành chọn lựa đạo đức. Vì thế nó đã trở thành sự chọn lựa đạo đức mang tính hiện thực.

Hơn nữa, thuyết báo ứng trong ba đời của Phật giáo, về mặt lý luận không chỉ nói rõ cuộc sống hiện thực, tiêu biểu hơn, nó còn khẳng định được nguyên nhân sản sinh hiện tượng, như người thiện gặp những điều bất hạnh, người ác thì luôn hưởng thụ vui vẻ, thậm chí còn khiến cho con người chú ý đến sự yên ổn của việc sống chết, quan tâm đến vận mệnh đời sau, tăng trưởng tâm lý đaïo đức. Thiện ác luôn có báo ứng, chỉ là thời gian chưa đến, điều này đã trở thành niềm tin phổ biến của nhân gian, ngoài ra còn là tư tưởng quan trọng về việc bảo vệ đạo đức, giá trị luân lý của người Trung Quốc. Tóm lại, từ góc độ tư duy lý luận để phán đoán, luận nhân quả báo ứng và tư tưởng đạo đức đã cung cấp cho cuộc sống Phật giáo một giá trị luân lý thâm sâu, vững chắc và cũng là cơ sở lý luận chặt chẽ. Ðây chính là nội dung quan trọng mà tư tưởng Phật giáo nhân gian chú ý và nghiên cứu, nói cách khác, về phương diện này nó đã hàm chứa nhân tố tích cực của pháp biện chứng, đồng thời cũng là căn cứ chủ yếu để thực hiện sự chuyển đoåi hiện đại.

Vấn đề nên chú ý trong việc nghiên cứu và giá trị hiện đại của Phật giáo nhân gian

Tài nguyên luân lý trong cuộc sống phong phú của Phật giáo Trung Quốc đã khẳng định cho thấy, đó là những tài nguyên có giá trị hiện đại, vì Phật giáo nhân gian chủ trương tư tưởng học Phật làm người để phục xã hội, thay thế xã hội mưu cầu lợi ích v.v... tất cả đều là những ý nghĩa phổ biến, những phương châm này đối với việc kiến thiết văn minh đạo đức của xã hội hiện đại cũng có tác dụng tích cực nhất định. Nói cách cụ thể tư tưởng bỏ ác hành thiện trong cuộc sống hiện thực, tuy con người đối với sự phán đoán giá trị thiện ác trái ngược rất lớn, nhưng tâm hướng thiện vẫn là chung. Nguyên tắc đạo đức cơ bản bỏ ác hành thiện mà Phật giáo xác lập đã trợ giúp cho lòng người hướng thiện, hướng thượng. Nội dung cơ bản của mười điều thiện: “Không trộm đạo”, “Không vọng ngữ”, “Không ác khẩu”, “Không tham dục”, ...chính là những công đức xã hội chuẩn mực chung mà ngày nay con người trong cuộc sống hiện thực đã đưa ra khắp nơi để duy trì và bảo vệ tốt đẹp mối quan hệ ngoại giao giữa mọi người với nhau về mặt trật tự chính trị, kinh tế xã hội trong xã hội hiện đại.

Nhìn từ khía cạnh nhân sinh cộng trụ, con người nếu có thể đem lòng từ bi trải rộng, tâm thương yêu bình đẳng nhìn mọi người, mọi vật, yêu nước, yêu dân, cùng nhau hài hòa trong cuộc sống để đối diện với chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa lợi mình, chủ nghĩa kim tiền, mưu toan lợi mình, lạnh lùng với nhân tình thì tự nhiên trật tự xã hội sẽ ổn định, luân lý đạo đức con người sẽ trở lại, khiến cho sự sợ hãi, phân tán, xa rời nhau, cảm giác cô đơn của con người dần dần tiêu mất.

