.

 

Bảo Tạng Tùng Thư

Phật lịch 2552

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY

Thích Bảo Lạc dịch

 

 

Quyển 7

Gồm có 2 phần thượng và hạ

 

Đời Đường Hồng Châu, Sa Môn Bách Trượng Hoài Hải biên tập

Đời Thanh Tỳ Kheo Nghi Nhuận chùa Chân Tịnh – Hàng Châu chứng nghĩa;

Ngài Diệu Vĩnh Trụ Trì chùa Giới Châu tại Việt Thành nhuận duyệt.

 

 

Mục Lục

 

Chương 7: Phần Trên - Đại Chúng

1 Về việc thế độ 

1.1 Tuân theo 10 điều quy định như sau: 

1.2 Hưng Chánh biện tà 

1.3 Nền tảng 5 giới 

1.4 10 chi giới pháp 

2 Lời phụ: qui tắc cạo tóc có 8 điều kiện: 

3 Phụ Về Đàn Giới: 

3.1 Niêm yết thông báo 

3.2 Lễ vật cúng dường 

3.3 Dự định lập các ban kiến đàn rõ ràng. 

3.4 Dự định công việc giới đàn: 

3.5 Vị Phụ Trách Tác Bạch 

3.6 Qui Tắc Thọ Giới 

4 Bồ Tát tóm tắt có 10 điều giới: 

4.1 Luận chung nhị thừa: Đại Thừa và Tiểu Thừa. 

4.2 Tôn trọng đúng luận sự lầm lỗi: 

4.3 Tuân lời dạy cổ nhân: 

4.4 Cử xứng người đức độ: 

4.5 Hòa chúng thanh tịnh nơi tịnh đường: 

4.6 Khiêm nhường kính trọng pháp Đại thừa, Tiểu thừa: 

4.7 Hợp đồng giản dị, có 5 loại giản dị như: 

4.8 Vâng pháp thính giáo: 

4.9 Giới thành tựu hợp pháp: 

4.10 Nghi lớn nêu ít dụ: 

5  Mười Quy Tắc Bố Tát 

5.1 Luật Thiện Kiến 

5.2 Lược rõ pháp Yết Ma sám hối: 

5.3 Tăng làm pháp yết ma tụng giới: 

5.4 Lại nói rõ pháp tăng lược tụng giới. 

5.5 Pháp đối thủ yết ma tụng giới: 

5.6 Tâm niệm pháp yết ma tụng giới: 

5.7 Luật Tỳ Kheo bày đúng chỉ sai: 

5.8 Tăng Bố Tát làm phép yết ma tụng giới: 

5.9 Luật Bồ Tát nêu đúng chỉ rõ sai: 

5.10 Phụ: hai chúng tại gia Bố Tát: 

6 Năm thiên sáu tụ giới: 

6.1 Năm thiên là: 

7 Hộ giới: 

8 Đạo cụ: 

9 Phụ: Biện chính thức Xoa Ma Na 

 

Chương 7: Phần sau - Đại chúng 

1 Treo đơn: 

2 An đơn: 

3 Cùng làm việc tập thể (phổ thỉnh): 

4 Quy tắc hằng ngày: 

5 Phụ: Người Xuất Gia 

6 Qui tắc sống chung 

7 Qui chế thiền đường và quy tắc tọa thiền. 

8 Qui tắc Phật thất 

9 Phụ: sớ hồi hướng Phật thất 

10 Phân từng khu phố (khất thực) 

11 Lượm được vật rơi 

12 Phụ: Qui tắc nơi tĩnh hành đường 

13 Phụ: săn sóc người bịnh 

14 Văn Cảnh tỉnh đại chúng 

15 Phú (phó) pháp 

16 Phái Nam Nhạc 

17 Chi Thanh Nguyên 

18 Phụ: Thiên Thai giáo quán tông 

19 Phụ: Hiền Thủ giáo quán tông 

20 Phụ: Nam Sơn Luật Tông 

 

 

 

Chương 7: Phần Trên - Đại Chúng

 

Luận rằng, nước trở lại hư không, cây thuộc về rừng rậm, tòng lâm là nơi tập họp đông tăng chúng vậy. Ngày nay nói về chỗ rộng lớn, có số chúng đông tới cả trăm, nghìn người phải cần kho chứa, chỗ nấu nướng, bếp núc; cũng như chỗ chúng ở, nơi mà 4 phương quy tựu về. Nếu đã có nơi ở cố định rồi phải làm gì đây? Bởi vì Phật dạy con người xoay vần trong 3 cõi, trôi lăn theo dòng sanh tử, mà nghĩ cách dứt khổ cho chúng sanh được an lạc. Phật dạy môn đồ lấy từ bi giáo hóa hướng thiện nhân sinh. Tuy không phải hết thảy đều tuân lời Phật dạy, nhưng tâm ảnh hưởng nơi đạo cũng đủ cho ta nương tựa. Lại vì đạo tôn trọng đồ chúng nên thiết lập phòng xá làm nơi cư trú yên ổn, cũng như thâu góp lúa gạo để đủ trong việc ăn uống. Dù phải tiếp xúc mới có, nhưng chỉ sợ bất cập không vì chúng mà nỗ lực. Đã vậy thì dù chỉ thước đất, một đấu thóc vẫn có sự tranh chấp phức tạp. Há đem cái ngu riêng mình mà gán cho số đông chúng ư? Đó là những bửa ăn, do vì chúng ta ăn, nơi ở ta cần. Việc ăn của ta như thế, việc ở như thế, thật quả làm sao dứt đây!

1.1Về việc thế độ

Một số quy tắc thế độ (cạo tóc): nhận người xuất gia như dưới đây, đại khái phân làm 4 phần:

A- Tuân theo người quy định

B-Luận chánh biện tà

C- Nền tảng 5 giới

D- Quy tắc 10 chi.

1.1.1 Tuân theo 10 điều quy định như sau:

1.1.1.1 Giới đức tuổi hạ vị thầy:

Giới đức tuổi hạ vị thầy cần có đầy đủ 5 đức[1] và 2 nhiếp hoá[2] để người nương tựa, phải đủ 10 tuổi hạ. Đồ chúng không dễ dưỡng thành nếu đứa trẻ còn bú sữa chưa dứt không nhận, bảo đảm nhất là người tuổi đủ khôn lớn. Luật Phật dạy rất nhiều, làm Thầy đâu có dễ? Y cứ theo luật tạng phần sau, phần thọ giới kiền độ[3] lúc các Tỳ Kheo chưa đủ 10 hạ đã độ người mà không biết rằng luật dạy phải mãn 10 tuổi hạ mới hợp pháp; thật quả là không phải phép! Đệ tử không vâng lời dạy, oai nghi chưa am tường, nên chúng Tỳ Kheo đưa ra bạch Phật.

Phật dạy: độ tăng và cho người thọ cụ túc (tỳ kheo) giới, phải bạch 2 lần yết ma giữa chúng. Người xuất gia phải ra giữa trước tăng trịch áo bày vai bên phải, bỏ giày dép quỳ gối sát đất chấp tay lạy chư tăng 3 lạy chí thành cầu xin (cầu giới). Nếu không theo cách này là không còn pháp nào khác; cho chí y thực cũng đều tuân hành. Tăng nên nói rằng: “Đại Đức thôi đi, cẩn thận chớ độ người, nếu có trí huệ. Ngoài ra, lấy 2 việc nhiếp phục là: tăng phải nhóm họp và phép độ người; bạch yết ma 2 lần. Nên biết rằng làm Thầy người hẳn tuân lời Phật dạy và quy tắc.

Vị Thầy muốn độ đệ tử mà không khâm thừa lời dạy của Phật, là chưa hiểu trách nhiệm và bổn phận làm thầy. Cũng như không theo quy tắc làm sao đủ cơ duyên hướng dẫn đồ chúng trong việc thực hành giáo pháp. Cho nên tuân lời Phật dạy và pháp, toàn bằng vào nhẫn nại của vị tăng. Trong luật đâu chỉ có việc truyền giới cụ túc mà còn tuyển chọn người, tức vị thầy thế độ (y chỉ) cũng phải biết điều này. Vì không cản trở chí nam nhi thành là pháp khí. Nên nói ân thầy (sư) to lớn, công dạy dỗ (pháp nhũ) khó đền là đây vậy.

1.1.1.2 Cơ duyên chọn người tín thành:

Sự nghiệp xuất gia không phải tầm thường, hẳn người phải có lòng tin kiên cố mới có thể hoạch định nhập đạo. Và ngoài ra, văn từ, đức hạnh cũng phải cần thiết trong việc học hỏi; huống nữa học giới - định - huệ há không thỏa chí trượng phu sao? Người mà niềm tin không vững, xuất gia chẳng lo nghĩ tới đạo. Thân tuy như con giòng họ Thích (xuất gia) nhưng tâm duyên thế tục. Tới khi đầu bạc theo bóng quang âm, đành ngồi đợi già chết. Buông xuôi lãng phí như thế hoàn toàn không đạt phần nào lợi ích cả. Vì thế, người cầu xuất gia trước hết biết rõ nhân địa, chí hướng quyết định và thệ nguyện kiên cường. Vị Thầy, phải trắc nghiệm nhiều lần làm sáng tỏ mới có thể hẹn kỳ xuống tóc. Nếu người căn cơ thấp kém nghĩ thương muốn giúp đỡ, tạm gởi một nơi âm thầm tu tập để dò xét, theo dõi chờ một thời gian cho lòng tin thêm vững. Lúc đó việc khẩn thiết cầu xin xuống tóc vẫn chưa muộn. Vì thế, cần nhất thầy thế độ phải có cặp mắt tinh vi vừa trông một người là thấu hiểu, còn với chúng đông thì sao?

Bồ Tát Mã Minh nói rằng: Thầy và đệ tử phải hiểu tánh tình nhau, nếu trước không quán xét kỹ hẳn phạm tội vượt pháp.

1.1.1.3 Xin phép tăng xuất gia:

Tư cách Thầy trò đủ nhân duyên hội tụ, làm lễ xuống tóc chờ hợp thời, dạy dỗ tùy căn cơ, ứng dụng lại có khác. Nếu ở một mình không có bạn bè, đúng pháp ở với Thầy. Ở riêng hay sống chung với chúng, cũng phải dạy luật lệ phân minh. Y như trong luật, khi các Thầy tỳ kheo muốn độ người mà cho ở chung trong chúng gồm những người vô tình thân cận chất vấn đủ điều. Sau bèn thấy đệ tử cạo tóc làm tăng vào làng khất thực nên sanh tâm hiềm hận. Phật biết quở rằng: người cạo tóc xuất gia nếu muốn ở trong tăng già lam phải bạch cho chư tăng biết trước. Nếu tăng không hòa hợp, có thể dè dặt với lời khéo cho chúng biết rồi sau mới cạo tóc. Nếu chư tăng đã hòa hợp chỉ bạch một lần là xong, kế đó mới xuống tóc.

Thế nhưng ngày nay, tòng lâm tạp nhạp lẫn lộn, độ người không theo tiêu chuẩn, còn mong gì tuân giữ luật tắc? Thật là đời mạt pháp, khéo lắm mới có thể làm cho chánh pháp tồn tại. Như trên đã nói, bạch yết ma một lần pháp không hữu hiệu mà trong nghi thức dưới đây nêu rõ.

1.1.1.4 Giúp ngăn việc chê trách tỵ hiềm:

Mối giềng bản thể của tăng là thanh tịnh, trong giữ chí đạo thâm sâu không tì vết, ngoài nhóm chứa đức học thế pháp để củng cố Phật pháp, ắt do xuất gia thương giúp người tại gia. Nếu chỉ biết dẫn dắt độ người thoát tục xuất gia mà không khuyên phép từ cha mẹ, quốc vương thì nhận đủ lời chê trách của thế gian. Giữ mình làm tăng trong đạo phải làm gì, trong tăng lợi ích gì? Cho nên gặp người chức vị, kẻ sang, con nhà danh giá (vọng tộc), lễ Thầy cầu được độ, muốn làm Tỳ Kheo (tăng). Trước hết phải khéo hỏi cặn kẻ, chính xác để mọi việc được sáng tỏ. Nếu được song thân cho phép, thoát mọi ràng buộc thế trần mới có thể tiến lên 4 cấp từng lầu, nhập vào tăng đoàn giữ 6 phép hòa kính được. Lúc này cần phải làm là vọng hướng lên không trung bái tạ 4 ân: cha mẹ, quốc vương, ân thầy, ân Tam Bảo. Đây không ngoài Phật pháp mà soi tỏ thế pháp. Nếu hỏi đương sự, duyên trần chưa dứt, theo lẽ nên khuyên quay về nhà. Tuy hứa nhận xuất gia học ba tụ giới, nhờ giới sanh định, định phát huệ để tu hành mới có thể được. Còn người tại gia giữ 5 giới không lìa pháp thế gian mà kiến lập Phật pháp. Phương tiện giúp đời như thế cũng làm phát huy Phật pháp.

Y cứ theo luật, lúc bấy giờ Vua Ba Tư Nặc có vị đại thần vạm vở tự ý vào chùa xuất gia mà không xin phép Vua; được một Thầy Tỳ Kheo thâu nhận. Sau Vua biết được ra luật nghiêm cấm (quan chức đi tu không xin phép). Ngoài ra, các Thầy Tỳ Kheo phần nhiều độ các đồng tử dễ thương vào giòng họ Thích. Có người tâu Vua Tịnh Phạn nhờ bạch lên đức Thế Tôn. Cha mẹ phần nhiều nuôi dưỡng cho bú mớm, săn sóc đợi tới lúc con trưởng thành muốn được lợi lạc: phụng dưỡng hầu cận cha mẹ, kế thừa giòng giống không tuyệt. Mong Phật ban lịnh cho chúng tỳ kheo, không nên cho trẻ cạo tóc xuất gia khi không được sự đồng ý của cha mẹ. Do nguyên nhân đó, Phật ngăn không được thâu nhận các bậc vương thần, đồng ấu xuất gia mà không có phép của Vua quan hay cha mẹ. Nguyên bổn còn dẫn luật Tăng Kỳ nêu ra 4 hạng vương thần hay quan chức; nhưng xét thấy không cần thiết nên lược. Riêng con cũng có 3 loại: Con ruột cha mẹ sanh. Con nuôi, được nuôi dưỡng từ nhỏ, dưỡng tử nương tựa làm con.

Con ruột tuổi đồng niên (đồng tử) xuất gia cho dù ở Trung Hoa hay các nước khác cũng không chấp nhận được, nhưng con nuôi có thể được.

Nếu dựa theo tiêu chuẩn trên, riêng hạng con ruột cũng có thể mở rộng 4 trường hợp vì phương tiện tế độ; Thánh hẳn cũng rủ lòng từ cho phép như: Cha mẹ còn đầy đủ nhưng vì quá đông con không thể nuôi dưỡng hết. Cha còn, mẹ mất chỉ có một con, cha không săn sóc được. Mẹ còn, cha mất, gia đình đông con. Cha mẹ đều qua đời chỉ có 1 người con.

Trường hợp cha mẹ còn sống hay mẹ còn cha mất mà đông con. Nếu có một, 2 người đi phương xa (sống xa nhà) đủ tín tâm xuất gia, cầu thầy tế độ (xuống tóc). Lúc đầu mới đến dù chưa có lịnh của người thân vẫn được chấp nhận; nhưng sau đó đương sự lại trở về trình bày để xin phép xuất gia. Người thân hoan hỷ cho phép, thầy độ không có lỗi. Nhưng nếu cha còn, mẹ mất, lại con một, ý nghĩa cũng như trên. Như cả cha mẹ đều qua đời mà lại con một, đã không còn song thân để thưa trình, phát tâm tu mong báo đáp thâm ân. Trường hợp này 2 bên đều đồng ý việc xuất gia. Song luật Tứ Phần ghi rằng: song thân, nhà nước chưa cho phép không được phép cạo tóc. Y cứ luật Tăng Kỳ ghi, quần thần lựa chọn mới quyết chí xuất gia. Phàm vị minh sư hiểu biết luật phải khéo cân nhắc chớ nên mở, ngăn (khai-giá) tự ý sái luật.

1.1.1.5 Tôn trọng già, trẻ:

Người xuất gia khác thế tục là bỏ lợi lìa danh; không phô trương giá trị mình mà chỉ trọng nơi đức. Những việc hầu thầy, công tác, phục vụ đại chúng, học tập, tụng kinh, tu thiền, quán tưởng… Nếu người nhỏ quá không am tường, còn lớn tuổi quá lại không kham nổi việc. Tinh tấn ắt muôn hạnh đều thành tựu; lười biếng hẳn trăm việc không xong. Y cứ luật Tăng Kỳ ghi rằng: người dưới 7 tuổi hoặc trên 7 tuổi mà hiểu việc tốt xấu; cũng như quá 70 hoặc chưa tới 70 mà còn mạnh khỏe có thể độ cho xuất gia được. Như dưới 7 tuổi hay trên 7 tuổi mà chưa biết việc tốt xấu, cũng như quá 70 hay chưa tới 70, yếu đuối đứng ngồi cần người giúp đỡ là không được phép xuất gia. Như gỗ mục không thể khắc chạm làm đồ gì được. Ôi! thời nay đương buổi mùa thu lời Thánh huấn nhạt mờ, pháp tu chân chánh bèn thành ngăn trệ! Hoặc vì công việc khiến nên người không có tóc khó phân già trẻ; hoặc vì bị cảnh nghèo, xuất gia không vì sự tu hành mà thậm chí họp lại để dưỡng già, mượn Phật pháp để an thân. Lạm dụng mặc áo nhà tu, tranh cải lấn lướt chúng. Hạng người như thế căn tánh đã chẳng phải xứng đáng. Bọn họ quả thật là vi trùng trong thân sư tử, làm sao còn chia liêu phân phòng; chỉ ở chợ nương thành thôi. Thích nuôi, yêu mến trẻ nhỏ, ưa gần gủi thân thiện bọn nhóc tì; không thực tâm cùng tấn tu. Chưa am tường việc Sa Di (tức từ) đã muốn lên cao lại rớt xuống. Bỏ khổ vào khổ, những kẻ hảo tâm xuất gia là vì sanh tử, là sự may mắn gặp người đồng chí hướng xuất gia đúng luật.

1.1.1.6 Ngăn phòng độ người vượt quy định:

Như trên đã nêu rõ về người phát tâm xuất gia. Ngoại đạo xuất gia nên tùy nghi châm chế làm cho tà độc phải nhổ ra hết, mới uống nước cam lồ được. Kiến chấp chưa trừ, chánh tín khó phát sanh. Như vẫn theo thói nhiễm lo sợ ngoại đạo mà theo Phật xuất gia rồi phá hoại Phật pháp, là vượt ngoài sự tế độ cũng gọi là phá nội ngoại đạo. Y cứ theo luật có phái tu lõa thể Ni Kiền Tử[4] khéo giỏi luận đạo lý; gặp Ngài Xá Lợi Phất chất vấn thâm nghĩa, họ không thể trả lời được. Nhân đó, họ xin xuất gia làm Sa Môn và được cạo tóc, thọ giới Tỳ Kheo. Sau khi được mặc áo cà sa, họ lại nhập bọn ngoại đạo trở lại. Chúng tỳ kheo đem việc đó bạch lên đức Phật. Phật dạy: “Chấp thuận cho phép ngoại đạo nhập vào tăng đoàn cùng ở chung mùa an cư tháng tư, nên bạch 2 lần yết ma. Như trong lúc ở chung mà dấu pháp ngoại đạo, chỉ trích, chê trách việc bất thiện; chính họ cũng chỉ trích châm chọc ngoại đạo không kém”. Nghe người hoan hỷ dùng đức tán thán Tam Bảo, bọn ngoại đạo cũng khôn khéo hoan hỷ tán thán. Như thế mới có thể cho thọ giới làm tăng được. Nếu như họ vẫn giữ thói quen ngoại đạo và pháp thế gian, nghe nói sự nghiệp ngoại đạo bất thiện, sự nghiệp Tam Bảo thiện lành; họ lại nổi sân hận hiện lên nét mặt không hoan hỷ; người như thế không nên cho thọ tỳ kheo làm tăng. Song ngày nay ở Trung Quốc dù chưa có đồ đảng của lục sư ngoại đạo luận tà thuyết, hiển điều quái dị dẫn dắt làm chướng ngăn đạo pháp; vẫn không phải không có 5 bộ 6 sách của phái Bạch Liên, mờ ám thu nạp tuyên truyền làm mê hoặc nhân tâm. Do tệ hại đó đưa lại làm tà phong lan rộng từ thành thị tới thôn quê đều bị ảnh hưởng. Nên tuân theo lời Thánh khéo lưu tâm bảo vệ để cho đạo pháp trang nghiêm và tồn tại hợp trào lưu tiến hóa của xã hội. Đó là trách nhiệm và bổn phận người xuất gia không nhỏ vậy.

1.1.1.7 Cứu giúp vô tư:

Người xuất gia cắt ái, người tại gia còn tình; giải thoát đạt đạo không đứng trên nhơn ngã, không tranh biện pháp môn, dứt hết chỗ thân sơ. Do vậy La Vân lễ Thu Tử (Xá Lợi Phất) làm thầy; Khánh Hỷ (A Nan) bái Thái Thục làm mô phạm. Con đấng Pháp vương còn buông xả được như thế, huống gì Sa Môn đời sau lại không theo đó tuân hành sao? Do vì cách Thánh quá xa, con người phần nhiều do tình ái, hoặc vì 5 tà chấp nên cứ nơm nớp lo nghĩ đồ vật thiếu thừa; hoặc vì sống riêng một mình nghĩ tới thân già trơ trọi liền gấp gấp cạo tóc xuất gia; một hai chiêu nạp đồ chúng. Như vậy đối với Phật pháp thiếu đức huệ, làm sao kế tục duy trì cho được. Nghiên cứu nguyên nhân ấy lỗi do nơi chính ta, tự làm hại người khác thật là đáng lấy làm tiếc. Luật Tăng Kỳ ghi rằng: Tỳ Kheo không được có tâm vì mình mà phải độ người, phải niệm nghĩ khiến người biết nhân của mình để vượt qua; nên tu các thiện nghiệp để chứng được đạo quả. Việc này hẳn nghe ghi nhận, như mình không tự hàng phục mà muốn hàng phục người khác, chính mình không tự điều phục lại khiến người khác điều phục; ta không tự giải thoát lại khiến người khác giải thoát là không có lẽ đó.

1.1.1.8 Nền tảng đạo nghiệp:

Tại gia chìm đắm, u ám muộn phiền không tỉnh thức; xuất gia vắng lặng tuệ giác soi sáng tận gốc, vì gốc đó là giới-định-huệ do đây phát sanh. Định sẵn sàng thời hôn trầm chìm lắng, huệ sáng tỏ mê lầm đoạn dứt. Do vậy, bậc đại thánh lập giáo trước lấy giới luật làm đầu lại giới nhiếp độ 7 chúng dần lên tứ thánh quả[5]. Chân đế-tục đế tuy khác, nhưng nền tảng không hai. Tát Bà Đa luận rằng: nếu không thọ 5 giới không được thọ 10 giới, không được thọ giới tỳ kheo. Nếu không thọ 3 loại giới như thế không được thọ giới Bồ Tát. Trong luật Ngũ Phần Phật dạy Xá Lợi Phất hướng dẫn La Hầu La trước khiến truyền 5 giới Ưu Bà Tắc[6], sau mới cho cạo tóc xuất gia truyền 10 giới Sa Di. Nên biết rằng thềm thang có 4 bậc, chỉ cho người hành trì không lẫn lộn để ứng dụng vào 2 thời: sáng và chiều, phân minh giữa chân và tục, luận người xuất gia, nếu chưa am tường giới phẩm, thân tuy xuất gia cũng chỉ là hình giống như Sa Di; hẳn phải cạo tóc theo thầy thọ giới mới thật sự xuất gia đúng pháp, gọi là Sa Di. Sơ sài giới luật chưa đủ thanh tịnh, hình thể là bạch y không đủ xứng làm bậc phước điền, bốn sự cúng dường[7] khó mà thọ nhận. Giả sử không lo tu tập thì ba cõi khó mong thoát khỏi. Kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi rằng: “mặc dù đa trí thiền định phát nếu không nghiêm trì giới luật cũng rơi vào tà ma ngoại đạo”. Cho nên nói giới là nền tảng, phàm người học Phật, há khinh bỏ mà không tin thọ giới hay sao?

1.1.1.9 Khổ công dạy khuyên hành giả:

Do vì thân tâm đắm nhiễm ngũ dục không thấy khổ nhọc, tiếc nuối hình vóc do thói quen lâu đời, say theo si mê thế tình. Nên biết rằng những sự vui thú ở thế gian đều là nguyên nhân của khổ; xuất gia tu khổ hạnh hẳn là quả của an lạc. Luật dạy rằng: nếu khởi sự muốn xuất gia, trước hết vì người xuất gia nói những việc khổ như: việc ăn uống, sự cư trú, ngủ nghỉ, học nhiều

Nếu thông suốt đó mới xin thầy xuống tóc, còn nghi ngờ không cho thọ giới xuất gia. Vì làm thầy độ người trước phải y theo luật khuyên răn, xem xét căn cơ mà sách tấn. Vốn biết vạn sự khởi đầu nan, lúc đầu chẳng dễ dàng đâu! Thí như người muốn mò tìm châu dưới đáy biển nhất định chẳng sợ nguy hiểm của gió lớn, sóng to, huống gì cầu Phật đạo lại có thể sợ khó, khổ của việc tu tập sao? Ở đây không nhắc đi nhắc lại chỗ buông lung, lỗi lầm đã có thầy; qua lời chỉ dạy nhắc bảo tường tận. Đương sự phải phấn chấn tinh thần, ngõ hầu không tự cô phụ linh căn và cũng không trái với lòng từ dạy dỗ của thầy.

