Trên đường hoằng pháp của Phật tổ Gotama
Tóm lược
sự tích và những cuộc du hành của Phật tổ Thích-Ca
Trùng-Quang Nguyễn Văn Hiểu
--- o0o
---
- 03 -
E.
Từ Rajagaha (Vương-Xá)
sang Kapilavastu (Ca-Bì-La-Vệ)
84- Ðến bao
lâu Ðức-Phật mới chịu về Kapilavastu?
Một ngày nọ, do sự thúc-giục của ông
Udayi, Ðức-Phật trước khi lên đường, xây mặt về quê-hương, rãi
tư-tưởng lành, cầu chúc yên vui hạnh-phúc cho Vua cha và đồng bào quyến
thuộc. Xong, Ngài cùng đoàn Tăng-chúng khởi hành, nhắm hướng
Kapilavastu tiến bước. Nhằm mùa thu, khí trời mát-mẻ, cuộc hành trình
từ thành Rajagaha đến Kapilavastu, trải qua 60 ngày
ròng-rã, ngày đi đêm nghỉ.
Ðến nơi Ðức-Phật và Chư-Tăng dừng bước tại
vườn thượng-uyễn của Vua cha, tên vường Nigrodha (Cây da), thuộc
ngoại ô hoàng thành.
85- Vua cha có
vui mừng tiếp rước Ðức-Phật chăng?
Vua Suddhodana (Tịnh-Phạn) vẫn chưa
tha-thứ con Ngài vì thất vọng đau đớn, không thể nguôi lòng: Hoàng-tử đã
xuất-gia thì còn ai xứng đáng nối nghiệp cho dòng Sakya (Thích
Ca).
Hay Ðức-Phật về tới, Suddhodana
(Tịnh-Phạn) vương cũng gắng tượng thân hành ra đón với tư-cách của một
nhà vua và một người cha trên long-xa bốn ngựa. Dọc đường Ðức Vua gặp
các vị Tỳ-Khưu mang bát đi khất-thực trong thành, Ngài nghĩ tới con của
Ngài là một vị Hoàng-tử, mà ngày nay cũng phải đi xin ăn theo
phố-phường, như thế ấy thật là nhục-nhã vô cùng. Ngài liền truyền lệnh
xua đuổi các thầy Tỳ-Khưu cho khỏi chướng mắt; rồi quay long-xa trở vào
hoàng-cung, ôm-ấp mối lo sợ cho rằng sự hồi loan của con Ngài là một
điều bất-thường, sắp đem lại một trận bảo-tố, lôi cuốn dòng giống
Sakya theo triều-lưu thoát tục.
86- Ðức-Phật
đối xử cách nào?
Ðức-Phật liền phái ông Udayi vào đền
an-ủi Vua cha và giải-thích cho Ngài hiểu rằng trong đời rất khó mà được
cái vinh-hạnh là Cha của một Ðấng Cứu-thế, vẻ-vang hơn làm Thượng-Hoàng
của một vị Chuyển-Luân vương.
Vua Suddhodana nghe được, bớt sầu
truyền lệnh tổ chức một cuộc nghinh tiếp Ðức-Phật rất trọng thể.
87- Tại sao
Ðức-Phật không thủ-phận làm con để chờ Vua cha ra nghinh tiếp?
Ðức-Phật đã tiên đoán sẽ gặp nhiều sự khó
khăn trong buổi tái-ngộ hôm nay:
1. Dòng Sakya từ cổ chí kim đã nổi
tiếng là một dòng tự cao, tự trọng, chẳng bao giờ chịu khuất-phục một
ai.
2. Dầu Ngài là Phật nhưng Ngài biết không dễ
gì làm thần-Thánh ở quê mình được, nhất là trước mặt Vua cha và những
bậc trưởng-lão trong dòng họ là những người đã từng biết Ngài lúc còn
nhỏ bé.
3. Một bậc Chánh-Ðẳng Chánh-Giác không thể
đứng dậy, cũng không thể nghiêng mình trước một người phàm-tục nào, vì
ngại rằng đầu người ấy sẽ bị bể ra làm bảy miếng, nếu họ chịu thọ-lãnh
cái vinh-hạnh tối cao ấy. Như thế phải làm sao đề giải-quyết vấn-đề nghi
lễ, đầy hậu-quả nguy-khốn cho gia-đình quyến-thuộc của Ngài.
Ðức-Phật nhất-định phải dùng một pháp
thần-thông để cảm-phục dòng Sakya, trước giờ hội-ngộ với Vua cha
và hoàng-thân trong triều. Ngài hóa ra một con đường trên hư-không; trên
ấy Ngài đi kinh-hành như đi trên mặt đất, giữa lúc Vua Suddhodana
(Tịnh-Phạn), bá-quan văn-võ và dân chúng rần-rộ ra nghinh đón Ngài.
Trước sư mầu-nhiệm hy-hữu ấy, mọi người ngưởng mặt lên dòm một cách
sung-sướng, rồi chấp tay quì lạy, tỏ lòng tôn-kính Ðức-Phật. Chính Vua
cha Suddhodana (Tịnh-Phạn) cũng quì lạy con của Ngài, thân-tâm
rất khoăn-khoái nhẹ-nhàng và đắc chí được làm Cha của một Ðấng Cứu-Thế.
Hoàng-hậu Gotami vì thương nhớ Hoàng-tử Siddhattha, ngày
đêm rơi lụy đầm-đề cho đến đui cả hai con mắt, nay hay tin Ðức-Phật trở
về, lòng vui phấn khởi đến cực-độ, khiến cho đôi mắt của Bà bật sáng trở
lại như xưa.
88- Rước
Ðức-Phật vào đền, Vua Suddhodana nói chi với con của Ngài?
Mối tình lạnh nhạt giữa cha con đã chấm dứt
trong giờ phút phụ-tử đoàn viên, nên hai bên thân-mật trò chuyện. Ðức
Vua vẫn chưa hài lòng trước hoàn cảnh tương phản xốn-xang giữa đời sống
của con Ngài: đi chân không, ăn nằm vất-vả, không tắm nước thơm, không
mặc y-phục thanh-nhã, không đeo đồ hộ-vệ, không âm-nhạc ca-vũ, cũng
không có phi-tần cung-nữ hầu-hạ.
Ðức-Phật vạch ra từ điểm, dùng lời ôn-tồn
lễ-phép giải-thích cho Vua cha thấy rõ rằng đời sống an-vui của bậc
Thánh-nhân không còn dính líu đến các điều hoan-hỷ của thế-tục và bậc
xuất-gia đã sẵn có nhiều sự bồi-đấp, nhiều đặt ân cao quí hơn.
Nghe vậy Ðức Vua cũng tạm gọi là an-tâm,
xong Ngài vẫn cố-chấp địa vị Ðế-Vương.
89- Vua
Suddhodana cố-chấp địa vị đế-vương của Ngài bằng cách nào?
Vua Suddhodana không muốn cho con
Ngài mỗi bữa mang bát đi xin ăn nơi dân chúng. Ðể tránh sự nhục-nhã ấy,
Vua cha thỉnh Ðức-Phật và Chư-Tăng mỗi ngày vào thọ-thực trong
hoàng-cung.
90- Ý muốn của
Vua Suddhodana có đem lại sự vừa lòng cho Ngài chăng?
Làm như thế chẳng khác nào lập đàn tràng nơi
cung nội cho Ðức-Phật tha hồ cảm-hóa thân-nhân. Mỗi ngày Ðức-Phật có dịp
hội kiến với quyến-thuộc, nào là cha, mẹ nuôi, vợ con, em út, chú bác,
bạn xưa, là những người đã đau khổ từ lúc Ngài trốn đi tìm đạo và luôn
luôn phiền trách Ngài ra đi không để một lời từ-biệt. Lần lần Ðức-Phật
cởi mở sự hiểu lầm của quyến thuộc: "Vì tình thương lai-láng đối với
gia-đình chủng-tộc, Như-Lai chỉ tạm-biệt để tìm đường diệt khổ, hầu
hướng dẫn mọi người tiến đến nơi an-vui tuyệt đối. Ngày nay đạo đầy quả
đủ, cũng vì lòng từ-bi Vô-lượng đối với toàn thể chúng-sanh, mà Như-Lai
về đây thuyết-minh chân-lý cứu-độ quyến-thuộc giống nòi, ra khỏi sông-mê
biển-khổ. Trong đời, Như-Lai là người duy-nhất đã tận-tụy hy-sinh, để
đem lại hạnh-phúc cho nhân quần xã-hội".
