NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2001
TOÀN TẬP
TÂM NHƯ TRÍ THỦ
--- o0o ---
TẬP
3
HIỆP CHÚ
CHƯƠNG TÁM
BẢY PHÁP DIỆT TRÁNH
I. CHÁNH VĂN:
Thưa các Đại đức, đây là bảy pháp diệt tránh xuất từ
giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần. Nếu có tránh sự khởi lên giữa các Tỳ
kheo, tức thì cần phải trừ diệt.
1)
Cần phải quyết bằng hiện tiền tỳ ni, phải giải quyết bằng hiện tiền tỳ
ni.
2)
Cần giải quyết bằng ức niệm tỳ ni, phải giải quyết bằng ức niệm tỳ ni.
3)
Cần giải quyết bằng bất si tỳ ni, phải giải quyết bằng bất si tỳ ni.
4)
Cần giải quyết bằng tự ngôn trị, phải giải quyết bằng tự ngôn trị.
5)
Cần giải quyết bằng tội xứ sở, phải giải quyết bằng tội xứ sở.
6)
Cần giải quyết bằng ức niệm tỳ ni, phải giải quyết bằng ức niệm tỳ ni.
7)
Cần giải quyết bằng như thảo phú địa, phải giải quyết bằng như thảo phú
địa.
Thưa các Đại đức, tôi đã thuyết xong bảy pháp diệt
tránh.
Nay hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không ?
Các Đại đức trong đây thanh tịnh. Vì im lặng. Tôi ghi
nhận như vậy.
II. DUYÊN KHỞI VÀ Ý NGHĨA:
A. Ý NGHĨA VẤN ĐỀ:
Tránh, hoặc nói
là sự, hoặc nói là tránh sự, là ba thuật ngữ Hán dịch tuy
khác nhau nhưng cũng đồng một gốc. Theo nghĩa đen, từ gốc này chỉ cho việc được
thêm vào ngoài sự việc thường nhật, và có thể đặt thêm một từ Hán khác để dịch:
tăng thượng tác sự. Tuy nhiên, trong thuật ngữ của Luật tạng, nó chỉ một
sự xáo trộn, một sự việc phiền toái xảy ra, hay nói cánh khác, vấn đề được đặt
ra mà Tăng cần phải giải quyết để duy trì đời sống thanh tịnh và hòa hiệp giữa
các Tỳ kheo. Với ý nghĩa chuyên biệt này, có thể mượng một từ Hán khác, gần
chính xác: công án, mà theo nghĩa thế tục, là vụ án được đưa ra công
đường hay công quyền phán xét. Nhưng ở đây, công, cần được hiểu là chỉ
cho Tăng.
Như vậy, tránh, hay tránh sự, theo ý
nghĩa tổng quát của nó là bất cứ một sự xáo trộn nào xảy ra mà Tăng cần giải
quyết hay phán xét. Sự xáo trộn ấy có thể chỉ liên hệ đến cá nhân một Tỳ kheo,
như vi phạm học xứ chẳng hạn. Tỳ kheo phạm luật, đời sống thanh tịnh của vị ấy
coi như bị đảo lộn. Một Tỳ kheo là một thành viên của Tăng. Vị ấy nếu không
thanh tịnh, thì bản thể thanh tịnh của Tăng bị sứt mẻ. Như vậy, sự xáo trộ xảy
ra cho Tăng. Do đó, Tăng cần xét xử xem có thực sự Tỳ kheo ấy bị tỳ vết hay
không, hay hoàn toàn thanh tịnh. Mặt khác, cũng có sự xáo trộn phát xuất từ
Tăng. Thí dụ, các Tỳ kheo thảo luận về pháp, về luật, về giáo nghĩa của Phật.
Các ý kiến mâu thuẫn nhau dược đề xuất. Và mỗi người tự binh vực quan điểm của
mình, cuối cùng chia thành phe nhóm, tranh luận và tranh chấp lẫn nhau, đời sống
của Tăng như vây bị đảo lộn, bị xáo trộn.
Nói tóm, tránh sự bao gồm cả hải phạm
vi: cá nhân và tập thể. Pháp diệt tránh là các nguyên tắc luật định có chắc năng
dập tắt các tránh sự trong cả hai phạm vi ấy.
Vậy, diệt tránh là gì ? Câu hỏi này xem có vẻ đơn
giản: đó là dập tắt các tránh sự, làm cho bụi bặm xáo trộn lắng xuống. Diệt
tránh còn có một dịch ngữ Hán khác: chỉ tránh, đình chỉ tránh sự. Diệt
hay chỉ, trong nghĩa gốc tiếng Phạn, là ttình trạng lắng dịu, tĩnh
lặng. Tuy nhiên, trong ý nghĩa chuyên biệt của luật, nên hiểu đó là sự phán
quyết về một vụ án. Hiểu như thế, thì các pháp diệt tránh là những nguyên tắc để
Tăng xử trị các trường hợp phạm luật, bao trùm cả phạm vi cá nhân, và tập thể.
Nói cách khác, chúng giống như những nguyên tắc pháp chế mà một tòa án thế tục
phải tuân theo khi xét xử một vụ án, để cho phù hợp với công bằng và lẽ phải.
Nói là nguyên tắc, nhưng thực sự chúng bao gồm các
thủ tục tổ chức xét xử và tuyên bô phán quyết. Đương nhiên không hề có việc
thiết lập một pháp đình tôn giáo giữa Tăng. Mỗi khi có tránh sự cần dập tắt,
Tăng cần phải họp để phán xét. Sự tập hợp như vậy, với chức năng của nó, chẳng
khác gì một tòa án lâm thời. Do đó, nếu sự tập hợp không tuân theo một nguyên
tắc nào cả, thì sự tránh sự chẳng những không thể dập tắt, mà còn có cơ gây
tranh luận, rồi dẫn tới tranh chấp, và cuối cùng có thể đi đến tình trạng chia
rẽ giữa Tăng. Bởi vì, mỗi tránh sự có những dữ kiện, nguyên nhân, bản chất mỗi
khác, thì sự tập Tăng để phán xét phải tuân theo nguyên tắc tương xứng.
Trong thủ tục tổ chức, tức phương pháp tập Tăng, có
các vấn đề như thụ lý tránh sự, chỉ định người đoán sự, hay thiết lập ban đoán
sự. Trong vấn đề thụ lý, bao gồm các nguyên tắc cử tội tức tố quyền của Tỳ kheo
nguyên cáo, và các trường hợp bất phục tức kháng biện của Tỳ kheo bị cáo. Tức
là, khi một Tỳ kheo cử tội một Tỳ kheo khác trước Tăng, không phải đương nhiên
Tăng căn cứ theo đó để xét xử Tỳ kheo bị cử, mà trước hết phải xét tư cách như
pháp của người cử tội. Và thứ đến, xem xét lời cử tội có như pháp hay không. Chỉ
khi nào tất cả đều như pháp, Tăng mới xét xử. Điều này cũng giống như các yếu tố
hợp pháp mà tòa án xét để chấp thuận đơn khởi tố. Còn về trường hợp kháng biện
của Tỳ kheo bị cáo, quyền ấy chỉ được dùng trong một số tránh sự theo luật định,
chứ không phải lúc nào nếu không muốn phục tùng phán quyết của Tăng đều có thể
kháng biện. Nếu kháng biện được chấp thuận, các Tỳ kheo hay ban đoán sự mà Tăng
chỉ định bị kháng biện không thể tiếp tục trở lại thụ lý vấn đề nữa, mà phải
chuyển sang cấp đoán sự khác. Sự tổ chức các cấp đoán sự này tùy theo mỗi tránh
sự, và đều đã được luật quy định. Đương nhiên, tới một cấp nào đó, là chung
thẩm, quyền kháng biện không được chấp nhận nữa. Điều này xem ra cũng tương tợ
cách tổ chức các cấp tòa án khác trong pháp chế thế tục.
Trên đây chỉ là những nét phác họa để có cái nhìn
tổng quát về ý nghĩa cũng như nội dung và áp dụng thực tiễn của các nguyên tắc
diệt tránh. Các tránh sự vốn dĩ nhiều, và đa dạng, với những dữ kiện, tình lý
khúc mắc, mà pháp diệt tránh chỉ có bảy, mà xem ra hình như khó giải đáp tất cả.
Tuy nhiên, trong mỗi pháp diệt tránh bao gồm nhiều nội dung uẩn áo, nếu không
quán thông Tam tạng, kinh nghiệm thực tế phong phú, thì rất khó mà triển khai
cho cùng tận.
B. DUYÊN KHỞI:
Theo ghi chép trong Luật tạng của các bộ, bảy nguyên
tắc diệt tránh này được quy đinh do bởi từng dữ kiện khác nhau. Nhưng, theo sự
ghi chép trong Trung A hàm, chúng được Phật quy định một lần, do thỉnh
cầu của tôn giả A Nan. Nguyên do, khi Ni Kiền Thân Tử vừa tạ thế, các đệ tử của
ông, tại gia và xuất gia, lập tức bị phân hóa. Học tranh chấp nhau, thậm chí đi
đến trình trạng ẩu đả nhau, vì bất đồng quan điểm đối với các điểm giáo lý mà
tôn sư của họ để lại. Tin này được đồn đến giữa các Tỳ kheo. A Nan hay được, lo
sợ cho chúng Tỳ kheo sau khi Đức Phật nhập diệt có thể xảy ra tình trạng như
vậy. Nhân đấy, Phật nêu các nguyên tắc sống chung giữa các Tỳ kheo. Và thảng
hoặc nếu có tránh sự khởi lên, phải tùy trường hợp thích đáng mà giải quyết bằng
một trong bảy pháp diệt tránh.
Trong các chương trước, một số pháp diệt tránh đã
được dẫn, được áp dụng để giải quyết một số vấn đề liên quan tội phạm của các Tỳ
kheo. Trong phần duyên khởi về bảy pháp diệt tránh mà các bộ tường thuật, đại bộ
phận đều nhắc lại những trường hợp đã dẫn từ các chương trước. Duyên khởi theo
tường thuật chung giữa các bộ như sau:
1) Hiện tiền tỳ ni: Một Tỳ kheo tắm chung với
nhóm sau Tỳ kheo. Khi lên bờ trước, vị này đã cầm nhầm y của một trong sau vị
ấy. Sáu người lên sau, không nhìn thấy y của mình nhưng lại nhìn thấy y của Tỳ
kheo kia bỏ sót lại. họ cho rằng Tỳ kheo ấy đã lấy cắp. Do vậy, họ tác pháp yết
ma diệt tẩn đối với Tỳ kheo cầm nhầm về tội ba la di. Khi Tỳ kheo kia khám phá
ra sự nhầm lẫn của mình, bèn trở lại chỗ tắm. Bấy giờ sáu Tỳ kheo tác pháp vừa
xong, bèn báo cho Tỳ kheo cầm nhầm biết. Tỳ kheo này biết rõ mình vô tội, nhưng
nghi ngờ về hiệu yết ma mà sáu Tỳ kheo vừa thực hiện xong. Ông đến hỏi Đức Phật.
Ngài tuyên bố yết mà ấy phi pháp, vì đương sự không hiện diện. Và nhân đó, Ngài
thiết lập nguyên tắc diệt tránh bằng hiện tiền tỳ ni.
2) Ức niệm tỳ ni: Trường hợp xảy ra cho tôn
giả Đạp Bà Ma La Tử mà nội dung đã nói rõ trong hai điều 8 và 9 thuộc chương
Tăng già bà thi sa. Do các Tỳ kheo Từ và Đại vu khống về tội ba la di không căn
cứ, trưởng lão Ma La Tử thường bị các Tỳ kheo khác cật vấn. Phật khiến Tăng già
tác pháp yết ma về ức niệm tỳ ni cho Ma La Tử, để sau đó không Tỳ kheo nào được
phép cật vấn nữa.
3) Bất si tỳ ni: Tỳ kheo Nan Đề phát cuồng,
mất trí, nên phạm rất nhiều học xứ của Tỳ kheo. Một thời gian sau, Tỳ kheo này
hết bịnh, các Tỳ kheo khác thường đến cật vấn các tội đã phạm trong lúc điên
cuồng. Để chấm dứt sự phiền phiền nhiễu ấy, Phật khiến Tăng già tác pháp bất si
tỳ ni cho Nan Đề, và từ đó không Tỳ kheo nào được phép nhắc nhở các việc phi
pháp của Nan Đề trong lúc mất trí.
4) Tự ngôn trị: Vào ngày bố tát, các Tỳ kheo
đã tập họp đủ để nghe Phật thuyết giới. Cho đến nửa đêm, Ngài vẫn im lặng không
thuyết giới. Sau ba lần thỉnh cầu của A Nan, Ngài nói: Như Lai không thuyết giới
khi giữa Tăng có một Tỳ kheo không thanh tịnh. Nói xong, Ngài trở lại im lặng.