1.1.1.10    Thiết đặt nghi thức:

Có 2 phần: a/ do việc hay pháp, b/ thiết tòa an vị.

a. Phàm cầu nơi xuất gia phải chọn thế đất tâm hướng ra 4 bên, mỗi bên bước 7 bước rưởi, rảy nước thơm tẩy sạch dơ uế. 4 góc treo cờ, chung quanh treo phan, đàn tràng đã lập đủ các nghi, đó là nghi biểu pháp. Dùng hương bày tỏ niềm tin, nước biểu hiện sự thanh khiết. Không có niềm tin, thanh tịnh không thể trừ được những phiền não. Cần phải chọn chỗ đất tượng trưng 3 cõi, nên 4 góc cắm cây treo cờ, tràng phan tiêu biểu hướng tới địa thế, lần lượt đi qua hết chu vi, 4 hướng mỗi hướng bước 7 bước. Tượng trưng người xuất gia tu hành phải trải qua 40 vị hiền, phước huệ đầy đủ. Kinh Niết Bàn ghi rằng: đức Phật lúc đản sanh bước đi 7 bước xướng lên lời này: “Ta ở trong trời, người, a tu la là tối tôn, cao tột”. Xoay về hướng Nam đi 7 bước chứng tỏ Phật vì chúng sanh muốn làm ruộng phước vô thượng; đi 7 bước hướng Tây biểu trưng dứt sanh đoạn lão, và đây là thân rốt sau, hướng Bắc 7 bước tiêu biểu đã vượt qua các cõi dứt hẳn sanh tử, 7 bước hướng Đông chứng tỏ muốn làm người dẫn đạo cho chúng sanh.

b. Thiết tòa an vị: chính giữa đàn tràng đặt hình Phật Thích Ca Mâu Ni, hướng chánh đông đặt tòa ngồi Thánh tăng, hướng Tây tòa Hòa Thượng, hướng Bắc tòa Quốc vương, hướng Nam tòa của phụ mẫu. Mỗi nơi bày biện hương hoa, quả phẩm, đèn nến hiến cúng. Nếu gặp trời mưa hay những trở ngại khác không thể thiết lập đàn tràng lộ thiên được; có thể thiết trí tại giảng đường hay nơi phương trượng đủ 5 bàn hiến cúng tinh nghiêm không thể thiếu được. Nhưng đây là người cầu thế độ xuất gia, có nghĩa là bỏ nhà thế tục, vào nhà Như Lai; những phàm thường phải nghiêm túc, cái thể ông tăng mới tôn quí; một việc giản đơn mà người xuất gia xem thường. Do việc phát tâm hơn hết, nên hoàn toàn dựa vào các trợ duyên là cần thiết vậy.

1.1.2 Hưng Chánh biện tà

Sở dĩ nói hưng chánh biện tà: ngay như một việc xuất gia là việc tinh tế hàng đầu như Phật quy định rõ, chư Tổ có quy tắc hẳn hoi. Đời sau do nhiều việc dần quên tra cứu luật, có một người ngoại đạo cầu xin xuất gia, một thầy tỳ kheo nhận cho thọ giới tỳ kheo; về sau y lộ hiện việc xấu, không muốn làm tăng nữa. Chúng tỳ kheo đem việc này trình lên Phật, Phật dạy: “Nếu muốn độ người, cho cạo tóc xuất gia, phải đặt tay lên đỉnh đầu đợi một lúc rồi hỏi rằng – ngươi có thể xuất gia được không - rồi mới vì đó mà xuống tóc.” Tiếng Phạn là Châu la, Trung Hoa gọi là Tiểu Kết hay còn gọi là đảnh hiệt (tóc trên chỏm đầu), có nghĩa lấy tâm điểm trên đảnh để lại một ít tóc lọn thành một chùm nhỏ.

Luật quy định như Bách Trượng Hoài Hải thiền sư đời Đường biên soạn. Bởi vì đoái nghĩ giáo huấn tòng lâm chuyên tu mô phạm mà nguyên trước Thầy đã đính chính, tự thấy chỗ nghĩa lý đầy đủ. Về sau do trãi qua các đời bổ túc thêm vào đến đổi sự lý phần nhiều trái lời Phật dạy. Nếu chỉ nêu lên trong thiên Sa Di được thọ giới thôi, ở phần lược thuật cũng đã sai lầm giả trá, để chứng minh trong tương lai, Ngài nói rằng: chọn kỳ ấn định cho xuống tóc cách đêm trên đỉnh còn chừa lại một chỏm tóc. Hôm sau nhóm chúng thỉnh thầy khiến kẻ thế phát quỳ sát đất lễ lạy.

Duy Na xướng lễ, đại chúng hòa âm; thần tiên, người đạt 5 phép thông tạo ra chú thuật khiến cho đương sự hổ thẹn giữ gìn những gì chưa biết hổ thẹn. Như Lai lập cấm giới mỗi nửa tháng tụng một lần đọc lên những công đức đã thuyết giới. Cúi đẩu lễ chư Phật, xướng tụng lời hòa hợp; cạo tóc vừa hoàn tất, áo cà sa mặc đắp lên đầu người thọ pháp. Lấy 10 giới tướng Sa Di ban cho cận sự nam giữ 5 giới, tức liền lãnh thọ giới luật thâm sâu; ắt hẳn không phải Tổ quy định nghi thức. Có chỗ cho rằng cách đêm xuống tóc, trên đảnh còn chừa lại một chỏm, hôm sau thỉnh thầy cạo cho chỏm tóc đó cũng lại là việc sai lầm. Nên biết việc cạo tóc đang diễn ra sáng hôm nay; theo lý không thể để cách qua đêm được mà phải ở ngay trong ngày xuống tóc. Mở đầu mình tự thỉnh thầy thăng tòa, nhẫn đến khai thị xong; lễ tạ vua, song thân hoàn tất, rồi lấy nước rảy lên tóc đương sự. Thầy vừa cầm dao đưa lên, trước tiên chừa chùm tóc trên đảnh, kế từ đó hớt xuống tóc chung quanh phía trên tới bên chùm tóc trên đảnh đầu, thầy bèn ngừng lại, dặn kỹ hỏi 3 lần; đương sự cũng 3 lần đáp mới cho xuất gia và cạo sạch chỏm tóc còn lại trên đảnh, trở thành là hình đồng Sa Di.

Duy Na lại xướng tụng bài kệ quyển đầu trong bộ luật Tứ Phần thuộc về 186 câu; bài kệ trích 8 câu chót dùng cho lúc cạo tóc. Bài kệ này do Tôn Giả Ưu Ba Ly cùng với 500 vị tăng A La Hán trong khi kết tập tạng luật soạn. Trước tiên kính lễ Tam Bảo cầu sự gia hộ, tụng lời tựa nói sự lợi ích của giới thuộc quyển đầu. Vì lúc Phật còn tại thế lấy chánh pháp làm đầu mà giới luật là để nhiếp hóa chư tăng, khiến biết tàm quí giữ gìn đầy đủ phạm hạnh trong sạch. Thỉnh thoảng ngoại đạo bày ra chú thuật, dẫn dắt đi vào đường tà làm gia tăng tâm tham ái. Vì thế, Phật quy định Bố Tát[8] khiến các tỳ kheo mỗi nửa tháng tụng một lần, hòa hợp tại một chốn đúng theo lời Phật dạy. Nói giới tức là tụng giới vậy. Vị Thầy lấy bài kệ tụng giới Bố Tát này dùng vào việc xướng tụng lễ cạo tóc Sa Di, cũng lại là việc lầm lẫn nữa. Ngoài ra, cạo tóc xong đem 5 giới, 10 giới tướng đồng thời trao cho hành giả. Do vì chưa từng tham cứu trong luật Ngũ Phần, Phật cho người chưa cạo tóc xuất gia, trước nhất phải theo 5 giới Ưu Bà Tắc tại gia. Vì e đương sự có sự hối tiếc ngược lại, khiến y gieo trồng căn lành, một mực chí thành tin tưởng không thoái tâm. Tâm đạo phải vững bền mới cho xuống tóc, sau bèn trao cho 10 giới Sa Di. Cho nên không thể lấy 5 giới tại gia mà cho là đồng 10 giới Sa Di được. Hơn thế nữa, đã là người xuất gia hình tướng Sa Di không phải Ưu Bà Tắc như thế tục buông tuồng đụng đâu bàn chuyện đó, sự bàn luận nầy mới đáng nói. Luận về người phải có điểm hơn người, luận pháp là việc xuất gia không phải pháp Bố Tát (tụng giới), nên đây là một việc, nhơn và pháp là 3 việc đều xem thường trái lời dạy bậc Thánh, sai phạm không phải chẳng ít. Nay như ta phát tâm xuất gia cầu Thầy thế độ nên tôn trọng theo luật Ngũ Phần quy định, cũng như không nên xướng bài kệ tụng giới. Như người đã thọ 5 giới đến cầu xin xuất gia nên tôn trọng luật Tứ Phần, Tăng Kỳ, Thập Tụng… là những bộ luật căn bản, tức cho thọ Sa Di thập giới cũng không nhất thiết phải thọ lại 5 giới rồi sau mới cho thọ 10 giới mà sai lầm theo luật Ngũ Phần, nên biết luật quy định khó sửa đổi; quy định sai phải nghiệm xét kỹ lại.

1.1.3 Nền tảng 5 giới

Nền Thảng năm giới phân thành 10 tiết như sau:

1.1.3.1 Hướng dẫn:

Phải xem kỹ luật để biết rõ việc gì nên làm, nếu đúng theo luật cho phép hầu như phải có lời cầu xin. Nay cạo tóc Sa Di dựa theo luật Ngũ Phần, Phật dạy, trước truyền 5 giới Ưu Bà Tắc, sau cho xuống tóc thọ 10 giới Sa Di. Phải nêu ra tiêu chuẩn trước, còn nghi cách thêm bớt tùy theo đó ứng dụng. Nếu có người phát tâm hứa xuất gia, kỳ hẹn như ấn định trước một ngày, Thầy Tri Khách nên sắp xếp cho người xin đến gặp Thầy Duy Na và các vị Thầy dẫn lễ; hướng dẫn đảnh lễ các Thầy 3 lạy rồi đứng lên quỳ gối bạch rằng:

-     Con…(tên) biết thân là khổ, hiểu rõ đời đều là vô thường, khổ không, nên không dong ruỗi theo trần duyên, nguyện hướng về Phật đạo. Tâm tuy chưa thể thay đổi nhưng đối với thói quen chưa hề có, nay khẩn thiết cúi mong quý Thầy dũ lòng từ dạy bảo, phương tiện dẫn dắt cho con xuất gia học đạo, tu hành.

Thầy Duy Na đáp:

-     Thật là lành thay! Ngươi đã nhập pháp môn, nghi cách chưa rành, nay tôi vì ngươi mà tác bạch lên Ngài Phương Trượng, một lòng chí thành cầu thỉnh. Ngươi nên thành tâm cung kính theo tôi, cùng đi lễ Hòa Thượng.

Người cầu xuất gia nghe rồi, lễ một lạy và đứng lên. Duy Na và Thầy dẫn lễ đi trước, người kia đi theo sau.

1.1.3.2 Lễ tác bạch:

Các Thầy dẫn đương sự tới phòng Phương Trượng, đứng bên ngoài cửa, trước báo cho Thị Giả biết để mời Ngài tư thế chuẩn bị nghiêm túc. Hương hoa, đèn nến sẵn sàng tới thỉnh Ngài đăng tòa, kế đến 2 vị dẫn lễ tay nhịp khánh thỉnh Hòa Thượng ra khỏi phòng. Hòa Thượng ra xong, Ngài đến lạy Phật, niệm hương rồi vào chỗ ngồi. Duy Na xoay về Hòa Thượng lễ 3 lạy, quỳ gối chấp tay bạch rằng:

-     Nam Mô A Di Đà Phật, ngưỡng bạch Hòa Thượng, nay có Phật tử…. (tên và pháp danh) từng mong mỏi đức từ, hẹn kỳ thế phát, yểm tâm trần thế, đã quyết chí học đạo vững bền, nên nay cung kính đến trước điện đốt hương đảnh lễ, ngưỡng mong Hòa Thượng đại từ bi nạp thọ. Trước ban giới Ưu Bà Tắc làm cho đương sự từ cấp sơ cơ đây mà bước lên 4 cấp, kế sau xin được xuống tóc, đắp y; bỏ nhà thế tục để nhập chúng xuất gia, đi lại thắng lướt xông pha, vâng hành đúng luật, phàm tình không theo đuổi, chí nguyện hướng cầu.

Đoc lời tác bạch xong, lễ một lạy rồi đứng lên, lui ra trở về lại chỗ.

1.1.3.3 Thỉnh sư (nghi này không giống nhau):

Nghi thỉnh sư tùy theo giới trường, đàn giới mà có cầm hương. Nay Duy Na thay bạch, giới tử đứng ngoài cửa, chỉ chờ gọi mới vào gần rồi dâng 3 cây hương bạch Phật. Nếu giới tử đông cùng lúc nghe gọi tiến lên chỉ do một vị niệm hương; còn các vị khác đứng sang 2 bên. Đứng theo vị trí xong, Thầy dẫn lễ xướng rằng:

-     Này gã nam tử, nay đã đầy đủ nhân duyên mà tới. Giới tử hãy bước lên, tới gần trước pháp tòa, chấp tay quỳ gối trang nghiêm tề chỉnh.

Lễ niệm hương: cầm 3 cây nhang lên khấn. Duy Na cử bài tán hương, đại chúng đồng hòa âm:

Phật quảng đại từ tâm

Độ chúng đức bi thâm

Chí thành thọ pháp âm

Tam Bảo niệm ân cần

Cầu thọ 5 giới cấm

Ngào ngạt hương diệu vân.

Dẫn lễ nhịp khánh đảnh lễ Tam Bảo 3 lạy, xong bảo giới tử quỳ ngay ngắn và chấp tay lắng nghe kỹ. Thầy Duy Na nói:

-     Luận về người tại gia đầy đủ tín tâm giống như trong lửa vươn lên hoa sen; mang mái tóc quy y như trăng hiện trong nước. Nay ngươi muốn thọ 3 quy y và 5 giới, đây là nền tảng của xuất thế. Lẽ ra phải mời cho được minh sư để hộ trì cho giới đức căn bản. Nay vì ngươi mà đốt hương, trải tòa, cầu thỉnh thượng A hạ B đường thượng Hòa Thượng; vì ngươi mà làm Thầy truyền Tam quy năm giới. Lời thỉnh sư lẽ ra ông tự trình bày, nhưng sợ ông chưa quen, nay tôi chỉ ông phải đọc tên mình; còn những lời khác đều do tôi hướng dẫn như sau:

-     Bạch Đại Đức một lòng thương xót, con pháp danh là… xin thỉnh Đại Đức làm Thầy truyền Tam quy, ngũ giới. Ngưỡng mong Đại Đức vì con làm bổn sư truyền Tam Quy năm Giới, con nương theo Đại Đức được thọ giới thanh tịnh. Xin thương xót, đoái xin thương xót, hết lòng xin thương xót con!

1.1.3.4 Thầy khai đạo:

Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:

-     Này thiện nam tử, ông đã chí thành 3 lần thưa thỉnh, nên tôi vì ông mà làm Thầy truyền 5 giới. Như những lời này ông phải lắng nghe, nguyên vì giới đức khó lường, đứng đầu vượt hơn tất cả, là quy luật của 5 thừa, chính là chiếc thuyền của Tam Bảo. Thiền định, trí huệ lấy giới đây làm nền tảng; Bồ Đề, Niết Bàn do giới làm gốc, phát ý hướng cao xa lấy giới đây làm tông yếu, giới là tiền đạo của sự dứt ác, mở đầu việc nhập đạo. Cũng như xây lâu đài trước nhất nền móng phải cho thật vững chắc. Nếu xây nhà không xây nền móng như gá ở hư không ắt không thành tựu. Kinh Di Giáo dạy rằng, nên tôn trọng giới luật như tối gặp sáng, như người nghèo được của báu; giới chính là gốc của sự giải thoát. Nếu người luôn giữ tịnh giới hẳn mọi công đức lành đều được phát sanh, nên biết giới là chỗ an ổn, chỗ phát sanh các công đức. Song giới có nhiều phẩm loại khác nhau. Nay ngươi cầu thọ 5 giới đây là đầu mối của việc hướng thiện, ra khỏi bến mê của khổ. Kinh Thiện Sanh ghi rằng: giới đây thật là khó đắc, vì là cội gốc cho giới Sa Di, đại giới tỳ kheo và giới Bồ Tát. Vì vậy, nay tôi truyền cho ngươi 5 giới Ưu Bà Tắc nên đem tâm cung kính giữ gìn, ngươi có thể y theo lời dạy mà thực hành không?

-     Đáp: Con xin y theo lời dạy vâng làm.

1.1.3.5 Thỉnh Phật, chư Thánh chứng minh:

Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:

-     Này thiện nam tử, ngươi đã y lời dạy vâng làm rồi, ngươi muốn thọ 5 giới căn bản này, đúng ra phải tự kiền thỉnh Tam Bảo từ bi chứng minh, thứ nữa cầu chư thiện thần hộ vệ, nhưng vì chưa quen nên tôi nói thay, ngươi đứng dậy chấp tay nói theo tôi trong sự thành tâm quán tưởng: nhất tâm khải thỉnh, con pháp danh là …

Hòa Thượng đứng dậy niệm hương bạch thỉnh; Thầy Duy Na, Thầy dẫn lễ đồng hòa âm cùng đại chúng, nhất tâm chuyên chú một cảnh để được sự cảm ứng.

Hương hoa thỉnh, hương hoa đăng phụng thỉnh, đệ tử… một lòng phụng thỉnh: Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Giáo Chủ cõi Ta Bà, đức Phật A Di Đà Giáo Chủ cõi Tây phương, đức Phật Di Lặc từ tôn sẽ hạ sanh tương lai, cùng hết thảy chư Phật khắp hư không pháp giới. Ngưỡng mong không quên bổn thệ từ bi chứng minh gia hộ cho con được thọ giới. (Thỉnh 3 lần mỗi lần xá 1 xá).

Hương hoa thỉnh, hương hoa đăng phụng thỉnh, đệ tử… một lòng phụng thỉnh: Hai thừa Đại, Tiểu, tạng luật Tỳ Ni, 5 thiên 7 tụ giới luật giải thoát, 12 bộ chân Kinh, giáo điển quyền thật, ly dục thanh tịnh, pháp bảo nhiệm mầu, tha thiết một lòng quy y đảnh lễ…

Hương hoa thỉnh, hương hoa đăng phụng thỉnh, đệ tử…một lòng phụng thỉnh: Quan Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, hải chúng thanh tịnh, chư đại Bồ Tát, Ưu Ba Ly tôn giả, Tây Thiên, Đông Độ lịch đại Tổ sư truyền giáo Nam tông, chư đại luật sư, trung hưng luật sư Huệ Vân Hân công đại Hòa Thượng. Từ đây trở lui lại thỉnh đăng tòa đắc giới bổn sư Hòa Thượng: ngưỡng mong không quên bổn thệ soi chiếu hào quang chứng minh thọ giới.

Hương hoa thỉnh, hương hoa đăng phụng thỉnh, chúng con… một lòng phụng thỉnh: Trên hội quang minh, nhờ các vị trời: Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên vương, Thiên long, tám bộ, già lam Thổ địa, hộ giới thần vương, Kim Cang lực sĩ, u hiển linh kỳ, ngưỡng mong không quên bổn thệ giám sát đàn tràng hộ giới.

Như thế mỗi lần 3 lượt thỉnh, 3 lần cúi đầu cho tới khi Hòa Thượng ngồi xong; dẫn lễ xướng: “quỳ xuống, chấp tay chí thành lắng nghe…”

1.1.3.6 Sám hối:

Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:

Chuyên tâm nghinh thỉnh Tam Bảo chứng minh thọ giới rồi nay đây Tam Bảo đã dũ lòng từ phóng quang soi chiếu, như gương có đài lướt qua không thấy rõ, riêng sợ ngươi từ muôn kiếp đến nay tạo các ác nghiệp, bị chướng duyên giới không thể lãnh thọ được, nên gia tăng lòng tin sâu hướng trước Tam Bảo cầu xin sám hối. Ví như vết dơ dính áo liền đem giặt tẩy sạch, vị cam lồ tẩy trừ vật uế, lời sám hối ngươi vừa tự trần, e ngươi không quen, nay tôi dạy ngươi tự xưng tên mình….

Tôi đọc lời gì nên đọc theo để cầu xin sám hối. Bài kệ sau đây, Hòa Thượng đọc 2 câu, Dẫn Lễ hướng dẫn đương sự đọc 2 câu, cứ mỗi 2 câu cúi đầu xá 1 xá, đọc tiếng lớn rõ ràng như:

Đệ tử pháp danh… tên là… từ vô thỉ cho đến ngày nay hủy báng Tam Bảo, làm kẻ phá hoại Phật pháp, chống lại Kinh Đại Thừa, đoạn dứt tuệ giác, giết hại cha mẹ, làm cho thân Phật đổ máu, làm nhiễm ô chùa viện, phá phạm hạnh tăng ni; thiêu hủy tháp miếu, lấy trộm vật dụng của tăng. Khởi bao nhiêu tà kiến, bác không nhân quả, gần gũi bạn ác, phản bội thầy hiền.Tự làm, dạy người làm, hay thấy và nghe người làm tán đồng vui theo…Những tội như thế vô lượng vô biên, cho nên ngày nay con rất lấy làm hổ thẹn, chí thành tỏ bày cầu xin sám hối. Ngưỡng mong Tam Bảo từ bi gia hộ, phóng ánh tịnh quang soi chiếu thân con khiến cho các ác tiêu dứt, 3 chướng trừ sạch, hoàn lại tâm nguyên rốt ráo hoàn toàn thanh tịnh. (Sám hối 13 lần như thế).

Nam Mô Phổ Hiền Vương Đại Bồ Tát (3 lần).

Như trên đã tỏ trần sám hối, nếu thì giờ không có chỉ dùng 4 câu trong kinh bổn thôi. Xem phần chính bên dưới, hể thành kính 4 câu đủ tiêu trừ nghiệp chướng; còn như không thành dù có sám nhiều cũng khó hối cải.

1.1.3.7 Vấn già nạn (gạn hỏi trắc nghiệm):

Nạn ngăn chướng bổ đề tâm, Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:

-     Nay ngươi đã sám hối xong, tội lỗi về trước dứt sạch nên theo Kinh Thiện Sanh, trước hết hỏi 7 già nạn, sau mới cho ngươi thọ giới. Có hay không cứ thật tình trả lời, chớ nên che giấu.

-     Hỏi: Ngươi có từng trộm cắp vật của hiện tiền tăng không?

(Nếu không, nên đáp không; giả như có nên đáp có, những câu sau đều như thế cả)

-     Ngươi có từng hành dâm với nam nữ trong lục thân không?

-     Ngươi có làm ô nhiễm phạm hạnh tăng ni không?

-     Ngươi có từng thấy cha bịnh mà bỏ đi không chăm sóc không?

-     Ngươi có từng thấy mẹ bịnh mà bỏ đi không chăm sóc không?

-     Ngươi có từng đối sư trưởng bịnh mà bỏ đi không săn sóc không?

-     Ngươi có từng sát hại chúng sanh phát bồ đề tâm không?

1.1.3.8 Thọ quy giới:

Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:

-     Này thiện nam tử, ngươi hiện sanh trong đời này không có 7 già nạn, thân tâm thanh tịnh, đạo quả mới hoàn tất được. Tôi nay cũng vì ngươi trước truyền Tam quy làm thể, kế tuyên đọc 5 giới để khiến giữ gìn những lời đã nói về 3 quy y. Luật Tát Bà Đa luận rằng: Tam Bảo là chỗ nương tựa, người muốn được cứu hộ không được vượt qua. Nên quy y Phật nương theo pháp thân, là nhứt thiết trí, đạt đến vô học, đầy đủ công đức, thành 5 phần pháp vậy. Quy y Pháp là nương chỗ tịnh xứ của tự-tha, là đoạn dục, ly dục, đạt đến Niết Bàn chân thật. Quy y Tăng là nương theo đệ nhứt nghĩa tăng, có nghĩa bậc hoàn hảo phước điền, có đủ công đức học và vô học. Nhưng Tam Bảo đây là chân tịnh đức dụng hay làm cho 3 nghiệp thanh tịnh, có khả năng ngăn dứt 3 đường ác, có thể phá trừ 3 chướng, không rơi vào 3 cõi hữu (chúng sanh), hay vượt thoát 3 cõi, hay dẫn tới chứng 3 thừa. Do đó Phật đạo lấy 3 quy y đây làm gốc, rộng ra chung cho các giới phẩm khác để thành tựu mọi công đức. Cho nên ngươi phải lấy ân trọng lòng từ hộ niệm khắp cùng pháp giới, hữu tình hay vô tình đối với cảnh bị duyên. Nguyện đoạn mọi điều ác, thệ tu tất cả điều thiện, phát nguyện độ hết chúng sanh. Nếu phát được tâm rộng lớn vô thượng như thế mới có thể lãnh thọ giới, đó là 3 quy y và 5 giới nói trên vậy.