Từ phạm vi đó cho thấy, tư tưởng từ bi, bình đẳng đối với sự mâu thuẫn của xã hội, sự lấn áp giữa con người, những đẳng cấp sai biệt, phân phối bất công trong thời hiện đại, thậm chí đối với việc bảo vệ thăng bằng môi trường sinh thái, giải quyết hợp lý vấn đề nguy cơ sanh tồn của nhân loại... đều có ý nghĩa tích cực.

Ngoài ra tư tưởng tự lợi, lợi tha tuy có hàm ý tôn giáo do Phật giáo chế định, nhưng tinh thần mà loại tư tưởng này ẩn chứa là sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và tha nhân, cũng có thể nói sự thống nhất lợi ích quần chuùng và lợi ích cá nhân cũng được xem là sự giải quyết giữa cá nhân và con người, cá nhân và tập thể trong xã hội hiện nay, đồng thời đề xướng tham khảo mối quan hệ mọi người vì mình, mình vì mọi người. Ðiều này nói lên việc giải quyết tốt mối quan hệ con người và cá nhân hoặc cá nhân và tập thể, đối với cá nhân là quan trọng, đối với nước nhà, xã hội cũng rất quan trọng. Ðây chỉ là chủ đề nói về việc xây dựng đạo đức nghề nghieäp nổi bật trong việc kiến thiết nền văn minh đạo đức.

Sau cùng là tinh thần nhập thế, Phật giáo Ðại thừa chủ trương phổ độ chúng sanh, vì vậy Phật giáo Trung Quốc đối với việc này rất xem trọng, và nhấn mạnh phải lấy “Tinh thần xuất thế mà nhập thế” làm kim chỉ nam cho hành động. Ðây chính là dựa vào tinh thần quán vật ngã là không, khiến cho chủ thể đi vào trạng thái vô phân biệt, giống như người tu hành nhìn cảnh tượng nước chảy mây bay, hoa nở hoa tàn mà chẳng chút chấp nê, không hề câu nệ, dùng tâm trạng đứng ngoài, vượt khỏi sanh diệt luân hồi phục vụ xã hội hiện thực, nghĩa là không lấy vật làm vui, không bi thương, tinh thần bình tỉnh, không caàu danh lợi, không sợ vinh nhục, lấy thái độ tích cực lạc quan giải thoát độ lượng để đối diện với cuộc sống, siêng năng làm việc, hăng hái với sự nghiệp, chú trọng sự tu dưỡng nhân cách, bồi dưỡng kính trọng sự cao thượng... Trên thực tế, từ xu thế Phật giáo hiện đại phát triển để nhìn, một số quốc gia, địa phương và đoàn thể, tổ chức Phật giáo đã xem việc tham gia xã hội và nhập thế tích cực là nguyên tắc cơ bản của hoạt động Phật giáo mỗi nước. Ðứng về phương diện thực tiễn, có thể xác định được giá trị hiện đại của Phật giáo nhân gian đang được nhân loại ngày càng xem trọng. Chúng ta xem trọng Phật giáo nhân gian, quan tâm hiện thực, vì xã hội phuïc vụ tức nghiên cứu vấn đề công đức lợi ích của tín ngưỡng Phật giáo nhân gian, và không chủ trương mượn chính sách tự do tín ngưỡng Tôn giáo mà trở lại hiện tượng mê tín thời phong kiến.