Bao nhiêu sầu khổ phiền-muộn chờ dịp tuôn ra
để lên án người thất-hiếu, bạc-tình, lần lần bị tan rã dưới hiệu lực của
lời biện-minh rất chân-chánh, càng lúc càng đem lại cho tâm hồn mọi
người, những cảm xúc nhẹ-nhàng khoăn-khoái. Ngoại trừ Ðức vua, tất cả
thân-quyến của Ðức-Phật đều quì lạy xin thọ qui-giới làm người cư-sĩ: Ba
vị Hoàng-thúc, bà Dưỡng-mẫu Gotami, Công-chúa Yasadhara,
Hoàng-tử Rahula, Hoàng-đệ Nanda, cùng anh em chú bác, tính
ra trên ngàn người.
91- Có ai xin
xuất-gia theo Phật chăng?
Có nhiều người nhưng họ chờ lệnh của Ðức
vua.
92- Lệnh ấy ra
sao?
Vua hạ chỉ cho phép gia-đình nào có từ hai
người con trai xấp lên, được cho xuất-gia một người, theo Ðức-Phật. Ý
Vua muốn có một nhóm người trong hàng vương-tôn theo bên cạnh Ðức-Phật,
để phô-trương phương-danh hoàng tộc. Mặt khác, Ðức vua muốn bảo tồn dòng
giống, trước nhất muốn giữ người con thứ của Ngài là Hoàng-tử Nanda
(con của bà Gotami) và cháu nội là Rahula, để duy-trì
cơ-nghiệp của dòng Sakya.
93- Trước
quyết-định khôn khéo của Vua cha, Ðức-Phật nghĩ sao?
Biết rằng Vua cha còn nặng nghiệp trần chưa
cảm hóa được, nhưng không vì đó mà bỏ qua cơ-hội tế-độ những người
hữu-duyên, trước nhất là em và con của Ngài. Sự xuất-gia của Thái-tử
Rahula và Hoàng-đệ Nanda là hai biến-cố rất xúc-động cho Vua
Suddhodana, Ðức-Phật không vì tình thương chật hẹp của Cha mà không
tuần tự đưa người hữu-duyên lên đường giác-ngộ.
94- Hoàng-tử
Rahula được xuất-gia trong trường hợp nào?
Thế thường người đời, nhất là hàng phụ-nữ
luôn luôn tin-tưởng nơi sự thành-công của mưu-chước mình. Công-chúa
Yasodhara, thừa dịp ông chồng hồi-loan, dạy con của bà là Thái-tử
Rahula một bài học tâm sự, rồi thừa lúc Ðức-Phật vào đền thọ-thực xong
xuôi, sấp trở ra về nơi tạm-trú, bà xúi giục con bà chạy theo, thỏ-thẻ
xin cha truyền sự nghiệp lại. Ý của bà Công-chúa dạy con xin ngôi Vua,
nhưng sự khôn lanh của bà đâu có hơn Trí-Tuệ của bậc siêu-phàm. Nghe con
xin truyền sự-nghiệp Ðức-Phật liền hoan-hỷ nhận lời và vỗ-về bảo: "Nầy
con
Rahula, con theo Như-Lai đến vườn Nigrodha (Cây da), Như-Lai sẽ
truyền cho con cả một sự-nghiệp tinh-thần vĩ-đại mà Như-Lai đã dành sẵn
cho con". Nghe lời hứa ngọt-ngào của người Cha hiền từ, chưa từng
gần-gủi, ông Hoàng Rahula hớn-hở vui-mừng, núp dưới bóng từ-bi
mát-mẻ của Ðức cha lành, lúp-xúp chạy theo bên cạnh, quên cả những lời
căn-dặn của mẹ. Về tới nơi tạm-trú, Ðức-Phật liền giao-phó cho hai ông
Sariputa và
Moggalãna làm lễ xuất-gia cho Hoàng-tử Rahula vào hàng
Samanera (Sa-Di). Ông tiểu Sa-Di nầy lại vui sống bên cạnh Ðức-Phật,
dường như có một năng-lực gì huyền-bí làm cho tâm-hồn ông nhẹ-nhàng,
vui-sướng, trong sạch tinh-khiết, rất xứng đáng để tiếp-thụ sự-nghiệp
tinh-thần của Ðức cha lành.
Công-chúa Yasodhara, dĩ-nhiên phải
mang lấy hậu quả của mưu-chước sắp đặt mà bà không tiện nói ra. Nhưng
sau khi suy-cùng nghĩ-cạn, bà cho rằng việc xuất-gia của con bà là phải,
vì con phải theo cha, một người cha xứng đáng để bảo-đảm tương-lai cho
con bà.
95- Còn
số-phận của Hoàng-đệ Nanda ra sao?
Nói qua ông Hoàng-tử trẻ-trung tuấn-tú
Nanda, người duy-nhất còn lại để nối-nghiệp cho hoàng-triều; ngày nọ
nhằm ngày Hoàng-tử sánh-duyên cùng nàng Janapadakalyãnã, một vị
công-nương mỹ-miều tại thành Kapilavastu, luôn dịp Vua
Suddhodana định phong con Ngài làm Ðông-cung Thái-tử và cũng là ngày
khánh thành cung-điện để làm nơi động-phòng hoa-chúc, Ðức-Phật dùng mưu
cảm-hóa em Ngài một cách lý-thú. Giữa lúc trong hoàng-cung đương
rộn-rịp, cử-hành ba đại lễ: Kết-hôn, Phong-tước và Khánh-thành, Ðức-Phật
từ-khước không vào đền thọ-thực, để cho em mình rảnh-rang lo bề
hạnh-phúc tương-lai.
Ðúng giờ rước dâu, Ðức-Phật mang bát đi
ngang trước hoàng-thành. Hoàng-tử Nanda, từ bên họ nhà gái vừa về
tới cửa Ngọ-môn với vị Tân-nhân, chợt thấy Ðức-Phật, liền bỏ nàng chạy
đến rước bát, đem vào sắp đủ thức ăn mặn ngọt, trở ra dâng bát lại cho
Ðức-Phật.
Ðức-Phật không thâu-bát, chẩm-rải quay bước
trở về nơi vườn cây da. Vị lễ phép đối với bậc trưởng-thượng, Hoàng-tử
Nanda lủi-thủi ôm bát theo sau. Ðến nơi, Ðức-Phật đem những lợi-ích
tối cao của đời sống xuất-gia giải-thích cho Hoàng-đệ nghe, so-sánh
hạnh-phúc chắc thật của bậc thoát-ly trần-tục với hạnh-phúc giả-tạm của
kẻ bị cột trói trong gia-đình và khuyên em nên noi gương của mình để tìm
đạo quả Niết-Bàn. Ông Nanda, mặc dầu còn nặng mang khối-tình,
nhưng xét ra lời nói của bậc Chí-tôn thật là đúng lý, ông liền chịu
xuất-gia.
Khổ cho ông Nanda, khi mang cái lốt
của vị thầy tu rồi, ông ăn-năn hối-hận; không biết làm sao để trở về với
vợ đẹp mới cưới?
Xa cách người yêu ông Nanda không thể
nguôi được lòng thương nhớ, nhiều phen ông trốn ra khỏi chổ cô-tịch để
trở về nhưng mấy lần đều bị bắt gặp.