Nay chính đúng lúc ngươi thọ Tam quy, là lúc cảm nhận thọ các giới thể. Ngươi nên chí thành quán tưởng, duyên cảnh phát tâm theo lời tôi mà thọ. Trước xưng danh tánh (nói rồi, đợi Hòa Thượng nói xong, Thầy Dẫn Lễ dạy giới tử nói theo; đọc từng câu không được sai trật) như sau:

Con pháp danh… tên là… nhất tâm quy y Phật, nhất tâm quy y Pháp, nhất tâm quy y Tăng. (Đọc 3 lần như thề, mỗi lần cúi đầu xá 1 xá).

Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:

Trở lên 3 quy y đúng là nạp thể, nay thêm 3 kiết có nghĩa là phép yết ma, ngươi phải chí tâm nói lên theo tôi. Nhìn xuống đoạn văn đợi Hòa Thượng đọc một câu, giới tử nói theo một câu; căn cứ theo Kinh Thiện Sanh, đọc xong cúi đầu xá Phật-Pháp-Tăng 3 xá.

Con pháp danh… quy y Phật rồi, thà bỏ thân mạng trọn không quy y các chúng ma Tự Tại Thiên v.v…Quy y Phật, bậc chí chân đẳng chánh giác, là bậc Thế Tôn của con, xin thương xót cho con.

Con pháp danh là… quy y Pháp rồi, thà bỏ thân mạng trọn không quy y giáo thuyết ngoại đạo; chỉ quy y 12 bộ trong 3 tạng mà Phật đã thuyết, cùng hết thảy Kinh điển, là chỗ tôn kính của con, xin thương xót cho con.

Con pháp danh là…quy y Tăng rồi, thà bỏ thân mạng trọn không quy y ngoại đạo tà giáo; quy y bậc tăng phước điền thanh tịnh, là chỗ tôn kính của con, xin thương xót cho con.

Sau đây là phần đọc các giới tướng, Hòa Thượng vỗ thủ xích nói:

Tôi đã vì ngươi mà nói rõ 3 quy y xong rồi, để có được thể của 5 giới, tôi lại vì ngươi đọc 5 giới tướng để làm cho ngươi biết tướng mà giữ gìn, hầu cẩn trọng bảo hộ giới thể.

Giới thứ nhất là không sát sanh, thứ hai không trộm cắp, thứ ba không tà dâm, thứ tư không nói dối, và thứ năm không uống rượu. Là những giới căn bản của Ưu Bà Tắc, ngươi có thể giữ gìn được không?

Đáp: Mô Phật, con có thể giữ được.

Này Thiện nam tử, 5 gìới đây là cội gốc của các giới, là thềm thang của việc nhập đạo. Đạt đến giải thoát chứng quả Bồ Đề khởi đầu từ giới không sát sanh cho đến giới thứ năm không uống rượu, ngươi có thể giữ đầy đủ được không?

Đáp: Mô Phật, con có thể giữ được đầy đủ.

1.1.3.9 Phát nguyện:

Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:

Kinh A Hàm ghi rằng: đã thọ 5 giới rồi phải cần phát nguyện. Đầy đủ hạnh nguyện, phước và huệ mới thành tựu đạo nghiệp; cũng như cổ xe quí, nếu không có bánh xe cũng vô dụng mà thôi, vì không chạy được. Do vậy, nay tôi bảo ông, ông theo lời tôi nghĩ tướng Tam Bảo, đối trước Phật, chí thành phát nguyện, đọc pháp danh của mình, rồi Thầy bảo rằng:

Nay con là…chí thành phát nguyện: nhờ công đức giữ 5 giới đây mà không đọa vào 3 đường ác, rơi trong 8 nạn. Công đức giữ giới như ân ban khắp hết chúng sanh trong pháp giới đều phát tâm Bồ Đề đồng sanh về Cực Lạc; hoa khai thấy Phật, được nghe Phật thừa, mong Phật thọ ký. Nguyện trở lại Ta Bà hóa độ chúng sanh đồng sanh về Tịnh Độ, xa lìa các khổ, được sanh thượng phẩm hoa sen.

(Đợi Hòa Thượng nói dứt 1 câu, giới tử nói theo câu đó, đọc 3 lần như thế và mỗi lần cúi đầu xá 1 xá).

1.1.3.10    Kết khuyên hồi hướng:

Hòa Thượng vỗ thủ xích nói:

-     Này thiện nam tử, do ngươi có gieo trồng gốc đức trước nên nay gặp được duyên lành, dù cảnh đời xấu ác đủ 5 thứ bẩn trược mà vẫn sanh trong gia đình chánh tín, quy y Tam Bảo và giữ gìn 5 giới, ưa thích phòng hộ cẩn thận không thể sai phạm. Như rồng giữ hạt châu nơi cổ, như trâu mao mến đuôi, như canh giữ đập ngăn nước không để rỉ chảy. Như bờ ngăn thành cấm không để cho người phá hỏng. Nếu phạm 5 giới trong đó 4 giới trước là giới trọng, như tử thi (thây chết) không dung nạp trong đại dương. Người phá giới, giới không dung, cũng không được thọ 10 giới Sa Di, giới tỳ kheo, giới Bồ Tát…Vì giới căn bản đã phá nên thiện pháp khó sanh. Nay ngươi có thể nhứt nhứt giữ gìn được không?

Đáp: Mô Phật, con y như pháp giữ gìn.

Hòa Thượng nói:

Ngươi đã như pháp giữ gìn, nên đứng trong hàng tăng, nay tôi vì ngươi mà cạo tóc. Từ ngôi nhà lửa nhưng dọn dẹp sạch đến được chỗ thanh lương, từ con đường mê mà biết quay về chánh đạo.

Hòa Thượng vỗ thủ xích, đứng dậy. Đại chúng chấp tay hồi hướng:

Nguyện đem công đức này

Ban cùng khắp pháp giới

Đại chúng cùng hòa âm

Niệm Phật trong nhiếp tâm…

Thầy Dẫn Lễ xướng cho giới tử lễ tạ chư giới sư 3 lễ. Xong đứng qua 2 bên. Thầy Duy Na xướng tụng hồi hướng và đại chúng đồng tụng:

Thọ giới công đức hạnh khó lường

Bao nhiêu phước báu đều hồi hướng

Nguyện khắp chúng sanh bị thác oan

Sớm sanh cõi Phật vô lượng quang

Mười phương ba đời các đức Phật

Các đức Bồ Tát Ma Ha Tát

Từ Bi dũ lòng đoái thương xót

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.

Hòa Thượng bước xuống lễ Phật xong, kệ hồi hướng dứt, 2 người dẫn lễ đi trước, giới tử tiếp theo, thỉnh Hòa Thượng hồi quy phương trượng (trở về phòng nghỉ). Thầy Tri Khách hướng dẫn tân giới tử đến trước Tổ đường lễ Tổ và lễ tạ các bậc trưởng thượng cho đúng lễ nghi phép tắc.

Lại nữa, theo trong luật người nữ xuất gia, nên mời bên ni thuyết 5 giới, 10 giới; Duy Na dẫn lễ cũng đều là ni. Phần tác lễ, thay vì thiện nam tử, đổi lại là thiện nữ nhơn, dưới chữ Sa Di thêm chữ Ni cho đúng.

1.1.4 10 chi giới pháp

Mười chi giới pháp phân thành 10 như sau:

1.1.4.1 Thông bạch trải tòa:

Trở lên về việc thọ 5 giới Ưu Bà Tắc, từ đây trở xuống nói về xuống tóc. Truyền 10 giới Sa Di có trước sau, pháp có 2 thời và các mục riêng cho việc thiết trí và nhóm họp chúng. Nếu gặp các duyên khác như thì giờ gấp rút chỉ diễn ra trong một ngày cũng nên phân riêng giờ dần, giờ ngọ 2 thời. Người xin xuống tóc sáng sớm hôm sau, trước hết tới gặp Thầy Duy Na và Thầy Dẫn Lễ lễ 3 lạy, đứng chấp tay bạch:

-     Con pháp danh là… hôm qua được chư tôn đức chỉ dẫn được ở trong danh vị cận sự, đã thọ 5 giới và muốn ra khỏi nhà thế tục, song 10 giới chưa tấn đàn, nay con lại kiền thỉnh chư Đại Đức một lần nữa ban cho phương tiện, để con là… cạo tóc xuất gia làm tăng, sớm trở thành nhuần đức không ngằn mé trọn đời con luôn cảm niệm tạc dạ ghi ân.

Thầy Duy Na nói:

-     Này thiện nam tử, luật quy định có thềm bậc, pháp đương nhiên có thứ tự, nay tôi vì ông mà chọn nơi trải tòa, thúc hiệu kẻng nhóm chúng, cung thỉnh Hòa Thượng đăng tòa chứng minh, vì ngươi mà xuống tóc, truyền giới. Khi nghe tiếng kẻng, ông nên chờ tác bạch.

Giới tử xá 1 xá rồi lui ra. Thầy Duy Na cùng với Dẫn Lễ chọn nơi trải tòa, hoặc chỗ đất trống hay nơi giảng đường hoặc ở phòng Phương Trượng. Cho người quét dọn sạch sẽ rồi mới trải tòa, như nghi trần thiết trước có nói rõ.

1.1.4.2 Nhóm chúng thỉnh sư:

Người cầu xuất gia nghe tiếng kẻng báo hiệu, cầm 2 y 5 điều, 7 điều và bình bát theo sau vị Thầy cạo tóc và đại chúng nhóm đông đủ. Duy Na sắp cho giới tử để y bát bên phải chỗ tòa vị cao tăng, con dao cạo, chén nước tịnh (có cành bông) đặt chỗ ngồi của Hòa Thượng. Đồ gội tóc v.v… nhất nhất đều chuẩn bị sẵn sàng. (Nay có thể không cạo tóc bằng dao mà cạo bằng tondeur, cũng nên để sẵn vật đó trên bàn). Thầy Duy Na bảo:

-     Này thiện nam tử, pháp tọa đã bày, đại chúng vân tập, ngươi nên chí tâm hướng thượng, cung cẩn quán tưởng, nhất tâm đảnh lễ: Mười phương Tam Bảo 3 lạy cần cầu đức từ bi gia hộ.

-     Lạy xong lại nói: xoay sang 2 bên tả hữu lạy hiện tiền đại tăng vân tập mỗi bên 3 lạy.

-     Lạy xong lại bảo: ngươi đứng một bên nhờ Thầy Thế Độ (cạo tóc xuất gia) ra khỏi chúng bưng hương đến cung thỉnh Hòa Thượng Phương Trượng.

Hai người dẫn lễ nhịp khánh đi trước, người bưng khay lễ theo sau vào phòng, đúng như lễ nghi thỉnh Hòa Thượng. Mời Ngài ra đến trước tòa ngồi, 2 người dẫn lễ tới gần trước Phật đứng đối diện tả hữu, cầm hương đứng một bên. Hòa Thượng lạy Phật 3 lạy xong, đứng dậy đến trước tòa Thánh tăng trải tọa cụ lạy 3 lạy rồi Thị Giả xếp tọa cụ. Hòa Thượng niệm hương. Duy Na xướng, đại chúng cùng hòa theo:

Nam Mô Vân Lai Tập Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Dẫn Lễ bảo:

-     Ngươi cầm nhang đến trước Phật, tới nơi quỳ xuống dâng hương lên lư, cắm hương xong lui về vị trí.

Đại chúng nghe khánh nhịp chí thành đảnh lễ 3 lạy. Xếp tọa cụ, xoay sang hướng đông trước tòa thánh tăng, đến chỗ trải tọa cụ, nghe nhịp khánh đảnh lễ 3 lạy. Lạy xong, xếp tọa cụ lui về chỗ, bước lui đứng sang bên trái.

Người cầu xuất gia bước ra ngoài: Thầy Duy Na nói:

Thiện nam tử, bây giờ Hòa Thượng đã thăng tòa, đại chúng vân tập sẵn sàng, chuẩn bị tác pháp yết ma (vấn hòa) là cách hỏi để tăng hòa, ngươi phải đi ra khỏi chỗ đây, đứng chỗ thấy nhưng không nghe, đợi lúc gọi mới được phép vào.

1.1.4.3 Người cầu giới ra phía trước xá 1 xá rồi lui ra.

Một người dẫn lễ hướng dẫn ra chỗ có thể thấy bên trong mà không nghe, đứng đó chờ. Dẫn Lễ trở vào trong chúng nghe pháp yết ma. Pháp này tuân theo luật dạy gọi là pháp yết ma không có đương sự hiện diện.

1.1.4.4 Pháp yết ma hòa tăng:

Hòa Thượng vỗ thủ xích hỏi:

-     Tăng nhóm chưa?

-     Duy Na đáp: Tăng đã nhóm

-     Hòa hợp không?

-     Hòa hợp

-     Người chưa thọ đại giới ra chưa?

-     Đã ra

-     Có các vị tỳ kheo thuyết dục và thanh tịnh không?

-     Nếu không ai thuyết dục và thanh tịnh, trả lời không. Trường hợp có, tỳ kheo thọ dục liền - đáp: Có – và ra giữa chúng xá một xá quỳ chấp tay bạch:

-     Bạch Đại Đức Tăng nghe: có tỳ kheo A, B,… mà con thọ dục, tỳ kheo A như pháp tăng sự gởi dục yết ma; trên Hòa Thượng đáp: được. Vị tỳ kheo thọ dục đáp: vâng, xá 1 xá rồi lui về chỗ. Sở dĩ gọi dục tức là bận vì việc cần cấp không thể có mặt với chúng nên nhờ người khác nói thay cho người bận công việc.

-     Tăng nay hòa hợp để làm gì?

-     Đáp: làm lễ yết ma thế phát (xuống tóc)

-     Nay trong chúng đây ai có thể bằng lòng pháp yết ma?

-     Vị Thầy làm pháp yết ma trong chúng chấp tay đáp: con, tỳ kheo A, B bằng lòng. Vị Thầy (trưởng lão) đã chấp nhận tiến ra giữa chúng bạch rằng: Pháp yết ma đã thành, chỗ ngồi đã được đầy đủ, chỗ đứng cũng đã đủ xong. Nếu người bạch yết ma đứng, người nghe ngồi, hay người nghe đứng, người bạch yết ma ngồi, đều phạm việc làm phi pháp. Phép yết ma bất thành với việc đi, nằm cũng như vậy. Do vậy, Hòa Thượng hỏi người biết pháp yết ma nên phải đứng nghe; người làm yết ma phải ra giữa chúng lạy 3 lạy rồi đứng chấp tay bạch rằng:

Đaị Đức tăng nghe, có giới tử A muốn cầu Tỳ Kheo B xuống tóc, nếu tăng phải thời mà đến, tăng thuận nghe cho A xuống tóc; bạch như thế, tác bạch có thành không? (bạch 3 lần).

Hiện diện đại tăng đều chấp tay đồng đáp: thành.

Thầy tác pháp yết ma bạch xong ra giữa chúng xá 1 xá, rồi lui về vị trí. Vị Thầy cạo tóc nghe tăng hứa khả vâng cho thế độ, liền đứng lên theo sự hướng dẫn trước chúng hướng về 2 Hòa Thượng lễ mỗi vị 3 lạy.

1.1.4.5 Gọi cho người xuất gia vào

Tăng đã làm phép vấn hòa xong, Duy Na bước ra bên ngoài nơi giới tử đứng ngoắc tay gọi:

-     Này thiện nam tử, ngươi hãy bước vào.

Người kia theo lời gọi mà vào, vào rồi đứng một bên nghe: trong đây tăng làm phép yết ma xong, đã hứa khả thuận cho ngươi trong tăng già lam xuất gia, ngươi nên ra chính giữa (người ấy bước ra giữa tăng) tới trước Phật, chí tâm quỳ gối chấp tay dâng 3 nén hương cần cầu thập phương Tam Bảo từ bi gia hộ. Đương sự ra trước Phật quỳ dâng hương xong, Duy Na cử bài Tán hương, đại chúng chấp tay đồng tán. Dẫn Lễ bảo giới tử đứng lên rồi nghe tiếng khánh chí thành đảnh lễ 3 lạy.

Phật sanh Tây Trúc,

Giáo pháp sang Đông

Nghĩa lý uyên thâm

Nhơn ngã đều không

Nhân tin thoát lao lung

Quân, thân lợi ích đồng

Khoảng cách thật khó gần (khó gặp).

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

Giới tử quỳ gối chấp tay, kế đến phần thỉnh sư. Thầy Duy Na nói:

Luận tâm phàm là cái thể của việc chứng Thánh, chỉ giáo mới biết được thân giả huyễn là vật chuyển tải đạo. Nếu chẳng tu không làm sao lo liệu được, ngươi nay đã đủ tín tâm xuất gia thích tu phạm hạnh, lẽ ra phải tự cầu minh sư, nương lòng từ làm mẫu mực, nay tôi vì ngươi mà cung thỉnh thượng A hạ B (tên pháp danh) đường thượng Hòa Thượng chứng minh, thế phát làm Thầy truyền giới cho ngươi, huống nữa vị thầy này tinh nghiêm giới luật, khéo dạy kẻ hậu học. Ngươi phải nghiêm chỉnh nhất tâm theo lời tôi để đích thân thỉnh sư. Ngươi tự trình bày sợ e chưa quen, nay tôi bảo ngươi tự xưng tên họ, pháp danh… ngoài ra những lời gì đều theo tôi chỉ dẫn như sau:

Bạch Đại Đức một lòng thương xót, con pháp danh là… nay thỉnh Đại Đức làm thầy chứng minh, là bổn sư thế độ, truyền giới cho con; mong Đại Đức vì con mà chứng minh và làm thầy thế độ truyền giới. Con nương nơi Đại Đức được thế phát, thọ giới, xin thương xót cho con. (Thỉnh 3 lần, lần sau cùng thêm xin đại thương xót cho con).

1.1.4.6 Khai đạo (văn trích nghi thức cổ)

Hòa thượng vỗ thủ xích bảo:

Này thiện nam tử, nay ngươi ân cần 3 lần cầu thỉnh, nên tôi mới vì ngươi làm chứng minh và thầy truyền giới, thế độ. Tôi nói lời nào ngươi nên chú ý lắng nghe cho kỹ. Nguyên luận về gốc tâm vắng lặng, biển pháp khôn dò, người mê muôn kiếp chìm đắm, kẻ ngộ hiện đời giải thoát. Muốn truyền diệu đạo không vượt ngoài xuất gia, khoáng đãng như hư không, trong sáng lồng lộng như trăng tròn; tu hành đầy đủ các duyên, đạo quả không xa. Mới đầu gia công khắc niệm, tất chứng được vị vô vi, sở dĩ bậc đại giác Thế Tôn bỏ ngôi vị đế vương nửa đêm vượt thành cởi áo bào trân quí, khoát áo vải thô. Vào tận nơi thâm sơn cắt tóc tu hành, để mặc cho chim làm tổ trên đầu, nhện giăng nơi mí mắt. Chí tâm tu tịch diệt mà chứng chân thường, dứt trần lao mà đạt thành chánh giác. Ba đời chư Phật không nói tại gia thành đạo, trải qua các bậc Tổ sư, chưa ai từng ô nhiễm mà độ được người bao giờ. Sở dĩ giữa Phật với Phật thông nhau trao tay, giữa Tổ với Tổ truyền tâm không nhiễm duyên trần mới thành pháp khí (tinh anh) nên được thiên ma nể phục, ngoại đạo qui hàng. Trên đền đáp 4 ân sâu, dưới cứu khổ quần sanh. Bị trôi lăn trong 3 cõi, vì không thể xả bỏ ái ân; sâu vào pháp vô vi mới thật là báo ân. Sau khi xuất gia, lễ vượt thường tình không lạy quân vương, không lạy cha mẹ. Ngươi nay có thể bỏ chỗ ngồi của tôi mà tưởng nghĩ đến ân đức cha mẹ, quốc vương lạy đáp tạ từ. Song 1 lạy đây gọi là sau cùng vậy.

1.1.4.7 Lời tạ từ đấng quân vương và song thân

Thầy Dẫn Lễ nói:

-     Này thiện nam tử, hãy đứng lên hướng về hướng Nam. Lễ lạy tạ từ cha mẹ, và hướng Bắc lạy tạ từ quốc vương. Trước hết lấy cái lễ của thế gian từ giả quân thân, sau lấy cái nghi của xuất thế quay đầu về Phật pháp.

Thầy Dẫn Lễ hướng dẫn người cầu thế độ đứng xoay mặt về hướng Bắc, rồi bảo rằng:

Này thiện nam tử, ngươi đứng nghiêm chỉnh hướng về hướng Bắc tưởng nghĩ đến ân quốc vương, đất nước chí thành đảnh lễ 4 lạy.

Giới tử lạy xong, lại hướng dẫn xoay sang hướng Nam rồi bảo rằng:

Này thiện nam tử, ngươi đứng nghiêm chỉnh hướng về hướng Nam niệm tưởng công ơn sanh thành dưỡng dục sâu dày của cha mẹ chí thành đảnh lễ 4 lạy.

Chờ cho đương sự lễ xong, lại hướng dẫn đứng xoay về hướng trung ương rồi bảo rằng:

Này thiện nam tử, ngươi đã từ tạ quân vương, bái biệt cha mẹ, quay về với Tam Bảo làm đệ tử Phật, phải đứng chấp tay ngay thẳng chí thành quán niệm, nghe khánh nhịp đảnh lễ thập phương thường trụ Tam Bảo 9 lạy.    

Lạy xong, hướng dẫn đến trước tòa ngồi Hòa Thượng, Dẫn Lễ bảo rằng:

Này thiện nam tử, hãy hướng về Hòa Thượng chí thành đảnh lễ 3 lạy, rồi quỳ gối chấp tay.

1.1.4.8 Xuống tóc:

Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo:

Này thiện nam tử, giờ đây các duyên đầy đủ, tăng chúng đồng chúc mừng, nay tôi rời chỗ ngồi, trước dùng nước cam lồ rưới lên đảnh đầu của ông, làm cho tâm địa ông mát thanh lương, phiền não không xâm lấn, kế dùng giới đao cắt đoạn tóc ngươi khiến cho tình trần của ngươi dứt đoạn vĩnh viễn; phạm hạnh tăng trưởng. Đây là cái nhân lành của nhiều đời nhiều kiếp; không phải mới sáng nay ngẫu nhiên mà gặp được. Ngươi càng gia tâm tin sâu càng sanh lòng đại hoan hỷ.

Hòa Thượng một tay cầm tịnh bình rời chỗ đến trước người xuất gia dùng chén nước trong lấy ngón tay nhúng cành dương (hoa) rảy lên đảnh đầu đương sự. Một thị giả phụ với Hòa Thượng cầm chén nước, một thị giả khác lấy dao nơi tòa dâng lên Hòa Thượng. Hòa Thượng cầm dao, đọc bài kệ chú, đại chúng cùng hòa theo như sau:

Lành thay đại trượng phu

Hiểu rõ đời vô thường

Bỏ tục hướng Niết Bàn

Ít có khó nghĩ lường.

(Bài kệ trích từ nghi thức cổ, nay có thay đổi).

Hòa Thượng đọc kệ chú xong, lấy dao cạo trên đầu người cầu pháp 3 nhát, rồi lui về chỗ ngồi. Thầy Duy Na bảo:

-     Này thiện nam tử, nay Hòa Thượng đã lấy dao cạo cho ngươi, ngươi nên đứng dậy xá một xá, rồi đến trước thầy thế độ của ngươi quỳ gối sát đất 2 tay nâng dao xin thầy cạo nốt tóc cho.

-     Đương sự tới trước thầy thế độ, thầy Dẫn Lễ xướng:

-     Lễ 1 lạy, quỳ xuống nâng dao dâng lên Thầy ngươi. Lẽ ra ngươi tự nói lời cầu xin, sợ ngươi chưa quen, nay tôi chỉ ngươi nói theo như sau:

-     Đại Đức một lòng nghĩ, con pháp danh là…. Nay cầu xin Đại Đức làm thầy A Xà Lê xuống tóc cho con, mong Đại Đức vì con làm A Xà Lê thế phát, con xin nương theo Đại Đức được xuất gia, xin thương xót cho con. Nói 3 lần và cúi đầu xá 3 xá.

-     Thầy thế phát bảo rằng:

-     Này thiện nam tử, đợi tôi trước lễ đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn và các tôn tượng Đông Tây xong hẳn cạo tóc cho ngươi. Ngươi hẳn đứng sang một bên lấy nước gội tóc.

-     Đương sự đứng lên gội tóc; thầy lễ Phật và các bàn Đông Tây mỗi nơi 3 lạy xong, thầy quỳ trước Hòa Thượng chấp tay bạch rằng:

-     Nay được Hòa Thượng chủ tọa khai đạo, quán đảnh chứng minh, con tỳ kheo… đúng vì… mà cạo tóc cho.

-     Hòa Thượng đáp:

-     Lành thay y đúng như pháp.

-     Thầy thế độ đáp:

-     Vâng,

-     Xá một xá đứng lên, xoay vô giữa rồi đứng sang bên tả.  Vị xuất gia gội tóc xong, tay bưng đồ đựng tóc, quỳ gối trước Thầy, Thầy nên chừa lại một ít tóc trên đảnh y, rồi đưa con dao cạo xuống khắp quanh mái tóc. Duy Na bắt tụng kệ chú cạo tóc, đại chúng đồng hòa âm theo như:

Cạo bỏ râu tóc

Nguyện cho chúng sanh

Xa hẳn phiền não

Rốt ráo thanh tịnh.

Án tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ ta bà ha.