Tôn giả Mục Liên vận dụng tha tâm trí, quan sát khắp chúng, khám phá một Tỳ kheo
phạm tôi nhưng che giấu, không phát lộ sám hối. Tôn giả bèn dùng sức mạnh nắm
tay lôi Tỳ kheo ấy ra khỏi thuyết giới đường. Nhân đó, Phật nêu nguyên tắc tự
ngôn trị.
5) Tội xứ sở: Trường hợp của Tỳ kheo
tượng Lực. Tỳ kheo này thường tranh luận với các tu sĩ ngoại đạo. Khi nào đuối
lý, thì nói quanh, dối trá. Các tu sĩ ngoại đạo chỉ trích. Chúng Tỳ kheo hay
biết, bèn hỏi Tượng Lực về sự thực, Tượng Lực chối quanh, nói dối giữa Tăng,
ngoan cố không chịu xác nhận tội trạng của mình. Do đó, Phật lập nguyên tắc tội
xứ sở.
6) Đa nhân ngữ: Các Tỳ kheo ở Xá Vệ tranh chấp
nhau. Tăng ở đó không giải quyết được, vì các Tỳ kheo can dự bất phục phán quyết
của Tăng. Để giải quyết vấn đề tranh chấp này, Phật dạy nguyên tắc đa nhân ngữ.
7) Như thảo phú địa: Cũng do nhóm tăng ở Xá
Vệ. Do sự cố tranh chấp lâu ngày, các Tỳ kheo đều phạm nhiều tội. Vì cả tập thể
Tăng đều phạm tội, không còn Tỳ kheo nào thanh tịnh để tác chủ thọ sám hối, do
đó Phật dạy sám hối theo pháp như thảo phú địa. Nói là các Tỳ kheo tại Xá Vệ, vì
khi tác pháp như thảo phú địa họ đang ở tại Xá Vệ. Nhưng gốc của họ àl từ Câu
diệm di tới, nơi mà họ đã tranh chấp nhau kịch liệt. Đây là cuộc tranh chấp giữa
các Tỳ kheo trầm trọng nhất trong thời Phật. Chính Phật tự thân đến hòa giải,
nhưng họ nói, với đại ý: Những gì mà Thế Tôn vừa dạy là chân lý, nhưng đấy chỉ
là về mặt lý thuyết ; trên thực tế, sự việc không như thế. Rồi sau đó, Phật rời
bỏ nhóm Tỳ kheo ngoan cố này, vào rừng sống độc cư, với sự hầu hạ của một con
voi và một con khỉ. Một hời gian sau, do vì áp lực của các cư sĩ, nghĩa là không
cung cấp tứ sự cho nhóm Tỳ kheo ấy, nên cuối cùng các vị này ý thức được rằng: “
Nơi đây chúng ta cùng bị hủy diệt trong sự tranh chấp này”, và cùng đồng ý hòa
giải, dẹp bỏ vấn đề tranh chấp. Khi họ chấm dứt tranh chấp, họ nhờ A Nan hướng
dẫn vào rừng để sám hối với Phật và thỉnh Ngài trở về. Từ Câu diệm di, Phật du
hành đến Xá Vệ. Tại đây, vì vụ tranh chấp nổi tiếng ấy, họ thường bị các Tỳ kheo
khác lẩn tránh. Trong mặc cảm tội lỗi, họ thỉnh cầu Phật, Ngài dạy họ cần sám
hối tập thể, bằng như thảo phú địa.
III. NỘI DUNG CHI TIẾT BẢY DIỆT TRÁNH:
Nội dung của bảy diệt
tránh vốn phong phú và phức tạp, như đã giới thiệu tổng quát trong mục ý nghĩa ở
trên. Do vậy, cần phải nắm vững các chi tiết căn bản được hàm chứa trong đó, sau
đó mới có thể vận dụng linh động, áp dụng cho mỗi tránh sự.
Để tiện lợi trong việc trình bày, ở đây trước hết sẽ
giới thiệu các chi tiết nội dung của chúng. Cho đến mục tiếp theo mới sẽ giới
thiệu các trường hợp tránh sự cần được giải quyết theo pháp diệt tránh nào. Sự
trình bày này thực sự là mô phỏng theo kỷ thuật vhương pháp trong Luật tạng của
các bộ. Kỷ thuật chương pháp này, ngoài sự kiện gọi là tiện lợi, còn có một ý
nghĩa khác cũng nên biết đến.
Xét về bản chất, bảy diệt tránh là các học xứ của Tỳ
kheo, tức những nghĩa vụ mà luật ấn định, các Tỳ kheo phải chấp hành. Ai không
chấp hành, phạm đột kiết la, sẽ y luật xử trị. Nói theo thuật ngữ của Luật tạng,
bản chất của chúng là luật tác trì. Đã là luật Phật chế thì không ai được phép
thêm bớt, và cũng không được phép giải thích chúng một cách tùy tiện. Nhưng,
trong áp dụng thực tiễn, các pháp diệt tránh là những nguyên tắc xét xử tránh sự
của Tăng. Đương nhiên, khi xét xử, có các vấn đề thủ tục tập Tăng, tổ chức các
cấp đoán sự, v.v…
Một mặt, là các nghĩa vụ phải chấp hành, và mặt khác
là thủ tục điều hành ; các pháp diệt tránh như vậy hàm chưa hai bản chất khác
nhau.
Trong phạm vi nghĩa vụ,
chúng phải được giải thích the học lý dựa trên nền tảng Pháp, Luật và giáo huấn
của Phật. Nhưng trong phạm vi áp ụng, chúng cần được thực hiên tùy theo dữ kiện
thực tế. Mà dữ kiện thực tế thì luôn luôn thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh.
Cho nên, khi chia hai lãnh vực khác nhau để trình bày các pháp diệt tránh, Luật
tạng đã dành lãnh vực áp dụng một phạm vi rộng rãi ; nghĩa là mở ngõ cho các
giải thích. Chính trong kỷ thuật chương pháp này cho thấy nội dung phong phú của
bảy diệt tránh, và vì vậy, không thể giới thiệu chúng với một tinh thần giáo
điều hạn chế được.
1) Hiện tiền tỳ ni:
Tỳ ni ở đây
được hiểu là nguyên tắc hay nguyên lý hướng dẫn, phải tuân theo. Hiện tiền tỳ
ni, nói cách khác, là nguyên tắc hiện diên. Nội dung của sự hiện tiền này gồm ba
điểm căn bản: pháp hiện tiền, tỳ ni hiện tiền và nhân hiện tiền.
Pháp được nói ở đây là giáo pháp, tức lời dạy của
Phật. Chính yếu là những lời dạy được ghi chép trong Kinh tạng. Tỳ ni hay luật,
tức những điều được ghi trong Luật tạng. Những điều khoản này vốn cô đọng, chỉ
quy định một cách rất tổng quát điều gì Tỳ kheo phải làm và điều gì không được
phép làm. Nhưng trong thực tế, khi một Tỳ kheo bị coi là vi phạm một điều luật
nào đó, thì điều luật này cần được giải thích chính xác, phù hợp với thực tế xảy
ra. Việc giải thích này không thể tùy tiện theo quan điểm cá biệt của mỗi người,
hay theo trí thông minh riêng biệt của mỗi người. Nó phải được giải thích như
thế nào mà không vượt ngoài tinh thần giáo lý. Nói cách khác, khi giải quyết một
vấn đề xảy ra giữa các Tỳ kheo, trước hết phải dẫn luật, và tiếp theo đó, điều
luật này phải được giải thích bằng cách dẫn chứng giáo lý được ghi trong Kinh
tạng.
Pháp hiện tiền và tỳ ni hiện tiền là hai điểm phải
được dẫn chứng hiện tiền trong mọi trường hợp. Nhưng như thế chưa phải là đủ,
nếu đương sự vắng mặt. Quyền tự biện hộ là quyền tối thượng. Trong luật tố tụng
của thế tục, tòa án có thể xử khuyết tịch một đương sự. Nhưng trong luật Tỳ
kheo, trương hợp này không bao giờ được chấp nhận. Như vậy, một Tỳ kheo sống di
động, không cố định tại một trú xứ nào, làm sao xử lý ? Vấn đề này thoạt xem có
vẻ rắc rối, nhưng nếu nắm vững nguyên tắc tổ chức sinh hoạt của Tăng, sẽ không
có gì là nan giải.
Trước hết, nên biết rằng, mặc dù Tăng đoàn không hề
có cơ cấu chỉ đạo trung ương, nhưng không một Tỳ kheo nào tự ý coi mình như sống
ngoài Tăng đoàn. Tổ chức Tăng đoàn không theo hệ thống tập quyền trung ương, mà
phân tán thành những cộng đồng tự trị địa phương. Tỳ kheo đến trú xứ nào, tự
nhiên là thành phần Tăng già tại trú xứ đó. Tăng già địa phương này có đủ thẩm
quyền xét xử Tỳ kheo ấy, dù chỉ mới dừng chân đến trong giây lát. Nói thế có
nghĩa là, Tăng già tại địa phương này hay biết rằng Tỳ kheo ấy tại địa phương ấy
đã có hành vi phạm giới, chưa sám hối, và Tăng già ở đó chưa kịp xử trị, hoặc xử
trị nhưng không được Tỳ kheo ấy tuân phục ; thì chỉ cần căn cứ vào sự hay biết
ấy, Tăng có đủ thẩm quyền để gọi Tỳ kheo mới đến trình bày hay đối chất. Nếu Tỳ
kheo này bất phục, lại bỏ đi nơi khác, thì Tăng già tại địa phương mới cũng phải
có nhiệm vụ xử lý với sự hiện diện của đương sự, chứ không được phép để một Tỳ
kheo phạm giới chưa chịu sám hối sống chung trong trú xứ của mình. Như vậy, một
Tỳ kheo ngoan cố, nhất định sẽ bị gạt ra khỏi Tăng đoàn.
Ba điểm vừa kể trên được kể là căn bản trong nguyên
tắc hiện tiền. Tuy nhiên, như thế chưa phải là hết. Vì chúng chỉ áp dụng trong
trường hợp giải quyết cá thể hay nhóm từ ba Tỳ kheo trở xuống. Nếu vấn đề cần
được Tăng giải quyết, phải thêm hai sự hiện tiền nữa. Đó là Tăng hiện tiền và
giới hiện tiền. Tăng hiện tiền, là các Tỳ kheo trong cùng trú xứ đều hiện diện.
Tỳ kheo có duyên sự chính đáng không đến họp phải gởi dục. Khi Tăng đoán sự,
việc làm của Tăng không bị phủ quyết bởi bất cứ một Tỳ kheo nào có đủ tư cách
phủ quyết. Thiếu một trong các yếu tố này, không thể gọi là Tăng hiện tiền. Kế
đến, giới, tức cương giới, phạm vi trú xứ của Tăng đã được ấn định như pháp. Nếu
tại nơi chưa tác pháp hết giới, các Tỳ kheo phải tác yết ma kết giới trước, tiếp
theo đó mới có thể khai diễn thảo luận. Nếu không như vậy, thì thiếu yếu tố giới
hiện tiền.
Nói tóm lại, tùy theo mức độ vấn đề, hiện tiền tỳ ni
bao gồm tổng quát năm yếu tố: pháp hiện tiền, tỳ ni hiện tiền, nhân hiện tiền,
Tăng hiện tiền và giới hiện tiền.
2) Ức niệm tỳ ni:
Như đã trình bày trong
duyên khởi, ức niệm tỳ ni lần đầu được áp dụng cho tôn giả Ma La Tử, vì sự cớ
các Tỳ kheo hay chất vấn một tội phạm mà tôn giả đã chứng tỏ là mình hoàn toàn
trong sạch. Ở đây, ức niệm có nghĩa là đương sự nhớ rõ, biết rõ một cách chính
xác việc làm của mình, biết rằng mình vô tội. Thế nhưng, theo sự áp dụng rộng
rãi, nguyên tắc ức niệm này bao gồm hai trường hợp. Thứ nhất, đối với người hoàn
toàn vô tội. Thứ hai, người có tội, nhưng đã sám hối như pháp. Trong trường hợp
trước, khi một Tỳ kheo bị vu khống, và trước Tăng, Tỳ kheo này đã chứng tỏ minh
bạch rằng mình vô tội, và Tăng cũng đã xác nhận điều đó. Tuy nhiên, cũng có một
số Tỳ kheo hiếu sự, hoặc thỉnh thoảng, hoặc thường xuyên, đến tra vấn Tỳ kheo
này. Sự việc như vậy thật gây phiền phức không ít cho người vô tội. Để chấm dứt
tình trạng nyà, Tỳ kheo đương sự đến trước Tăng, thỉnh cầu Tăng tác pháp ức niệm
tỳ ni cho. Sau khi Tăng đã tác pháp thành tựu, Tỳ kheo nào còn hiếu sự hỏi lôi
thôi, sẽ bị như luật xử trị.