Ðể trừ tận gốc cái bệnh tương-tư của ông
Nanda, Ðức-Phật đề nghị đưa ông ấy lên viếng các vị Thiên-nữ tận cõi
trời Ðế-thích. Nghe nói các vị Thiên-nữ sắc-đẹp tuyệt-trần, ông Tỳ-Khưu
Nanda, sẵn tính háo sắc, vui-vẽ chịu đi ngay. Ðức-Phật bảo ông nắm lấy
chéo y ca-sa của Ngài, rồi Ngài bay-bổng lên hư-không. Bay ngang qua một
đám rừng, vừa bị một trận hỏa-tai thiêu-rụi. Ðức-Phật chỉ cho ông
Nanda
xem một con khỉ cái đương ngồi cú-rủ trên cành cây cháy đen, đã may-mắn
thoát chết, nhưng mình mẫy bị lửa táp trụi lông, lở-lói xem rất
thảm-thương. Kể trong nháy mắt, ông Nanda được đưa đến thế-giới
tự-tại của Vua trời Ðế-thích (Indra) để cho ông mặc tình
thưởng-thức vẻ-đẹp vô-song kiều-diễm và cốt-cách thần-tiên của các vị
Thiên-nữ. Khi trở về ông Nanda thú nhận với Ðức-Phật rằng những
phi-tần mỹ-lệ của Vua trời Ðế-thích, sánh với vợ ông thì vợ ông chẳng
khác nào con khỉ cái lúc nảy. Tư-tưởng của ông từ đó hướng về các vị
Hằng-nga tiên-nữ; ông nhẫn-nại nương theo Ðức-Phật để tu-hành, mong ngày
kia được sanh về thiên-cung làm bạn với các vị Thiên-nữ duyên-dáng
đậm-đà ấy. Trong giới xuất-gia, lần lần ai ai cũng biết mục-đích bí-mật
của ông Nanda, nên người ta gọi ông là "Vị tình lang của
Thiên-nữ " cho đến ngày ông cố-gắng diệt được căn-bệnh say-đắm
sắc-đẹp hảo-huyền và nhất thời của phụ-nữ.
96- Sau sự
xuất-gia của hai ông Rahula và Nanda, Vua Suddhodana
có phiền trách Ðức-Phật chăng?
Có phiền trách cũng việc đã rồi. Vã lại
Ðức-Phật chỉ nhắm mục-đích cứu-khổ, cũng khó mà đổ lỗi cho Ngài được:
1. Thái-tử Rahula chạy theo xin Cha
truyền sự-nghiệp và khi được thỏa-mãn, lại vui thích theo Cha.
2. Ông Hoàng-đệ Nanda đã hóa ra người
"Vị tình lang của Thiên-nữ " thì mong gì cho ông trở lại với
người vợ mà ông đã sánh như con khỉ cái.
Lúc Ðức-Phật vừa về tới Kapilavastu,
Vua Suddhodana đã có cảm-tưởng (85) rằng con Ngài sắp gây ra một
phong trào xuất-gia mãnh-liệt cho dòng Sakya, nên ban đầu Ngài tỏ
ra bất-mãn, nhưng sau lại nhờ nghe được liên-tiếp hai thời pháp của
Ðức-Phật, Vua Saddhodana đã đắc được đạo quả Tu-Ðà-Hườn và
Tu-Ðà-Hàm, Ngài thỏa thích dâng vườn Nigrodha (Cây da) cho
Ðức-Phật và Chư-Tăng làm nơi Hoằng-pháp độ-sanh [*].
[*] Khi Vua Suddhodana sắp thăng-hà
Ðức-Phật trở về độ Vua cha đắc quả A-La-Hán. Chính Ðức-Phật tắm rửa,
tẩn-liệm và lo việc hỏa-táng cho Vua cha.
97- Còn ai
trong dòng Sakya xin xuất-gia theo Ðức-Phật nữa?
Năm trăm vị Vương-tôn công-tử, kẻ tâm-đạo
nhiệt thành, người vì bè-bạn quyến-rũ, ăn-mặc sang trọng, kéo nhau đến
ra mắt Ðức-Phật, xin Ngài giảng pháp cho nghe. Sau thời pháp, mọi người
đều tình nguyện xin xuất-gia. Sẵn có ông Upali (Ưu-Bà-Li), người
thợ cạo của hoàng-gia "Tháp tùng viếng Phật", họ liền cậy ông thế-phát
cho họ và hứa cho tất cả y-phục trang-sức để đền ơn ông, bởi các vật ấy
hết còn giá-trị đối với đời thoát-tục. Tình cờ ông Upali trở nên
người giàu có nhưng duyên lành của ông đã đến, ông không thọ-nhận chỉ
ước-ao được Ðức-Phật thâu ông vào hàng đệ-tử của Ngài.
Trong lúc 500 vị Vương-tôn công-tử trở về
từ-giả gia-đình, ông Upali vào lạy Ðức-Phật xin xuất-gia,
Ðức-Phật liền thâu nhận ông làm Thiện-Lai Tỳ-Khưu (Èhi-Bhikku).
Vào sau và được xuất-gia trước, nên các vị Vương-tôn công-tử phải
kính-nhường ông là Bậc cao hạ đàn anh.
98- Trong hàng
Vương-tôn công-tử nói trên có ai là thân bằng quyến thuộc của Ðức-Phật
không?
Có năm ông hoàng: hai người em chú-bác của
Ðức-Phật là ông Anuruddha (A-Nậu-Ða-La) và ông Ananda
(A-Nan-Ðà) và người bà con cô-cậu, anh ruột của Công-chúa Yasodhana,
tên Devadatta (Ðề-Bà-Ðạt-Ða). Còn hai người nữa không biết tên
chi.
(Theo nguồn lịch-sử của thời đại sau, năm
vị Hoàng-thân nói trên và ông Upali đến xin xuất-gia, lúc Ðức-Phật ngự
tại làng Anupiya, trong xứ của vua Malla, thuộc về hướng Nam kinh-đô
Kapilavastu).
99- Ðạo-giáo
của Ðức-Phật đã đem lại ảnh-hưởng chi cho dòng Sakya?
Dòng Sakya toàn là những vỏ-tướng
vô-địch, khi hấp-thụ được Giáo-Pháp của Ðức-Phật, đều trở nên hiền-từ
đạo đức, thà chịu chết hơn dùng bạo-lực, để tránh gây nghiệp báo.
F. Từ Kapilavastu
(Ca-Bì-La-Vệ) sang qua thành Savatthi (Xá-Vệ)
100- Ðức-Phật
ở Kapilavastu bao lâu rồi đi đâu nữa?
Sau 4 tháng ở quê nhà, Ðức-Phật từ-giả Vua
cha và quyến-thuộc sang qua kinh thành Savatthi (Xá-Vệ), xứ
Kosala của Vua Pasénadi (Ba-Tư-Nặc), thuộc về hướng Tây thành
Kapilavastu.
101- Tại thành
Savatthi (Xá-Vệ) Ðức-Phật được tiếp rước như thế nào?
Tại thành Savatthi, có một vị đại phú
gia tên Anãthapindika (Cấp-Cô-Ðộc): người nuôi kẻ nghèo khó
cô-độc), sẵn chờ nghinh-tiếp Ðức-Phật và dâng cho Ngài một ngôi chùa
lộng-lẫy, vừa tạo lập xong.
102- Tại sao
ông Anãthapindika (Cấp-Cô-Ðộc) biết Ðức-Phật sắp đến mà lo tạo
chỗ nghinh-tiếp?
Ông Anãthapindika (Cấp-Cô-Ðộc) đã có
đến Rajagaha (Vương-Xá) nhiều lượt giao-thiệp buôn-bán và có dịp
nghe Ðức-Phật thuyết-pháp tại vườn Veluvana (Trúc-Lâm). Ông đắc
được đạo quả Tu-Ðà-Hườn thỏa-thích xin qui-y và thỉnh-cầu Ðức-Phật đến
Hoằng-đương Phật-pháp tại Savatthi (Xá-Vệ).