-     Đọc đi đọc lại 3 lần, tới lúc cạo tới đỉnh xong, bài kệ chấm dứt. Dừng dao lại, thầy hỏi đương sự rằng:

-     Tôi đã vì ngươi mà dẫy trừ tóc trên đầu, chỉ còn chừa một chùm trên chỏm, ngươi nên suy xét kỹ để quyết định. Nếu như không thể quên mình tấn đạo, nhẫn khổ tu tập như chỏm tóc vẫn còn. Cũng có nghĩa là người thế tục cho ngươi trở lại nhà cũng chưa muộn vậy. Cho nên nay tôi đứng trước đại chúng đây hỏi ngươi, ngươi có quả thật quyết chí xuất gia để về sau khỏi có hối hận không?

-     Đương sự đáp:

-     Con quyết chí xuất gia, sau này không có hối hận.

-     Ngươi hứa quyết chí xuất gia, về sau không hối hận, phải không?

-     Hỏi 3 lần như thế, đương sự đều 3 lần đáp giống nhau. Ngươi đã quyết chí xuất gia mà không có hối hận, mới cạo dứt chỏm tóc còn lại trên đảnh dưới lưỡi dao như vầy:

Ái buộc dứt sạch

Cần tu phạm hạnh

Tăng đoàn thanh tịnh

Phước huệ toàn thành.

-     Vị thầy cạo tóc xong, đến trước Hòa Thượng, tay cầm dao bạch rằng:

-     Con tỳ kheo…….. nay được Hòa Thượng từ bi chứng minh, vì … con đã xuống tóc xong.

-     Hòa Thượng bảo:

-     Được, tốt lắm.

-     Bạch xong, để dao lại chỗ cũ rồi lui về vị trí của mình. Đương sự đắc độ lạy một lạy rồi đứng lên lui ra một bên phủi tóc, sửa lại y phục xong trở lại chỗ cũ, quỳ gối chấp tay, một vị dẫn lễ tới trước tòa thánh tăng phía Đông trước hết cầm 2 vật mạn y và một bình bát đặt trước mặt Hòa Thượng.

1.1.4.9 Truyền thọ giới Sa Di:

Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo:

-     Này gã thiện nam, đầu của ngươi tóc đã cạo bỏ, hình nghi khác tục, chỉ tên gọi là hình đồng Sa Di, nếu thọ 10 chi thập thiện, thân ở già lam nương theo thầy mà học; ăn uống cùng với đại tăng, mặc y mà ăn uống mới gọi là đồng Sa Di.

Vì thế nay trước hết tôi chỉ cho ngươi, y – bát của Sa Di, kế truyền 10 giới để tiện việc hành trì không trái luật nghi.

-     Hòa Thượng tay cầm mạn y, nói:

-      Đây là cái mạn y của Sa Di cần mặc đắp, mạn có nghĩa là không cắt mãnh khâu lại thành.  Không có điều dài ngắn. Y này mặc thường khi ra vào, tới lui trong chùa, làm việc chúng, trong mọi lúc luôn mang theo không được lìa y khỏi thân.  Do vậy còn gọi là y tác vụ (làm việc).

-     Để y mạn xuống nâng bình bát lên nói rằng:

-     Đây là chiếc bình bát thọ dùng của Sa Di; tiếng Phạn là Bát Đa La, dịch nghĩa là ứng lượng khí. Phàm lúc thọ trai (ngọ trai) nên dùng. Mỗi khi ra vào phải mang theo bên vai hữu có dây đeo bên nách trái.

-     Để bát xuống bảo rằng:

-     Này thiện nam tử, y bát ngươi như pháp, giới cũng đã thọ, ngươi từ vô thỉ cho đến ngày nay do vọng tưởng che mờ bản tâm, tình thức tham ái cảnh trần mà không biết gốc mọi pháp không có tự tánh; trong đó mỗi mỗi sự thủ xả (lấy bỏ) tạo vô số ác nghiệp đã làm cho thân tâm nhơ bẩn. Tịnh giới đã thọ nay ngươi lấy đó an tâm tu tập. Hãy đến trước thập phương Tam Bảo cầu mong cứu giúp, mong từ vô thỉ chưa làm thiện, từ nay tinh tấn, một khắc lỡ tạo việc ác, hứa không tạo lại nữa. Ngưỡng mong Tam Bảo dũ lòng thương hầu cho ngươi thọ giới, ngươi theo lời tôi sanh đại hổ thẹn tịnh tâm sám hối. Tự nói pháp danh… Xong, đọc kệ sau để sám hối:

Xưa con vốn tạo các ác nghiệp

Đều do vô thỉ tham sân si

Từ thân miệng ý phát sanh ra

Tội chướng đây đều xin sám hối.

Xưa con vốn tạo các ác nghiệp

Đều do vô thỉ tham sân si

Từ thân miệng ý phát sanh ra

Nay đối trước Phật cầu sám hối.

Xưa con vốn tạo các ác nghiệp

Đều do vô thỉ tham sân si

Từ thân miệng ý phát sanh ra

Hết thảy tội căn đều sám hối.

Sám hối xong, nay tôi trước vì ngươi tuyên đọc 3 quy y, chính là lúc nạp nhận ngươi, ngươi nên phát tâm phẩm thượng nhận thượng phẩm giới. Nói tâm phẩm thượng đối với Tam Bảo phát tâm đoạn ác tu thiện, tâm lợi tha khắp cùng pháp giới. Hết thảy hữu tình, cùng cảnh vô tình nhưng cùng nơi cảnh sở duyên, nguyện đoạn hết thảy ác. Không có ác nào chẳng dứt, tịnh tu hết điều thiện; không việc thiện nào chẳng tu, nguyện độ hết thảy chúng sanh. Không có chúng sanh nào chẳng độ, có thể phát tâm như thế, là thượng phẩm tâm. Đã được giới Sa Di là thượng phẩm giới. Ngươi nên trong phát tâm như thế, duyên cảnh như thế, ngoài theo tôi lắng nghe suy nghĩ kỹ lãnh thọ, không được biết khác, nghĩ khác, tự xưng đọc pháp danh…Đợi Hòa Thượng đọc một câu xong, liền đọc theo câu đó, chớ có lẫn lộn như:

Con…suốt đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, con nay theo Phật xuất gia, nương theo Ngài A làm bổn sư, Như Lai chí chân đẳng chánh giác là Thế Tôn của con, xin thương xót cho con. (Lần thứ ba thêm: xin đại thương xót cho con).

Trở lên 3 quy y, chính là nạp thể nơi tâm, lại thêm 3 kết đạt được pháp viên mãn, có nghĩa là 3 lần yết ma. Tự xưng pháp danh…nói theo tôi như sau:

Con…quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi, nay con đã theo Phật xuất gia, Ngài thượng A hạ B là bổn sư, Như Lai chí chân đẳng chánh giác là Thế Tôn của con, xin thương xót cho con, cúi xin đại thương xót con.

(Đó là 3 kết đã đọc xong).

-     Này thiện nam tử, tam quy y, 3 kết đã xong. Nguơi đã được giới thể thanh tịnh, nay đây tôi vì ngươi đọc 10 giới tướng, khiến ngươi hiểu qua thực hành để hộ niệm giới thể, hãy tự xưng pháp danh, con pháp danh…

-     Giới thứ nhất từ đây cho đến suốt đời không giết hại chúng sanh là gìới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

-     Giới thứ hai từ đây cho đến suốt đòi không trộm cắp là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

-     Giới thứ ba từ đây cho đến suốt đời không dâm dục là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

-     Giới thứ tư từ đây cho đến suốt đời không nói dối là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

-     Giới thứ năm từ đây cho đến suốt đời không uống rượu là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

-     Giói thứ sáu từ đây cho đến suốt đời không xức ướp nước hoa hương thơm là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

-     Giới thứ bảy từ đây cho đến suốt đời không ca múa hát xướng và cố đi xem nghe là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

-     Giới thứ tám từ đây cho đến suốt đời không ngồi giường cao tốt rộng lớn là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

-     Giới thứ chin từ đây cho đến suốt đời không ăn phi thời là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

-     Giới thứ mười từ đây cho đến suốt đời không đeo giữ vàng bạc, đồ trang sức châu báu là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

(Mỗi lần hỏi, giới tử đáp: con giữ được).

Đọc 10 giới xong, Dẫn Lễ bảo giới tử cúi đầu, đọc 3 lần xá 3 xá. Xong quỳ xuống chấp tay, đợi Hòa Thượng khai thị cho đắp y thực hành. Dẫn Lễ bảo Sa Di, lễ 1 lạy xong đứng lên.

Hòa Thượng dạy rằng:

Việc thọ giới đã xong, nay ngươi đủ thể tánh Sa Di, phải mặc y mạn (trong sách gọi y 5 điều và 7 điều là y mạn), mang bình bát để tượng trưng tướng bề ngoài của Sa Di. Đại Đức Dẫn lễ có thể đắp y cho giới tử (người thọ giới), dạy đọc bài kệ cho biết để hành trì.

(Phụ: Thanh Qui có phần truyền 2 y 5 điều và 7 điều cho Sa Di, cũng như 2 bài kệ chú truyền 2 pháp y đó. Nhưng theo truyền thống Đại Thừa Phật giáo Việt Nam, Sa Di chỉ thọ một mạn y; còn y 5 điều và y 7 điều là của Tỳ kheo. Thầy Tỳ Kheo thọ 3 y cùng một lúc. Tại sao có sự khác biệt này? Và khởi đầu từ đâu? Do đó người dịch bỏ hẳn đoạn văn hai bài kệ đắp y 5 điều và 7 điều. Mong chư vị cao minh cho biết tôn ý trong vấn đề nầy).

Thầy Dẫn lễ đến bàn lấy y, bát, tọa cụ đưa qua, đương sự trước hết tự mang bình bát lên vai, hướng tới trước tòa trải tấm tọa cụ. Và đại chúng cùng đọc kệ chú:

Ngọa cụ ni sư đàn,

Nuôi dưỡng tâm tánh thiện,

Trải bày nơi Thánh địa,

Gìn mạng mạch Như Lai.

Án đàn ba đàn ba, sa ha (3 lần).

Xong lạy 3 lạy. Thầy Duy Na xướng, đại chúng tiếp:

Nam mô bảo đàm hoa Bồ Tát Ma Ha Tát.

1.1.4.10    Khuyến tấn và hồi hướng:

Hòa Thượng  vỗ thủ xích dặn bảo:

-     Này Sa Di, tóc ông nay đã rơi xuống, Ca Sa mặc noi thân, được vào tụ thiện pháp, ra khỏi cảnh trần lao. Mỗi ngày làm cho đạo nghiệp thêm mới, lìa dứt mọi phan duyên (vướng bận), nay tôi chỉ cho ông 5 đức, 10 số làm phấn chấn đạo tâm nương đó mà hành trì.

Nói 5 đức theo kinh Phước Điền có ghi rõ như sau:

1- Phát tâm xuất gia luôn giữ mối đạo,

2- Phá bỏ hình tướng đẹp thích mặc pháp phục,

3- Cắt ân ái, dứt mọi gần gũi qua lại,

4- Thà bỏ thân mạng để duy trì đạo,

5- Chí cầu Đại Thừa vì muốn độ người.

Nói thập số theo như luật Tăng Kỳ ghi rằng:

1- Tất cả chúng sanh đều nhờ ẩm thực (tới bửa ăn niệm 5 phép quán để ngăn tâm tham - sân - si ).

2- Biết danh - sắc là giả mới ngộ pháp nhị không.

3- Biết bịnh tưởng khổ đau là vọng phân biệt, trừ dứt phiền não và sở tri chướng.

4- Hiểu rõ bốn chân lý biết khổ, tập, diệt phải cần tu đạo.

5- Soi tỏ năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều không.

6- Biết thân hư dối như mây tụ hư không. Sáu cảnh trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, như chung với giặc.

7- Khéo dùng 7 giác chi tức là khéo chọn lựa pháp tu.

8- Thường thực hành 8 chánh đạo.

9- Biết rõ chúng sanh nơi 9 cõi đều không… khổ, không, vô thường, vô ngã.

10- Quán cả 10 người tự bản tánh mỗi người không sanh, chẳng hòa hợp.

Đây là pháp Sa di phải ứng hợp như vậy, đã nghe biết rồi luôn luôn ghi nhớ đừng quên. Nếu hay chuyên học quyết hành thì 10 chi giới Sa Di thanh tịnh, 24 cửa oai nghi, 5 đức sẵn sàng, 10 số tu tiến trong tương lai đăng đàn vào hàng thập sư[9], bạch 4 yết ma thọ cụ túc thành giới Tỳ Kheo Tăng, vào nhà Tam Bảo, nối dõi giòng Thánh, công đức khó lường. Từ đây trở đi bồi đắp thêm lòng tin thanh tịnh chớ nên biếng nhác buông lung thân tâm, ngươi có thể nương theo đó phụng hành được không?

 

-     Đáp: Con xin y giáo vâng làm.

Hòa Thượng dạy: Đã y lời dạy vâng làm, đem công đức cạo tóc thọ giới này trên đền đáp bốn ân, dưới cứu ba đường khổ. Đại chúng đồng niệm hồi hướng.

Hòa Thượng vỗ thủ xích một tiếng rồi đứng lên chấp tay niệm Phật. Dẫn lễ bảo tân Sa Di lễ tạ Hòa Thượng 3 lạy, rồi đứng sang một bên. Thầy Duy Na xướng hồi hướng, đại chúng hòa theo:

Thọ giới công đức hạnh nhiệm mầu,

Phước báu bao nhiêu con nguyện cầu,

Nguyện các chúng sanh đang trầm nịch (lặn hụp),

Sớm về cõi Phật vô lượng quang,

Mười phương ba đời các đức Phật,

Các bậc Bồ Tát Ma Ha Tát,

Ma Ha bát nhã ba la mật,

Ma Ha bát nhã ba la mật.

Hòa Thượng xuống tòa lạy Phật xong, theo nghi thường lệ tiễn Hòa Thượng về liêu phương trượng. Đại chúng cùng vui vẽ lạy Phật 3 lạy. Sa Di thọ giới ra trước chúng lễ tạ đại chúng và Thầy Duy Na, thầy Dẫn lễ xong; chờ đại chúng đi hết. Thầy thế độ đưa Sa Di đến Tổ đường lạy Tỗ; lễ xong trở lên Phật điện thu dọn đàn tràng.

Chứng nghĩa ghi rằng, đức Phật lúc sắp nhập Niết Bàn luôn nhắc đến giữ giới luật khuyên chư Tỳ kheo lấy giới làm thầy. Nhờ đó duy trì được mạng mạch tăng già, chánh pháp tồn tại được lâu dài đều do việc giữ giới vậy. Song ban sơ chế luật, trước hết chế 5 giới khởi đầu của người xuất gia. Trước tiên nói 10 chi giới mà tổ Bách Trượng sao lục lại trong Thanh Quy làm mô phạm cho người xuất gia thật là cần yếu vậy. Từ đó trở đi tạng bản phần nhiều ngụy tạo để lại nơi lầu kinh các. Lưu hành sách hay đời cũng hiếm thấy,việc cạo tóc, thuyết giới nghe chừng không nghe, lạ gì Phật pháp không suy tàn chứ ?

Ở đây tôi được duyên may thật là hy hữu, gặp thấy sách mô phạm nầy do luật sư Kiến Nguyệt hiệu chính tại Bảo Hoa sơn ở Kim Lăng nên truyền lưu rộng hầu vản hồi lại buổi suy đồi. Cho Sa Di cạo tóc theo đúng mô phạm tức là Tỳ kheo am tường giới luật; cũng phải suy nghĩ hàm ý nói tuân lời Phật dạy không để thiếu sót. Muốn nghe thấy, thọ trì cũng vì bể khổ, bờ giác truyền đúng hạnh Phật, đứng làm trụ cột vững chắc lâu dài. Trong sùng kính Pháp làm cho Phật pháp hưng thịnh; ngoài giúp vua trị vì giữ vững đất nước bền lâu. May nhờ không nhẹ nghi tắc cũng giống như diễn lại tích xưa. Sách này để tiện việc tác pháp truyền giới nên không ghi phần trích dẫn như chứng nghĩa ghi. Quí hồ ở cái thể đạt Phật ý mới thật xứng danh, để không phụ ân sâu giúp (tế độ) bậc quân thân.

1.2Lời phụ: qui tắc cạo tóc có 8 điều kiện:

Thành lập đại tòng lâm là vì thập phương đệ tử xuất gia học đạo tu hành; ở đây không nuôi chúng khu ô (Sa di nhỏ tuổi đuổi quạ ) sợ thành cái tệ cho nên tuổi đồng ấu xuất gia đa phần ở am cốc (am tranh cốc lá), tịnh thất thỉnh các vị trụ trì các tòng lâm tới làm thầy truyền giới. Thảng hoặc như người trai trẻ có chí hướng muốn làm đệ tử xuất gia tới tòng lâm xin thế độ (cạo tóc). Sa di này được phép, đây là việc trên hết của chúng, vì nó có liên hệ rất lớn nên không thể không thận trọng chọn lọc người làm nền tảng của bực hiền thánh. Do đó mới qui định 8 điều như sau:

1- Cha mẹ không cho phép, không được giữ đương sự lại. Biết chắc là người có tâm xuất gia, bảo y nên về nhà xin phép che mẹ; sau khi được hứa thuận mới chấp nhận.

2- Không nhận cho xuất gia người phạm pháp bỏ trốn đi tu.

3- Kẻ bị giam giữ (tù tội) không cho tu. Như quan chức cho chí hạng làm công, nếu đạo tâm vững mạnh, hoặc buộc đương sự xin gia ân thả ra; hoặc báo cho chủ nhân biết tin lành nầy, được chủ hứa mới nhận.

4- Người theo ngoại đạo trà trộn làm lũng đoạn chánh pháp, không cho xuất gia. Các đạo tà như vô vi của Bạch liên giáo, thuật trường sanh, thiên chủ v.v… Nếu người đó hối tâm lỗi lầm trước cho ở chùa thời gian để xem xét nếu đúng thật, mới cho xuống tóc. Như người quan hệ đạo Lão muốn cải qua đạo Thích; nhẫn nại không có tâm khác mới có thể cho xuất gia.

5- Người không có thân nhân, lai lịch bất minh, không cho đi tu. Quán xét căn cơ định đoạt, nếu không quá xa lạ như người thật tâm cầu xuất gia nên cho đương sự quy y Tam Bảo trong vòng vài ba tháng truyền cho 5 giới; đợi đến một năm hoặc 3 năm mới cho xuất gia.

6- Sau khi được chấp thuận ở chùa phải học thuộc các thời khóa tụng; siêng năng không lỗi lầm mới cho xuống tóc. Khảo sát không thuộc kinh không cho cạo tóc.

7- Người đã xin xuất gia đối với lễ nghi, phép tắc phải nhất nhất tuân hành. Nếu buông lung phóng đãng, vô loại sàm sỡ khuyên bảo không biết cải đổi, không cho tu.

8- Xuất gia ở tòng lâm nên tuân theo lệ cấm xưa. Chỉ y theo một người là vị trụ trì; Tăng chúng mỗi người đều không được làm khác, nếu trái cả thầy trò đều ra khỏi viện.

Ngày… tháng… năm…

Trụ trì… sao lục

Lời phụ: dâng sớ phụng cúng lễ xuất gia, nội dung như sau:

Từng nghe rằng đức Thế Tôn cắt tóc đi tu, xem ngôi vị đế vương như áo rách. Thánh Tăng xuất gia như đôi cánh chim sổ lồng, nhờ… phàm để nhập Thánh. Mong tự độ để lợi sanh, trên truyền rộng gia phong Phật Tổ mãi mãi làm tai mắt nhân thiên.

Nay tại Úc Đại Lợi… tỉnh… thành phố… chùa… theo nghi cúng Phật, Tỳ kheo thế độ… cầu độ. Sa Di… hôm nay chí thành niệm hương, hướng về đức giáo chủ cõi Ta Bà là Phật Thích Ca mâu Ni, chư Phật, Thánh hiền tại hội Linh Sơn, trên tòa sen báu. Kính cảm thông lời tỏ bày nhân vì cầu xuất gia cho Sa Di pháp danh… tánh danh… sanh ngày…tháng… năm… giờ… Hôm nay là ngày tháng năm… tại chùa… quy y, là đệ tử của thầy Tỳ kheo… đổi tên là… bỏ thế nhiễm thọ giới pháp.

Lại nghĩ: Tân Sa Di… lâu nay  ngụp lặn trong đời, chưa hiểu rõ ý niệm xuất trần, thân cận tham học giáo pháp Đại thừa để ngỏ hầu biết lối nhập môn, xé nghiệp buộc ở thế trần, thế thân phàm mắc nơi lưới tục. Phát tâm thoát trần, lập chí xuất gia, may gặp thắng duyên toại thành đại nguyện. Do vậy, kính dâng hiến thanh trai một diên, để tỏ trọn tấc dạ kính thành. Ngưỡng mong hồng ân đoái thương cảm cách. Những nguyện từ quang tỏa chiếu mưa pháp thấm nhuần, làm cho tân Sa Di, được đắp y mang bình bát, làm rường cột cho Phật pháp; học đạo tham thiền, vượt ngoài cõi sanh tử; thân thể kiện khang, tâm tư thanh tịnh, ma chướng không xâm hại. Thật quả là đạt đến diệu môn bất tư nghì, làm người xuất thế đủ cơ duyên chấn chỉnh thượng cơ. Tỏ bày tâm nguyện như trên đây, thật quả như lòng mong mõi.

Văn Sớ trên đây cúi xin Tam Bảo chứng minh gia hộ cho chúng con trọn thành tâm nguyện.

Ngày… tháng… năm….

Tỳ kheo thế độ… cho tân Sa Di… dâng sớ.

Chứng nghĩa ghi cổ nhơn nói rằng xuất gia chính là việc của bậc đại trượng phu, nếu chẳng phải  tướng ấy đâu đảm đương được!

Ngài Vân Thê Liên Trì nói rằng, tướng lấy võ công ổn định loạn; văn dùng văn học đem lại thái bình. Việc trong thiên hạ đều do tay các tướng văn võ cả; nhưng Ngài nói rằng xuất gia chẳng phải việc làm của văn võ. Nhưng mà xuất gia đâu lại quá hạn hẹp vậy sao!

Dựa theo lời ngài Vân Thê dẫn mà không luận, bởi vì người xuất gia vì muốn vượt dòng sanh tử lên bờ giác; trải qua vô số kiếp bị xoay vần. Một sớm giải thoát được lợi mình lợi người, độ sanh vô số mà khởi đầu ở một niệm xuất gia. Vì thế, ở đây nói chẳng phải việc nhỏ vậy! Bậc cao nhơn xưa nêu chỗ thấy nầy nên nói xuất gia đều do đại nhân duyên 10 phần được đại hoan hỷ. Như cá thoát cạn, chim bay trong bầu trời; có đủ tâm địa rộng lớn trong hết thảy các hạnh. Nhẫn đến 10 giới, 250 giới, Bồ Tát giới: 10 giới trọng, 48 giới khinh v.v… tuân thủ thực hành không biết mỏi mệt.

Nay thời không được như vậy, cha mẹ hoặc do nghèo khổ mà cho con vào chùa xuất gia, hay bản thân đương sự gặp việc rắc rối, bức bách mà miễn cưỡng muốn đi tu, kỳ thực lúc đầu chưa từng phát tâm chân thật. Cho nên về sau người như thế cũng chẳng thật sự được an lạc. Hoàn toàn trông nhờ nơi vị thầy, trước hết thầy nhận y cứ theo giới luật, rồi theo thời gian thêm lời dạy bảo; theo đó bỏ dần thói quen để đạo tâm kiên cố. Tâm con người do giáo huấn mà thấm nhuần mỗi khi một ít, ngỏ hầu kỳ vọng tánh tốt ngày càng tiến triển xa hơn.

Luật Ngũ Phần, Phật dạy Ngài Xá Lợi Phất hướng dẫn La Hầu La, trước truyền 5 giới Ưu Bà Tắc, sau mới cho cạo tóc thọ 10 giới Sa Di. Việc xuất gia thọ giới là mô phạm đầu tiên. Cớ gì ngày nay xuất gia phần nhiều người đã chẳng phát tâm mà được làm thầy. Cũng chẳng nhọc suy nghĩ tới nguồn gốc, thầy có dạy khuyên gì là đệ tử theo học. Những người với tâm lợi dưỡng háo danh do sự thù ứng ngoài đời. Người thật sự vì cầu thoát ly sanh tử muốn độ mình, độ người có khác, tức là giá như lúc đầu không lập nguyện rốt cuộc hỏng phế cả. Nghĩa là vì việc thọ giới ắt hẳn phải đủ 3 đàn nói chung mới truyền giới. Không cứ y bát thiếu đủ hay sự cố xảy ra giới đàn phải đình hoản lại chờ một năm sau. Người chưa thấm nhuần giới, giới thiếu kém nhưng được chính thức đăng đàn thọ giới và còn nhiều việc nữa, tệ xấu trái với Phật pháp, là một sự cố. Không dứt khoát một cách miễn cưỡng vẫn tiến hành thọ giới cho xong việc mà thôi. Ôi ! Thọ giới cả trăm nghìn mà đắc giới có được mấy người! Phật pháp suy đồi do việc sai trái truyền giới này vậy. Thiết nghĩ trong đây cả thầy, trò đều phạm sai lầm cả, nhưng lỗi Thầy hẳn nhiều hơn.