Dưới đây là diễn tiến về vụ tôn giả Đạp Bà Ma La Tử.
Do bị phiền nhiễu, tôn giả đến trước Tăng, bỏ dép bên
ngoài, trịch áo vai phải, quỳ gối phải xuống đất, bạch Tăng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe. Tôi Tỳ kheo Đạp bà ma la
tử, không phạm trọng tôi, ba la di, tăng già bà thi sa hoặc thâu lan giá. Các Tỳ
kheo bảo tôi: “Ngươi có nhớ rõ là đã phạm trọng tội, ba la di, tăng già bà thi
sa hoặc thâu lan giá hay không ?” Tôi nhớ rõ là tôi không phạm trọng tội, ba la
di, tăng già bà thi sa hoặc thâu lan giá, nên đã trả lời các Tỳ kheo ấy rằng:
“Tôi nhớ rõ là tôi không phạm trọng tội, ba la di, tăng già bà thi sa hoặc thâu
lan giá. Các trưởng lão không nên mỗi mỗi cật vấn tôi”. Nhưng các Tỳ kheo vẫn cứ
cật vấn tôi không thôi. Tôi nay nhớ rõ là không phạm, nên đến trước Tăng thỉnh
cầu pháp ức niệm tỳ ni. Nguyện Tăng ban cho tôi pháp ức niệm tỳ ni. Từ mẫn cố.
(nói ba lần)
Tiếp theo, sau khi Tăng
thảo luận, kiểm điểm và xác nhận Tỳ kheo đương sự hoàn toàn vô tội, bấy giờ một
Tỳ kheo làm yết ma sư tác bạch Tăng:
Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Tỳ kheo Đạp bà ma la tử
này không phạm trọng tội, ba la di, tăng già bà thi sa hoặc thâu lan giá. Nhưng
các Tỳ kheo nói là phạm tọng tội, ba la di…thâu lan giá, và hỏi rằng: “Ngươi có
nhớ rõ…thâu lan giá hay không ?” Tỳ kheo này nhớ rõ là không phạm trọng tội, bèn
trả lời rằng: “Tôi nhớ rõ là không phạm trọng tội. Các trưởng lão không nên cật
vấn tôi”. Nhưng các Tỳ kheo ấy vẫn cứ cật vấn không thôi. Tỳ kheo này nhớ rõ là
không phạm tội. Nay thỉnh cầu Tăng pháp ức niệm tỳ ni. Nếu thời gian thích hợp
đối với Tăng, Tăng nay chấp thuận ban cho Tỳ kheo này pháp ức niệm tỳ ni. Đây là
lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe. Tỳ kheo,
như văn bạch trên cho đến… nay thỉnh
cầu Tăng pháp ức niệm tỳ ni. Tăng nay ban cho Tỳ kheo Đạp Bà Ma La Tử này pháp
ức niệm tỳ ni. Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng nay ban cho Tỳ kheo Đạp Bà Ma
La Tử pháp ức niệm tỳ ni thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói. Đây là lần
yết ma thứ nhất.
(Lần thứ hai, lần thứ ba, cũng như trên)
Tăng đã chấp thuận ban cho Tỳ kheo Đạp Bà Ma La Tử
pháp ức niệm tỳ ni. Vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
Sau khi yết ma đã như pháp thành tựu, Tỳ kheo
nào còn khơi dậy vấn đề cũ, phạm ba dật đề như đã thấy trong chương VI trên.
Trong diễn tiến này, sau khi Tỳ kheo đương sự thỉnh
cầu pháp ức niệm tỳ ni, Tăng cần nghiêm xét trước khi tác pháp chấp thuận. Sự
nghiêm xét này chủ yếu nhắm đến tính chất hợp pháp trong sự thỉnh cầu của Tỳ
kheo đương sự. Thỉnh cầu không được coi là hợp pháp, nếu đương sự là Tỳ kheo đã
bị Tăng yết ma diệt tẩn, hoặc đã xả giới, hoặc thật sự có phạm nhưng chưa sám
hối. Và quan trọng hơn cả, là thật sự bị cật vấn. Chỉ được coi là hợp pháp, khi
nào đương sự là Tỳ kheo hoàn toàn vô tội đối với những lời cáo buộc, hoặc có
phạm nhưng đã sám hối như pháp.
Trên đây nói sự cật vấn hay cáo buộc, là nhắm vào
trường hợp vô căn cứ. Nếu cáo buộc hay cật vấn có căn cứ do thấy, nghe hoặc
nghi, thỉnh cầu của Tỳ kheo đương sự cũng không được coi là hợp pháp.
3) Bất si tỳ ni:
Nói cách khác, đây là nguyên tắc không mất trí. Sự ấn
định các điều khoản của luật có một nguyên tắc rất quan trọng. Đó là nguyên tắc
miễn thứ. Mỗi điều luật có một số trường hợp đặc miễn. Nhưng tất cả đều có một
dặc miễn quan trọng, đó là trường hợp Tỳ kheo mất trí. Những gì Tỳ kheo làm
trong khi mất trí đều không bị kết tội. Do đó, khi xét tội phạm mỗi Tỳ kheo,
việc phải làm trước hết là xác định trạng thái tinh thần của đương sự trong lúc
phạm. Tỳ kheo mất trí có hai trường hợp. Thứ nhất, khi tỉnh khi điên. Người như
vậy, khó xác định trạng thái thần kinh lúc vi phạm. Bởi vì, đương sự có thể nói
trá là lúc đấy mình mất trì mà kỳ thực thì còn sáng suốt. Đối với hạng mất trí
bất bình thường này, Tăng chỉ tác pháp yết ma công nhận bịnh cuồng si, để miễn
trừ cho các vị ấy khỏi phải thường xuyên dự nghe thuyết giới, và các tăng sự
khác. Nhưng không miễn trừ hẳn các trường hợp phạm giới. Trường hợp mất trí thứ
hai, là người điên hẳn chứ không không phải lúc tỉnh lúc điên. Với hạng này, tất
cả điều luật đều được miễn thứ. Trường hợp mất trí này cũng có nhiều điểm tế nhị
về thời gian tính. Thí dụ, trước khi mất trí, Tỳ kheo ấy đã được Tăng yết mà cho
ly y túc một tháng. Sau đó, còn mấy ngày nữa thì thời hiệu yết ma mới hết, nhưng
đột nhiên đương sự nổi điên, mất trí hẳn. Vậy trong thời gian mất trí này, thời
hiệu yết ma ly y túc được ngưng. Cho đến khi nào đương sự tỉnh lại, thời hiệu sẽ
được nối vào cho đến hết số ngày còn lại. như vậy, nếu trước khi điên, đương sự
phạm một tội trong giới bổn nhưng chưa kíp sám hối. Tội phạm ấy không bị thủ
tiêu bởi sự mất trí này. Chừng nào đương sự tỉnh cơn điên, tội phạm ấy phải được
xử trị.
Theo các dẫn giải vừa nói, pháp bất si tỳ ni ở đây có
mục đích xác nhận các sự phạm luật của Tỳ kheo đương sự hoàn toàn xảy ra trong
khi mất trí. Do vì trong thời gian mất trí, đương sự được hưởng luật miễn thứ,
cho nên cần có pháp bất si tỳ ni để ngăn cản không cho các Tỳ kheo khác cật vấn
lôi thôi, gây tranh tụng, xích mích giữa các Tỳ kheo. Ngụ ý của bất si này nói
rằng: việc làm ấy chỉ được coi là phạm luật khi nào đương sự không mất trí. Đấy
là nhắm đến khía cạnh tích cực của các học xứ, nghĩa là luật không dung thứ
những Tỳ kheo còn tỉnh táo mà làm bậy. Cho nên, mặc dù thuật ngữ của nguyên tắc
này được nói dưới dạng phủ định, nhưng hiệu lực của nó mang tính chất khẳng định
về hiệu lực của giới bổn.
Điển hình trường hợp này, như đã giới thiệu trong
phân duyên khởi, là Tỳ kheo Nan Đề. Trong khi điên cuồng tâm loạn, Nan Đề phạm
nhiều tội lỗi, nhưng cố nhiên không Tỳ kheo nào hạch hỏi. Vì dù có hạch hỏi cũng
vô ích. Vả, chẳng ai lý sự với một người điên. Nhưng khi Tỳ kheo Nan Đề hoàn
toàn tỉnh trí, sinh hoạnt trở lại bình thường, các Tỳ kheo khác mới đem chuyện
cũ ra cật vấn. Sự việc ấy khiến Tỳ kheo Nan Đề bị phiền nhiễu không ít, và do
thế sự tu tập cũng bị cản trở không ít. Cho nên, Phật khiến Nan Đề thỉnh cầu
Tăng ban cho pháp bất si tỳ ni. Tỳ kheo Nan Đề, đủ oai nghi lễ tiết, đến trước
Tăng thỉnh cầu:
Đại đức Tăng xin lắng nghe. Tôi Tỳ kheo Nan Đề, trong
khi điên cuồng tâm loạn đã phạm nhiều tội, vào ra đi đứng không thuận oai nghi.
Về sau, khi tâm trí tỉnh lại, các Tỳ kheo hỏi tôi rằng: “Ngươi có nhớ là đã phạm
trọng tội, ba la di, tăng già bà thi sa, thâu lan giá chăng ?” Tôi trả lời rằng:
“Trước đây, khi điên cuồng tâm loạn, tôi hay phạm nhiều tội, vào ra đi đứng
không đúng oai nghi. Nhưng đấy không phải là do tôi cố ý làm, mà do vì điên
cuồng tâm loạn. Các trưởng lão không nên mỗi mỗi cật vân tôi.” Tuy nhiên, các Tỳ
kheo vẫn cứ cật vấn tôi mãi không thôi. Tôi nay bất si, thỉnh cầu Tăng pháp bất
si tỳ ni. Nguyện Tăng ban cho tôi pháp bất si tỳ ni. Từ mẫn cố.
(nói ba lần)
Sau khi nghe tình bày
của đương sự, Tăng thảo luận để nghiệm xét vấn đề. Nếu lời thỉnh cầu đúng pháp,
sẽ tác pháp yết ma chấp thuận. Thỉnh cầu hợp pháp chỉ khi nào đương sự quả thật
có điên, quả thật có bị các Tỳ kheo cật vấn, và cật vấn ấy chỉ truy các việc phi
pháp mà đương sự làm trong khi điên. Nếu sự cật vấn của các Tỳ kheo nhắm vào các
tội mà đương sự đã phạm trước hay sau thời gian xác nhận là điên, thì sự thỉnh
cầu được coi là bất hợp pháp.
Nghiêm xét và xác nhận xong, Tăng cử một Tỳ kheo làm
yết ma sư. Yết ma sư bạch:
Đại đức Tăng lắng nghe. Tỳ kheo Nan Đề này trước khi
điên cuồng tâm loạn, hay phạm nhiều tội lỗi, nói năng không chừng mực, vào ra đi
đứng không thuận oai nghi. Về sau, khi tâm trí tỉnh lại, các Tỳ kheo hỏi tôi
rằng: “Ngươi có nhớ là đã phạm trọng tội, ba la di, tăng già bà thi sa, thâu lan
giá chăng ?”, bèn trả lời rằng: “Trước đây, khi điên cuồng tâm loạn, tôi hay
phạm nhiều tội, nói năng không chừng mực, vào ra đi đứng không thuận oai nghi.
Đó là do bởi điên cuồng tâm loạn chứ không phải cố ý. Các trưởng lão không nên
mỗi mỗi cật vân tôi.” Tuy nhiên, các Tỳ kheo vẫn cứ cật vấn mãi không thôi. Tỳ
kheo này nay bất si, thỉnh cầu Tăng pháp bất si tỳ ni. Nếu thời gian thích hợp
đối với Tăng, Tăng thuận ban pháp bất si tỳ ni cho Tỳ kheo Nan Đề. Đây là lời
tác bạch.
Đại đức Tăng lắng nghe…
như văn bạch trên cho đến…Tỳ kheo này nay bất si, thỉnh cầu Tăng pháp bất
si tỳ ni. Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng nay ban cho Tỳ kheo Nan Đề pháp bất
si tỳ ni thì im lặng. Ai không chấp thuận thì hãy nói. Đây là yết ma lần thứ
nhất.
Lần thứ hai, thứ ba, cũng vậy.
Tăng đã chấp thuận ban cho Tỳ kheo … pháp bất si tỳ
ni. Vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
Sau khi yết ma của Tăng
đã như pháp thành tựu, Tỳ kheo nào còn cật vấn đương sự nữa, tức là chống lại
yết ma của Tăng, cũng như trường hợp ức niệm tỳ ni trên.