Ðức-Phật nhận lời, nhưng bảo ông
Anãthapindika về kiếm sẵn một nơi thanh-vắng, ngoài thành Savatthi,
để khi Ngài và Chư-Tăng đến chỗ an-trú. Ông Anãthapindika về lựa
được một hoa viên đẹp nhất, ở ngoại-ô thành Xá-Vệ. Hoa viên ấy thuộc về
của ông Hoàng Jeta (Kỳ-Ðà). Ông này không muốn bán, lại diễu chơi
với ông Anãthapindika (Cấp-Cô-Ðộc) rằng: nếu ông trải phủ vàng
cùng khắp trên mặt đất của hoa viên tôi, tôi mới bán cho. Ông
Anãthapindika
(Cấp-Cô-Ðộc) liền chịu mua với giá cả ấy. Lở lời ông Hoàng Jeta
phải chịu bán nhưng với điều kiện là ông giữ lại nguyên vẹn các thứ cây,
nhất là những danh-mộc cổ-thọ, như xoài, dàn hương, để cho có bóng mát
và bảo tồn thanh cảnh trang-nghiêm, huyền mặc cho hoa viên mà ông đã
công khó tạo ra ... Nhân đó, sau khi ông Anãthapindika
(Cấp-Cô-Ðộc) cất tịnh xá, rước Ðức-Phật và Chư-Tăng về ở, người ta
thường gọi là Jeta
Vana (Kỳ-Viên hay Huê-Viên của ông Jeta) hoặc là
Anãthapindika Vihãra (Cấp-Cô-Ðộc Tịnh-xá).
103- Tịnh-xá
của ông Anãthapindika (Cấp-Cô-Ðộc) có chi đặc biệt không?
Tịnh-xá nầy là một thắng cảnh đẹp nhất giữa
một cánh đồng phì-nhiêu, nằm về hướng Tây Kapilavastu
(Ca-Bì-La-Vệ) và hướng Tây-Nam núi Hy-Mã-Lập-Sơn, cách xa hai nơi ấy độ
150 cây số. Quanh năm tiết trời mát-mẻ, cỏ hoa tươi đẹp, lại gần
quê-hương của Ðức-Phật, nên Ngài thường kiết-hạ nơi đây [*]. Ðại-Ðức
Sariputa
được phái đến trước, chỉ vẽ cho ông Anãthapindika (Cấp-Cô-Ðộc) cách
thức tạo-lập Tịnh-xá. Giữa vườn là một biệt-thất dành riêng cho
Ðức-Phật, chung quanh có vườn hoa và ao sen, bốn mùa hương xông
ngạt-ngào. Năm trăm vị Tỳ-Khưu ở riêng, mỗi vị một tịnh-thất, cất
rải-rát trong hoa viên; ngoài ra nào là giảng-đường, trai-đường, phòng
tắm, cầu tiêu nhà bếp, kiến trúc có lớp lang.
Ban ngày thiện-nam tín nữ tới lui tấp nập,
tối lại chỉ còn những bóng người lặng-lẽ kinh-hành, quán-tưởng dưới tàn
cây u-tịch.
[*] Kiết-hạ là an-cư trong 3 tháng mưa, từ
rằm tháng 6 đến 16 tháng 9. Trong 45 năm, Ðức-Phật kiết-hạ tại Kỳ-Viên
25 mùa.
104- Ðức Vua
nào trị vì xứ Kosala, tại Savatthi và Ngài đối với
Ðức-Phật ra sao?
Chính Ðức Vua Pasenadi (Ba-Tư-Nặc).
Hay tin Ðức-Phật ngự đến Tịnh-xá Cấp-Cô-Ðộc, Vua và bá-quan trong triều
thân-hành đến chào mừng. Vua Ba-Tư-Nặc, cũng như các vị vua khác, khi
đến viếng Ðức-Phật, đều áp-dụng một nghi-thức xã-giao giống nhau. Trước
đoàn xe giá có toán quân-nhạc mở đường, sau có binh gia hộ-tống. Ðến
trước cổng Tịnh-xá. Vua và bá-quan xuống xe, lột cất năm biểu chương:
Lông, mão, quạt và giầy rồi từ từ đi chân không vào. Ðến trước Ðức-Phật,
Vua và bá-quan quì lạy đảnh-lễ: Phong tục Ấn-Ðộ đặt phẩm-cách tinh-thần
trên uy-thế Ðế-vương.
105- Vua
Pasenadi có lòng mộ đạo không?
Vua Pasenadi cũng như Vua
Bimbisãna, đồng tuổi với Ðức-Phật thấy Ngài cũng là dòng Vua, lại dám
hy-sinh ngôi báu xuất-gia tìm đạo và khi thành công đắc quả, còn phải
sống một cuộc đời phiêu-lưu khổ-cực, tận tụy với nghĩa-vụ tế-thế độ
nhân, nên hết sức kính-phục và nhiệt thành ủng hộ Ðức-Phật trong việc
Hoằng-pháp.
106- Tại
Savatthi Ðức-Phật còn người đệ-tử nào trung thành như ông
Anãthapindika (Cấp-Cô-Ðộc) chăng?
Kế ông Anãthapindika (Cấp-Cô-Ðộc) là
bà Visãkhã, một tin-nữ giàu có đã giúp Ðức-Phật một cách đắc-lực.
Bà rất đông con và nhiều cháu chắt, được dân chúng thành Xá-Vệ xem như
bậc phúc-hậu đệ-nhất, nên trong mỗi cuộc lễ luôn luôn mời bà chủ tọa để
nhờ hồng-phước của bà. Bà được nổi danh là một vị đại thí-chủ. Các nhà
sư đến Xá-Vệ đều nhờ bà châu-cấp mọi vật cần thiết. Bà nguyện với
Ðức-Phật, trọn đời dâng cúng y phục tấm mưa cho Tăng-ni, thuốc men cho
các nhà sư có bệnh, vật thực cho các vị mới đến hoặc sắp đi và mỗi sáng
dâng cháo lót lòng cho Chư-Tăng.
Ðối với bà Visãkhã cũng như phần đông
phụ-nữ, người ân-nhân hay người đáng cám ơn, chẳng phải người cúng dường
Ðức-Phật và Chư-Tăng, mà chính là Ðức-Phật, bởi Ngài chỉ dạy cách thức
thực hiện công hạnh bố thí để cho mỗi người được dự vào phần thưởng của
công-hạnh bố-thí ấy.
107- Trong
thời-gian Ðức-Phật an-cư tại Savatthi có điều chi xảy ra chăng?
Tại Tịnh-xá Cấp-Cô-Ðộc, Ðức-Phật thâu nhận
đệ-tử càng ngày càng đông; có nhiều người chứng đạo quả Tứ-Thánh tiếng
đồn khắp xứ, thiên-hạ đưa nhau đến qui-y thọ-giáo với Ðức-Phật, làm cho
các đạo giáo phải lu-lờ và các vị Ðạo-sĩ phải thiếu thốn mọi bề, nên họ
đâm ra ganh-tị thù oán, tìm mọi mưu chước làm hại Ðức-Phật.
108- Họ làm
hại cách nào?
Ðây chỉ tóm lược hai sử tích:
a) Ðể thỏa-mản lòng ganh-tị, bọn
tà-sư nhóm lại định dùng mỹ-nhân-kế làm cho mất thanh-danh uy-tín của
Ðức-Phật. Mỗi buổi tối, giữa lúc thiện-nam tín-nữ từ Kỳ-Viên ra về, sau
khi nghe pháp của Ðức-Phật, một nữ Ðạo-sĩ, nhan-sắc đậm-đà, xiêm áo
lòe-loẹt, tay cầm hoa thơm, đi ngược chìu về hướng Tịnh-xá. Có người kêu
hỏi: Cô đi đâu giữa đêm tâm tối vậy cô? Nàng ấy tên Cinca,
ngoe-ngoãy trả lời: "Tôi đi đâu, căn cớ chi mấy người mà hỏi". Ði khỏi
đám người, nàng Cinca trở lại nghỉ trong chùa của bọn tà-sư, gần
Tịnh-xá Cấp-Cô-Ðộc. Rựng sáng, lúc thiện-tín, từ ngoài thành Savatthi
vào Tịnh-xá yết-kiến Ðức-Phật, nàng Cinca lại trở ra, cũng như nàng
từ Tịnh-xá đi về.