Sách Thiền Lâm Bảo Huấn Ngài Hoàng Long nói: Cha nghiêm con kính. Sự giáo huấn ngày nay làm mẫu mực cho ngày sau; cũng giống như sửa sang lại các thế đất; chỗ lồi nên hạ xuống nơi lõm lấp san bằng. Người sắp leo núi cao nghìn trượng ta cũng có lời khuyên như thế. Kẻ khốn khổ ở trong 9 châu cũng như vậy. Tài năng đạt đến cùng, dối gian tự chấm dứt, đến một lúc người ta phải tự ngừng. Cũng nói: hoài bão đấy lão bà ấy; tiết xuân hạ phát dục. Sương đó tuyết đó mới thấm nhuận thu đông. Thầy không giáo huấn phỏng có được không? Y cứ theo kinh  Mục Liên vấn Phật: Vào thời Phật Ca Diếp có một Tỳ Kheo độ đệ tử mà không dạy khuyên để làm nhiều việc phi pháp. Người đệ tử chết tái sanh làm hỏa long thành con rồng lửa, trong bảy ngày lấy lửa thiêu xác, thịt da cháy sạch chỉ còn lại xương. Sau đó rồng hoàn hình như cũ, lần nầy lại thiêu cháy mà không chịu nóng nỗi bèn quán thấy đời trước mình làm vị sa môn không giữ giới luật, thầy không dạy dỗ, liền giận bổn sư nghĩ muốn làm hại. Về sau, sư cùng với 500 người qua biển bị con rồng tới cản thuyền. Mọi người trên thuyền hỏi:

-     Vì sao cản thuyền?

-     Đáp: Các ông hãy ném Tỳ Kheo đó xuống, tôi mới để các ông đi.

Hỏi rằng: Tỳ kheo can dự gì ngươi? Sao không đòi ném những người khác mà chỉ ném một người này?

-     Đáp: Vì y vốn là thầy tôi không dạy dỗ, nên nay tôi phải chịu thống khổ. Vì thế, tôi yêu cầu đó. Mọi người thấy tình thế nguy cấp chuẩn bị ném vị tỳ kheo xuống nước.

Vị Tỳ kheo nói:

-     Không cần ai ném, để tôi tự xuống nước; rồi tự gieo mình xuống dòng nước mất dạng.

Mọi người đi được an toàn. Lấy đó suy nghiệm: không khuyên dạy đệ tử bị hại không phải nhỏ vậy. Ngoài ra, Kinh Ưu Bà Tắc ghi rằng, cho thọ giới bừa bãi trong một ngày giết vô số mạng sống; cho nên quyết không nuôi đệ tử mà không dạy dỗ. Kinh Thiện Giới ghi: bọn Chiên Đà La và người hàng thịt, tuy hành nghề ác nhưng không phá hoại giáo pháp của Phật, hẳn không nhất định đọa trong ba đường ác. Nhưng làm thầy không dạy đệ tử là phá hoại Phật pháp, ắt đọa địa ngục. Do quán xét như thế, Sa Di được thọ giới chính là nhân duyên lớn quan hệ của Phật pháp. Người thọ giới mà không hành trì còn hơn là lỗi không dạy, huống nữa thầy không dạy khuyên hình đồng Sa Di giống như bạch y cư sĩ. Nếu không đặt nền móng trước quyết không thể xây lên lầu cao gác rộng được. Đi càng xa, hại càng nhiều mà còn bị chướng ngại vượt bực. Đó há chẳng phải là thầy của sự sai quấy hay sao?

Nay qui định đúng việc xuất gia như luật sư Kiến Nguyệt hiệu đính tại núi Hoa Sơn Giang Nam, trên hợp lời Phật dạy, dưới hợp thời cơ, thật là đẹp, hợp pháp. Như con giòng họ Thích chúng ta nên cùng nhau gìn giữ mà tuân hành đúng vậy.

1.3Phụ Về Đàn Giới:

Đàn giới đủ 3 đàn: đàn giới Sa Di truyền 10 giới, đàn Tỳ kheo, đàn Bồ Tát giới cho cả xuất gia và tại gia. Giới tử chuẩn bị đầy đủ 3 y, bình bát, tọa cụ, học thuộc kinh, luật… Nên đến bổn sơn sớm ít nhất là 3 ngày để thực tập giới luật, lạy Phật, sám hối. Đừng để đến ngày thọ giới vội vàng hấp tấp mà nên dự định trước.

1.3.1 Niêm yết thông báo

Giám tự (Giám viện) thông báo giới đàn rộng rãi trên phương tiện truyền thông đại chúng:

Chứng nghĩa ghi rằng, giới đàn nên thông báo trước ít nhất là 6 tháng để giới tử các nơi có thì giờ chuẩn bị. Dán thông báo ở chùa để mọi người dễ nhìn thấy nhờ đó có thể thông tin rộng, cũng là việc cần làm. Trên Thông báo có thêm phần phụ chú: Hội đồng giới sư, Hòa Thượng A làm đàn Đầu, Hòa Thượng B làm Yếu Ma A Xà Lê, Hòa Thượng C làm Giáo thọ A Xà Lê; Thượng Tọa A, B, C làm tôn chứng.v.v… Nên gởi thư cung thỉnh trang trọng (nếu ở xa) cũng có thể được, hoặc đích thân tới mời từng vị. “Thông báo giới đàn phải đầy đủ các chi tiết như ngày giờ, địa điểm…” Tiếp theo chuẩn bị các thứ: giới tử chuẩn bị 3 y, kinh luật, bình bát, tọa cụ, đãy lọc nước, đãy đựng bình bát, khăn lau, đồ lót bình bát v.v… cũng chuẩn bị tiền cúng dường giới đàn, giới sư tùy theo khả năng. Đây là cơ hội tạo công đức. Thông thường gọi là tiền cúng toàn đàn giới - cúng chung. Nếu giới đàn tổ chức mà toàn ban chức sự tại chùa hẳn số tiền cúng chung giảm xuống phân nửa. Còn thừa lại bao nhiêu chiếu theo đó nhập vào cúng dường trai phạn. Ăn uống, điện nước, điện thoại, tắm giặt, cạo tóc… cho chí mọi thứ nên tùy khả năng phát tâm, chứ không nên bắt buộc miển cưỡng. Tiền cúng dường thập sư có thể tam sư khác và 7 thầy tôn chứng khác, nhưng đều nhau. Cũng có giới đàn thầy Giáo thọ nhận ưu tiên hơn tùy theo mỗi nơi quy định.

1.3.2 Lễ vật cúng dường

Vật dụng cúng dường chùa cho nhập kho; nhang đèn, tiền sớ giấy giao thầy Giáo thọ và chùa quyết định. Những bửa điểm tâm theo tiêu chuẩn của giới trường. Nếu có cúng dường trai tăng, thiết lễ đãi đằng… đều giao cho nhà trù lo liệu mà không thuộc về công việc của giới trường.

Chứng nghĩa ghi rằng, có sách khác mở đầu nêu rõ thường trụ phải chuẩn bị các thứ tức là giới trường phải cụ bị các loại pháp khí trang nghiêm. Nếu nêu rõ bổn tự lo hết nhang đèn, hoa quả các thứ v.v… trừ những đồ dùng riêng của giới tử. Song hai điểm nầy mỗi nơi có khác không đồng khó mà có được một điểm chung, nên ở đây lược qua không đề cập đến. Chỉ nêu ra người cầu giới chuẩn bị các món lễ vật, tiền hương tín; cũng như sẵn sàng 3 y trước, cùng với các thứ cần thiết. Những thứ nầy hẳn phải sẵn sàng là việc phải có của người thọ giới. Tổ Kiến Nguyệt núi Hoa Sơn có viết một bài tản mạn trong mộng tự kể lại rằng:

Một buổi sáng trước kia tại núi Kê Túc đêm ở chùa Tịch Quang có hỏi vị minh sư của sơn môn rằng, nghe đâu hang sư tử có nhị vị lão Hòa thượng Đại Lực, Bạch Vân chuyên tu tịnh nghiệp trong 30 năm không xuống núi. Vào ngày 18 có ngài Diệu Tông Ám Sơ vào động đầu tiên đến hang lễ lạy xin xuống tóc xuất gia.

Đại Lực lão Hòa Thượng hỏi rõ đầu đuôi và may mắn được Ngài rũ lòng từ chấp thuận; sai chuẩn bị y bát, Ám Sơ nói: được thừa nhận rất là sung sướng rồi, y bát đệ tử đều đã sắm đầy đủ cả.

Bạch Vân  lão Hòa Thượng nói:

-     Tôi xem người này về sau thành đại khí, không phải chơi đâu, sợ e xuất gia dễ, việc trì giới không bền. Phải tự y tới gõ cửa tha thiết khẩn cầu mới trừ bớt ngã mạn, trắc nghiệm xem tâm ý mình may ra được y bát; y tái đến đây lần nữa hẳn cho xuống tóc. Suy nghĩ của 2 nhà thiện trí thức, hai lần thu nhận một lần bác bỏ làm cho người ta e sợ. Căn cứ theo đây cho thấy: ba y, bình bát, tọa cụ ắt phải chuẩn bị đủ đầy mới nên cầu thọ giới. Trong luật chỉ cho phép mình phải tự sắm đầy đủ, không được mượn dùng, mượn cũ hư hao phải trả đồ tốt. Gần đây nghe đâu giới đàn có những việc như thế, việc mượn hay vay mướn đồ rất dễ. Như vậy việc cầu giới quá dễ nên sanh tâm khinh lờn, mà không thích hợp, nên để giới tử thấy giới khó hành trì. Thật là thời buổi Phật pháp suy tàn, điềm này báo trước rồi vậy.

1.3.3 Dự định lập các ban kiến đàn rõ ràng.

Công việc có sắp xếp trật tự, pháp mới thành tựu được mà điều cần nhất là sự hòa hơp. Hơn nữa trọng trách một đàn giới, trên dưới đều hổ tương thảo bàn trước kỳ giới đàn, cũng như tập dượt nhuần nhuyễn cho tới lúc đăng đàn. Từ từ hướng dẫn giới tử thành kính chiêm nghiệm mà sanh lòng chánh tín, làm mô phạm cho người không nên cô phụ kẻ hậu học. Thảng hoặc có điểm sai trái nên dàn xếp khéo, không nên quở trách ngay trong đàn tràng, làm mất vẽ trang nghiêm thanh tịnh. Người xướng ngôn (điều khiển chương trình) nên rõ ràng, giọng phải hòa huởn trong làm cho người dễ nghe, nhập tâm. Đạo muốn trường cữu, các thầy nên linh động đọc kỹ những từ sau đây:

-     Hòa Thượng: tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là lực sanh hay Trưởng lão hoặc Trụ trì hay cũng còn gọi là Phương Trượng. Người đời  thường xưng Đường Đầu hay Đàn Đầu Hòa Thượng tại Đại giới đàn.

-     Yết Ma; tiếng Phạn là Yết Ma, dịch là tác pháp, tức là nhị sư hay tả sư tại Đại Giới đàn.

-     Giáo Thọ: đời Đường gọi là Bậc tọa vị (thầy dạy Pháp) cũng gọi là nhị sư hay Hữu sư.

-     Tôn chứng : một Hội đồng gồm 7 vị hoặc thất chứng hay xưng các sư, ngồi 2 dãy bàn hai bên tam sư tại đại giới đàn.  –

-     Khai đường tức là đại dẫn lễ hay cũng gọi là bổn đường; còn gọi là thầy Điển lễ, vì thầy hướng dẫn đàn giới như Duy Na tại Thiền đường.

-     Bồi đường tức là người dẫn lễ thứ nhì, cũng gọi là bổn đường hoặc gọi thầy Phó, giống như Tham Đầu ở thiền đường.

-     Đại tác pháp tức là người dẫn lễ thứ ba, gọi là tả ban cũng như Duyệt chúng ở Thiền đường.

-     Nhị tác pháp tức là người dẫn lễ không luận nhiều ít đều gọi chung là dẫn tán; người đời gọi là chiếm ban dẫn lễ, cùng đi theo 5,6, 7, 8 vị khác mà là sư phó, đều thứ tự làm việc.

-     Hương đăng trực đàn: hai vị luôn có mặt làm việc tại giới đàn. Phàm tân giới tử cũng gọi các thầy là sư phó.

-     Phân công việc: Nhỏ một bậc trông coi một vị lớn, ngồi nhường chỗ, đi cũng phải nhường bước các vị trước. Hễ Sa Di thấy người thọ giới lâu tôn kính như Thượng Tọa. Giới tràng đại chúng trọng Ban Chức Sự, Ban Chức sự quí các ban khác, đều phân tôn ti trật tự; đã có nêu đầy đủ nơi hai chương ở đầu sách. Phàm giới đàn có việc gì cần, trước phải trình bày cho Bổn đường, Khai đường bàn tính, nếu không ổn mới đưa qua lưỡng tự. Công việc qua 3 vị mà đại bộ vẫn không xong mới bạch lên Phương Trượng. Nếu không trình qua Khai đường hẳn có xáo trộn tranh cải với lưỡng tự; trình lên Phương Trượng lớn tiếng làm động chúng nghiêm phạt.

Chứng nghĩa ghi rằng, ngày xưa truyền giới chỉ luật tông; từ đời lịch triều phân pháp về sua, thiền tông, giáo tôn đều mở rộng. Chánh tọa thay Phật tuyên dương làm chủ vị một phương, lưỡng tự phân ba cấp, hai thầy, bảy thầy là Thánh chấp. Trong giới Bồ Tát, Ngài Văn Thù, Di Lặc làm tôn chứng, dẫn lễ là hiền chấp; 10 phương Bồ Tát là bạn lữ đồng học. Hương đăng, trực đàn và chư vị trợ tá là chúng hay làm việc biện sự. Thiền sư Tiêu Sơn Tánh Hải ở Giang Nam trong Thập Di tập có luận việc Trì Phạm Hoặc Vấn: trong thời mạt pháp người truyền giới thông suốt gọi là Hòa Thượng, người thọ giới thông suốt giới là tăng mà giới đặt đầy đủ cho bất luận ai. Người phạm giới không thể vượt được, quả có tội không? Không có tội  s ao?

-     Đáp: Người không thọ giới, như chẳng phải quan tể tướng mà hành giả lấy quyền hành để áp đặt cai trị thiên hạ. Người thọ giới mà phạm giới như nhận chức quan không xứng đáng đi ngược lại dân; vua đặt cho chức không làm xong phần vụ có bị hình phạt không? Tôi biết rõ việc đó phải đặt trong hình phạt vậy. Vì thế, người truyền giới có một giới mới có thể truyền cho người một giới, có hai giới truyền hai giới. Không có giới nào mà truyền giới, một giới ắt chiêu lấy hậu quả của một giới, như người đời mà lộng quyền thiên hạ, đâu không bị trừng phạt ư? Người thọ giới, thọ một giới ắt giữ một giới; phạm một giới ắt hẳn chiêu báo của một giới. Như làm quan mà không xử công việc quan há không bị trừng phạt hay sao?

Lý đã rõ ràng, không đợi kẻ trí mới biết. Vì thế, đã có một giới mới có thể truyền cho người một giới; không có hẳn không truyền giới nào. Có khả năng giữ một giới thì thọ một giới; nhắm bất khả năng không giữ được nên trả lại giới sư. Phật có dạy rõ như vậy nên y theo đó mà làm không nên ham cái danh hão mà chuốt lấy họa.

1.3.4 Dự định công việc giới đàn:

Trước hết nêu 3 đàn: Đàn một, đàn hai và đàn ba.

1.3.4.1 Đàn một

Đàn một 8 việc:

1) dạy bưng bình bát, đắp y,

2) thỉnh cầu xin giới

3) Kiểm tra lại y bát có đủ thiếu

4) Lạy sám hối

5) Hồi tâm

6) Giải thích giới sắp thọ

7) Phát nguyện sẵn sàng

8) Ôn tụng luật Tỳ ni nhựt dụng.

1.3.4.2 Đàn hai

Đàn hai có 13 việc:

1) Truyền Sa Di giới

2) Dạy các oai nghi

3) Phát thẻ

4) Cầu giới

5) Chỉ rõ tên từng món y, bát trao nạp 

6) danh thiếp

7) Sám hối

8) Hồi tâm

9) Cúng ngọ

10) Mời thọ trai

11) Giải thích giới

12) Phát nguyện

13) Truyền Tỳ kheo giới.

1.3.4.3 Đàn ba

Đàn ba có 10 việc:

1) Cầu giới

2) Lạy sám hối

3) Hồi tâm

4) Khai thị pháp tu khổ hạnh

5) Đốt liều

6) Thuyết đại giới

7) Phát nguyện

8) Truyền Bồ Tát giới

9) Cấp phát chứng chỉ

10) Hồi hướng.

Tổng cộng 3 đàn gồm có 31 việc. Xem thêm sách “Tam đàn truyền giới chánh phạm” để rõ.

1.3.4.4 Phần tiếp theo phân thành 4 mục.

A- Tòa chính:

1) Đàn thứ nhất: phát lồ sám hối sửa đổi, cầu giới, hồi tâm, giảng ý nghĩa giới

2) Đàn thứ hai: thỉnh cầu giới, trao danh thiếp, hồi tâm, cúng ngọ, mời thọ trai, giảng rộng giới

3) Đàn thứ ba: thỉnh cầu giới hồi tâm, chỉ hạnh tu khổ hạnh, giảng rộng giới. Nêu chung gồm có 16 việc... Ni phát lồ riêng, giảng bát kỉnh pháp và khai thị riêng. 5 giới tại gia riêng, Bồ Tát tại gia 6 giới trọng và 28 giới khinh nói riêng (xem thêm Tam Đàn thọ giới).

B- Phụ tòa:

1) Đàn thứ nhất: phát lồ, cầu thỉnh giới, sám hối, hồi tâm, giảng rộng giới

2) Đàn thứ nhì: cầu giới tỳ kheo, trao danh thiếp, sám hối; hồi tâm, giảng rộng giới.

3) Đàn thứ ba: Cầu giới Bồ Tát, sám hối, hồi tâm, giảng rộng giới; 3 đàn gồm chung có 14 điều. Ni phát lồ riêng 3 đàn riêng, sám hối, vấn già nạn riêng. Xem thêm phần phụ ba đàn giới.

C- Bật tòa:

1) Đàn thứ nhất: dạy bưng bình bát, phần đầu lễ nghi cần phải thuộc rành việc cầu giới, kiểm tra y bát, thuyết giới, truyền giới; ôn tập luật Tỳ ni, phát thẻ

2) Đàn thứ nhì: cầu giới Tỳ Kheo, chỉ rõ y bát danh tướng, trao danh thiếp, cúng ngọ, mời thọ trai, giảng rộng giới, xướng lạy lễ truyền Tỳ Kheo giới

3) Đàn thứ ba: cầu giới, nói qua về tích trượng, cách thức xướng kệ tụng kinh, hạ đàn, truyền trượng, truyền Bồ Tát giới, cấp chứng chỉ; gồm tất cả 19 điều. Ni chúng dạy riêng, cách bưng bình bát, phạm lỗi luật lệ riêng, giới bổn của Ni riêng, Bồ Tát riêng, cấp chứng chỉ riêng. Trong giới đàn có việc gì phải thưa bạch, phổ đồng cúng dường tiền bạc, bàn thảo giới luật. Bản văn cung cấp 2 bên, thẻ thập sư, lập chứng chỉ, vị trí thiết bàn Phật v.v... đều cần ghé mắt lưu tâm xem qua một lượt 3 đàn các việc.

D- Dẫn lễ:

Ban dẫn lễ có 5 phần việc:

1) Khai đường

2) Bồi đường

3) Đại tác pháp

4) Nhị tác pháp

5) Trở xuống đều gọi dẫn tán khai đường.

Dẫn lễ là người hướng dẫn tân giới tử các phần lễ nghi, trước sắp xếp các vị đồng liêu đến phòng thầy Giáo thọ, lễ thầy Duy Na thỉnh chỉ dạy nghi lễ. Những việc như đứng vào thứ tự (bài ban), đứng ngay thẳng (trạm ban), xuất ban, bái (lạy), chấp tay ngang sống mũi, đứng thẳng hàng, bước tới (tường lộ), quỳ gối, đứng lên, tiến tới, phân đứng hai bên, ra khỏi đường, hồi đường, đứng nghiêm, ngồi thẳng, xoa tay, quán tâm, cầm đũa, bưng chén, đặt đũa xuống, để chén xuống, dùng cháo không gây ra tiếng, che miệng khạc nhổ, lấy tăm xỉa răng xong; lạy Phật, tụng kinh, mặc áo, đi đại tiện, tiểu giải; cách xưng pháp danh, đáp tôn hiệu thầy, chắp tay đáp lễ, đứng cung kính nhường lối, trả lời A Di Đà Phật, đi lễ thập phương, hô chuông chỉ tịnh, nhịp bảng chỉ tịnh, dẫn khánh, gõ mõ nhỏ, chắp tay xá, đắp y, xếp y, mở sách, xếp cụ, nhứt cụ tức tùy cụ đem theo mình trải mở tọa cụ, cất tọa cụ, ứng dụng bình bát, phương pháp niêm hương, nghi thức cắm nhang, nhiều người lễ vòng tròn. Phép nhập liêu phòng, giọng điệu lời thỉnh, âm điệu lời bạch, đáp được đội đầu, đặc biệt thọ nhận đáp: y giáo phụng hành, lễ một lạy rồi đứng lên, lễ một lễ thu tọa cụ, sắp ly ra, thu ly lại... cho chí luân vòng trong ngày trị nhựt, những việc coi sóc v.v... nhất nhất phải ở trước thầy Duy Na tập dượt. Tập nhuần nhuyễn đến lúc vào đàn dạy các tân giới tử.

Lại Dẫn lễ, dẫn khánh đi trước chậm rãi đúng lễ: niệm, dừng, đi, đứng… phải chỉnh tề. Phàm vị dẫn khánh không quá chậm, nhanh mà giữ mực trung. Hòa Thượng lạy, 2 thầy Yết Ma, Giáo thọ lạy, đại chúng cùng lạy, dẫn lễ lạy, tân giới tử lạy, nhịp khánh đều như nhau. Lạy thứ nhất, thứ nhì… đều nhịp khánh lễ một lạy; nhịp kế đứng lên. Lạy thứ ba lúc đứng lên nhịp khánh hai nhịp; xá lui nhịp bốn nhịp. Xá hòa huởn nhịp khánh cũng chậm lại, xá gấp khánh cũng nhịp nhanh. Lời xướng thỉnh nên hòa huởn khoan thai, đến câu dứt xong nhịp bốn tiếng. Cầu xin thương xót (từ mẫn cố) dẫn khánh nhặt ở đuôi; trước chậm rãi, sau nhặt dần, nhịp chừng độ 9,10 lần.

Phàm người thủ khánh phải để ý nhịp đều như rước tới - lui phải nhịp đúng cách. Tới chỗ làm lễ chuyển thân , hai người đều hướng lên Xá Phật nhịp 4 tiếng khánh. Đi trên đường (dẫn tới lễ đài) hai người thay phiên nhịp khánh, tiếng lại tiếp tục đến nơi hành lễ không xá. Nhịp 4 tiến thầy khởi thân; nhịp tiếng một rước thỉnh đến nơi làm lễ. Trở về vị trí không xá nhịp 4 tiếng rồi lui ra.

Nói tóm lại, phần rước trên đường đi tới liêu thầy không nhịp khánh. Trước tiên vào lễ Phật, kế lễ thầy bạch xong mới dẫn khánh bước ra tới điểm hành lễ.

Duy Na xướng lễ Phật, lễ sư dứt ba hồi khánh xong; rồi chấp tay đi đến giảng đường lui về chỗ ngồi. Đi tuần liêu theo đúng pháp mỗi một bước nhịp một tiếng khánh; hiệu lệnh hai hồi khánh; giống nghinh thỉnh rước đi.

Phàm lạy Phật đầu phải chấm sát đất, khánh dẫn đầu đảnh lễ trước; sau gõ mõ nhỏ cũng giống như đây. Việc dẫn lễ tại đàn giới, giảng đường không dùng  khánh, tới cửa địa điểm chính các tân giới tử vào bên trong xong. Lạy Phật, đứng lên ra hiệu lệnh xong dấu khánh nơi tay áo.

Phàm nâng bát, cầm luật, nâng y, bưng đứng  ngay hàng, nhịp khánh hai hồi tức là đi ra khỏi nhà không cần gõ cũng không hiệu lệnh. Nếu rước về nên thủ khánh sẵn trong tay, lại đứng theo hàng ngũ rồi thỉnh đi. Giờ chỉ tịnh lạy Phật 3 lạy, mỗi lạy một tiếng khánh, hiệu lệnh, một hồi khánh: tiểu tham hai hồi, khai đại tham 3 hồi. Giảng kinh luật, lên chánh điện, tiểu tham v.v… sau khi tán hương xong đứng  xoay mặt vào nhau nhịp 3 tiếng khánh; nên nhịp hòa hưởn 3 hồi xong mới khải bạch. Phàm thỉnh Thánh, cúng Phật, cúng chư thiên v.v… đều đặn mỗi chữ nhịp một tiếng khánh. Lên chánh điện, đi quá đường, trên đường đi không gõ khánh. Làm Phật sự, ra khỏi chùa, về chùa, đi có trật tự, trừ trên đường thỉnh rước, đều không dùng khánh. Nơi giảng đường ban hô chung tiếng phải hòa huởn cao rõ, để tiếng hô dội sang hai bên tả hữu. Nếu hướng miệng phía bên tả nhưng bên tả hô trước chúng đã dậy không hô nữa. Phàm tập trung nơi giảng đường, Phật điện, trai đường, phòng Phương Trượng không phải lễ lạy, nếu phải lễ lạy chỉ Dẫn lễ lạy thôi. Khi sám hối cùng sơ đàn, 3 đàn thuyết pháp, người dẫn lễ trước đến lễ Phật. Tân giới tử tập trung trước giảng đường không phải lạy Phật Khai đường, dẫn lễ tùy theo đó quyền biến. Phật sự lễ nghi giới đàn: phải rành rẽ, trước bạch lên tam sư quyết định thời gian, kế đến cho các liêu biết và sau dạy luật như pháp cho tân giới tử. Người dẫn lễ bồi đường lãnh chúng vào chánh điện, trai đường, ngủ, thức. Phàm lo Phật sự tại giới đàn, nói chung khai đường, làm chủ hoặc có điểm nào chưa thỏa đáng, hòa nhã bàn nhau trong chúng. Chúng có điều gì bất hòa khéo dùng lời lẽ khuyên nhắc nhẹ nhàng.