4) Tự ngôn trị:
Như thuật ngữ Hán dịch
đã chỉ rõ, Tăng chỉ xử trị một Tỳ kheo bị cáo là phạm tội khi nào đương sự xác
nhận tội phạm, dù tội ấy có bằng chứng cụ thể, mọi người đều biết rõ. Thí dụ,
trong hai trường hợp bất định như đã thấy trong chương II, một Tỳ kheo bị ưu bà
di trụ tín cáo giác là có hành vi phi pháp. Mặc dù Tăng biết rõ lời cáo giác của
vị ưu bà di ấy hoàn toàn không vu khống, nhưng chỉ xử trị theo tội danh mà Tỳ
kheo bị cáo tự xá nhận. Đương nhiên, theo tinh thần luật chế, một Tỳ kheo
bị cáo không nhất thiết đòi hỏi phải trưng đủ bằng chứng cụ thể cho lời cáo
buộc. Nghĩa là, ngoài sự việc mà nguyên cáo chứng kiến tận mắt ; những trường
hợp chỉ nghe người khác nói lại, hoặc chỉ có ý nghi ngờ, cũng đủ làm căn cứ cho
hành vi khởi tố. Dù vậy, dù Tỳ kheo có sử dụng tố quyền của một một cách hợp
pháp, nhưng sự tố giác ấy không phải là tất yếu để Tăng xử trị ty bị cáo.
Trong đây còn có vấn đề
tố quyền của người khởi tố. Người được phép sử dụng tố quyền, khi muốn tố giác
trước Tăng về một Tỳ kheo phạm tội khác, người ấy phải là một Tỳ kheo như pháp.
Nếu không phải là Tỳ kheo, hoặc đã thọ Tỳ kheo nhưng không đắc giới, hoặc đắc
giới nhưng đã phạm ba la di ; không không phạm ba la di, nhưng phạm các tội khác
mà chưa sám hối hay có sám hối nhưng không đúng pháp ; hoặc Tỳ kheo đang hành
sám hối tăng già bà thi sa ; Tỳ kheo bị Tăng yết ma xả trí, v.v…, các Tỳ kheo
này không đủ tư cách để sử dụng tố quyền. Tỳ kheo ni không được phép cử tội Tỳ
kheo nên cũng không thể sử dụng tố quyền đối với Tỳ kheo. Ba tiểu chúng xuất
gia, hai chúng xuất gia thảy đều không có quyền tố giác. Trừ trường hợp một ưu
bà di trụ tín, như đã giải thích trong chương II về pháp bất định. Nói là không
có quyền tố giác, không có nghĩa là hoàn toàn không được nói cho các Tỳ kheo
khác biết về hành vi phi pháp của một Tỳ kheo nào đó. Không có quyền tố giác ở
đây phải hiểu là tố quyền không hợp pháp. Nghĩa là Tăng không căn cứ theo lời tố
giác ấy mà tập hợp để chất vấn Tỳ kheo bị cáo. Chỉ khi nào một Tỳ kheo có đủ tố
quyền, dù không chứng kiến tận mắt mà chỉ nghe qua trung gian các chúng kia nói
lại, Tỳ kheo ấy đưa Tỳ kheo bị cáo ra trước Tăng, bấy giờ Tăng mới có thẩm quyền
thụ lý.
Các biện pháp như thế
bề ngoài có vẻ có lợi cho đối tượng bị cáo rất nhiều. Tuy nhiên, các biện pháp
quy định tố quyền này có mục đích không để có sự kiện cáo lung tung xảy ra giữa
các Tỳ kheo, khiến cho đời sống bị xáo trộn. Bởi vì, nếu không như thế, ai cũng
có thể là đối tượng bị cáo, bất cứ vào lúc nào. Điều này khiến cho các Tỳ kheo
thường xuyên sống trong tâm trạng đề phòng, khó mà an ổn để tu tập. Tuy nhiên,
luật cũng đã quy định rõ, Tỳ kheo nào biết Tỳ kheo khác phạm tội mà cố ý làm
ngơ, che giấu hộ, Tỳ kheo ấy phạm các ba dật đề. Và thêm nữa, nếu sự tố cáo tỏ
ra không căn cứ, có tính cách vu khống, thì tùy theo mức độ nặng nhẹ, hoặc phạm
tăng già bà thi sa, hoặc phạm ba dật đề.
Mặt khác, nguyên tắc tự
ngôn trị cũng có vẻ chỉ có quyền lợi cho bị cáo. Tuy nhiên, Tỳ kheo đủ tư cách,
sử dụng tố quyền hợp pháp, nhưng không phải luôn luôn sự tố cáo hoàn toàn chính
xác, không bị chi phối bởi chủ quan hay thành kiến. Do đó, nếu chỉ căn cứ theo
lời cáo buộc của nguyên cáo mà không xét đến sự xác nhận của bị cáo, thì trong
rất nhiều trường hợp người bị cáo sẽ bị xử trị oan uổng. Tất nhiên, không ai có
thể đảm bảo rằng mình luôn luôn thấy đúng và nghe đúng. Thấy người cầm cọng cỏ
mà tưởng là cầm con dao, đấy cũng là sự thường. Cho nên, nguyên tắc tự ngôn trị
bắt buộc nguyên cáo phải thận trọng trong sự cáo giác của mình, nếu không nó sẽ
thành sự vu khống.
Thế nhưng, với nguyên
tắc tự ngôn trị, khi một Tỳ kheo bị cáo rõ ràng đã có phạm tội, bằng chứng không
thể chối cãi, mà vị này vẫn ngoan cố không chịu thú nhận, thì chẳng lẽ Tăng phải
thúc thủ bất lực ? Để đối phó trường hợp này, Tăng sẽ áp dụng nguyên tắc mích
tội tướng, như sẽ trình bày dưới đây.
5) Tội xứ sở:
Nghĩa đen, theo thuật
ngữ Hán dịch này, nó có nghĩa là thẩm tra bản chất tội phạm. Thuật ngữ này cũng
được dịch khác, là tội xứ tướng, hay cầu tội tự tánh.
Như vấn đề đã nêu, sẽ
có Tỳ kheo dựa trên nguyên tắc tự ngôn trị để chối tội. Tức là, khi được Tăng
xét hỏi, tìm cách trả lời quanh khiến không xác nhận đích thực có phạm hay không
phạm. Do đó, mích tội tướng là bắt buộc Tỳ kheo ấy phải xác nhận dứt khoát trước
những câu hỏi và những bằng chứng mà Tăng đưa ra. Chừng nào Tăng nhận thấy không
thể khiến Tỳ kheo bị cáo tự xác nhận tội phạm của mình, bấy giờ Tăng tuyên bố
tác pháp yết ma áp dụng nguyên tắc tội xứ sở. Với nguyên tắc này, mặc dù Tỳ kheo
bị cáo không nhất định là phạm ba la di hay tăng già bà thi sa, một số hành pháp
nặng gần bằng tội tăng già bà thi sa được áp dụng cho Tỳ kheo ấy. Tức là, Tỳ
kheo bị Tăng tác pháp tội xứ sở tỳ ni không được phép thực hiện một số việc mà
các Tỳ kheo khác thường làm. Như không được truyền giới cụ túc, không được nhận
là y chỉ sư cho người khác, không được độ người xuất gia, không được truyền giới
sa di, không được giáo thọ Tỳ kheo ni, và nếu Tăng có cử cũng không được phép
đi, không được cử tội Tỳ kheo khác, không được phủ quyết yết ma của Tăng, không
được thọ sám cho Tỳ kheo khác, không được phép cản Tăng thuyết giới. Nói tóm
lại, chỉ khác với Tỳ kheo phạm tăng già bà thi sa là mỗi nửa tháng Tăng thuyết
giới khỏi phải ra trình diện, còn lại thì đại bộ phận quyền lợi Tỳ kheo tạm thời
bị ngưng, cho đến khi nào có thái độ khuất phục, Tăng sẽ giải yết ma, bấy giờ
mới trở lại sinh hoạt bình thường. Đây là một hình thức mặc tẩn nhẹ, vì vẫn sống
chung với các Tỳ kheo khác, và vẫn dự nghe thuyết giới như các Tỳ kheo khác.
Trên đây là trường hợp
Tỳ kheo tìm cách nói quanh để chối tội, chứ không có thái độ chống đối thẩm
quyền xử lý của Tăng. Nếu Tỳ kheo phạm tội, lại ngoan cố, khi Tăng gọi đến để xử
thì không chịu đến. Hành vi ngoan cố, chống đối Tăng, ngạo mạn đối với Tăng, ấy
là trường hợp nghiêm trọng hơn sự việc nói quanh trước Tăng để chối tội. Đối với
Tỳ kheo ấy, Tăng không áp dụng các nguyên tắc diệt tránh nữa, mà áp dụng các
biện pháp trừng phạt. Biện này này là yết ma xả trí, như trường hợp Tỳ kheo có
ác kiến không chịu từ bỏ được nói trong điều 68 ba dật đề. Với Tỳ kheo bị Tăng
xả trí, Tỳ kheo nào ngủ chung, ăn chung, thuyết giới chung, yết ma chung, phạm
ba dật đề điều 69.
Thủ tục tác pháp mích
tội tướng hay tội xứ sở diễn ra như sau, điển hình trường hợp Tỳ kheo Tượng Lực.
Tỳ kheo yết ma sư bạch Tăng:
Đại đức Tăng, xin lắng
nghe. Tỳ kheo Tượng Lực ưa luận nghị, thường luận nghị với các ngoại đạo. Khi bị
dồn vào thế bí, lời nói trưóc sau tự tương mâu thuẫn. Rồi khi được hỏi giữa
Tăng, lời nói trước sau cũng tự tương mâu thuẫn, cố ý nói dối giữa Tăng. Tăng
nay áp dụng điều luật mích tội tướng cho Tỳ kheo Tượng Lực, với khuyến cáo rằng:
“Này Tượng Lực, thật là không ích lợi, không tốt đẹp cho ngươi, khi ngươi bị
người hỏi vặn thì nói trước sau tự tương mâu thuẫn. Rồi đến giữa Tăng khi được
hỏi ngươi cũng nói như vậy, cố ý vọng ngữ giữa Tăng. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng
nghe. Tỳ kheo Tượng Lực này ưa nghị luận, thường nghị luận với các ngoại đạo.
Khi bị dồn vào thế bí thì lơi nói trước sau tự tương mâu thuẫn. Rồi khi được hỏi
giữa Tăng, lời nói trước sau cũng tự tương mâu thuẫn, cố ý nói dối giữa Tăng.
Tăng nay áp dụng điều luật mích tội tướng cho Tỳ kheo Tượng Lực, với khuyến cáo
rằng: “…như văn bạch trên…” Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng nay áp dụng điều
luật mích tội tướng cho Tỳ kheo Tượng Lực thì im lặng. Ai không chấp thuận hyã
nói. Đây là yết ma lần thứ nhất.
Lần thứ hai, thứ ba,
cũng vậy.
Tăng đã chấp thuận áp
ụng đièu luật mích tội tướng cho Tỳ kheo Tượng Lực. Vì im lặng. Tôi ghi nhận như
vậy.
6) Đa nhân ngữ:
Thuật ngữ Hán dịch cũng
nói là đa nhân mích tội. Theo nghĩa đen của Hán mà hiểu, thì nguyên tắc
diệt tránh này căn cứ vào ý kiến của đa số. Nguyên tắc này được thực hiện bằng
cách bỏ phiếu. Do điểm này, nó được định nghĩa một cách rất tổng quát, căn cứ
theo thủ tục hành sự, là sự hòa giải bằng cách y trên đa số phiếu. Tuy nhiên,
định nghĩa này quá rộng rãi, không bao hàm các diễn tiến trong thủ tục thực hiện
nguyên tắc này. Do đó còn có một định nghĩa khác (Thập tụng, 146b): sở dĩ
được gọi như vậy, vì trong phương thức diệt tránh này lần lượt diễn ra trong
nhiều địa điểm, giữa nhiều nhóm Tăng, và cuối cùng là căn cứ đa số phiếu. Với
định nghĩa này, nguyên tắc đa nhân ngữ chỉ được áp dụng chừng nào các nỗ lực
giải quyết bằng cá nhân, rồi Tăng, tại trú xứ bất thành ; sau đó, chuyển sang
trú xứ gần để nhờ giải quyết cũng bất thành ; và cuối cùng, đến trú xứ thứ ba ;
các nỗ lực có tính cách cá thể cũng bất thành, bấy giờ mới áp dụng thủ tục đầu
phiếu.
Đầu phiếu, thuật ngữ
Hán gọi là hành xá la, được dịch là hành trù, tức thực hiện sự
phát thẻ và đếm thẻ. Thẻ được làm bằng hai loại, căn bản là thẻ màu trắng chỉ
phiếu thuận, và màu đen chỉ phiếu chống. Nhưng cũng có thể làm một loại dài và
một loại ngắn thay cho màu cũng được.