Có ai hỏi: Cô ngủ đâu mà về sớm vậy?
Nàng cũng ngoe-ngoãy trả lời:
-"Tôi ngủ đâu, mặc kệ tôi".
Liên tiếp gặp nàng với cử chỉ khả nghi,
nhiều người ngạc-nhiên hỏi nữa: Cô ngủ đâu mà về sớm vậy?
Nàng Cinca trả lời:
-"Tôi ngủ trong Tịnh-xá với ông Sa-Môn
Gotama".
Từ đó tín-đồ xầm-xì, bàn-tán, phân-vân,
nghi-ngờ. Bốn tháng sau ai ai thấy bụng của nàng Cinca càng ngày
càng lớn. Ðến tám chín tháng bụng nàng lại càng to lên, tỏ ra người
mệt-nhọc, như gần ngày sanh-đẻ. Một buổi chiều nọ, lúc Ðức-Phật đương
ngồi trên bảo-tọa thuyết-pháp cho tín-đồ nghe, nàng Cinca vào
đứng trước mặt Ðức-Phật kêu nói rằng:
-"Nầy ông Ðại Sa-Môn, ông giảng đạo-lý cho
mọi người với giọng thật là ngọt-ngào dễ thương nhưng đối với tôi đây,
vì ông mà phải mang thai nghén, nay gần ngày nở-nhụy khai hoa, mà không
thấy ông để ý lo tạo cho tôi một chòi tranh, cùng mua sắm những vật
cần-thiết cho việc sanh-đẻ. Cũng không thấy ông để lời cậy mượn những
người trung-thành với ông như Ðức Vua Pasenadi. Ông
Anãthapindika
hoặc bà Visãkhã, thay thế lo giùm cho ông. Ông biết chơi hoa thưởng
nguyệt mà ông không biết ngăn-ngừa hậu quả".
Ðức-Phật ngưng cuộc thuyết-pháp, dòm ngay
nàng Cinca và thốt rằng:
-"Nầy cô thí chủ, những lời cô vừa thố-lộ
đó, thật hay giả, chỉ có cô và Như-Lai biết thôi".
Nàng Cinca cũng bình-tỉnh trả lời:
-"Thật vậy, thưa ông Sa-Môn, chỉ có đôi ta
mới rõ thấu sự tình nầy thôi".
Vừa dứt lời, một khúc gổ hình bán cầu, mà
nàng Cinca đã ràng-rịt trước bụng, thình-lình rớt xuống đè dập
cẳng nàng [1]. Mưu gian bại lộ, thiện-nam tín-nữ rộ lên, kẻ phun nước
miếng, người thì tát-vã vào mặt nàng. Ðức-Phật liền ngăn-cản, khuyên
tín-đồ dung-thứ và thương hại cho kẻ lỗi-lầm. Nàng Cinca chạy ra
khỏ Tịnh-xá, vừa khuất dạng, thì đất xụp, vùi thân nàng dưới một cái hố
sâu đầy lửa địa ngục [2].
[1] Tục rằng mỗi khi có việc chẳng lành xảy
ra đến cho các bậc phạm-hạnh trong dục-giới, Trời Ðế-Thích có cảm-giác
bảo-tọa của Ngài ra hơi nóng và nhờ Thiên-nhãn, Ngài biết Ðức-Phật đương
bị hàm-oan, liền sai bốn vị hộ-giá lập tức xuống tận Kỳ-Viên, biếng làm
4 con chuột bạch, chung vào cắn đứt dây nịch của nàng Cinca.
[2] Mười ba thế-kỷ sau, thầy Huyền-trang đến
Savatthi còn thấy cái hố chôn nàng Cinca.
b) Bọn tà-sư chưa chịu đừng bước trên
đường tội-lỗi. Ðịnh hy-sinh một nữ Ðạo-sĩ nữa tên Soundari (người
đẹp), họ mướn kẻ côn-đồ bóp họng cô này, rồi lén đem thây vùi dưới đ?ng
tràng hoa-héo, chất gần biệt-thất của Ðức-Phật. Mặt khác họ đi khai-báo
với nhà Vua rằng cô Soundari mất tích. Phụ-lực với nhà chức-trách
họ cho bộ hạ đi tìm kiếm cô Soundari. Dĩ-nhiên họ kiếm được
tử-thi cô nầy một cách dễ-dàng và để nằm trên một cái võng khiên vào
thành
Savatthi, truyền rao cho thiên-hạ thấy rõ bằng cớ dâm-đãng hiển-nhiên
của ông Cồ-Ðầm, mà đệ-tử của ông cố ý che đậy, nên giết cô Soundari
để phi-tang. Dư-luận xôn-xao phẩn-uất. Nhà cầm-quyền đương ngấm-ngầm điều
tra, thì bọn sát-nhân được trọng thưởng rủ nhau ra tửu-lầu, gầy tiệc
vui-say, để rồi chia nhau số tiền thù-lao. Thần men ám-ảnh, anh nào cũng
muốn dành phần nhiều, cải-cọ, ấu-đả, rồi tố cáo lẫn nhau. Kết cuộc cả
bọn sát-nhân và kẻ đồng lỏa đều phải đền tội trước công-lý.
Một lần nữa, hàm-oan của Ðức-Phật được
minh-giải. Trong đời kẻ tiểu-nhân muốn làm hại một người chân-chánh,
không phải dể như ý muốn, hà tất là cáo-gian một vị Chánh-Ðẳng
Chánh-Giác.
109- Tại
Savatthi, Ðức-Phật còn gặp trở ngại chi nữa chăng?
Nhóm Lục-Sư còn đề nghị tranh-tài, đấu phép
với Ðức-Phật, có Vua Pasenadi chứng kiến. Ðức-Phật bắt buộc phải
làm vừa lòng họ. Trước khi tranh-biện, Ðức-Phật dùng phép thần-thông hóa
ra một cây xoài to lớn, cao tận mây xanh, đầy bông trái, giữa sân đã dọn
trống cho cuộc hội-hợp, rồi Ngài đến ngự dưới gốc xoài để trả lời từ câu
chất vấn của nhóm Lục-Sư.
(Theo sử tích khác, Ðức-Phật hóa phép
ngồi trên một tòa-sen lớn bằng bánh xe. Nhân đó, trong thời-đợi sau, các
chùa đều tượng cốt Phật ngồi trên tòa-sen. Một nguồn tài-liệu khác ghi
rằng Ðức-Phật hóa ra vô-số Vị Phật đi đứng nằm ngồi trên không-gian).
Bao nhiên biện chứng của Lục-Sư đưa ra đều
bị Ðức-Phật đánh tan, với lý lẽ không chối cải được. Không thấy
kinh-sách ghi rõ những biện-chứng chi.
110- Ðức-Phật
có thần-thông quảng-đại mà không có phương-pháp nào tế-độ nhóm Lục-Sư
sao?
Ðức-Phật chỉ độ người có duyên lành với
Ngài. Những người ấy dầu say-mê lầm-lạc theo tà-đạo, đúng giờ khắc nhất
định, gặp một cơ-duyên họ thức-tỉnh ngay. Người không duyên lành, dầu
sống bên cạnh Ðức-Phật, họ cũng vẫn thiên về tà-đạo, huống-hồ là người
đã sẵn có một tôn-chỉ khác biệt như nhóm Lục-Sư.
112- Có người
nào lạc theo tà-giáo mà được Ðức-Phật tế- độ?
Tại Savatthi (Xá-Vệ) trong một hạ,
Ðức-Phật có tế-độ một tên sát-nhân, cuồng tín theo tà-giáo, đã gây ra sự
kinh-khủng cho dân xứ Kosala. Kẻ sát-nhân ấy tên Angulimãla
(Ngón tay tròng-cổ), con của một vị Ðại-Thần tại Savatthi. Chàng
được gửi đến thọ-giáo với một vị Ðạo-sĩ danh-tiếng. Rất thông-minh, văn
hay võ giỏi, chàng được thầy yêu mến, trọng đãi hơn các bạn học-sinh.