1.3.5 Vị Phụ Trách Tác Bạch

Người chủ tác pháp dẫn lễ là thủ lãnh tất cả các ban, các tiết mục. Thỉnh giới, lời tác bạch sơ đàn, lời bạch xin giới, lời thỉnh chư Thánh sám hối; đàn thứ hai thỉnh nội đàn, lời đáp trước luyện 3 lần bạch, lời thỉnh thuyết giới, lời tác thỉnh, kệ tán lễ, kệ tăng hòa, bài ban đứng theo vị trí, thỉnh chư Thánh qui đường cho đến phần chót. Trước hết dẫn chúng giới tử quỳ thỉnh giới. Đàn thứ ba lời bạch thỉnh giới, lời bạch thuyết giới, lời thỉnh, thỉnh Thánh, lời cầu xin giới, kệ tích trượng đều phải thuộc làu. Tác pháp dẫn lễ, công việc đây với ban đứng hầu lễ giống nhau, chỉ thêm ban hô chung hợp cùng với đại tác pháp mà trong đó các tiết mục hẳn phải am tường. Ban đứng hầu lễ cũng gọi là ban dẫn tán: ba đàn hương tán, lễ Tổ và tán 3 lần văn sám hối, thỉnh Thánh phần chính, lời luận bạch. Kệ chú tích trượng, dẫn khánh rước tam sư, khánh nghinh thỉnh tất cả đều theo nhịp điệu. Tân giới tử theo dẫn khánh, nghi thức thỉnh từng phần. Nghi thức cung nghinh, trở lên bên trên đều phải nhuần nhuyễn điêu luyện. Xem thêm phần bổ túc 3 đàn và các sách nghi Dẫn lễ có nêu rõ. Thầy Dẫn lễ này là A Xà Lê thứ năm, dạy kinh điển là A Xà Lê thứ tư.

Năm thành phần A Xà Lê như sau:

1) thế độ A Xà Lê tức là bổn sư xuống tóc thế độ và thuyết giới xuất gia.

2) Yết Ma A Xà Lê là vị thầy tại giới đàn trên được Yết Ma đúng pháp. 

3) Giáo thọ A Xà Lê, trong đàn giới thầy dạy các việc oai nghi, giới luật cho giới tử

4) Giảng kinh A Xà Lê tức thầy dạy học kinh, luật, giảng rõ nghĩa lý, cũng là thầy Dẫn lễ vậy.

5) Y chỉ A Xà Lê là các vị Trụ Trì các tự viện mà ta nương theo học để được thấm nhuần pháp hoặc nhận sự giúp đỡ thức ăn cho chí nương nhờ ở qua đêm.

Cứ như Du Già Sư Địa luận quyển 70 ghi rằng vị giới sư phải đủ 5 đức:

1) Giới hạnh không thất đức, thà bỏ thân mạng, trọn không phạm tịnh giới mà thường hay kiên trì không cho mất giới.

2) Khéo lập đức trong luật tạng Phật dạy khéo hay chọn lọc, lấy bỏ cốt lập diệu pháp làm cho người dễ học không cho vi phạm.

3) Khéo lập học đức: Kinh luật là pháp để học, khéo vun bồi an lập, chú thích rõ ràng khiến không sai lầm.

4) Đức khéo đoạn dứt nghi ngờ đối với kinh, luật, luận trong đó thiết lập tùy sở học mỗi người và câu hỏi, khéo giải đáp làm cho người dứt nghi; theo đúng lời Phật dạy.

5) đức dạy xuất ly sanh tử, lấy kinh luật Phật dậy dạy người khiến cho người thực hành để thành tựu thánh đạo lìa dứt sanh tử .

Đức Như Lai cho người như thế là A Xà Lê, chính là vị thầy có đủ 5 đức vậy. Lại luật Tứ Phần quyển 34 ghi rõ có 5 pháp không được dạy giới cho người như:

1) không tin: ắt giới không kiên trì. Gốc của vạn thiện đã không, nền tảng đức không lấy gì đứng vững.

2) Không biết xấu hỗ ắt tự ý phá giới, tâm xấu hỗ còn không có niệm chánh kiến làm gì có.

3) Không biết thẹn hẳn để lộ rõ chỗ tạo nghiệp, phạm giới không biết thẹn thùng. Tâm e thẹn đã không làm sao cải hối.

4) Tính lười biếng ắt không tu hành nên không biết kinh luật; tà chánh không phân biệt việc trì - phạm làm gì hiểu nổi.

5) Phần nhiều quên hẳn không nhớ nổi, như quên các giới pháp. Đọc tụng còn kém khuyết huốntg gì giải nghĩa kinh chứ? Tỳ kheo phạm 5 pháp này, Phật không cho làm thầy người.

Chứng nghĩa ghi rằng, ba đàn truyền giới đúng qui tắc nguyên chiếu theo luật tạng. Do luật tạng văn phong phú nên cổ nhơn toát yếu, tóm lược nghĩa thành qui tắc này, chẳng qua lâu ngày có sự lầm lẫn. Thấy Tổ Hoa Sơn khắc in sách qui phạm cổ sửa lại ấn hành. Bản ở Hàng Châu là bản mới nơi đầu sách có thêm hai chữ “Kiến Tổ” bị thất lạc, y cứ chữ “Kiến Tổ” tự thuật như thấy trong một giấc mộng nói rằng, năm Sùng Trinh thứ mười tôi ở trên thuyền con lướt sóng cùng với Tam Muội Hòa Thượng ngồi dưới truyền giới. Không có tiền mua luật đọc, suốt ngày ngồi yên trên giường, nghe chúng đồng giới đọc luật, không phạm nội qui. Dẫn lễ trách rằng: Kiến Nguyệt, chẳng nên ngồi chỗ này để nói thiền, vì sao không thỉnh luật học cho thuộc v.v… Tới lúc gặp việc 9 người cầm thẻ đến dạy sư trước lạy xong. Tôi nghe một tiếng lớn phía sau lưng chấm dứt… Căn cứ chữ Kiến Tổ tự thuyết mà biết rằng “Kiến Tổ” lúc truyền giới cũng từ nghi tắc chánh phạm đây mà thực hành.

Đến như ngoài qui tắc có 3 đàn phụ thêm, bổ sung nghĩa rộng, v.v… cũng làm linh động, mà lúc gặp việc có thể quyền biến vậy. Như đại đàn tràng tại Hoa Sơn chúng có đông có thể diễn đúng như pháp; còn như chúng quá ít đâu có thể làm được. Chỉ cần rành rẻ nghi thức dạy làm cho tân giới tử tinh tấn phát triển đạo tâm đạt thượng phẩm giới tức là bước lên đường giác. Nếu tư cách vị thầy giải đãi lánh nặng tìm nhẹ, hữu danh vô thực tức là dây mực đen nghiệp tà. Cho dù có sửa đổi vạn nhất cũng không thể cải thiện giản đơn được. Lại từ thỉnh giới, thuyết giới, ngoài việc thọ trai thì Thiền, Luật có khác. Luật tông người hộ thất đến trước pháp tọa đợi Hòa Thượng ra thất, hoặc Ngài tọa thiền xong mới lễ ba lạy. Vị chánh tọa ngồi, người phụ đứng. Thiền tông chỉ tác lễ một lạy, hoặc chờ tam sư trước sau ngồi ổn định cùng lạy một lạy. Người phụ lễ ngồi kế bên, trong đó mỗi nơi có nghi riêng không nên câu nệ. Nếu vị chánh tọa là sư trưởng, người phụ là thành phần lớp sau phải lễ 3 lạy, Thầy thăng tòa bèn đứng kế bên để chứng tỏ hậu học biết nghĩa thờ sư trưởng mới đúng phép. Nếu vị chánh đồng hàng hoặc đồng học, hoặc chánh tọa nhỏ mà người phụ lớn hơn chỉ nên xá một xá là đủ. Hoặc 3 người cùng ngồi và đồng xá nhau; 3 vị ngồi giữa để thấy người phụ tôn trọng pháp. Lại như Thiền Lâm Tế vị chánh tọa là bậc trưởng bối; 9 thầy còn lại đều là đàn hậu bối, mới thấy rõ sự cao thấp v.v… Vị chánh tọa nhận lạy; tân giới tử lạy 9 thầy, 9 sư phải khiêm nhường để vị tôn trưởng ngồi trước, không dám thọ lễ.

Tân giới tử lạy 9 sư, 9 thầy nên thọ lễ để tư cách vị thầy được tôn quí.

Kế tiếp theo ấn định cho kỳ thọ giới: chiếu theo luật đều không có 3 đàn mở kỳ thọ giới, cũng như không định ngày giờ mà chỉ trừ quý sư gặp nhau truyền giới cũng đủ. Lại theo như trong luật Phật dạy  giới Tỳ kheo chỉ cho 3 người thọ một đàn. Nếu 4 người là không được, vì quan hệ giới không nhỏ phải tuân lời Phật dạy nên ở Đông độ phần nhiều giới đàn lập 3 đàn. Việc lập đàn giới có thể tùy theo như đông xuân. Đàn giới mùa xuân vào mồng 8 tháng 2 khai giới trước hết có người trực đàn, hương đăng, lau quét vệ sinh, trần thiết các thứ… Tri khách cử dẫn lễ lên phòng Phương trượng rước tới. Như thiền đường, khai đường, bồi đường đưa vào vị trí. Tiếp theo, người cầu giới vào;  Dẫn lễ hỏi kỹ lai lịch, biết rõ quê quán. Đến ngày 14 tháng 3 hai thầy Dẫn lễ, tri khách báo hiệu chúng các liêu biết sau khóa lễ Tịnh độ. Ngày 15 tả sư phát lồ, Hòa Thượng Phương Trượng cử tội; ngày 16 bắt đầu sám hối; lo liệu các thứ hương đèn, vật dụng v.v…Thiết sơ đàn, sám hối, viết lời thỉnh giới, thọ giới. Đến ngày 20, hữu liêu hướng dẫn đọc lời tác bạch, ngày 21 hoàn tất sám hối, nhận phái, ký sổ lưu trang trọng. Ngày 22 vâng mệnh dạy nâng bát, thỉnh giới, thọ giới; ngày 23 thỉnh truyền giới, kiểm tra lại y bát, khuyên giới tử không giữ chứa vật, đêm đó tập dượt nghi thọ giới. Ngày 24 cạo tóc, tắm rửa, ban đêm lạy sám hối (lễ sám thông thường); ngày 25 xem xét lại đàn giới cho trang nghiêm; thuyết giới, phát nguyện, khuyến tấn, quy tắc áp dụng (xem quy tắc giới đàn ở sau). Ngày 26 trình bản câu hỏi già nạn (giới sư); ở chúng phải đọc luật, phát nguyện, tuần liêu. Ngày 27 duyệt qua luật, phát nguyện, tuần liêu. Ngày 27 duyệt qua luật Sa Di, niêm yết danh sách giới tử, phát nguyện, tuần liêu.

Ngày 28 đưa danh sách giới tử tới ban kiến đàn, tập tác bạch (thưa thỉnh), tập thỉnh trai tăng. Ngày 29 các bảng niêm yết đã dán đầy đủ hội đồng giới sư, phát thêm thẻ bài, tổng dợt nghi thức. Ngày 30 thỉnh giới, chỉ dẫn rõ ràng danh tướng của y, bát, đắp y (mở y), xếp y, tắm gội, cạo tóc, sám hối - lạy tiểu sám hối, tuần liêu; nếu tháng thiếu không có ngày 30.

Ngày Mồng Một tháng tư trở về (hồi phục) cúng ngọ, mời thọ trai, bổ túc cho giới đàn trang nghiêm. Đêm đó giảng giới, phát nguyện, tuần liêu giữ thanh tịnh. Ngày Mồng Hai duyệt luật Tứ Phần, dán thông báo truyền ba đàn giới; mồng bốn đại tập dượt. Mồng 5 thỉnh giới; chuẩn bị liều hương, danh sách giới tử, sám hối. Mồng 6 trở về, cạo tóc, tắm gội, mồng 7 khuyên nhắc việc tu khổ hạnh, đốt liều hương, xem xét lại đàn tràng cho trang nghiêm. Mồng 8 thuyết giới, phát nguyện, tuần liêu, giảng về kinh Phạm Võng. Mồng 9 cấp chứng chỉ, ghi sách tịch, mở kho, trở về (hồi phục?), tuần liêu, từ giả. Đàn một giới đàn xong.

Đàn giới mùa đông, ngày 18 tháng 10 khai đàn (xem phần trên có chỉ đầy đủ), đến ngày 10 tháng 11 niêm yết bảng sau khóa lễ Tịnh độ có tuần liêu… (Xem thêm chi tiết ở trước).

Chứng nghĩa ghi rằng, giới Tỳ Kheo Phật dạy 3 người thọ một đàn, cho đến 4 lần bạch yết ma xong. Bốn pháp xử sự[10] và bốn chỗ nương tựa[11] của Thầy Tỳ kheo v.v… nhưng phải họp chúng lại thuyết chung, chỉ bên ni nói riêng.

Hai kỳ Xuân - Đông đây, cổ nhơn có qui định dựa theo một giấc mộng bàn chỗ thấy Tổ đi trên chiếc thuyền nhỏ lướt hải triều âm, có Tam Muội Hòa Thượng ngồi dưới cầu giới; cũng là ngày mồng 8 tháng 2 bắt đầu đến mồng 8 tháng 4 viên mãn đàn giới. Nếu y lời Phật dạy nên tùy thời truyền giới, vào đời Sùng Trinh năm thứ 10 tại huyện Thái Hưng có am Ni lạ lùng mời Hòa Thượng Tam Muội khai giới. Đó là ngày Rằm tháng 8 bắt đầu giới đàn đến Rằm tháng 11 là viên mãn. Kế truyền Bồ Tát giới tại chùa Thừa Thiên khởi sự ngày Mồng Một tháng 12 đến đầu mùa xuân Rằm tháng giêng là giới đàn hoàn mãn. Lại ngày 20 tháng giêng giới đàn tổ chức tại am Thiện Khánh cho đến giữa tháng 3 là viên mãn. Y cứ theo đây có thể thấy cổ nhơn qui định giới Kỳ ở mùa Đông - Xuân cũng có khoảng thời gian bất định; chỉ tùy nghi, tùy duyên sao cho thích hợp là được.

(Lược tả hữu sư bạch…)

1.3.6 Qui Tắc Thọ Giới

Qui tắc thọ giới gồm có 14 điều Ba đời chư Phật đều có ngày xuất gia, thành đạo; Bồ Tát tu lục độ không bỏ giới châu (trân quí) nên lấy đó nghiêm tịnh luật tắc mới có thể làm mô phạm cho ba cõi. Kinh Lăng Nghiêm ghi rằng, nhiếp tâm là giới, nhân giới sanh định, nhân định phát huệ gọi là 3 môn học vô lậu (không bị phiền não làm khuyết thiếu), bèn thành căn bản của vạn hạnh, chánh nhân thành Phật. Cho nên cầu giới như người đãi vàng (nhặt châu) tâm luôn mến quí, niệm niệm nghĩ đạt cần trì tụng; thúc liễm thân tâm.

Thảng hoặc có phạm nên tự trừng phạt không tha thứ, nhiếp tâm làm mô phạm những điều được liệt nêu như sau:

1- Phép thọ giới phải cầm kinh, luật, 3 y, bình bát, tọa cụ tiến vào giới trường. Nếu không chuẩn bị các thứ mà đi mượn đều không chấp nhận, trừ phi y hậu, đồ vật cũ mà giặt ủi sạch cũng có thể được.

2- Canh 5 nghe 4 hồi bảng lại 3 tiếng nên vén màn thức dậy ngay, sửa lại áo quần chỉnh tề rồi bước xuống giường. Như có bịnh phải báo cáo cho chúng biết. Ban ngày không việc gì làm đừng lười biếng trùm mền, vi phạm bị phạt quỳ hương.

3- Giờ chỉ tịnh (ngủ nghỉ) đều tập trung lên giường, giữ oai nghi tề chỉnh, không được cười giởn, nói chuyện. Vi phạm bị phạt quỳ hương.

4- Lúc học tập để tâm ghi nhớ kỹ. Giờ rỗi phải đọc luật, không được tán dốc, bàn tạp. Phàm luân phiên trực nhựt phải để tâm xem xét, đừng có giao phó ủy thác người khác, vi phạm bị phạt quỳ hương.

5- Chư tăng ra vào, đứng ngồi, chấp tay; thầy cho ngồi mới ngồi.

6- Trên bàn chỉ để Kinh luật, không được để quần áo, đồ đạc lung tung. Lúc uống trà, dùng cơm hẳn gấp kinh lại; trong lúc ăn không được nói chuyện. Không nên khạc nhổ lớn tiếng, vi phạm bị quỳ hương.

7- Giường đặt có hai dãy Đông Tây, đi lại chỗ ngồi giữ chỗ mình, không được loạn đơn người khác; không được đi băng tắt qua nhà và không được nói năng lớn tiếng.

8- Lên giường phải cởi giày, đẩy về phía gần chỗ mình không được chiếm lấn chỗ người khác. Không được cởi đồ lót lúc ngủ, không được nói chuyện với người giường kế bên, và thở mạnh động chúng. Nằm ắt xây hông mặt, thế kiết tường, không được thô tháo. Kéo mở cửa ra vào nên đi nhẹ nhàng, vi phạm bị phạt.

9- Không được giũ mền ra tiếng, gối mền xếp gọn trên giường không để lòng thòng dưới đất; không được chạy vội thô tháo, vi phạm bị phạt quỳ hương.

10- Lên Chánh điện, vào trai đường hay làm mọi Phật sự theo y thứ tự mà làm, không được lẫn lộn trước sau, nên để mắt xem xét kỹ, thân đứng ngay ngắn, vi phạm bị phạt.

11- Có việc riêng ra khỏi chùa trên đường gặp Hòa Thượng hoặc Thầy Yết Ma, Giáo Thọ hay các thầy, cho chí vị Thầy niên trưởng giới đức đều chấp tay lễ bái đứng qua một bên nhường đường cho họ; nếu đồng giới cùng đi cũng phải có oai nghi nghiêm chỉnh, vi phạm bị phạt quỳ hương.

12- Rửa mặt không được làm vung nước tới người bên cạnh. Không được choán chỗ quá lâu, vào nhà phải để ý; đồng giới nên tiếp đón, không nên cải vả ồn ào, vi phạm bi phạt.

13- Bậc thầy lớn tuổi vào chùa nên đứng lên; phải xá liền xá, bảo ngồi mới ngồi.

14- Vì việc riêng tư ra vào phải thưa trình xin phép, ở ngoài không được xông vào phòng làm mất oai nghi, vi phạm bị phạt quỳ hương.

Trở lên là những quy tắc cần nên tuân hành cẩn thận. Như có ai vi phạm bị phạt như qui định trên.

Ngày... tháng… năm… Trụ trì….. sao lục.

Muốn đầy đủ xem 24 thiên oai nghi, Sa Di luật nghi và đại luật Tỳ kheo có nói rõ 3000 oai nghi 5 hạ trở lại nhứt nhứt đều phải học.

Chứng nghĩa ghi kinh nói rằng: giới không thanh tịnh thời thiền định không phát sanh. Lại cũng nói: trí huệ thanh tịnh vô ngại đều do nơi thiền định sanh. Nên biết rằng giới là mầm của định huệ; giới hạnh không thanh tịnh định huệ không do đâu phát sanh. Vì thế, Phật dạy 5 hạ về trước chuyên tinh giới luật; chuyên tính há không từ oai nghi mà có ư? Trong luật ghi rằng việc làm cần yếu số một là luôn luôn nhiếp tâm. Niệm không tán loạn, có nghĩa là thực hành bốn niệm xứ vậy. Sách Phật pháp Tổng quan, Linh Phong Tông luận rằng, không huệ niệm xứ cho dù mặc áo cà sa như phang trên đầu cây thôi; lễ bái như khuấy trên dưới, lục độ, muôn hạnh đều giống ngoại đạo; khổ hạnh cùng chân tu làm chi mà không nhiếp tâm tức chẳng giữ giới. Nếu y theo niệm xứ tu tập công đức giữ giới hiện có thể đạt được 4 quả sa môn (4 Thánh quả), nhẫn đến viên mãn thập địa tự khắc tránh khỏi không gặp nạn. Tại sao? Vì do nhiếp tâm mà dễ đạt vậy. Việc cần yếu thứ hai là trong khi soi sáng 250 giới đặt khai, giá, trì, phạm trong hai thời ngày đêm, hạng có danh trì giới, trái lại phần nhiều pham sai lầm. Như cho rằng Tiểu Thừa nghiêm cấm, Đại Thừa khai mở hay Tỳ kheo có chỗ chấp, Bồ Tát ắt dung thứ từ đâu phát ngôn ra những lời ấy?

-     Đáp: Linh Phong Tông luận rằng, khai ấy là mở tâm tự độ của Tiểu Thừa mà phát tâm thệ nguyện Đại Thừa. Dung  là dung người chấp pháp chưa cải hóa quy về chân lý sâu rộng. Do vậy Bồ Tát xuất gia không có giới riêng mà cùng dùng chung luật Tỳ Kheo, chỉ phát tâm tự độ gọi là Nhị Thừa, phát tâm độ người gọi là Bồ Tát vậy.

Xưa nay hiểu lầm nên phần nhiều trái luật. Khi đức Thế Tôn nhập Niết Bàn có phó chúc cho chư Tỳ Kheo rằng, nên lấy giới làm thầy. Ngài cũng còn dạy: pháp Ta nếu hoại trước do giới luật, thật là lời nói biết trước vậy. Tại sao lại hiểu lầm sự cởi mở bao dung cũng đồng như hủy báng pháp không khác.

1.4Bồ Tát tóm tắt có 10 điều giới:

Mỗi nửa tháng có trăng hay không trăng các vị Tỳ kheo đều phải Bố Tát. Bảo Hoa Sơn ở Giang Nam có ngài Độc Thể hiệu đính Luật Tỳ Kheo; nguyên bổn gồm hai quyển: Quyển thượng bao gồm 27 mục, quyển hạ phần chánh có 44 mục. Nay ở phần cương mục đó lại rút ra đại cương, ghi gọn chỉ còn 10 điều như:

1.4.1 Luận chung nhị thừa: Đại Thừa và Tiểu Thừa.

1.4.1.1 Tiểu Thừa

Tiểu thừa gồm 7 chúng:

1-     Tỳ Kheo,

2-     Tỳ Kheo Ni,

3-     Thức Xoa Ma Na,

4-     Sa Di,

5-     Sa Di Ni (5 chúng trước thuộc chân đế);

6-     Ưu bà tắc,

7-     Ưu bà di (2 chúng sau thuộc tục đế).

1.4.1.2 Đại Thừa

Bảy chúng Đại Thừa là người phát Bồ Đề tâm thọ đại giới Bồ Tát.

1.4.2 Tôn trọng đúng luận sự lầm lỗi:

Phật dạy mỗi tháng lấy ngày Rằm là ngày có trăng giữa tháng Bố Tát; lấy ngày 30 là ngày không trăng (hắc) giữa tháng Bố Tát. Nếu tháng thiếu lấy ngày 29 làm ngày không trăng trong tháng Bố Tát. Ngày nay theo lệ đó mỗi tháng 2 ngày Rằm, Mồng Một là ngày có trăng và tối trời  Bố Tát nửa tháng có trăng thay phiên tụng giới; đối với nửa tháng không trăng thời không có Bố Tát. Tham cứu sâu theo quy tắc này chưa xác định sai lầm có từ lúc nào, cứ hễ thấy trước làm khiến sau làm theo do quen đã thành nếp sẵn. Căn cứ theo luật thuyết giới Kiền Độ ghi rằng, người phạm không được tụng giới, cũng không được nghe giới. Không được hướng về người phạm cầu sám hối; kẻ phạm cũng không được nhận người khác sám hối. Phải hướng về người thanh tịnh cầu sám hối, tụng và nghe giới. Phần này nói rõ trước khi Bố Tát phải bày tỏ lỗi lầm qua phần tác pháp Yết Ma. Cho nên tôi dựa theo đúng luật chỉ đúng chỗ sai lầm, luôn lấy ngày có trăng giữa tháng nhằm 14 sám hối trước đến ngày Rằm mới Bố Tát. Nửa tháng không trăng ngày 29 lễ sám hối và ngày 30 Bố Tát. Nếu gặp tháng thiếu lấy ngày 28 sám hối và ngày 29 Bố Tát như qui định sẵn.