Về thể thức đầu phiếu,
có ba: hiển lộ, tức bỏ phiếu công khai, trong trường hợp người chủ trì
việc hành xá la biết chắc ý kiến như pháp sẽ nhiều hơn. Thứ hai phú tàng,
tức bỏ phiếu kín. Trong thể thức này, chỗ ngồi của các Tỳ kheo tham dự phải được
phân cách sao cho người nay không biết người kia đã rút thẻ nào, trắng hay đen.
Đây là thể thức được áp dụng khi mà người chủ trì việc hành xá la không nắm chắc
ý kiến như pháp và phi pháp, phía nào sẽ nhiều hơn. Nếu su khi đếm thẻ, thẻ như
pháp nhiều, kết quả được công bố ngay. Trái lại, khi người chủ trì nhận thấy số
phi pháp nhiều hơn, có thể tuyên bố cuộc đầu phiếu bất thành, vì có những thẻ
bất hợp lệ, và như vậy cuộc đầu phiếu phải hoãn lại, sẽ tái diễn vào một thời
điểm nào đó. tùy theo sự ước lượng thời gian mà người chủ trì thấy đủ để vận
động và thuyết phục cho ý kiến như pháp sẽ là đa số. Tùy theo đó mà quyết định
thời điểm đầu phiếu cho lần kế.
Thể thức thứ ba, nhĩ
ngữ, tức rỉ tai. Thể thức này được áp dụng khi người chủ trì nhận thấy trong
Tăng các hàng thượng tọa hay bổn sư của các đương sự có quan điểm phi pháp,
nhưng không biết chắc các Tỳ kheo khác có ý kiến như pháp nhiều hay ít hơn số
phi pháp. Do vậy, cần rỉ tai. Nghĩa là, khi phát thẻ cho một Tỳ kheo, người chủ
trì sẽ rỉ tai với người nhận thẻ rằng các Thượng tọa, Hòa thượng hay A xà lê của
vị này đã rút thẻ trắng.
Nói một cách tổng quát,
kết quả đầu phiếu hoàn toàn do người chủ trì hành xá la điều động theo điểm
riêng của mình. Do đó, chức năng và vai trò của vị này rất quan trọng. Người chủ
trì như vậy phải hội đủ năm đức tính, đó là: không thiên vị ai, không thù ghét
ai, không sợ hãi ai, không si mê và biết rõ thể thức tức là biết rõ thẻ nào được
coi hợp lệ và thẻ nào là bất hợp lệ. Tuy nhiên, trên tất cả, vị ấy phải là người
có uy tín về mọi mặt, về giới đức cũng như trí tuệ, có đủ khả năng quyết đoán
vấn đề thế nào là như pháp, thế nào là phi pháp.
Có 10 trường hợp hành
xá la phi pháp hay rút thẻ được coi là bất hợp lệ.
1.
Không biết rút thẻ. Chỉ người không biết rõ nội dung tranh chấp ; không
biết vấn đề như pháp hay phi pháp, đúng hay không đúng theo lời Phật dạy.
2.
Không đứng về phía những người tốt. Người tốt ở đây chỉ Tỳ kheo đa văn
quảng bác, thông hiểu pháp, thông hiểu luật, biết vấn đề nào như pháp, vấn đề
nào phi pháp, điều gì Phật thuyết, điều gì không phải.
3.
Dụng ý muốn cho Tỳ kheo phi pháp chiếm đa số. Nghĩa là, biết rằng trong
vấn đề tranh chấp này, Tỳ kheo như pháp đa số, do đó rút thẻ để cho Tỳ kheo phi
pháp đa số.
4.
Biết Tỳ kheo phi pháp nhiều. Biết rõ trong vấn đề này, phe phi pháp đa
số, nay mình rút thẻ để yểm trợ.
5.
Dụng ý muốn Tăng bị vỡ. Biết Tỳ kheo như pháp nhiều, nay mình rút thẻ
theo phía phi pháp để cho Tăng vì thế chia rẽ.
6.
Biết Tăng sẽ bị vỡ. Biết Tỳ kheo phi pháp chiếm đa số, rút thẻ theo phe
phi pháp, để khi tuyên bố kết quả, Tăng sẽ bị chia hai.
7.
Phi pháp. Đây chỉ Tăng yết ma phi pháp, như thay vì bạch nhị, Tăng sai
lại bạch tứ ; hay trong văn bạch nói lộn nội dung ; hoặc yết ma bị cản, v.v…
8.
Biệt chúng. Các Tỳ kheo trong cùng trú xứ đại giới không tập họp đầy đủ ;
người không đến dự không gởi dục như pháp.
9.
Tiểu sự. Vấn đề không nghiêm trọng, như đối với những tội phạm nhỏ nhặt.
Cho đến, nếu vấn đề có thể được giải quyết bởi một Tỳ kheo thông bác, đạo đức,
cũng không phải là trường hợp cần phải hành xá la. Chỉ khi nào, vấn đề mà các
hàng Thượng tọa thống bác, đạo đức đành thúc thủ mới cần thiết đầu phiếu.
10.
Bất như ở kiến. Tức bất đồng quan điểm, bất đồng xu hướng. Đây chỉ người
rút thẻ được coi là có những quan điểm, tư tưởng không phù hợp chánh pháp.
Đấy là các trường hợp
phi pháp mà người chủ trì hành xá la cần phải biết. Khi chọn được Tỳ kheo hội đủ
chuẩn, Tăng tác bạch nhị yết ma để sai. Tỳ kheo yết ma sư tác bạch:
Đại đức Tăng, xin lắng
nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay sai Tỳ kheo … hành xá la.
Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng, xin lắng
nghe. Tăng nay sai Tỳ kheo … hành xá la. Các trưởng lão nào chấp thuận Tăn sai
Tỳ kheo… hành xá la thì im lặng. Ai không chấp thuận thì hãy nói.
Tăng đã chấp thuận sai
Tỳ kheo… hành xá la. Vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
Tỳ kheo được Tăng sai
tự thân bưng thẻ đến trước từng Tỳ kheo một, và phải nói rõ: thẻ trắng chỉ cho
quan điểm nào, thẻ đen chỏ cho quan điểm nào, trong vấn đề tranh chấp. Người
nhận tự bố thẻ theo sự lựa chọn phù hợp với kiến giải của mình. Phát hết thẻ
xong, Tỳ kheo hành xá la trở lại thâu các thẻ đã phát, đem đến một chỗ khác, tự
mình đếm. Nếu kết quả tốt đẹp, nghĩa là Tỳ kheo như pháp đa số, Tỳ kheo hánh xá
la ra trước Tăng tuyên bố kết quả: Trong đây thẻ trắng đa số. Tránh sự này
như vậy đã được giải quyết. Nếu trái lại, số phi pháp đông hơn, ngược với dự
kiến của mình, vả lại, nếu đây là đầu phiếu công khi thì kết quả đã được tất cả
chứng kiến, không thể chối bỏ ; trong trường hợp này, khi đếm thẻ xong, Tỳ kheo
hành xá la đến trước Tăng đảnh lễ, rồi im lặng lui ra. Sau đó, nhờ một Tỳ kheo
đáng tin cậy đến trú xứ Tỳ kheo khác trình bày rằng: “Tại trú xứ kia, Tỳ kheo
phi pháp chiếm đa số. Lành thay, Trưởng lão hay đến đó, khiến cho các Tỳ kheo
như pháp trở thành đa số. Như vậy tránh sự sẽ được giải quyết, và công đức của
Trưởng lão thật to lớn”. Tỳ kheo được yêy cầu này tự thân đến trú xứ đang tranh
chấp để giải quyết, không được phép từ chối.
Trên đây là nói trường
hợp bắt thăm công khai, nhưng kết quả trái với dự kiến của người chủ trì, do đó
người này bất lực, nên phải tự động rút lui một cách im lặng, không tuyên bố gì
cả để Tăng tại trú xứ ấy không do kết quả đầu phiếu mà bị vỡ. Nếu người chủ trì
có dự kiến chính xác, thì kết quả tốt đẹp như ý. Hai trường hợp bắt thăm kín và
rỉ tai, như đã nói, cũng là thể thức được áp dụng theo dự kiến của người chủ
trì. Cả thảy đều kín cả, chỉ khác nhau là có hay không có sự rỉ tai. Vì thực
hiện kín, nên kết quả chỉ một mình Tỳ kheo chủ trì biết. Do đó, có thể tự ý việc
dẫn lý do có thẻ bất hợp lệ để bác bỏ kết quả. Vì kết quả không được tuyên bố,
quan điểm thị phi như vậy chưa được giải quyết theo đa số, nên người tác chủ
hành xá la có thể thực hiện nhiệm vụ lần nữa. Nếu kết quả đã được tuyên bố trước
Tăng, với đa số thắng phe phi pháp, phi luật, phi giáo huấn của Phật, như vậy có
nghĩa là Tăng ở đây chấp thuận quan điểm ấy, và điều này là nền tảng đưa đến sự
chia rẽ Tăng, không hẳn chỉ giới hạn trong phạm vi một trú xứ ấy mà còn có ảnh
hưởng lên đại đa số Tăng ở trú xứ khác nữa.
7) Như thảo phú
địa:
Nghĩa đen của thuật ngữ
này chỉ sự rải cỏ che lấp đất, bất kể là bùn sình hay cát sỏi, bất kể là đen hay
trắng. Nó cũng được dịch là như thảo bố địa, hay như thảo yểm địa.
Ý nghĩa giống nhau.
Căn bản của nguyên tắc
này là sự sám hôi tập thể, hay phổ đồng sám hối. Nhưng trong áp dụng vào các
tránh sự, nguyên tắc này bao gồm hai phương diện. Phương diện thứ nhất, với ý
nghĩa là sám hối. Phương diện thứ hai, với ý nghĩa là hòa giải.
Nói là sám hối tập thể
vì phạm tội tập thể. Tức toàn thể Tăng trong trú xứ ấy phạm tội hết, không còn
sót lại một Tỳ kheo thanh tịnh nào để làm tác chủ thọ sám. Trong cách sám hối
tập thể này, chỉ nêu tổng chung rằng: “Chúng ta đều phạm nhiều tội”, chứ không
nêu rõ tội danh của từng thiên và từng người, giống như sự rải cỏ che lấp bất cứ
bùn sình cát sỏi mà không phân biệt thứ nào cả, nhất loạt khỏa lấp hết. Tuy
nhiên, các tội phạm được tổng chung trong phép sám hối này cũng chỉ bao gồm các
tội từ thiên ba dật đề trở xuống. Các Tỳ kheo nào phạm tăng tàn, thâu lan giá,
phải tác pháp riêng, theo luật định về thể thức sám hối của các tội này. Nếu
phạm ba la di, bị diệt tẩn chứ không cho sám hối.
Về phương diện thứ hai,
khi toàn thể Tăng trong một trú xứ chia thành hai phe kình chống nhau, nếu không
còn biện pháp giải quyết nào thỏa mãn, thì biện pháp cuối cùng là tất cả đồng ý
dẹp bỏ vấn đề, khỏa lấp hết, không phân biệt trắng đen giải quyết, cũng không
truy cứu nguồn gốc phát khởi tránh sự nữa. Đây là ý nghĩa hòa giải.
Tuy có hai phương diện
với hai ý nghĩa của vấn đề, nhưng căn bản vẫn là sự sám hối tập thể. Tùy theo
trường hợp, hoặc sám hối vì tập thể đồng phạm tội, hoặc sám hối để chấm dứt
tránh chấp, thể thức tác pháp có một số chi tiết hơi khác nhau. Dưới đây nêu
điển hình trường hợp sám hối để chấm dứt tranh chấp.
Cố nhiên, tại một trú
xứ tranh chấp như vậy, trong đó cũng có người nhận định đúng, chứ không phải
hoàn toàn tất cả đều sai. Nhưng người có nhận định đúng, có trí tuệ cũng đành
bất lực. Tuy bất lực trong khả năng giải quyết thị phi, nhưng nỗ lực tái lập
sinh mệnh của Tăng là sứ mệnh cao cả. Do đó, những vị này khi ý thức được tính
cách nghiêm trọng của vấn đề, sẽ đứng ra đề nghị một biện pháp hòa giải cuối
cùng. Vị này sẽ trình bày trước Tăng rằng:
Thưa các trưởng lão.
Chúng ta tranh chấp vấn đề này đã quá nhiều và quá lâu rồi. Vì sự tranh chấp ấy,
khiến chúng ta có những hành vi không phù hợp sa môn pháp, nói năng không chừng
mực, vào ra đi đứng không thuận oai nghi.
Nếu chúng ta truy cứu
vấn đề này, tội lỗi sẽ càng thêm sâu dày. Sự tranh chấp không được diệt trừ như
pháp, như tỳ ni, như giáo huấn của Phật, khiến các Tỳ kheo không thể sống trong
an lạc. Nếu các trưởng lão chấp thuận, tôi nay sẽ vì các trưởng lão tác pháp như
thảo phú địa để sám hối tội này.