Bọn nầy sanh lòng ganh-tị, bao phen lập kế, mét thót với thầy rằng
Angulimãla âm-mưu phản thầy. Ông Ðạo-sĩ không tin nhưng ba lượt bị
thúc-giục phải xua-đuổi Angulimãla ra khỏi nhà, để tránh tai-hại
về sau. Xiêu theo lời nịnh-bợ bất-chính, ông thầy lập kế đưa
Angulimãla
vào chốn lao-tù, mới kêu bảo rằng: "Nầy con, thầy thấy con võ-nghệ
tinh-thông. thầy muốn truyền cho con một phép mầu-nhiệm để sau nầy còn
nhờ lấy đó mà lập-thân; nhưng trước khi truyền phép huyền-bí cho con,
con phải giết cho đủ một ngàn người, cắt lấy ngón tay, xõ làm một xâu
tràng hoa đem về đây". Angulimãla tuy thông-minh nhưng tham-vọng
rất nhiều, không suy-nghĩ, phần ỷ lại tài-nghệ xuất chúng, liền từ-giả
thầy đi tìm giết cho đủ 1000 người. Ai đi vào rừng cùng, đi lẽ loi nơi
vắng-vẽ đều bị
Angylimãla giết chết và cắt ngón tay xỏ xâu đeo lên cổ. Tiếng đồn dân
chúng kinh-sợ. Vua Pasenadi định đem binh đi bắt tên sát-nhân về
trị tội. Lúc ấy Angulimãla đã giết được 999 người, càng giết càng
hăng máu không gớm tay mong mau có đủ số, để sớm trở về cho thầy truyền
đạo. Cũng lúc ấy bà mẹ của Angulimãla dọ hỏi tin-tức, biết tên
sát-nhân là con của bà. Bà liền vào rừng tìm Angulimãla để khuyên
giải và báo tin cho con bà hay rằng Ðức Vua sắp gửi binh đến bắt chàng.
Thấy mẹ, Angulimãla bị tội ác ám-ảnh, định giết mẹ cho đủ số 1000
người. Bà mẹ kinh-hồn chạy trở lại, liền khi ấy Ðức-Phật hiện ra
chẩm-rãi đi trước mặt, chận đường Angulimãla, để cho bà mẹ chàng
thoát thân. Tên sát-nhân liền đổi ý, định giết ông Sa-Môn, nổ lực chạy
đến gần để hạ-thủ. Ðức-Phật mang bát từ từ bước trở ra, tên sát-nhân
chạy theo sau như tên bay, trên cả ba do-tuần, mà không theo kịp. Tức
mình,
Angulimãla kêu:
"Kìa ông Sa-Môn, sao ông không dừng chân
lại?"
Ðức-Phật ngoái lại mĩm cười đáp:
-"Này Angulimãla, Như-Lai dừng bước
đã lâu rồi, chỉ có ngươi chưa chịu dừng bước đó thôi".
Angulimãla hỏi lại:
"Ông nói ông đã dừng bước, sao tôi chạy theo
ông không kịp. Ông là người nói dối".
Ðức-Phật đáp:
-"Như-Lai đã dừng bước trên con đường
tội-lỗi. Như-Lai đã bỏ hết gươm-giáo từ lâu rồi".
Nghe được có bấy nhiêu lời Angulimãla
chợt tỉnh cơn lầm-lạc, hối-ngộ ăn-năn, liệng cả gươm-dao, quỳ lạy
Ðức-Phật, xin ra tay tế-độ. Ðức-Phật liền vỗ-về an-ủi giải-thích cho
Angulimãla
biết rằng: "Tiền-kiếp người đã dày công tu-hành và có duyên-lành gặp
Chánh-Pháp, nếu Như-Lai không đến cứu ngươi thì ngươi đã phạm tội giết
mẹ. Với cái ngỗ-nghịch đại-tội ấy, ngươi phải sa vào vô-gián địa-ngục,
biết đời kiếp nào chuộc cho xong". Ðức-Phật dắt Angulimãla về
Tịnh-xá Cấp-Cô-Ðộc cho xuất-gia làm Tỳ-Khưu.
Vua Pasenadi, trước khi gửi binh
nã-tróc tên sát-nhân vào thỉnh tôn-ý của Ðức-Phật, vì Ngài biết đũ mọi
việc quá-khứ vị-lai. Hơn nữa, tiếng đồn Angulimãla là một
võ-tướng vô-địch, binh-sĩ nghe đến tên chàng đều khiếp-sợ nên Ðức Vua
không muốn mạo-hiểm, sợ phải hao-binh tổn-tướng nhiều. Ðức-Phật biết
trước nên khi Vua Pasenadi vào đến nơi Ðức-Phật hỏi: "Tâu
Ðại-Vương, tên sát-nhân đã gây tội tày trời, đối với luật nước Ðại-Vương
sẽ trừng-trị để làm gương. Nhưng khi kẻ ấy biết ăn-năn tội-lỗi, hồi-đầu
hướng-thiện, xin vào đây xuất-gia tu-hành, như các ông Tỳ-Khưu của
Như-Lai đây, thì Ðại-Vương sẽ đối xử với kẻ ấy như thế nào?"
-"Bạch Ðức Thế-Tôn, nếu kẻ sát-nhân ấy, thật
tâm ăn-năn vào xuất-gia dưới sự hướng dẫn của Ðức Thế-Tôn, thì không chi
quí-báu bằng. Chừng ấy, Trẫm sẽ lễ bái cúng-dường, như Trẫm lễ bái
cúng-dường chư vị Tỳ-Khưu, môn-đệ của Ðức Thế-Tôn vậy".
Ðức-Phật mĩm cười, đưa tay chỉ vào nhóm
Tỳ-Khưu mà nói rằng: "Tâu Ðại-Vương, đây là Angulimãla, là người
mà Ðại-Vương sắp đem binh nả-tróc". Vua Pasenadi ngạc nhiên mọp
đảnh-lễ ông Tỳ-Khưu Angulimãla. Khi ấy binh tướng ngồi chung
quanh hầu vua, giật mình, len-lét liết dòm người võ tướng vô-địch, nổi
tiếng hung ác, đương ngồi chểm-chệ trong oai-nghi đạo-đức.
113- Ðức-Phật
còn châu du nơi nào nữa?
Sau khi tranh tài đấu-phép với nhóm Lục-Sư
(câu 109) thì mùa mưa cũng vừa đến, Ðức-Phật lên kiết-hạ cung trời
Ðao-Lợi, thuyết phần Vi-Diệu-Pháp, độ mẹ Ngài là Hoàng-Hậu Maya
đến đạo quả Niết-Bàn.
114- Ðã nói
rằng Ðức-Phật độ bà Maya tại Budhi Gaya (câu 50) sao nay
còn độ nữa? Vi-Diệu-Pháp là pháp chi? Sao ở thế-gian biết được Ðức-Phật
giảng pháp ấy cho mẹ Ngài?
Nếu tại Bodhi Gaya, bà Maya
đắc được đạo quả A-La-Hán thì bà đã vào Niết-Bàn rồi, không còn làm
chúng-sanh ở cung trời. Lịch-sử không ghi rõ nhưng có lẽ lần đầu tiên bà
Maya chỉ đắc đạo quả A-Na-Hàm thôi. Ðể giữ trọn đạo làm con,
Ðức-Phật tùy thời cơ, độ mẹ Ngài đến tận bờ giải-thoát.
Ba tháng sau, Ðức-Phật trở xuống Ấn-Ðộ, tại
thành Sankasya, một nơi xa-xâm về hướng Tây Savatthi,
hoàn-toàn chịu ảnh-hưởng của Bà-La-Môn giáo. Trên hai trăm năm sau, Vua
Asoka (A-Dục) có đến tận chỗ chiêm-bái và xây tháp kỷ-niệm dặt tên là
tháp Sankissa, hiện nay vẫn còn di-tích.