1.4.3 Tuân lời dạy cổ nhân:

Như Tỳ Kheo ở trụ xứ phạm luật mà nghỉ Bố Tát, tụng giới. Những người phàm làm một viêc không có công đức, trái lại còn rước lấy tội. Lấy sở y cho là phi, nhưng năng y cũng thành phi nốt. Luật Tứ phần ghi rằng, nếu làm pháp Yết Ma hẳn phải trước khi kiết giới mà căn bản là luật Tăng Kỳ, Ngũ Phần, Luật Thập Tụng. Tuy 5 bộ luật mỗi bộ còn có tông chỉ, chí như một pháp Yết Ma mà không y theo tác pháp là việc sai lầm đầu tiên. Song giới có hai:

a) giới tác pháp: lấy việc nhóm chúng lập tiêu chuẩn như xướng tướng, vấn hòa, trình bạch, nhận cho. Trước hết kết nội giới trường và sau đó kết ngoại (đại) giới trường. Sau hết nêu lên tiêu chuẩn tướng đại giới trường, nhưng kết chẳng mất theo hạn giới

b) tự nhiên giới có 4 tiết:

1- thôn trang

2- am thất

3- đường đi

4- Chỗ có nước.

Bốn phần nầy mỗi phần có giới hạn thiên nhiên, vì thế không phân hạn giới, cũng như không nêu tướng giới chỉ tác bạch chấp nhận mà thành thôi. Riêng Tỳ kheo ni nương tựa hạn giới của Tăng cũng theo tiêu chuẩn nầy. Nếu như Bồ Tát Tỳ kheo kết giới cũng theo y như trên. Y cứ theo kinh Địa Trì ghi rằng Bồ Tát Tỳ Kheo tăng không kết giới là khinh lờn lời Phật; cũng như không giữ gìn luật Tăng. Như thế phàm chỗ ra làm đều không thành vậy. Tại sao thế? Vì không kết giới trường thì không hội đồng giới sư (10 vị) bạch bốn lần yết ma, không truyền giới chỗ công khai. Không kết đại giới tràng là Bồ Tát tụng giới không thể thuyết dục hòa tăng được; không kết y giới thời không thâu nhiếp như chim không có đôi cánh. Nên biết rằng Bồ Tát Tỳ kheo tăng phàm ở chung một trụ xứ nhưng pháp Tỳ Kheo tăng riêng, bạch hai lần yết ma kiết giới. Tiểu chúng 3 người tùy thuộc nội giới của đại tăng.

1.4.4 Cử xứng người đức độ:

Định kỳ tác pháp có nêu rõ Bố Tát ngày không trăng hay có trăng, chư Tăng vân tập tụng giới, nên chọn người mô phạm có khả năng tụng. Như người giới đức song toàn, niên lạp hơn 5 hạ, có trình độ hiểu biết giải quyết được mọi nghi vấn. Nghe trong tăng bạch hai lần yết ma có khác, nên hễ mỗi chức danh của Nhị Thừa ắt phải nghiên cứu rành luật Tứ Phần. Kinh Phạm Võng ghi: Nhị Thừa chọn khác đã quen như thế rồi. Lại như trong cái hay thông thường mỗi người có khác, giới hạn thời 7 chúng Tiểu Thừa; tình cờ đủ duyên gặp chúng tụng bổn giới đã thọ. Nếu như trong nội giới Tỳ Kheo tăng nên mời riêng một vị đọc giới Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni cũng vậy, cho chí Ưu Bà Di hẳn không có phần nghe tụng giới, nên nói giới hạn là vậy. Phổ thông là 7 chúng Đại Thừa gặp duyên tình cờ nhóm lại tụng Phạm Võng giới. Bất luận tụng giới gì nên mời một Tỳ kheo Bồ Tát giới đại diện trong chúng tụng giới. Nếu không có Tỳ Kheo mà chỉ có 6 chúng thôi nên mời Tỳ Kheo ni Bồ Tát trong chúng như người thay thế tụng giới. Thậm chí nếu không có 6 chúng trên mà chỉ có Ưu Bà Di Bồ Tát giới liền mời vị ấy đại diện tụng giới thay chúng. Vì 7 chúng Đại Thừa đều cho nghe tụng giới nên gọi là chung hay phổ thông là vậy.

1.4.5 Hòa chúng thanh tịnh nơi tịnh đường:

Căn cứ theo như trong luật ngày Bố Tát phải quét dọn sạch sẽ, trải tọa cụ, chuẩn bị nhang đèn, hoa quả, đồ đựng nước tại thiền đường… Vị thượng tọa phải dạy Tỳ Kheo nhỏ tuổi và vị nhỏ tuổi y lời dạy như pháp mà làm. Nếu trên không dạy, dưới không biết đâu mà làm đều phạm tội vượt luật tắc.

Về thiết tòa có hai loại:

a) Tòa cao dùng để ngồi tụng kinh hay đăng đàn.

b) Loại thấp để cho người ngồi nghe hay tọa thiền. Loại tòa cao nên dùng bông hoa trang trí chỗ ngồi, cần treo đèn đuốc để phòng trời tối.

Đồ đựng nước có hai thứ:

a) Nước rửa chân

b) Nước rửa tay.

Sa la gọi là nhà che mưa nắng, nhưng nay cũng gọi là thiền đường hay tịnh đường.

1.4.6 Khiêm nhường kính trọng pháp Đại thừa, Tiểu thừa:

Tuy cùng tụng giới Bồ Tát, nhưng dựa theo giới Đại Thừa, nếu khi tụng giới Tỳ kheo nên theo thứ tự tuổi hạ của tăng. Giải thích thêm; Bồ Tát chúng Tiểu Thừa lại nương giới Tiểu Thừa theo thứ tự mà ngồi; nơi chúng Đại Thừa thời nương giới Đại thừa theo thứ tự mà ngồi.

Lại có người thọ giới Tỳ Kheo trước sau mới thọ giới Bồ Tát thời ngồi theo giới lạp Tỳ Kheo. Như thọ giới Bồ Tát trước, sau thọ giới Tỳ Kheo, theo như Đại Thừa dựa theo thứ tự giới Bồ Tát thọ giới Tỳ Kheo mà theo thứ tự, Tỳ Kheo ni cũng như thế.

Số tiểu chúng 3 người thời có 2 trường hợp:

a- Tiểu thừa tính người lớn tuổi

b- Đại thừa tính theo giới mà sắp thứ tự, hai chúng tại gia cũng thế.

Như 7 chúng Bố Tát tập họp tại một giới trường theo thứ tự:

1- Tỳ kheo Bồ Tát

2- Tỳ Kheo ni

3- Thức Xoa Ma Na

4- Sa Di

5- Sa Di Ni

6- Ưu Bà Tắc

7- Ưu Bà Di.

Giới tuy có thứ tự như thế, nhưng theo thiền môn việc ra vào có qui tắc như nêu rõ ở trước.

1.4.7 Hợp đồng giản dị, có 5 loại giản dị như:

1) Phổ thông theo thế tục, người đời lầm lẫn nơi già lam gặp ngày Bố Tát sắp đặt lễ tiết

2) Người nữ tín tâm trí thức, nếu đăng đàn giảng kinh diễn nghĩa phải thật thấu đáo văn - tư - tu. Còn như trong tăng tụng giới làm pháp Yết Ma, vị ấy tự biết mà tránh xa đi chỗ khác

3) Người xuất gia nhỏ tuổi, tuy còn thói nhiễm do chưa gần bậc viên giác. Vì thế hễ lúc làm pháp Yết Ma phải nên đứng tránh chỗ thấy nhưng không nghe (tăng yết ma) và không được nghe lắng.

4) Tỳ Kheo phạm giới không được nghe tụng giới; phải đợi hối lỗi thanh tịnh mới được chấp nhận.

5) Ni xưng là á tăng (cải dạng) vào trong tăng Bố Tát thời khác với Tỳ Kheo tăng. Vì thế nửa tháng Ni phải đến thỉnh tăng giáo giới vào đúng lúc Tỳ kheo Bố Tát. Ngõ hầu hỏi đáp có được không mới là ngày của chư Ni tụng giới.

Luật ghi rằng, Tỳ Kheo Bố Tát ngày Rằm, Tỳ Kheo Ni Bốt Tát ngày 16 là vậy.

1.4.8 Vâng pháp thính giáo:

Y cứ theo luật, sau khi đức Phật Thích Ca thành đạo trong vòng 14 năm Di mẫu cùng 500 Thích nữ  xin xuất gia. Lúc đầu Ngài không nhận, A Nan thay lời bạch đến lần thứ ba, Phật mới hứa khả. Phật dạy ngài… A Nan trao truyền 8 kỉnh pháp. Cho Ni chúng xuất gia rồi còn có vấn đề khiến Tỳ Kheo Ni nửa tháng vào ngày Bố Tát, phải đến trong Tỳ Kheo tăng cầu thỉnh giáo giới.

Lại hỏi: có thể thuận cho không?

Chúng Tỳ Kheo trong khi tụng giới nên hỏi rằng, ai sai Ni đến thỉnh giáo giới? Nếu có tức theo đúng pháp mà sau đây sẽ thấy rõ. Nếu có thể y giáo phụng hành (y lời dạy vâng làm ) thời chánh pháp còn tồn tại ở đời 1000 năm.

1.4.9 Giới thành tựu hợp pháp:

Lấy giới (đàn tràng, hạn giới) làm sự, là nương nơi pháp; tăng là người thừa hành pháp sự. Theo Tiểu Thừa qui định như luật Đàm Vô Đức có độ 184 pháp yết ma bao hàm tất cả thời và phi thời. Luận về Đại Thừa Tỳ Kheo tăng, nghi thức Bố Tát nửa tháng cũng giống như Tiểu Thừa. Có điểm khác là Đại Thừa trong đó có Ni thuộc 7 chúng đều được nghe Kinh Phạm Võng; tạm chấp chỗ phức tạp đặt pháp Tiểu Thừa mà không học thời trọn không phải Phật tử, thật là người si mê. Kinh Địa Tạng Thập Luân ghi rằng, si mạn cho Đại Thừa là không có lực trí huệ; còn mê mờ pháp Nhị Thừa huống gì hiểu Đại Thừa, thì Bồ Tát tăng ấy rốt cuộc cũng không tôn trọng pháp Tỳ Kheo Tăng.

Phép tụng giới đúng có 4 loại riêng biệt:

1) Duy Đại kiêm Tiểu

2) Duy Tiểu kiêm Đại

3) Chỉ có Tiểu không Đại

4) Chỉ có Đại không Tiểu.

Nay dựa theo đương thời vã để 3 loại trước, loại bốn chỉ có Đại không Tiểu. Nếu trong một đàn tràng bao hàm Tỳ Kheo tăng Bồ Tát, gặp ngày Bố Tát, trước hết phải tập trung tại phòng tụng giới Tỳ kheo, sau đó vào chánh điện tụng giới Bồ Tát. Giá gặp trở ngại như địa điểm tụng giới quá xa, trước tụng lược giới Tỳ Kheo, sau tụng đủ giới Bồ Tát. Nếu nạn xảy ra quá gần Nhị Thừa đều lược giới; như gặp nạn bức bách sát bên có tụng lược cũng không được nữa, bèn phải thưa rằng: chư Đại Đức hôm nay là ngày Rằm Bố Tát mỗi người nhiếp thân, khẩu, ý đừng có buông lung. Nói như thế rồi mỗi vị tự ý giải tán. Đây là nạn duyên gấp phải như vậy. Song tuyệt đối người chưa nghe thọ giới mà không tụng giới không được gọi là Tỳ Kheo Bồ Tát. Kinh Phạm Võng ghi rằng, nếu thọ Bồ Tát giới mà không tụng giới thời chẳng phải là Bồ Tát, không phải là chủng tử Phật. Hơn nữa trụ trì tăng bảo mà không đúng giới luật Tỳ Kheo thì chẳng thể làm hưng long Phật pháp, vượt qua luật Bồ Tát thời không được.

1.4.10       Nghi lớn nêu ít dụ:

Muốn giữ giới thanh tịnh phải rành 10 chi giới không nhiễm; từ đó ba tụ giới mới viên mãn. Nên luận Tát Bà Đa ghi rằng, nếu người thọ 5 giới mà phạm không cho thọ 10 giới. Nếu phạm 10 giới thời không được thọ giới cụ túc. Vì thế, Sa Di dù gặp kỳ Bố Tát mà không tụng giới đúng pháp đến độ lược bỏ trì phạm khuyên nhắc tu hành nửa tháng nhóm họp một lần, thuận theo mới đúng pháp, tức là đúng luật. Phàm gặp Bố Tát trước lễ sám hối cho Sa Di nhập chung là sai. Tăng lúc họp nhau tụng giới cũng cho Sa Di vào nhà lễ tăng, và xong lui ra rồi mới làm phép tụng giới; làm cho chúng nhỏ cũng dự với đại tăng nửa tháng một lần hầu sách tấn tu hành mà nhớ giới để tiến tu.

Trở lên bên trên 10 mục đại cương xong, từ đây trở xuống là 10 quy tắc Bố Tát,

1.5Mười Quy Tắc Bố Tát

Chứng nghĩa ghi rằng, giới luật là thiết yếu, nửa tháng Bố Tát là việc duy trì tổng quát.

1.5.1 Luật Thiện Kiến

Luật Thiện Kiến ghi rằng: Làm sao để biết chánh pháp trụ lâu, đó là duy trì phép Bố Tát không mất vậy. Phép Bố Tát nầy luật tạng, đời thường khó mà giữ hết được. Nay phòng phát hành kinh sách Chiêu Khánh tại Hàng Châu có sách Sa Di luật nghi thuật nghĩa hai quyển, Tỳ Ni hương nhũ thiết yếu hai quyển, nghi thức Yết Ma 2 quyển, Phạm Võng sơ tân 4 quyển. Ngoài ra ở Hoa Sơn tại Giang Nam có Bố Tát cương mục quy định mỗi tháng hai kỳ gồm 2 quyển, lại còn có Đại Thừa nguyên nghĩa 12 môn luật v.v… đều nên thỉnh để đọc.

1.5.2 Lược rõ pháp Yết Ma sám hối:

Nếu như ở một phạm vi mà Tỳ Kheo cộng trụ gặp ngày rằm giữa tháng, vào tối 14 phải sám hối, đến nửa tháng tối trời thời sám hối ngày 29. Trường hợp gặp tháng thiếu sám hối trước vào ngày 28, nên cho Tỳ Kheo mới một hai năm tới dọn phòng làm Yết Ma trải tòa, đốt đèn, phía sau tòa để một cái bàn có thư ký ghi danh sách để biết số lượng, sợ trùng tên sai sót để tiện việc kiểm soát, tới lúc nghe gõ kẻng chúng tập họp; vị lãnh chúng cầm nhang thỉnh một vị Thượng Tọa thanh tịnh niệm hương vì chúng sám hối. Niệm xong bước lên tòa ngồi, đại chúng lễ 3 lễ rồi đứng sang một bên. Nếu có chúng thọ 5 giới, 10 giới Sa Di đứng nguyên tại chỗ. Duy Na gọi: các Sa Di tiến vào đứng theo hàng từ trên xuống, đảnh lễ đại tăng 3 lạy.

Lạy xong quỳ gối chắp tay.

Thượng Tọa vỗ thủ xích bảo:

-     Này các Sa Di, đã lìa bỏ ngũ dục, gia đình thân quyến, thọ 10 giới răn làm đệ tử Phật hiệu là Tức Từ; lý phải nên giữ gìn thân khẩu ý nghiệp cẩn thận để ngăn tội lỗi phi pháp, chăm học luật tắc oai nghi, giáo pháp. Nếu giới thể thanh tịnh những việc thiện mới sanh; còn một chút nhiễm ô cũng khó nhập đạo. Hôm nay là ngày 30 (rằm) nửa tháng trước lễ Bố Tát, chư tăng câu hội trước là sám hối, các vị mỗi người do chỗ thọ giới mà giữ gìn giới phẩm, nên phải chú ý lắng nghe kỹ từ nửa tháng trước trở đi đến nửa tháng này trong khoảng thời gian đó, nếu quý vị có phạm cứ tự thành thật mỗi mỗi phát lồ trước tôi để tiện y luật tác pháp dứt nhiễm thành tịnh. Nếu phạm mà không phát lồ (tỏ bày) thời tự dối, càng tăng thêm tội không phải con giòng họ Thích.

Thầy vỗ thủ xích và hỏi rằng:

-     Này các Sa Di, giới thứ nhất không sát sanh, trong nửa tháng qua các vị có phạm không? Không, liền đáp là không; có thì trả lời có. Sau tiếp 9 giới khác cũng đều hỏi như thế. Phần 5 giới, 10 giới đã có đủ trong phần quy tắc thế độ ở trước.

Mỗi mỗi trả lời xong, trên tòa, Thầy xét sự lý hợp pháp. Nếu có phạm 4 tánh tội trước, y luật không cho làm phép hiện tiền mà bạch 4 lần Yết Ma rồi đuổi ra khỏi chúng. Đương sự không phải là Thích tử, không phải là Sa Di nên không được họp chung với Sa Di thanh tịnh; cũng không được nương tựa ở với Tỳ Kheo tăng. Nếu làm mà không thành nên phải sám tội đột kiết la[12], đối thủ làm pháp yết ma sám hối. Nếu gặp việc khó khăn, luật có dạy rõ, như phạm tội 6 già nghiệp sau; cố ý là khinh lờn lời Phật, phải cho sám tội đột kiết la đối thủ làm pháp Yết Ma cải hối. Vô ý phạm lầm là không khéo giữ gìn cho đem tâm trách phạt tội đột kiết la, phải tha thiết làm pháp Yết ma để trừ dứt. Nếu phạm 250 giới theo giới luật oai nghi phải xét duyên phạm từng phần mà sám hối dứt trừ. Nếu không phạm thời làm thinh.

Phần tác pháp sám hối xong.

Thầy Duy Na xướng rằng:

-     Này các Sa Di chí thành lễ 3 lạy rồi tuần tự bước ra. Nghe tiếng khánh cùng lễ Phật với chúng.

Pháp này quy định nêu lên như thế, nếu có Sa Di thời dùng, nếu không có ngũ giới và Sa Di 10 giới mà chỉ có Tỳ Kheo nên tiến hành sám hối thường lệ.

Thầy vỗ thủ xích hỏi rằng:

Tăng nhóm chưa?

-     Đã nhóm

Hòa hợp không?

-     Hòa hợp

Người chưa thọ giới cụ túc ra chưa?

-     Người chưa thọ giới cụ túc đã ra.

Tăng nay hòa hợp để làm gì?

-     Để làm Yết ma sám hối.

Lời vấn-đáp nầy cùng với tác pháp hỏi việc thông thường không khác nhau. Chỉ không hỏi thuyết dục mà thôi. Luật dạy phát lồ (tỏ lộ) hẳn tự nói nếu không tự nói được cũng chẳng phải bị trừng phạt gì. Vì thế chỉ không hỏi gởi dục là phần khác biệt thôi.

-     Này chư Đại Đức, nay là ngày có trăng – không trăng - nửa tháng trước chưa Bố Tát chúng tập hợp về một chỗ, mỗi người tự lục soát ký ức, tự suy nghĩ ba lần xem từ ngày tụng giới nửa tháng trước cho đến hôm nay trong vòng 15 ngày, nếu có ai phạm điều Phật chế làm ô nhiễm thân giới nên sanh lòng hỗ thẹn, sớm cầu thanh tịnh hướng thẳng lên đây nói lời tỏ bày sám hối, chớ nên che dấu. Kinh Vị Tằng Hữu ghi rằng, tâm trước làm ác như mây che mặt trời; tâm sau khởi thiện như đèn đuốc dứt trừ tối . Thế mới biết tịnh hay nhiễm do tâm; sám hối dựa theo luật. Nếu không sanh tâm tin tưởng sâu sắc hẳn có niệm sợ hãi, cho dù Phật tại thế cũng khó sám hối trừ dứt được.

Này chư Đại Đức nguyện thanh tịnh 5 thiên ba tụ giới[13], thành tựu 5 phần pháp thân; không bị ràng buộc trong 3 cõi sanh tử. Ai phạm đứng dậy ra giữa chúng nói lỗi; người không phạm thời yên lặng. Vỗ thủ xích hỏi rằng:

-     Nay xin hỏi chư Đại Đức trong chúng đây có ai phạm không?

Nếu người phạm tự đứng dậy lễ 3 lạy quỳ gối chấp tay nói rõ điều đã phạm; nhưng chư tôn xem xét kỹ tâm cảnh và sự duyên đã phạm. Thư Ký ghi lại chi tiết rõ ràng. Duy Na xướng rằng:

Đại chúng đảnh lễ 3 lạy rồi tụng bài hồi hướng, chúng tụng hòa, 3 tự quy y xong. Duy Na, Thư Ký đưa người phạm giới đến phòng Phương Trượng. Hai vị đồng lễ một lạy rồi trình bày danh tánh người phạm, phạm điều gì. Hòa Thượng xem xét xong. Duy Na xướng cho người phát lồ lễ 3 lạy rồi quỳ gối chấp tay. Hòa Thượng hỏi xong; y theo luật tùy phạm tội nặng nhẹ mà xử như, dạy đương sự sám hối và và khuyên người phạm giới tự phát nguyện gia trì sám hối nương nhờ lực từ bi của Phật, lực Yết Ma sám hối làm cho tội chướng tiêu sạch; thiện pháp ngày càng phát triển gia tăng. Dạy như thế xong, lễ thầy 3 lạy rồi lui ra. Những người không phạm nghe hiệu khánh đồng vào điện Phật lễ Tam Bảo. Nếu nhờ gia trì lực bổng nhiên tĩnh ngộ tùy theo cách mà thông thường là lễ tụng để cải thiện; không che dấu thời sự uẩn khúc lại càng đẹp đẽ hơn.

Nếu tác pháp trong đàn tràng có Tỳ Kheo Bồ Tát tăng ở chung trong nửa tháng Bố Tát trước đã có sám hối; đại lược phân thành hai tiết: 1) tuy nửa tháng luôn có kỳ nhóm chúng Tỳ Kheo Bồ Tát sám hối, nhưng dựa pháp Tỳ Kheo tăng làm pháp yết ma, thân giới có bất tịnh. Liệu tâm giới có thanh tịnh không? Không nên nghĩ rằng bỏ Đại theo Tiểu, nhưng mà Bồ Tát khéo giữ được tăng chế. 2) Thật là gặp cơ hội lớn tịnh giới tự nhiên phát khởi ở chung nhưng trong cảnh thuần thục. Giá như có phạm mới tuân theo kinh Phạm Võng, Địa Trì làm pháp Đại Thừa sám hối, như Đại Thừa thập nhị môn trong đó có phân biệt rõ.

1.5.3 Tăng làm pháp yết ma tụng giới:

Nếu tác pháp nửa tháng tối trời hoặc có trăng vào đúng ngày Bố Tát trừ 4 vị tăng trở lên cho đến 100, 1000 tăng cùng ở chung , e gặp thời khó nhóm. Luật chế trước hết thưa bạch nhóm chúng, sau mới tới họp. Một vị Thượng Tọa ra bạch chúng giữa bữa cơm trưa hoặc sáng như sau:

-     Đại Đức Tăng nghe, đến ngày 15 hoặc 30 Bố Tát tại (địa điểm)… tụng giới. Nói một lần rồi ngưng, nhưng vị Thượng Tọa phải cao niên hơn các Tỳ kheo nhỏ tuổi; và rằng: đến nơi Bố Tát quét dọn, trải tòa, chưng bày hoa đăng, cụ bị phòng xá, đặt nước cúng. Tới giờ Bố Tát gõ kiểng tập họp chúng. Người nghe hiệu lệnh nhanh chóng tới chỗ Bố Tát; không tới dự phải gởi dục. Đây có nghĩa như là một buổi trai tăng nên cùng chúng giữ lục hòa. Người không dự thời gởi dục cho vị khác, như những trường hợp bịnh, gặp việc không thể nào đến với chư tăng được; phải đạt một sự thanh tịnh mà Tỳ kheo nhận gởi dục ra trước làm lễ, quỳ và bạch như sau:

-     Đại Đức một lòng nghĩ, con vì Tỳ Kheo… như pháp tăng sự gởi dục thanh tịnh.

Nói xong liền lạy một lạy rồi đứng lên lui ra.

Nếu người gởi dục là bậc Thượng Tọa, người nhận gởi dục là một Đại Đức chỉ xá một xá đứng bạch như trên xong xá một xá rồi lui. Luật Tăng Kỳ ghi rằng, không nên cao hứng cùng gởi dục cho người; phải gởi dục cho người có thể mang đến giữa tăng nói thay. Theo Hành Sự Sao ghi, phàm tăng tác pháp thân tâm hẳn đều phải thanh tịnh mới thành sự hòa hợp. Giá gặp nhân duyên không mở tâm tập hội thì cơ duyên giáo hóa chẳng thi thố làm sao cứu tế rộng được. Nên phải truyền tâm để cảm ứng với tăng sự trên mới có thể làm xong được việc này việc nọ. Vì nhân duyên như thế nên mở khai cho phép gởi dục. Duy nhứt kiết giới và yết ma diệt tránh[14] không được phép gởi dục. Ngoài ra, hết thảy phép yết ma đều có thể gởi dục được. Mỗi vị y theo giới mà ngồi thứ tự, vị trưởng chúng cầm nhang đợi thỉnh một vị hạ cao có giới đức thanh tịnh tụng giới. Vị ấy vào thăng tòa xong, chúng trưởng tới cung thỉnh lễ 3 lạy xong lui về chỗ ngồi. Luật ghi rằng, tăng đã nhóm họp, vị Tỳ kheo tụng giới kiểm điểm số để biết người đến và người nào không đến. Nếu có chúng Sa Di thầy Duy Na xướng:

-     Này các Sa Di hãy thứ tự tiến lên đứng theo hàng hướng lên trên, nghe tiếng khánh lạy đại tăng 3 lạy rồi quỳ gối chấp tay. Thầy vỗ thủ xích dạy khuyên rằng:

-     Các Sa Di hãy lắng nghe, thân người khó được, giới pháp khó gặp, thời khắc dễ qua, đạo nghiệp khó thành, các vị mỗi người nên giữ thân - khẩu - ý thanh tịnh, cần học kinh, luật, luận, cẩn thận đừng có buông lung!