 Cố nhiên Tôn giáo và mê tín có liên quan, nhưng mê tín không phải là Tôn giáo như hiện nay các tệ nạn xem tướng, đoán số mạng trên đường v.v... đều không phải là Tôn giáo, mà một số nghi thức đang tồn tại hiện nay như: thắp hương cúng Phật, lạy Phật, hoạt động lễ bái của Cơ Ðốc giáo là một tín ngưỡng cóhệ thống tư tưởng, có nghi thức Tôn giáo qui phạm hóa, và có hệ thống tổ chức nghiêm mật, là một điều khác biệt lớn đối với mê tín. Về mặt chính sách thực tiễn, đương nhiên chính phủ phải bảo vệ những hoạt động Tôn giáo sinh hoạt bình thường và không thể xem đó là một hoạt động mê tín rồi ngăn cấm hoặc xóa bỏ. Nhưng trong hiện thực, những năm gần đây dường như đang tồn tại một phong trào Tôn giáo, Phật giáo có tính cách gây sự chú ý cho quần chúng: một là sau khi kinh tế phát triển một số các gia đình có tiền, họ không biết dùng tiền vào đâu cho hết, bèn gởi gắm tinh thần mình vào sự tín ngưỡng, nghĩa là đem tiền cúng cho đoàn thể Phật giáo hoặc những cơ sở Tôn giáo, để cầu mong tâm linh được an ổn và vừa lòng mãn nguyện với sự nghiệp làm ăn của mình. Lại nữa, có những hoạt động thị trường kinh tế đang gaëp trở ngại ảnh hưởng đến sự tồn vong, họ không thể lường trước được hậu quả của ngày mai nên tìm đến Tôn giáo như tìm đến chỗ dựa của tinh thần, cũng có một số người làm ăn kiếm được một số tiền lớn, họ nghĩ rằng thần thánh sẽ ủng hộ họ khi họ cầu nguyện cúng kiến, ngoài ra còn có một số người vì nôn nóng kiếm tiền hoặc muốn thăng quan tiến chức, họ muốn thông qua sự sùng bái thần linh, khẩn cầu thánh thần bảo hộ cho họ được toại nguyện ước mong và họ cũng đã tìm đến Tôn giáo. Những loại tư tưởng Tôn giáo vừa nói ở trên tuyệt đối không phải là bản chất nội tại hàm ẩn bên trong của bản thân Phật giáo nhân gian. Ðó chỉ là phản ánh của moät số nguyên nhân cơ bản về tâm lý lợi ích mà một số người Trung Quốc hiểu sai lầm về sự tín ngưỡng Tôn giáo rồi sùng bái thần linh, vì vọng cầu lợi ích cho chính mình. Hai loại tín ngưỡng thoạt nhìn thì có điểm chung nhưng sự thật khác nhau rất xa, chúng ta không thể hiểu lẫn lộn, điều này, người tín ngưỡng Tôn giáo cần phải phân biện rõ ràng.

Người viết thiết nghĩ, nghiên cứu về tư tưởng Phật giáo nhân gian, là một việc làm tuy mới mẽ, nhưng hết sức cần thiết và có lợi ích thiết thực to lớn đối với sự phát triển nền văn hóa mới trên đất nước Trung Quốc, phù hợp với những yêu cầu thời đại và nâng cao tinh thần đạo đức của nhân loại.   

 


---o0o---

Cập nhật: 01-03-2003

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

tiểu thien la dua than tam ve voi nhau Cảm hiểu về hạnh tinh tấn viễn tÃƒÆ bÃƒÆ mot thoang nho que xua ánh sáng pháp hoa tinh va thien tầm Thực phẩm làm thuốc về Niệm Phật Dược Sư được cảm ứng tinh than cau nguyen cua nguoi phat tu giao 5 tan o thai lan 隨佛祖 Cư sĩ Tâm Minh LÊ ĐÌNH THÁM 1897 1969 Tóm tắt tiểu sử cố đại lão Hòa trÃƒÆ lo tip Thà tuoi tre voi van de tri tue quan diem cua duc phat ve van de gioi tinh tin Món nào tốt hơn chương vii ý nghĩa nhất tâm già mông hóa may rủi Khoảng lặng Nhớ ơi khoai lang ngày cũ HoẠvụ Hòa Thượng Đạt Bổn và Chùa Kim hanh than Hai Khởi không XÃƒÆ ngua loi Doi Ám ảnh cuoi vọng phát su dong gop cua ly thuong kiet trong viec phuc Người mang nhóm máu nào có nguy cơ tim chùa hoằng pháp tp hồ chí minh