Trở lại thế-gian, Ðức-Phật lần lượt đem pháp
mà Ngài đã thuyết tại cung trời Ðao-Lợi giảng-giải cho Chư Thinh-Văn
La-Hán nghe. Pháp ấy dạy về tâm-ý, danh-sắc và Niết-Bàn, rất cao sâu khó
hiểu nên gọi là Vi-Diệu-Pháp (Abhidhamma). Sau lại được ghi chép
trong Tạng thứ ba cũng gọi là Tạng Vi-Diệu-Pháp mà người ta thường gọi
là Tạng-Luận.
(Có chỗ ghi rằng Ðức-Phật lên cung trời
trong hạ thứ 7, chỗ khác nói hạ thứ 6).
115- Người có
duyên-lành nhưng ở xa-xâm lại cũng không phải là thân-nhân của Ðức-Phật,
có hy-vọng được tế-độ chăng?
Những người hữu-duyên gặp Ðức-Phật ra đời
đều được tế-độ cả thảy. M?i buổi sớm mai, Ðức-Phật dùng Thiên-nhãn soi
khắp mọi nơi coi có người đúng duyên-kỳ, dầu xa-xâm đến đâu, Ngài cũng
đến tế-độ, như trường-hợp của chàng Angulimãla (câu 112). Ngoài
ra, tín-đồ nào có chánh-tín, thường ngày tưởng nhớ đến Ân-đức Tam- Bão
mà không cầu-cạnh van-vái để xin ân-huệ, chỉ lo làm lành ở phải, tin lý
nhân-quả, thì chẳng những gia-đình họ càng được an-vui hòa-thuận, mà họ
lại còn có thể làm nhịp-cầu đưa thân-nhân quyến-thuộc đến cho Ðức-Phật
tế-độ.
116- Xin cho
vài bằng chứng.
Từ Sankasya, Ðức-Phật trở lại
Savatthi. Nơi đây Ngài có dịp tế-độ gia-đình của ông Cấp-Cô-Ðộc. Ai
cũng biết ông nầy là một nhà triệu-phú nhưng vì có những thông-gia
tà-kiến, nên dâu và rể của ông thường gây ra sự bất-hòa trong gia-đình
mà ông vẫn nhẫn-nại nín-chịu. Ngày nọ, ông thỉnh Ðức-Phật và Chư
Thinh-Văn đến nhà thọ-thực, Ðức-Phật biết dâu của ông là nàng Sujata
thường ỷ mình là con nhà quyền-thế giàu sang, không kiêng-nể cha mẹ
chồng, hổn-ẩu với chồng và đày-xắt tôi-đòi nên khi thọ-thực rồi Ðức-Phật
cho mời cô ra, đem đạo-lý khuyên-giải nàng, dạy nàng tư-cách làm dâu,
làm vợ, dể tìm cội-phúc hiện-tại và vị-lai. Nhờ vậy, nàng trở thành một
người dâu thảo, vợ hiền và một tín-nữ rất nhiệt-thành.
Ông Cấp-Cô-Ðộc còn một người con gái cũng
khổ tâm vì phải gặp một gia-đình tà-kiến. Làm dâu cho một nhà triệu-phú
ở xứ Bengale (miền Calcutta), mỗi ngày phải lo đủ lễ-vật
cho cha mẹ chồng cúng-dường đến các vị Ðạo-sĩ lõa-thể. Ngày nọ, các thầy
Ðạo-sĩ ấy được thỉnh về nhà thọ-thực, cha mẹ chồng ép nàng phải ra
lễ-bài chào mừng. Vừa bước ra thấy các Ðạo-sĩ trần-truồng, dơ-dáy, nàng
bụm mặt trở vô, tỏ-ý khinh-bỉ. Ông cha chồng nổi xung, quở trách
thậm-tệ. Nàng trả lời: "Thưa cha, con chưa từng gặp những hạng người
lõa-lồ như vậy và con chỉ biết lễ-bái cúng-dường ông Cha lành duy-nhất
của con là Ðức-Phật
Gotama cùng hàng Thánh-Tăng, đệ-tử của Ngài thôi. Ðức cha lành của con
và hàng môn-đệ của Ngài dung-nghi lẫm-liệt, ăn mặc tề-chỉnh rất xứng
đáng cho trời, người lễ-bái".
Ông cha chồng mới hỏi:
"Mi nói thật chăng? Nếu quả thật vậy mi hãy
mời các vị ấy đến đây thọ-thực ngày mai. Bằng mi nói dối, ta sẽ tống-khứ
mi ra khỏi nhà nầy".
Trong lúc bối-rối nàng liền trả lời:
-"Dạ xin vâng".
Trọn ngày ấy, nàng đem hết tâm-thần hướng về
Tịnh-xá Cấp-Cô-Ðộc, hết dạ tín-thành cầu thỉnh Ðức-Phật và Chư Thinh-Văn
đến thọ-thực ngày mai tại nhà cha mẹ chồng nàng, để cứu-rổi nàng khỏi
tai-hại và phổ-độ gia-quyến của chồng nàng theo về với Chánh-Pháp.
Tại Savatthi, chiều ngày ấy ông
Cấp-Cô-Ðộc vào yết-kiến Ðức-Phật và thỉnh Ngài cùng Chư-Tăng ngày mai
đến thọ-trai tại tư-gia. Ðức-Phật mĩm cười trả lời rằng: "Như-Lai đã lở
nhận lời thỉnh cầu của con gái ông rồi; nên ngày mai Như-Lai và Chư
Thinh-Văn phải đi thọ-trai tại xứ Bengale".
Con gái ông Cấp-Cô-Ðộc đinh ninh rằng
Ðức-Phật sẽ đến, nên lo sắp đặt chỗ tiếp rước trong một gian-phòng lớn
trên lầu.
Ðúng giờ Ðức-Phật và Chư Thinh-Văn bay đến
đứng giữa hư-không, trước phòng trai-tăng. Nàng hết sức vui-mừng, mọp
lạy cung-thỉnh Ðức cha lành và Chư vị Thánh-tăng vào an-tọa, cả nhà ngạc
nhiên, kính-phục, thành tâm lễ-bái cúng-dường ông Ðại Sa-Môn Gotama
và đoàn tùy-tùng của Ngài. Thọ-thực rồi Ðức Thế-Tôn thuyết-pháp độ cả
gia-quyến từ cha mẹ chồng đến chồng và tôi-trai tớ-gái của nàng. Mọi
người đều phát tâm tín-ngưỡng xin qui-y thọ-giới làm thiện-nam tín-nữ.
Ðức-Phật đã đem an-vui hạnh-phúc cho người
thiện-nữ chánh-tín là con gái ông Cấp-Cô-Ðộc và gia-đình bên chồng của
nàng.
117- Hiện nay,
nếu có người chánh-tín cầu khẩn Ðức-Phật gia-hộ cho, có linh-nghiệm
chăng?
Nên nhớ rằng hai câu chuyện kể trên xảy ra
lúc Ðức-Phật còn tại thế. Những người đã có gieo nhiều duyên-lành, mới
được sanh vào thời-kỳ ấy. Gặp lúc Ðức-Phật ra đời mà không có
Chánh-kiến, cũng không thể nhờ Phật tế-độ được. Chẳng phải vì lòng
sùng-mộ, vì sự cầu-khẩn mà Ðức-Phật sửa đổi được nghiệp-quả của mỗi
người.
Với một đức-tin chân-chánh, kiên-nhẫn
thực-hiện đời sống, y theo giáo-lý của Ðức-Phật, mỗi tín-đồ phải tự-lực
mưu-cầu hạnh-phúc an-vui cho mình, chớ nên mù quáng ỷ lại nơi sự gia-hộ
của Ðức-Phật, bởi mỗi hành động thiện-ác do luật nhân-quả.
118- Ðức-Phật
có gặp kẻ nào cương-ngạnh, khêu-chọc Ngài chăng?
Phật-giáo ra đời làm lu-lờ các đạo-giáo
khác, không sao tránh được kẻ cương-ngạnh phá-rối. Ðức-Phật là người
lễ-độ ôn-hòa, không bao giờ làm Phật lòng ai cả, trừ khi nào có người
đến gây chuyện. Ngài mới đối phó nhưng cũng dùng kim-ngôn mỹ-từ để
cảm-thắng họ.