Đấy là lời tác bạch đề
nghị của Tỳ kheo thủ lãnh của một trong hai phe nhóm đang tranh chấp. Đối lại,
trong phe kia, một Tỳ kheo thủ lãnh hoặc được đề cử đại diện đứng ra tác bạch đề
nghị phổ đồng sám hối. Nội dung tác bạch cũng như văn dẫn trên. Sau khi cả hai
phía đều đồng ý tác pháp sám hối như thảo phú địa, cả hai đồng cử một Tỳ kheo
làm yết ma sư. Vị này tác pháp yết ma đơn bạch:
Đại đức Tăng, xin lắng
nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay đối với sự tranh chấp này
tác pháp sám hối như thảo phú địa. Đây là lời tác bạch.
Tiếp theo đó, vị thủ
lãnh hay thượng tọa trong một phe đại diện cho các Tỳ kheo phe nhóm mình bước ra
đảnh lễ Tăng, tác pháp sám hối với lời tác bạch như sau:
Tôi nay do bởi sự tranh
chấp mà phạm các tội, trừ các trọng tội và yết ma ngăn không đến nhà bạch y. Nếu
các trưởng lão chấp thuận, tôi nay vì các trưởng lão và vì bản thân sám hối theo
pháp như thảo phú địa.
Đại diện của phe còn
lại cũng là và nói như thế.
Tác pháp sám hối trên
đây là theo Tứ phần (922c).
Văn bạch các bộ khác
đương nhiên cũng khác, nhưng đấy cũng là do kỹ thuật hành văn. Điều đáng nói là
tất cả các bộ đều nêu điển hình sám hối tập thể vì tranh chấp mà gây tội, chứ
không nêu điển hình sám hối vì tập thể phạm tội do các nguyên nhân khác. Nhưng,
bản chất của như thảo phú địa là sám hối, và thể thức là tập thể phổ đồng sám
hối, cho nên trong thực tế nó cũng còn được áp dụng cho các trường hợp tập thể
phạm tội vì những nguyên nhân khác ngoài nguyên nhân tranh chấp. Dù vậy, duyên
khởi của nguyên tắc này là do nguyên nhân tranh chấp, nên các bộ chỉ nêu điển
hình ấy mà thôi. Các trường hợp áp dụng khác phỏng theo đó mà thực hiện.
Nói tóm lại, sau khi đã
tác pháp phổ đồng sám hối, ngoại trừ các tội và yết ma đã nói, còn lại các vi
phạm khác trong thời gian tranh chấp từ nay trở đi không Tỳ kheo nào được phép
nhắc nhở đến nữa, để khơi lại đấu tranh. Ai cố ý khơi lại, phạm ba dật đề, Tăng
sẽ như pháp xử trị.
IV. BẢY DIỆT TRÁNH VÀ BỐN TRÁNH SỰ:
CÁC TRƯỜNG HỢP ÁP DỤNG
Trên đây đã giải thích
chi tiết nội dung của bảy pháp diệt tránh. Sau đây sẽ đề cập các trường hợp áp
dụng.
Trước hết, cần phải
hiểu rõ bản chất của sự tranh chấp. Nói một cách đại cương, thì mặc dù các tránh
sự khởi lên cho các Tỳ kheo là vô số, nhưng có thể tóm thâu vào hai vấn đề lớn.
Đó là phá giới và phá kiến. Phá giới là những vấn đề liên hệ việc trì luật.
Tranh luận có thể xảy ra, khi các Tỳ kheo giải thích một điều luật trong giới
bổn để căn cứ theo đó mà xác định một Tỳ kheo có phạm giới hay không. Hoặc giả,
cũng có khi tranh luận về bằng chứng buộc tội là xác thực hay không xác thực. Sự
việc được dẫn khởi có thể chỉ thuộc phạm vi cá nhân, nhưng cá nhân ấy bất phục
nên phải đưa ra tập thể Tăng. Cũng có nhiều trường hợp, chỉ từ một cá nhân ấy mà
cả tập thể bị lôi cuốn vào, cuối cùng chia thành hai phe nhóm đối lập. Ngoài ra,
phá giới còn có thể hiểu là một điều luật mới được đề nghị thêm vào giới bổn Tỳ
kheo, hay một điều luật trong giới bổn cần được bỏ đi, cho phù hợp với sinh hoạt
thực tế. Đấy cũng là nguyên nhân tranh luận và tranh chấp.
Thứ đến là phá kiến.
Tức có chủ trương, quan điểm trái ngược với truyền thống giáo lý xưa nay. Để bảo
vệ chánh kiến, các Tỳ kheo cần tranh luận để làm sáng tỏ ý nghĩa. Đấy cũng là
nguyên nhân đấu tranh.
Tuy nhiên, hai vấn đề
vừa nêu vì bao quát một phạm vi quá rộng rãi khiến cho sự áp dụng bảy diệt tránh
nhiều khi không được chính xác. Do đó, chính Đức Thích Tôn đã phân loại một cách
có hệ thống cho các đề tài tranh chấp. Phân loại này có bốn. Gọi là bốn tránh
sự. Sự tức là tránh, như đã nói trong mục ý nghĩa. Nhưng cũng theo
nghĩa của chữ Hán, tránh là đấu tranh, là tranh chấp nhau bằng lời. Sự
là tức sự việc rắc rối, như ta thường nói: đa sự, sunh sự, gây sự… Bốn tránh
sự, theo dịch ngữ của Tứ phần, gồm ngôn tránh, mích tránh, phạm tránh và
sự tránh.
I. Ngôn tránh:
Tránh
sự thuộc về lời nói. Đây là hiểu theo nghĩa đen qua dịch ngữ của Tứ phần
và Ngũ phần. Nhưng chính xác phải hiểu, nó chỉ sự tranh chấp xảy ra do
tranh luận, cãi cọ nhau về một vấn đề. Do nghĩa này, Thập tụng dịch nó là
đấu tránh sự. Trong Luật nhiếp, nó được gọi là bình luận tránh sự.
Nói chung, bất cứ sự
tranh chấp nào cũng bao gồm các tranh luận. Do đó, để nhận thức chúnh xác trường
hợp luận đề cập ở đây, từ ngữ tránh sự cần được hiểu theo nghĩa rộng rãi.
Đó là việc phiền phức, nhiểu loạn, xảy ra giữa các Tỳ kheo, cần phải giải quyết.
Như vậy, có trường hợp tranh luận vì bất đồng ý kiến nhưng không nhất thiết đưa
đến hậu quả rắc rối tức tranh chấp. Thí dụ, sự cãi cọ giữa cha con, lời qua
tiếng lại giữa anh em, không được coi là tránh sự theo nghĩa Luật tạng. Cho nên,
như sự vu khống của một Tỳ kheo đối với một Tỳ kheo thanh tịnh khác, hoặc sự trả
lời loanh quanh của một Tỳ kheo phạm tội bị Tăng xét hỏi ; đấy đích thực là
tránh sự, nhưng không nhất thiết là một cuộc tranh chấp.
Vậy thì, tranh luận như
thế nào mới được gọi là tránh sự ? Luật các bộ nêu 18 đề tài, như đã được thống
kê trong lời giải điều 10 của chương Tăng già bà thi sa ở trước. Các đề tài này
liên hệ đến giới luật, giáo nghĩa của Phật. Khi thảo luận hay bình luận chúng,
các quan điểm bất đồng, dị biệt có thể xảy ra giữa các Tỳ kheo, và do đó đưa đến
tranh chấp, gay thành tránh sự.
Để dập tắt tránh sự
này, có hai nguyên tắc tỳ ni cần được áp dụng: hiện tiền tỳ ni và đa nhân ngữ.
Theo diễn tiến, trước hết cần giải quyết bằng hiện tiền tỳ ni. Nếu sự giải quyết
này cuối cùng bất thành, phải áp dụng đa nhân ngữ. Thể thức tiến hành các nguyên
tắc này đã được giải thích, nhưng trong trường hợp áp dụng ở đây các bộ luật nêu
nhiều thủ tục xem ra rắc rối hơn nhiều.
Khi tránh sự tranh luận
khởi lên giữa các Tỳ kheo, nguyên tắc áp dụng đầu tiên là hiện tiền tỳ ni.
Nguyên tắc này được tiến hành qua ba giai đoạn, sẽ được nói chi tiết dưới đây.
Giai đoạn thứ nhất.
Giai đoạn này được thực
hiện trong phạm vi trú xứ mà tránh sự phát khởi. Trong đó, nó bao gồm hai cấp,
cá thể và Tăng.
Đầu tiên là cấp cá thể.
Trong một cuộc tranh
chấp, đương nhiên có hai phe, bất kể nhân số tham dự nhiều ít. Bấy giờ, trong
Tăng có một Tỳ kheo, có uy tín về phẩm chất trí tuệ cũng như tư cách đạo đức,
không can sự vào phe nào cả. Vị ấy nên tự động đứng ra làm trung gian hòa giải.
Thập tụng gọi Tỳ kheo hòa giải này là thát lại tra ; Tứ phần
gọi là bình dương nhân. Thát lại tra phải là người hoàn toàn vô tư
đối với cả hai phe, và để giữ thái độ vô tư này trong thời gian phân xử, vị ấy
không được phép tiếp xúc riêng với bất cứ một ai trong hai phe ; không được hẹn
đi chung đường, v.v… Nếu đã có giao hẹn gì trước, nay phải hủy bỏ. Thái độ này
được gọi là thân thiện và ngữ thiện. Căn cứ vào uy tín cá nhân, và với thái độ
vô tư, vị này sẽ phán quyết theo quan điểm riêng của mình, rằng trong hai phe ai
phải ai quấy.
Nếu Tỳ kheo thát lại
tra bất lực, vì sự phán quyết và lời giải thích không được một trong hai phe
thỏa mãn ; vị này có bổn phận đưa sự vụ ra trước Tăng để yêu cầu giải quyết. Nếu
phán quyết của Tăng cũng không được một trong hai phe chấp nhận, sự vụ cần đưa
sang trú xứ Tăng gần nhất để nhờ giải quyết. Đây là thủ tục đơn giản của Tứ
phần và Ngũ phần. Trong Thập tụng, thủ tục được trình bày phức
tạp hơn. Trong đó, khi Tỳ kheo thát lại tra bất lực, chuyển sự vụ lên Tăng. Nếu
Tăng không thể trực tiếp cho thỏa mãn hai phe, thì nên lập một ủy ban đoán sự
gồm hai Tỳ kheo, gọi là ô hồi cưu la. Tỳ kheo được chọn phải là vị chí
công vô tư, có đủ phẩm chất trí tuệ và đạo đức. Sau khi được Tăng yết ma sai,
hai vị này họp riêng, nghiên cứu vấn đề của hai phe, rồi đưa ra kết luận phán
quyết. Nếu sự phán quyết này cũng không được thỏa mãn, Tăng yết ma sai hai Tỳ
kheo khác để lập ban đoán sự thứ hai. Ban đoán sự này cũng làm việc như ban đoán
sự thứ nhất. Và ban ô hồi cưu la thứ nhất lần này cũng bất lực, sự vụ tranh chấp
sẽ được chuyển sang một trú xứ Tăng ở gần đó.
Tất cả diễn tiến trên
đều áp dụng nguyên tắc hiện tiền tỳ ni, ở vào giai đoạn một, chấm dứt với sự bất
lực của Tăng tại trú xứ phát khởi tranh chấp.
Giai đoạn thứ hai.
Giai đoạn này cũng vẫn
áp dụng nguyên tắc hiện tiền tỳ ni, nhưng được thực hiện tại trú xứ gần đó. Tại
đây, sự vụ trước hết vẫn được giải quyết bằng cấp cá thể, và người đứng ra giải
quyết cũng giống như trong giai đoạn thứ nhất, tức vị mà Thập tụng gọi là
thát lại tra. Nếu cấp cá thể giải quyết không xong, cũng lại chuyển lên Tăng.
Ở đây, trong Thập
tụng, diễn tiến cũng như trước ; lặp lại tất cả thủ tục y như giai đoạn thứ
nhất đã thực hiện tại trú xứ tranh chấp. Trong Ngũ phần, về căn bản, cũng
như giai đoạn thứ nhất, nhưng ở đây có sự triển khai các điểm căn bản ấy.