119- Xin cho
vài bằng chứng.
Ðây chỉ tóm-lược vài chuyện trong muôn ngàn
chuyện đã xảy ra:
1) Ngày nọ, có một thầy Bà-La-Môn
trong tay giấu một con chim vào đố Ðức-Phật: "Nầy ông Sa-Môn Gotama
(Cồ-Ðàm), tôi đương cầm trong tay một con chim, ông có tài giỏi thử nói
cho mọi người biết con chim ấy sống hay chết?"
Ðức-Phật bảo:
-"Nầy thầy Bà-La-Môn, thầy nên đem con chim
của thầy ra ngoài, hội nhiều người làm chứng, rồi đem trở vô đây,
Như-Lai sẽ cho biết chim ấy sống hay chết". Ðức-Phật biết rằng chim ấy
sống nhưng nếu Ngài nói nó sống, thầy Ðạo-sĩ bóp nghẹt, dầu sống chim ấy
cũng phải chết.
2) Một nhóm Bà-La-Môn khác đến hỏi:
"Nầy thầy Gotama (Cồ-Ðàm), tục-lệ xưa nay từ bậc Vua-chúa đến
hàng thứ dân, muốn cầu hạnh-phúc cho gia-đình, xã-hội, ai ai cũng giết
thú vật để cúng tế thần-linh. Thủ-tục ấy có lợi ích cho bá-gia bá-tánh,
cớ sao ông lại không cho tín-đồ của ông áp-dụng".
Ðức-Phật đáp:
-"Nầy các thầy Bà-La-Môn, con người khôn hơn
muôn vật, tự mình phải tìm hạnh-phúc cho muôn loài vạn-vật. Trí-Tuệ để
làm gì, mà phải hạ mình, ỷ lại nơi thần-linh? Sát-sanh hại vật để đổi
lấy hạnh-phúc cho mình; hạnh-phúc đâu không thấy, mà tội-ác đã
hiển-nhiên".
"Không đâu thầy Gotama (Cồ-Ðàm), các
con vật bị giết để tế-thần đều được siêu-thoát về thượng-giới, bởi thế
chẳng phải là tội-ác, mà chính đó là một việc lành để giúp các con vật
ấy mau được thoát khỏi kiếp đọa-đầy, siêu-sinh về cõi yên-vui. Thế tại
sao Như-Lai chưa từng thấy ai làm việc lành ấy để mưu-cầu hạnh-phúc
thiên-đàng cho thân-nhân quyến-thuộc của họ?".
3) Nhóm Bà-La-Môn khác đến vấn-nạn:
"Bạch thầy Gotama (Cồ-Ðàm), Thánh-kinh từ ngàn xưa lưu-truyền, có
hiệu lực huyền-bí thiêu-đốt tội-lỗi cho linh-hồn người quá-vãng được
nhẹ-nhàng, hồi-qui nơi cựu-vị, cọng hưởng khoái-lạc muôn đời với
Brahma; đạo của thầy được công-bố là đạo cứu-khổ, song mỗi khi trong
hàng tứ-chúng của thầy, có ai qua đời, chẳng thấy tổ-chức tế-thần, cứ
im-lặng khiêng xác đi thiêu?"
-"Nầy các thầy Bà-La-Môn, đạo của Như-Lai
hẳn thật là đạo cứu-khổ, cứu-khổ một cách thực-tế. Hàng tứ-chúng của
Như-Lai thường xuyên tự-độ, không mong chờ một tha-lực nào gia-hộ; trọn
đời ăn ngay, ở thẳng, làm lành, lánh dữ; tinh-tấn trau-giồi đức-hạnh;
bố-thí trì-giới, tham-thiền quán-tưởng, tự-giác giác-tha; khi thở hơi
cuối cùng, nếu chưa đắc đaọ quả Niết-Bàn họ sẽ thọ-sanh vào cảnh-giới
yên-vui hiệp theo định-luật công-bình thiên-nhiên mà Như-Lai gọi là
Luật-Nhân-Quả. Nếu Thánh kinh của các thầy quả thật có hiệu lực đổi ác
ra thiện, sửa tội ra phước; Như-Lai xin đề-nghị đem ra thí-nghiệm để
chứng-minh sự thật: Các thầy hãy lấy một cục đá và một cục bông gòn đồng
cân với nhau để trước mặt rồi xúm lại tụng Thánh-kinh cầu nguyện cho cục
đá trở ra nhẹ như bông gòn và cho cục bông gòn trở ra nặng như cục đá.
Khi tụng kinh cầu-nguyện rồi, các thầy đem hai vật ấy thả xuống sông
Găng, các thầy nghĩ sao? Cục đá sẽ nổi phêu trên mặt nước hay cục bông
gòn?"
120- Tại sao
trong Phật-giáo có tục-lệ cầu-an và cầu-siêu?
Ðức-Phật không có để lại bài kinh nào gọi là
kinh cầu-an hay cầu-siêu. Do nơi sự đòi hỏi của người thế-tục mê-tín mà
nảy sanh tục-lệ cầu-an và cầu-siêu. An hay không tự mình, siêu hay không
cũng tự mình, nếu mình biết hành đúng theo giáo-lý của Ðức-Phật. Hiện
nay những Phật-ngôn mà người ta thường đem ra tụng trước một xác chết,
một linh-cửu thuộc về loại pháp thức-tỉnh những người còn sống có mặt
nơi đám tang, cho họ hiểu rằng chúng-sanh trong Tam-giới phải chung chịu
cái luật vô-thường sanh-diệt và khi chết rồi còn phải tái-sanh nơi vui,
nơi khổ tùy theo nghiệp-lực, chỉ khi nào tu-hành đến đạo quả Niết-Bàn
mới diệt được cái khổ sanh-tử luân-hồi. Ít ai giải-thích, để mặc tình
người thế hiểu sao cũng đuợc. Tình trạng mập-mờ ấy dĩ-nhiên làm mất giá
trị của đạo.
Trong trường hợp cầu-bệnh giải-ách, người ta
dùng một thứ Phật-ngôn mà xưa kia Ðức-Phật đã có dịp thuyết cho một vài
vị Tỳ-Khưu có bệnh, hoặc dạy các thầy ẩn-dật trong rừng phải hành-động
cách nào để tránh những việc chẳng may. Lẽ dĩ-nhiên người cầu-kinh phải
biết nghe, biết hiểu để suy-xét quán-tưởng nhẫn-nại với cái đau, cái khổ
và tinh-tấn làm lành, lánh dữ. Nhưng phần đông chỉ tin nơi sự phù-hộ của
Ðức-Phật; nếu mạnh được thì cho rằng kinh có hiệu lực trừ bệnh, quên để
ý đến công điều trị của ông Bác-sĩ; bằng thoát được tai-ách cũng cho
rằng nhờ kinh mà vận-mạng được sửa đổi không ai tin nơi nhân-quả
vô-hình.
Ðối với người cầu-phước xin tội còn một thứ
kinh phúc-chúc khác, không lớp-lang, đặt ra để thỏa-mãn nhu-cầu của thí
chủ.
Nếu ba loại kinh kể trên quả thật có hiệu
lực, mà không cần phải thực-hành theo Phật-ngôn cùng vun-trồng đạo-đức
thì trước nhất các ông thầy không bao giờ có bệnh, không gặp việc rủi-ro
và cũng được siêu-sanh về Niết-Bàn. Nếu lời phúc-chúc của các thầy có
kết-quả, thì thân-bằng quyến-thuộc của các thầy đều được mọi sự an-lành:
sống lâu, sắc-đẹp, an-vui, sức-mạnh, giàu-sang vinh-hiển và những tín-đồ
trung thành với các thầy cũng được hưởng lây.
-ooOoo-
|
Mục lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05
--- o0o ---
|
Thư Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Source: Buddhasasana
Cập nhật
ngày: 01-05-2002