Theo đây, sau khi được
Tỳ kheo từ trú xứ tranh chấp đến thỉnh cầu giải quyết sự vụ, Tăng sẽ hội họp để
thảo luận. Trong khi thảo luận, Tăng cần bảo Tỳ kheo ấy tránh đi chỗ khác, nếu
vị này là cấp hạ tọa. Nếu là cấp thượng tọa, Tăng bảo ngồi ở đấy, rồi đi qua chỗ
khác để nghị sự. Nếu thấy vấn đề có thể giải quyết được, sẽ trở lại báo cho biết
rằng Tăng ở đây sẽ thụ lý sự vụ, và yêu cầu Tỳ kheo kia trình bày chi tiết nội
dung tranh chấp, cũng như các diễn tiến. Sau khi nghe trình bày, Tăng có thể đưa
ra phán quyết. Nhưng nếu trong Tăng có hai quan điểm khác nhau về vấn đề tranh
chấp, Tăng sẽ khiến Tỳ kheo đương sự ấy tùy ý chọn tám người, mỗi ý kiến bốn
người. Đây gọi là ủy ban đoán sự tám người. Tiếp theo đó, Tăng yết ma sai các Tỳ
kheo này làm người đoán sự. Yết ma chia làm ba lần. Lần thứ nhất và lần thứ hai,
mỗi lần sai ba vị ; lần thứ ba, hai vị. Ban đoán sự sẽ họp riêng, nghiên cứu vấn
đề để đưa ra kết luận. Trong khi nghiên cứu, nếu có Tỳ kheo dù được Tăng sai
nhưng tỏ ra không đủ kiến thức, về pháp, về luật ; hoặc có Tỳ kheo tinh thông
pháp luật nhưng có thái độ quấy phá, hoặc xuyên tạc ý nghĩa, v.v…, các Tỳ kheo
này cần được đơn bạch yết ma loại khỏi ủy ban. Sau cùng, nếu kết luận mà ủy ban
này đưa ra cũng không thỏa mãn các Tỳ kheo tranh chấp, sự vụ lại được chuyển đến
một trú xứ khác nữa.
Trình bày của Tứ
phần về giai đoạn này, đại thể cũng giống như Ngũ phần vừa dẫn trên.
Nhưng về ban đoán sự, Tứ phần không nói rõ bao nhiêu người, và do chính
Tăng lựa chọn lấy trong số các Tỳ kheo có trí tuệ, Tứ phần cũng nói rõ
rằng các vị này hội họp riêng tại một chỗ để nghiên cứu vấn đề, vì thảo luận
ngay giữa Tăng có thể do đây mà khởi lên tranh luận và tranh chấp ngay trong trú
xứ của mình. Những người được Tăng chọn phải hội đủ 10 đức tính: 1) Trì giới
trọn vẹn, 2) Thông bác, 3) Thấu suốt hai bộ luật, 4) Hiểu tường tận ý nghĩa và
cả sự áp dụng thực tế rộng rãi của chúng, 5) Ngôn từ thiện xảo, 6) Có khả năng
dập tắt tránh sự ấy, 7) Không thiên vị, 8) Không hay giận hờn, 9) Không hay mù
quán, và 10) Không sợ hãi ai. Một điểm khác với Ngũ phần khá quan trọng,
là trong Tứ phần, ban đoán sự này không do bạch nhị yết ma Tăng sai, mà
là đơn bạch để thiết lập. Văn bạch Tứ phần nói:
Đại đức Tăng, xin lắng
nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay chấp thuận, Tăng tập họp
riêng các Tỳ kheo có trí tuệ để bình đoán tránh sự. Đây là lời tác bạch.
Và rồi, khi thảo luận,
trong số các Tỳ kheo được tập hợp riêng nếu có vị nào tỏ ra bất xứng, cần phải
đơn bạch loại trừ. Văn bạch như sau:
Đại đức Tăng, xin lắng
nghe. Tỳ kheo
(nói rõ sự việc).
Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay loại trừ Tỳ kheo này ra khỏi đây.
Đây là lời tác bạch.
Ủy ban đoán sự nếu
không giải quyết xong, vấn đề chuyển sang giai đoạn ba.
Giai đoạn thứ ba.
Đến đây là trú xứ thứ
ba. Trú xứ này bất kể xa gần đối với trú xứ tranh chấp, nhưng điều quan trọng là
tại đó có một số Tỳ kheo rất nổi tiếng là uyên bác về luật, quán thông Tam tạng.
Sự việc trước hết được trình bày với từ một đến ba Tỳ kheo có uy danh ấy, để yêu
cầu giải quyết. Sự giải quyết này nếu được thỏa mãn, gọi là tránh sự được dập
tắt theo hiện tiền tỳ ni. Nhưng nếu các vị ấy cũng không giải quyết được, bấy
giờ mới áp dụng nguyên tắc đa nhân ngữ.
Mặc dù mà nói, sự vụ
được chuyển sang trú xứ thứ ba, nhưng ai có trách nhiệm chuyển, và khi được Tăng
ở trú xứ thứ ba đảm nhận thì địa điểm giải quyết sẽ ở đâu ? Tứ phần và
Ngũ phần đều không nói rõ. Riêng về địa điểm, văn của Ngũ phần có nói
hơi tối, nên khiến có thể hiểu là nó diễn ra ngay tại trú xứ thứ ba.
Tuy nhiên, Thập tụng
nói rõ, nếu Tăng trú xứ gần giải quyết không xong, thì chính Tăng này làm
yết ma sai Tỳ kheo làm vị truyền sự nhân chuyển sự vụ lên trú xứ thứ ba. Tại trú
xứ này, Tăng sẽ chọ một Tỳ kheo có đủ uy tín và khả năng để quyết đoán vấn đề
đứng ra thụ lý. Vì ở đây còn có vấn đề lai vãng, do đó Tăng cũng phải xét hoàn
cảnh thực tế, xem Tỳ kheo này có đủ khả năng đi đến trú xứ tranh chấp hay không.
Và Tăng cũng cần yêu cầu vị ấy ấn định thời hạn sẽ giải quyết xong sự vụ trong
bao lâu, thời hạn này kể từ ngày yết ma Tăng sai cho đến khi trở về trú xứ của
mình, tính luôn cả thời gian lộ trình. Nhưng tối đa là chín tháng. Đấy là thời
gian kể từ sau ngày tự tứ năm này cho đến trước ngày thọ an cư năm tới, nếu Tỳ
kheo ấy khởi hành ngay sau ngày tự tứ. Hoặc Tỳ kheo này đang an cứ và phải rời
trú xứ an cư trước ngày tự tứ để giải quyết tránh sự, thì thời hạn tối đa cũng
chỉ chín tháng, vì là thời gian chuẩn.
Thập tụng
cũng nói thêm rằng, sở
dĩ Tăng phải thỏa mãn các điều kiện tiên quyết này đối với Tỳ kheo sẽ được đề
cử, vì năm lý do, hay năm sự khó khăn trong sứ mạng: 1. Cường lực, sự ngoan cố
của Tỳ kheo tranh chấp ; 2. Cường lực, thế lực của các Tỳ kheo ấy ; 3. Hung bạo,
bản tính hung hăng của họ ; 4. Vãng lai, vì lộ trình giữa hai trú xứ có thể xa
cách nhau ; và 5. Thận trọng, vì phải đề phòng nếu phán đoán không cân nhắc thực
tế sẽ đưa đến chỗ làm cho Tăng tan vỡ. Như thế, khi chọn được người, và vị này
chấp thuận, Tăng tác pháp yết ma sai lập vị ấy làm người chủ trì hành xá la, để
đi đến trú xứ tranh chấp tổ chức đầu phiếu.
Như đã nói, nguyên tắc
đa ngữ nhân được thực hiện bằng các thể thức hành xá la. Nhưng nguyên tắc này
không thể áp dụng đơn phương, mà phải đi kèm với hiện tiền tỳ ni. Để áp dụng
được hai nguyên tắc cùng lượt, do đó việc hành xá la phải được tổ chức ngay tại
trú xứ tranh chấp, trong đó có cả hai phe tranh chấp đều tham dự hành xá la. Các
thể thức hành xá la như đã trình bày chi tiết đoạn trước.
Nói tóm lại, đối với
tránh sự tranh luận, nguyên tắc cơ bản phải được áp dụng là hiện tiền tỳ ni. Chỉ
khi nào, vạn bất đắc dĩ mới áp dụng song phương, vừa hiện tiền vừa đa nhân ngữ.
Sự thận trọng này cần phải có, vì nếu áp dụng đến cả ba đa nhân ngữ mà bất
thành, Tăng có thể bị đe dọa an vỡ.
2) Mích tránh:
Theo nghĩa đen Hán của
thuật ngữ này, đây là tránh sự do tìm tòi. Chính xác hơn, nó là sự bới lông tìm
vết ; căn cứ những dữ kiện vụn vặt để quy thành chuyện lớn. Đó là thuật ngữ theo
cách hiểu của Tứ phần. Trong Ngũ phần, nó được gọi là giáo giới
tránh sự. Thuật ngữ này không chính xác, nếu hiểu theo nghĩa hẹp của nó.
Căn bản bản và Luật nhiếp gọi nó là phi ngôn tránh sự, theo
nghĩa, đó là lời nói không đúng sự thật. Cũng tương tợ ý nghĩa này, Thập tụng
gọi nó là vô căn sự, tức tránh sự không căn cứ. Căn ở đây chỉ
các bằng chứng buộc tội, tức do thấy, do nghe, và do nghi ngờ. Đây là dịch ý,
lấy duyên khởi từ việc hai Tỳ kheo Từ và Địa vu khống trưởng lão Ma La Tử bằng
tội ba la di không căn cứ.
Xét trong hai thuật ngữ
của Ngũ phần và Căn bản,rõ ràng chúng cùng một gốc tiếng Phạn,
nhưng do các dịch giả đọc khác nhau về một nguyên âm trong đó, hoặc ngắn
hoặc dài, nên cso sự khác biệt ý nghĩa như thế.
Tổng hợp các ý nghĩa
qua các dịch thuật ngữ khác nhau, ở đây có thể nói, tránh sự này do bởi một Tỳ
kheo cử tội một Tỳ kheo khác, không nhất thiết là vu khống, nhưng cũng không
đúng hẳn sự thực. Cử tội tức tố giác trước Tăng về hành vi của một Tỳ kheo nào
đó, với kết luận là phạm một trong các học xứ của giới bổn Tỳ kheo. Sự cử tội có
khi vì ác ý, từ một chi tiết vụn vặt được suy diễn thành trọng đại để xuyên tạc
và vu khống, như trường hợp Từ, Địa đối với trưởng lão Ma La Tử. Cũng có khi cử
tội với thiện ý, nhưng vì nhận định sai dữ kiện. Đấy là nêu điển hình tổng quát
về các trường hợp cử tội khác nhau về phía nguyên cáo. Về phía bị cáo, cũng có
nhiều trường hợp khác nhau vì dự kiện thực tế. Hoặc Tỳ kheo bị cáo chứng tỏ là
người thanh tịnh, hoàn toàn vô tội. Hoặc quả có phạm, trừ tội ba la di, nhưng đã
sám hối như pháp. Hoặc có phạm, nhưng đấy chỉ là hành vi trong lúc điên cuồng
tâm loạn. Cũng có trường hợp thực sự phạm, chưa sám hối, nhưng khi được Tăng xét
hỏi lại chối quanh. Tránh sự như thế không nhất thiết là tranh chấp. Đấy có thể
chỉ là sự phiền nhiễu đối với một Tỳ kheo, khi tự thân vốn thanh tịnh nhưng
thường xuyên bị cật vấn đề điều mà mình đã chứng tỏ là thanh tịnh. Hoặc cũng có
thể chỉ là sự phiền nhiễu đối với Tăng, khi xét hỏi một Tỳ kheo bị cử tội mà vị
này lại nói loanh quanh. Tuy vậy, trong một mức độ nào đó, tránh sự này có thể
đưa đến tranh chấp, nếu Tỳ kheo đương sự lôi cuốn về phía mình một số thân hữu
đồng bạn. Cho đến mức độ ấy thì sẽ có sự tranh chấp xảy ra giữa hai phe, chỉ
trích lẫn nhau, mạ lỵ nhau, và thậm chỉ có thể ẩu đả nhau nữa. Tuy nhiên, dù
tranh chấp xảy ra đến mức độ trầm trọng, tránh sự thuộc phạm vi này vẫn không
được giải quyết bằng cách áp dụng các nguyên tắc như đa nhân ngữ, hay như thảo
phú địa. Bởi vì, chỉ cần xác nhận Tỳ kheo đương sự thanh tịnh hay không thanh
tịnh, căn cứ theo các điều khoản ghi trong giới bổn, là có thể dập tắt. Nhưng
nếu khi giải thích điều khoản ấy, tranh luận khởi lên, thì bấy giờ mích tránh
trở thành ngôn tránh. Tuy vậy, theo tinh thần của Luật tạng, luật gia của các bộ
tin rằng những điều khoản của giới bổn có ý nghĩa rất minh xác, cụ thể, không ai
có thể hiểu khác đi được, trừ phi những kẻ vô trí hay cố tình xuyên tạc. Nếu
vậy, mích tránh khó có cơ hội trở thành ngôn tránh.
Mích tránh được dập tắt
với bốn nguyên tắc: hiện tiền tỳ ni, ức niệm tỳ ni, bất si tỳ ni và tội xứ tỳ
ni. Ý nghĩa của các nguyên tắc này đã được dẫn giải chi tiết ở trên.
Bốn nguyên tắc này
không bao giờ được áp dụng cùng lúc. Thí dụ, nếu áp dụng ức niệm tỳ ni, vì Tỳ
kheo đương sự hoàn toàn thanh tịnh, thì không thể áp dụng đồng thời bất si tỳ ni
và tội xứ sở. Lại cũng không thể áp dụng sai trường hợp ; nghĩa là đối với Tỳ
kheo nói quanh thì nhất định phái áp dụng tội xứ sở, chứ không thể làm khác đi,
áp dụng ức niệm hay bất si. Tuy nhiên, bất cứ trong trường hợp phải áp dụng
nguyên tắc nào, thì hiện tiền tỳ ni ở đây gồm ba yếu tố: pháp hiện tiền, tỳ ni
hiện tiền và nhân hiện tiền. Hoặc thêm hai yếu tố nữa: Tăng hiện tiền và giới
hiện tiền, nếu cần tác pháp yết ma.
Nói tóm lại, bốn nguyên
tắc được áp dụng để dập tắt mích tránh áp dụng song đôi như nhau. Với Tỳ kheo
thanh tịnh nhưng bị cử tội, áp dụng hiện tiền và ức niệm. Với Tỳ kheo gây tội do
mất trí: hiện tiền và bất si. Với Tỳ kheo có tội nhưng ngoan cố nói quanh, nói
dối: hiện tiền và tội xứ sở.
3)
Phạm tránh:
Tránh sự
do phạm tội. Ở đây chỉ sự vi phạm các học xứ thuộc năm thiên trong giới bổn.
Trong đó, trừ tội phạm ba la di không thể sám hối, còn lại tùy theo nặng nhẹ
được Tăng xử trị. Tỳ kheo nào bao che tội lỗi của vị khác, cũng là một vi phạm
cần được xử trị. Như vậy, tránh sự này cũng không có nghĩa là sự tranh chấp. Đơn
giản, đó là sự việc không tốt đẹp đã xảy ra, cần dập tắt, để duy trì sinh mạng
thanh tịnh của Tăng.
Xét về
phía bị can, có hai trường hợp phạm tội: cá nhân và tập thể. Một Tỳ kheo phạm
tội, tự mình phát lộ trước một hoặc hai hoặc ba Tỳ kheo thanh tịnh để sám hối,
hoặc cần được phát lộ trước Tăng để sám hối. Trường hợp như vậy thuộc phạm vi cá
nhân. Hoặc giả, Tỳ kheo ấy cố ý che giấu, nhưng Tỳ kheo khác phát hiện, và vị
này bèn cử tội. Căn cứ theo luật, người phạm tội được xử trị. Như vậy cũng trong
phạm vi cá nhân. Phạm tránh thuộc cá nhân, được dập tắt theo nguyên tắc tự ngôn
trị kết hợp với hiện tiền tỳ ni. Các nguyên tắc cử tội, các thể thức sám hối như
pháp tùy theo tội thuộc thiên tụ nào, sẽ được dẫn giải chi tiết trong phần sau,
sám hối và trị phạt.
Ngoài
phạm tránh thuộc cá nhân, còn có phạm tránh thuộc tập thể. Nghĩa là tất cả Tăng
đồng phạm cả. Theo nguyên tắc, một Tỳ kheo phạm tội khi sám hối phải đối diện
trước một hay nhiều Tỳ kheo thanh tịnh. Nhưng nay, trong toàn thể Tăng, không có
Tỳ kheo nào thanh tịnh cả, tất nhiên không có ai làm người thọ sám. Có nhiều
trường hợp khiến Tăng trở thành tập thể phạm tội. Trong đó, trường hợp đặc biệt
là do tranh chấp. Trong thời gian tranh chấp, tuy chưa đi đến tình trạng tạo
thành hai nhóm Tỳ kheo yết ma riêng, thuyết giới riêng trong cùng một trú xứ để
cho bản thể của Tăng bị vỡ, nhưng rõ ràng là chia thành hai phe. Nói theo tâm lý
chung, khi tranh chấp, không ai nhận mình có lỗi. Như vậy, khi các Tỳ kheo tranh
chấp nhau, dù có những hành vi và cử chỉ phạm luật, cố nhiên không ai khứng nhận
mình có tội để mà sám hối. Mặt khác, nói theo ý nghĩa trì luật, khi Tăng chia
thành hai nhóm tranh chấp, nếu nhóm này tác pháp yết ma, nhóm kia sẽ từ chối, và
như vậy yết ma bất thành vì biệt chúng. Tăng không tác pháp yết ma được, sẽ
không có việc thuyết giới theo định kỳ nửa tháng, sẽ không có an cư, v.v…, nghĩa
là, các phận sự thường hành của Tỳ kheo mà luật quy định không được chấp hành
đầy đủ. Đấy đại bộ phận là các tội thuộc thiên ba dật đề và đột kiết la. Mặt
khác, nếu Tăng không tác pháp yết ma được, các Tỳ kheo phạm tội sẽ không được xử
trị. Như thế, lần lượt toàn thể Tăng trở thành một tập thể phạm tội.
Ngoài
trường hợp phạm tội tập thể đặc biệt do tranh chấp, dĩ nhiên còn có những trường
hợp khác. Thí dụ, một Tỳ kheo phạm tội không phát lộ. Tỳ kheo biết, cố ý bao
che. Lần lượt hết vị này đến vị khác phạm tội. Cho đến các vị trì luật khá vững,
cuối cùng cũng phạm tội, và vị này dù muốn sám hối cũng không thể tìm đâu ra
trong trú xứ mình một Tỳ kheo thanh tịnh để tác chủ thọ sám, và nhất là không đủ
túc số Tăng để tác pháp sám hối.
Trong
tất cả trường hợp phạm tội tập thể điển hình vừa nêu, nếu cần sám hối để phục
hồi sinh mạng thanh tịnh của Tăng, có thể một Tỳ kheo được đề cử đi đến trú xứ
gần đấy để sám hối. Sau khi sám hối như pháp, vị này trở lại là Tỳ kheo thanh
tịnh, có thể tác chủ thọ sám cho các Tỳ kheo khác. Để túc số cho sám pháp, trước
hết tác pháp đối thuyết cho các Tỳ kheo phạm tội đột kiét la. Với túc số tối
thiểu, lần lượt sám các tội khác, cho đến tội tăng tàng. Đây cũng là trường hợp
dập tắt phạm tránh bằng tự ngôn trị kết hợp với hiện tiền tỳ ni.
Thảng
hoặc, không có trú xứ nào gần đó, có Tỳ kheo thanh tịnh, đề cử người đến tác
pháp sám hối, bấy giờ tập thể phạm tội sẽ áp dụng nguyên tắc như thảo phú địa
kết hợp với hiện tiền tỳ ni và tự ngôn trị. Với phạm tránh tập thể: hiện tiền tỳ
ni và như thảo phú địa.
4)
Sự tránh:
Sự
ở đây chỉ các nghĩa vụ
thường nhật của Tăng, như yết ma thuyết giới, truyền giới, tự tứ, v.v… Do nghĩa
này, Thập tụng gọi nó là thường sở hành.
Các Tăng
sự bao gồm nhiều lãnh vực, hoặc liên hệ cá nhân như truyền giới, sám hối ; hoặc
liên hệ tập thể, như thuyết giới, tự tứ. Nghĩa vụ hay phận sự nào được Tăng thực
hiện không như pháp, đều trở thành tránh sự. Tuy nhiên, Tăng không phải là một
tập thể trừu tượng, mà bao gồm nhiều cá thể Tỳ kheo. Do đó, tránh sự tranh chấp
các phận sự này có thể thuộc phạm vi tập thể, cũng có thể thuộc phạm vi cá thể.
Thí dụ, khi toàn thể Tăng trong một trú xứ cùng tác pháp thuyết giới không đúng
pháp, các Tỳ kheo tham dự biết là sai nhưng không chịu ngăn, nên thảy đều phạm
tội đột kiết la. Tăng trong trú xứ này bấy giờ trở thành tập thể phạm tội, và
tránh sự này phải được dập tắt bằng hiện tiền tỳ ni và như thảo phú địa. Thí dụ
khác, trong yết ma truyền giới cụ túc, với túc số mười Tỳ kheo. Yết mà này không
đúng pháp, các Tỳ kheo này đều phạm tội ba dật đề hoặc đột kiết la. Đây chính là
tránh sự do phạm tội, thuộc phạm vi cá thể, có thể dập tắt bằng hiện tiền tỳ ni
với tự ngôn trị, hoặc với tội xứ sở, v.v… Các trường hợp tránh sự khác theo đó
mà suy diễn.
Nói tóm
lại, tránh sự do phận sự thường hành của Tăng được dập tắt với cả bảy nguyên
tắc, tùy trường hợp, hoặc áp dụng đơn, hoặc áp dụng song đôi.
V. TỔNG KẾT:
Chánh
văn của chương này giống như các chương trước, gồm ba phần. Phần tổng tiêu, từ
chỗ thưa các Đại đức cho đến mỗi nửa tháng tụng một lần. Ý nghĩa
không có gì khác lạ với các chương kia.
Phần
giới thiệu được mở đầu bằng câu: Nếu có tránh sự… cần phai trừ diệt, và
tiếp theo liệt kê bảy pháp diệt tránh. Theo văn nghĩa, nếu đọc riêng từng điều
khoản một, thì mỗi diệt tránh đều bắt đầu bằng câu mở đầu ấy. Vì là văn luật,
nên câu dẫn này không phải chỉ được viết vì kỹ thuật hành văn. Nó là một quy
định. Quy định này nêu rõ các nghĩa vụ mà Tỳ kheo phải tác trì. Nếu không chấp
hành, phạm đột kiết la đối thuyết. Thí dụ, một Tỳ kheo có tội mà không sám hối,
thì ngoài tội phạm căn bản theo các thiên, còn có tội tòng sinh. Tội nyà có hai
trường hợp cần phân biệt. Nếu không sám hối vì cố ý phú tàng, Tỳ kheo ấy phạm
tội đột kiết la về tội phú tàng. Tội phú tàng chỉ phát sinh khi trong cùng trú
xứ có đủ túc số Tỳ kheo thanh tịnh để tác pháp sám hối mà vị ấy không phát lộ,
khi bước qua thời phần của ngày tạo tội, bấy giờ tội đột kiết la thành hình.
Nhưng có nhiều trường hợp mà vị ấy không sám hối không phải vì cố ý phú tàng.
Chẳng hạn, thú nhận cho một Tỳ kheo khác biết tội phạm của mình, nhưng không
được tác pháp sám hối như pháp. Như vậy là không chấp hành đúng các pháp diệt
tránh. Trường hợp này tội đột kiết la sẽ thuộc chương diệt tránh. Đấy là nghĩa
vụ đối với riêng bản thân, khi tránh sự phát khởi với chính mình mà không diệt
trừ đúng theo các pháp diệt tránh đã định. Ngoài ra, mỗi Tỳ kheo còn có nghĩa vụ
tác trì đối với Tăng. Quan trọng nhất trong loại nghĩa vụ tác trì này là bảo vệ
sự thanh tịnh và hòa hiệp của Tăng. Nếu có tránh sự khởi lên nơi một Tỳ kheo
khác, sinh mạng thanh tịnh của Tăng một phần bị khuyết. Do đó, Tỳ kheo nào biết
rõ như vậy mà không áp dụng các pháp diệt tránh để diệt trừ, với mục đích phục
hồi nguyên thể thanh tịnh và hòa hiệp của Tăng, Tỳ kheo ấy phạm tội đột kiết la.
Nói tổng
quát, các tội phạm tác trì thuộc thiên đột kiết la quá rộng rãi, có thể thâu tóm
thành các điều khoản có hệ thống như các thiên khác, do đó, các pháp diệt tránh
nêu tổng chung nghĩa vụ tác trì, và cá nhân mỗi Tỳ kheo trong nỗ lực tu tập
Thánh đạo, phải ý thức nghĩa vụ tác trì của mình bằng tinh thần tự giác tự
nguyện.
Sau hết,
phần kết thuyết của chương này cũng giống như các chương khác, không cần giải
thích thêm.
--- o0o ---
Mục Lục Toàn Tập
Tập 1
|
1
|
2-0
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
Tập 2
|
7
|
8
|
9-1
|
9-2
|
9-3
|
9-4
|
9-5
|
9-6
|
9-7
|
9-8
|
10
Tập 3 |
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
| 19
|
20
--- o0o ---
Source:
www.phatviet.net
Vi tính: Nguyên Trang, Nhị Tường - Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-06-2004