-     Y giáo phụng hành …

Duy Na xướng:

-     Các Sa Di lễ một lạy rồi đứng lên thứ tự lui ra. Sa Di ra rồi đại chúng khởi sự tụng Tứ Phần giới bổn (giới Tỳ Kheo).

Thầy Duy Na xướng, đại chúng đồng hòa theo:

Nam mô Bổn Sư thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

Tiếp đọc:

Kệ khai luật:

Kinh biệt giải thoát khó được nghe

trải qua vô lượng trăm ức kiếp

Đọc tụng thọ trì cũng như thế

Như thuyết mà làm lại khó hơn.

Hòa thượng vỗ thủ xích hỏi rằng:

Tăng nhóm chưa?

-     Tăng đã nhóm

Hòa hợp không? Người chưa thọ giới cụ túc ra chưa?

-     Đã ra

Có các Tỳ kheo thuyết dục và thanh tịnh không?

Nếu không trả lời là không: còn như có người thuyết dục và thanh tịnh, vị nhận gởi dục Tỳ Kheo đáp rằng, có rồi đứng lên ra trước chúng lễ một lạy rồi quỳ gối chấp tay bạch như thế này:

-     Đại Đức tăng nghe, con Tỳ Kheo… nhận gởi dục thanh tịnh, Thầy A như pháp tăng sự gởi dục được thanh tịnh. Nói một lần xong, Hòa Thượng đáp rằng:

-     Được!

Tỳ Kheo thuyết dục lễ một lạy xong đứng lên trở về chỗ ngồi tụng giới. Nếu có thể nhớ tánh danh từng vị tùy theo hứa nhận gởi dục bao nhiêu vị. Nếu không thể nhớ chỉ nói: nhiều chư Tỳ Kheo gởi dục thanh tịnh.

Như Tỳ Kheo nhận gởi dục mà có việc bất khả kháng không thể đến trong chư Tăng nghe giới được nên chuyển dục cho Tỳ kheo khác. Phải đến trước một Tỳ Kheo thanh tịnh nói đầy đủ như thế này:

-     Đại Đức một lòng nghĩ, tôi Tỳ Kheo A có nhận dục thanh tịnh của một số vị Tỳ Kheo. Các vị ấy và chính tôi như pháp tăng sự xin gởi dục thanh tịnh. Nói xong, vị thọ chuyển dục ra trước tăng cũng làm y như trên.

-     Có ai sai Tỳ Kheo Ni đến thỉnh giáo giới không?

Nếu không, trả lời trong đây không có Ni đến thỉnh giáo giới. Nếu có, vị Tỳ kheo Giáo thọ ấy đứng lên ra trước chúng hướng lên lạy một lạy rồi quỳ gối chấp tay vì Ni chúng mà bạch rằng:

-     Đại Đức Tăng nghe, chùa… của Tỳ Kheo ni, Tăng hòa hợp, sai Tỳ Kheo Ni tới đảnh lễ Tỳ Kheo tăng, thỉnh người dạy Ni. Bạch 3 lần như thế xong đứng lên, đến trước Thượng Tọa đệ nhất thỉnh rằng: Đại Đức từ bi có thể đến dạy Tỳ Kheo Ni không? Nếu Thượng Tọa này đồng ý đến dạy, đáp rằng có thể; còn nếu không nhận dạy, trả lời không thể. Vị Tăng từ 20 hạ trở lên đều được hỏi như thế. Nếu trong Tăng đều không ai nhận; trở lại Thượng Tọa đệ nhứt lễ một lễ, quỳ bạch: con Tỳ Kheo… đã hỏi khắp trong tăng không có ai kham nhận giáo giới Tỳ Kheo Ni, mong Thượng Tọa nên nói lược phép giáo giới bảo cho vị Tỳ Kheo kia rằng: Này Đại Đức trong chúng đây đã không nhận làm giáo thọ Ni, ngày mai Ni đến thỉnh có hợp thời không? Nên trả lời vị kia rằng: tối qua vì chúng Ni mà ở giữa tăng đã mời khắp hết, không có vị nào nhận dạy Ni cả. Tuy nhiên, Thượng Tọa có nói, báo cho chúng Tỳ Kheo Ni nên phải tinh tấn hành đạo, cẩn thận chớ có buông lung. Vị Tỳ Kheo nhận lời dặn dò đáp: xin vâng! Xá một xá rồi lui. Y cứ luật qui định người đủ đức mới được đề cử dạy Ni. Ngày nay chỉ hỏi vị Thượng Tọa thỉnh mời để làm sáng qui tắc đương thời. Việc Ni, Tăng sai hai lần bạch yết ma tới thỉnh pháp. Muốn biết rõ đợc thêm luật Tứ Phần trong phần 2 nên đây không ghi ra hết.

-     Tăng nay hòa hợp để làm gì ?

-     Để làm Yết ma tụng giới.

Người cử tụng giới trước bạch hòa tăng một lần như sau:

-     Đại Đức tăng nghe, nay là 15 tháng… có trăng, Bố Tát tụng giới, nếu tăng phải thời mà đến, tăng thuận nghe hòa hợp tụng giới bạch như thế, tác bạch có thành không? Đại chúng đồng chấp tay đáp: Thành.

-     Chư Đại Đức mùa xuân 3 tháng 90 ngày là một thời; nửa tháng 14 ngày đã qua. Tháng giêng ngày Rằm ngày tụng giới nửa tháng đã qua, tháng 3 ngày 15, 30 tụng giới 2 lần cũng đã qua. Bây giờ còn mùa hạ, thu và đông 3 kỳ dựa theo đây mà thay đổi.

-     Già chết gần kề, Phật pháp sắp diệt, chư Đại Đức vì muốn đắc đạo nên nhứt tâm cần cầu tinh tấn. Tại sao phải làm như vậy? Vì chư Phật nhứt tâm cần cầu tinh tấn nên chứng thành vô thượng chánh đẳng chánh giác; huống gì là các pháp lành khác. Mọi thú vui trong lúc còn tráng kiện, nỗ lực cần tu thiện tại sao chẳng cầu đạo; yên phận đợi già còn mong thú vui gì? Một ngày đã qua, mạng theo đó cũng giảm dần như cá thiếu nước nào có vui chi…

1.5.4 Lại nói rõ pháp tăng lược tụng giới.

Trong luật Phật dạy, nếu có vua, giặc, thủy, hỏa, bịnh, các nạn nhân, phi nhân và những nghịch duyên khác như thiếu chỗ, đường ngập nước, trời mưa, đêm Bố Tát sắp hết; hoặc tranh biện, thuyết pháp lâu v.v… nên tụng lược giới. Người tụng khéo biết lúc tùy nghi, nêu lên các nạn duyên. Đây dựa theo luật Tỳ Ni Mẫu luận rằng, nếu tụng tựa của giới xong, hỏi có thanh tịnh xong nên bảo chúng rằng:

Chư Đại Đức:

-     Đây là 250 giới: 4 tội Ba La Di

-     13 tội Tăng Già Bà Thi Xa

-     2 Pháp bất định

-     30 tội Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề

-     90 pháp Ba Dật Đề

-     4 Ba la đề đề xá ni

-     100 pháp chúng học

-     7 pháp dứt sự tranh cải.

Pháp tăng thường nghe, nửa tháng tụng một lần trong giới kinh chép ra. Nay xin hỏi chư Đại Đức trong đây có thanh tịnh không? (hỏi 3 lần). Chúng im lặng, gõ tiếng chuông tiếp:

-     Chư Đại Đức trong đây thanh tịnh vì im lặng vậy, việc ấy như thế mà rõ biết.

Trên đây là tụng y nguyên văn. Nếu gặp nạn khó, nghịch duyên nên hỏi phép thanh tịnh; rồi tụng tới đâu nên nói tụng tới đó như:

-     Chư Đại Đức đã tụng đến chỗ … ngoài ra các giới khác tăng thường nghe tùy nghi,

-     Chư Đại Đức nay là ngày 15 tháng… có trăng Bố Tát mỗi người phải giữ thân, miệng, ý chớ có buông lung.

Nói xong hồi hướng mỗi người tự giải tán. Song ở đây nói tụng lược tức là chỉ đọc những giới danh quan trọng, là cách hay nhất. Nếu người mới thọ giới không am tường luật Tứ Phần như có đọc toàn văn cũng khó lãnh hội hết huống chi tụng lược mà có thể hiểu rõ. Vì thế, sau khi thọ giới phải học, học để hành trì, như gặp việc liền thích ứng ngay, rất có lợi được nhiều mặt. Nay nêu rõ 3 pháp lược, đức Phật phương tiện tùy cơ, nhưng làm vị tăng am tưòng sự duyên không có lỗi, vì việc bỏ Bố Tát.

1.5.5 Pháp đối thủ yết ma tụng giới:

Luật dạy rằng, một Tỳ Kheo ở riêng gặp ngày Bố tát nên dọn phòng sạch sẽ, trãi tòa ngồi, bày đủ phẩm vật cúng. Nếu có khách tăng đến như 4 người từ 4 người trở lên, dựa theo trước làm phép tăng Yết Ma tụng giới. Như chỉ có 3 người không được thọ dục, trước hết một Tỳ Kheo đủ nghi cách đối trước 2 Tỳ Kheo kia lễ 3 lạy, quỳ bạch rằng:

-     Nhị vị Đại Đức nghĩ cho, nay là ngày 15 tăng tụng giới, tôi Tỳ Kheo… thanh tịnh (3 lần) xong lễ một lạy rồi ngồi xuống, hai vị kia cũng làm như vậy, lần lượt đối thủ nói 3 lần như trên. Nếu có 2 Tỳ kheo ở chung cũng dựa theo pháp này. Như trong số có người phạm, nên hướng về vị thanh tịnh tỏ bày sám hối. Trong trường hợp phạm tội không nên thêm 2 chữ thanh tịnh.

1.5.6 Tâm niệm pháp yết ma tụng giới:

Luật chế, nếu một Tỳ kheo vào ngày Bố Tát nên dọn dẹp sạch sẽ, bày đầy đủ đồ cúng; như không có tăng khách đến tự đủ oai nghi, tới trước bàn Phật lễ 3 lạy rồi nói:

Nay là ngày 15 tháng… tăng tụng giới Bố Tát, con tỳ kheọ thanh tịnh (3 lần). Tụng Bát Nhã, hồi hướng rồi lui ra.

1.5.7 Luật Tỳ Kheo bày đúng chỉ sai:

Luật ghi rõ Tỳ Kheo thực hành 184 pháp yết ma, trong mỗi một pháp, mỗi pháp có đủ 7 tội. Vì sai là trái giới luật gọi là băng hoại, việc tác pháp không thành. Đúng luật gọi là duyên thành, tác pháp có lợi, có nghĩa là xứng lượng nhơn, pháp và việc phải nên làm cái gì cần làm mới được. Ở đây nêu lên pháp yết ma Bố Tát. Nêu rõ điều đúng chỉ việc sai khiến cho kia sanh thiện dấu ác vậy.

-     Thứ nhất người lỗi: nghĩa là cùng ở chung một chỗ nghe hiệu lệnh nhóm chúng nên đến; không đến phải gởi dục.

Không gởi dục, đến cũng chẳng chọn người trong chúng, nhập chúng đem số Ni vào, hoặc tụng giới có người phạm, họp bạch vấn hòa. Hoặc 3 người ngồi chỗ cao cùng làm việc Bố Tát hay mỗi người ở phòng riêng, tụng riêng một mình không có chúng, gọi đó là duyên hoại, việc Bố Tát bất thành. Trái lại là thành việc tụng giới có lợi ích.

-     Thứ nhì pháp lỗi: có nghĩa là 4 vị tăng, trước bạch nhóm chúng, sau cùng tụng giới. Hơn 4 người không bạch nhóm chúng, chỉ cùng hòa tụng; hoặc có 3 người mà nhận dục người thứ tư gởi. Hay trong trường hợp tuy chúng tăng đông mà gởi dục hơn phân nửa, tức là không hòa chúng. Tụng giới đảo lộn, câu văn sai sót, lời tiếng không rõ, việc vô bổ, tự ý tuyên bố lược giới, gọi là duyên hoại, việc Bố Tát bất thành, tụng giới đúng pháp.

-     Thứ ba việc lỗi: chúng tăng cùng ở chung không kết hạn giới, hoặc trước kết giới rộng (đại), sau kết giới tràng (tiểu). Nếu địa điểm là đất già lam nên xướng danh kết giới theo phạm vi nhẫn đến tiểu giới cũng vậy, cắm dấu mốc cho còn, đại giới - giới rộng - không cần cắm dấu tướng. Tuy phạm vi như pháp, nhưng việc tụng giới có khuyết gọi là duyên hoại, việc Bố Tát bất thành. Trái lại là thành việc tụng giới được lợi lạc.

-     Thứ tư nhơn pháp đều lỗi: có nghĩa hợp luật chế, cả hai nhơn pháp đều sai. Như đã nêu trên nên tự hiểu ở đây không nhắc lại nữa.

-     Thứ năm sự pháp đều sai; có nghĩa người hòa hợp với duyên, song sự - pháp đều hoại. Lấy ở trên để chứng minh ở đây, việc Bố Tát không thành.

-     Thứ sáu pháp không lỗi nhưng nhơn sự lại phạm lỗi, như trên đã qui định, hoàn toàn chẳng có lợi ích gì.

-     Thứ bảy nhơn – pháp-sự lỗi: có nghĩa là cả 3 đều phạm luật. Một đã không thể thành, huống chi tập họp Bố Tát lại nhọc công vô ích.

Đối thủ Bố Tát cũng nêu rõ 7 lỗi như:

a) nếu có chư tăng không nhóm lại, cố ý nắm giữ riêng gọi là người lỗi

b) hai và ba người tụng hết lại bảo lược gọi là pháp lỗi

c) ba người và hai người kết tiểu giới riêng gọi là sự lỗi

d) thứ tư là nhơn - pháp lỗi

e) thứ năm: sự - pháp lỗi

f) thứ sáu: nhơn - sự lỗi

g) thứ bảy: pháp - sự lỗi.

Lấy 3 lỗi trước hợp chung cùng 4 lỗi sau; ngược lại duyên thành việc Bố Tát đúng luật.

Tâm niệm Bố Tát cũng có 7 lỗi như:

a) nếu chúng đông người, mỗi người nắm riêng đó là nhơn lỗi

b) tự vấn hòa hợp: đọc hết giới mà tự mình lược là pháp lỗi.

c) Trước Phật điện niệm tưởng như thế … là việc lỗi

(Bốn pháp sau xem ở trên) chung lại thành loại trái mà giản lược bớt nên biết.

1.5.8 Tăng Bố Tát làm phép yết ma tụng giới:

Nếu như cùng một địa điểm mà đại giới và tiểu giới chung, Tỳ Kheo Bố Tát tăng trước hết cho chúng Tỳ Kheo tăng cùng họp chung Bố Tát. Như pháp tăng Bố Tát ở trước tụng luật Tứ Phần giới bổn xong, hồi hướng, các Đại Đức giải tán. Lại trong một lúc khác tại Phật điện trải tọa cụ, sẵn sàng mọi thứ, nhóm chúng Bố Tát, tụng kinh Phạm Võng Bố Tát. Nếu không có chúng Tỳ Kheo, chỉ có chúng Bố Tát, trước cũng nhóm chúng Tỳ Kheo Bồ Tát tăng tới điểm Bố Tát, tụng luật Tứ Phần. Sau đó lại họp chúng Bồ Tát trước điện Phật tụng Phạm Võng Bồ Tát giới. Giá gặp trở duyên thì trước tụng lược Tứ Phần giới bổn, sau tụng đủ kinh Phạm Võng. Nếu nạn duyên xảy đến không thể trong vài giờ nhóm chúng được, hai chúng mỗi chúng đều tụng, nhóm chúng trước Phật điện lược tụng Tứ Phần, sau nhóm chúng Bồ Tát lược tụng kinh Phạm Võng.

Tuy tụng Luật Tỳ Kheo trước điện Phật, nhưng phương tiện khai cho tụng lược trong trường hợp có nạn .

Bố Tát không nạn duyên, tụng đầy đủ giới Bồ Tát, một vị Thượng Tọa Tỳ Kheo Bồ Tát ngay trong bửa ngọ trai hay tiểu thực ra trước bạch chúng rằng:

-     Chư Đại Đức Bồ Tát tăng nghe, nay là 15 tháng… có trăng ngày Bố Tát, thưa chúng Bồ Tát vân tập Phật điện (hay thiền đường, giảng đường) để tụng giới Bố Tát. Bạch như thế một lần xong, liền sai Sa Di Bố Tát hoặc Tỳ Kheo Bồ Tát nhỏ tuổi cũng được, tới chỗ tụng giới dọn dẹp sạch sẽ, trải tọa cụ ngay ngắn, chuẩn bị đầy đủ hương đèn, nước cúng Phật xong. Đúng giờ tụng giới, một Tỳ Kheo Bồ Tát gõ hiệu lệnh 3 hồi (3 tiếng) nhóm chúng Bồ Tát. Các Tỳ Kheo Bồ Tát trước phải y hậu chỉnh tề vào chánh điện, theo thứ tự hạ lạp đứng xong, một vị lãnh chúng cầm hương mời một Tỳ Kheo Bồ Tát đầy đủ giới đức niệm hương và tụng giới. Vị ấy bước lên lễ Phật rồi ngồi. Mỗi vị ngồi theo chỗ của mình. Thầy Duy Na xướng, đại chúng cùng tụng theo như:

Nam Mô thiên Hoa Đài Thượng Lô Xá Na Phật (3 lần).

Kệ khai luật:

Thăm thẳm cao siêu pháp nhiệm mầu

Trăm nghìn ức kiếp khó tìm cầu

Con nay nghe thấy chuyên trì niệm

Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu …

Vị chủ trì vỗ thủ xích hỏi:

o     Tỳ Kheo Bồ Tát tăng nhóm chưa?

-     Đã nhóm

o     Hòa hợp không?

-     Hòa hợp

o     Người chưa thọ Bồ Tát giới ra chưa?

-     Đã ra.

o     Có các Bồ Tát thuyết dục và thanh tịnh không?

-     Không có đáp, không. Có đáp có.

Trong đây không cần hỏi Ni thỉnh giáo giới, giả sử có Tỳ Kheo Ni, nếu chưa thọ giới Bồ Tát, nên phải cho ra trước là hợp lý nhất. Tỳ Kheo Ni đã thọ giới Bồ Tát, cho họp nghe chung trong Bồ Tát tăng. Nếu Tỳ Kheo Ni Bồ Tát ở gần chùa tăng và gặp tăng Bố Tát lúc chung họp tụng giới; nửa tháng không đến thỉnh giáo giới thời phạm 3 lỗi: 1) Khinh tội ba dật đề 2) nếu bịnh và các duyên khác không đến lễ tăng, phạm tội vượt giới luật 3) tự tiện bỏ việc nhỏ không giữ tăng chế, phạm khinh cấu tội. Tỳ Kheo Ni biết đối với việc nhỏ nên thỉnh nên hỏi; với việc lớn thì không hỏi không thỉnh.

-     Tăng nay hòa hợp để làm gì?

-     Để yết ma tụng giới Bồ Tát.

-     Đại Đức tăng nghe, nay ngày 15 (30) tháng có trăng (không trăng) là ngày Bố Tát, nên tăng phải thời mà đến, tăng thuận nghe hòa hợp tụng giới, bạch như thế, tác bạch có thành không? (hỏi 3 lần).

(Đại chúng chấp tay đáp: thành).

Vị tăng chủ trì vỗ thủ xích nói:

-     Chư Phật tử chấp tay lắng nghe, nay tôi sắp nói lời tựa đại giới chư Phật; chúng nên yên lặng lóng nghe, tự biết mình có tội nên sám hối; sám hối thời được an vui, không sám hối tội càng thêm nặng. Người không có tội thì yên lặng, vì yên lặng nên biết trong chúng đây thanh tịnh. Chư Đại Đức lắng nghe, sau khi đức Phật diệt độ trong thời kỳ tượng pháp, nên phải tôn trọng ba la đề mộc xoa (giới luật), ba la đề mộc xoa chính là giới nầy. Người trì giới này như tối gặp sáng, như người nghèo được của báu, người bịnh được lành, người tù được thả, người đi xa được về… Nên biết giới này là đại sư của đại chúng, như Phật còn tại thế không khác vậy. Tâm sợ sệt phát sanh, thiện tâm khó phát, cho nên kinh ghi rằng: chớ khinh thường lỗi nhỏ cho là không hại. Giọt nước tuy nhỏ nhưng rỉ rả dần thành đầy chum lớn; tích tắc tạo tội đọa vô gián địa ngục. Một khi mất thân người muôn kiếp khó được lại, sắc trẻ không dừng dường như ngựa chạy. Mạng người vô thường nhanh hơn nước dốc; ngày nay dù còn khó bảo đãm được ngày mai. Đại chúng mỗi người nên nhất tâm cần cầu tinh tấn cẩn thận chớ có giải đãi biếng lười ngủ nghỉ mặc sức. Ban đêm phải nhiếp tâm niệm nghĩ tham thiền, chớ để thời giờ trống rỗng, đâm ra bãi hoải, sau sánh ăn năn. Đại chúng mỗi người nên nhất tâm nương theo giới này tu hành như pháp nên cần phải học.

Kính lễ Lô Xá Na 10 phương kim cương Phật, kính lễ trước luận chủ, đức chánh giác Từ Thị tôn Phật. Nay tụng ba tụ giới Bồ Tát đều cùng nghe, giới như ngọn đèn sáng phá tan đêm tối tăm; giới như gương báu sáng, soi chiếu hết thảy pháp, giới như châu ma ni, rưới của giúp kẻ nghèo, lìa thế chóng thành Phật, chỉ giới này là hơn hết. Vì thế các Bồ Tát nên phải siêng năng hộ trì.

Vị Thượng Tọa đọc chậm rãi kinh Phạm Võng từ đầu chí cuối xong, tụng Bát Nhã, hồi hướng. Thầy Duy Na cử tán kết thúc .

Nam Mô Thiên Hoa đài thượng Lô Xá Na Phật. (3 lần).

1.5.9 Luật Bồ Tát nêu đúng chỉ rõ sai:

Nên phải châm chước giữ không có chỗ phạm mới thành đúng pháp theo Đại Thừa Bố Tát có 7 lỗi:

1) Người lỗi: có nghĩa không lọc ra chúng chưa thọ Bồ Tát Tỳ Kheo mà ruỗi theo Sa Di đã thọ giới Bồ Tát đáng nhóm mà không nhóm, đáng gởi dục mà không gởi dục. Giới lạp không có tôn ti, ngồi lộn xộn như binh nô, xen tạp dung tục theo thiểu số ở trong chúng gọi là duyên hoại, việc Bố Tát khó thành. Nếu trái lại như đây là đúng luật, tụng giới mới thành.

2) Pháp lỗi: không làm pháp hòa chúng, hỏi thỉnh giáo giới thức Xoa ma na Bồ Tát, Sa di Bồ Tát, Sa di Ni Bồ Tát, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Đơn bạch (1 lần) yết ma hòa tăng, hoặc nghe tụng không hiểu, câu văn lộn xộn. Hoặc 3 người cùng ngồi cao, hòa xướng âm tốt là một việc vô bổ tự ý lược tụng giới hoặc mọi người cùng quỳ tụng giới, bỏ hẳn chỗ ngồi tụng theo qui định. Cũng như làm pháp đối thủ, tâm niệm, ba đơn bạch thay đổi, xem giống như việc nhỏ v.v… gọi là duyên hoại, tụng giới khó thành. Nếu trái lại như đây là hợp pháp, việc Bố Tát bèn thành.

3) Việc lỗi: địa điểm Bố Tát không theo hạn giới, hoặc phòng các nạn duyên. Tuy kết tiểu giới nêu danh xướng tướng; kết nhưng không giải v.v… gọi là duyên hoại, Bố Tát bất tịnh. Nếu trái lại như đây là giữ theo đúng luật, tụng giới được thiện lợi.

4) Nhơn pháp lỗi: việc hạn giới khéo giữ, nhơn pháp đều trái theo tiêu chuẩn trên biết là thành, như hoại (phá) là lược bớt (xứng lượng)

5) việc – pháp lỗi: có nghĩa người không có lỗi; việc – pháp đều trái, liệt nêu chỉ rõ, làm xong được lợi ích

6) người - việc lỗi: pháp đúng thánh giáo, người - việc khinh nhờn thủ việc đắc thất trước tự biết rõ nên thất bại

7) người – pháp - việc lỗi: có nghĩa là một đã không hợp luật mà cả ba thành ra có lỗi. Trái lại là đúng luật như trước, Bố Tát mới thành. Ở đây lược nêu luật Tỳ Kheo qui định chọn lựa sự thành hoại. Các việc: đối thủ, tâm niệm …luật Đại Thừa không có các pháp này, nên không nêu dẫn hết.

1.5.10       Phụ: hai chúng tại gia Bố Tát:

Đại Thừa hai chúng tại gia đã thọ giới tướng thù thắng.

1) Phạm Võng 10 giới trọng, 48 giới khinh, đây là chân tục Bồ Tát. 7 chúng cùng thọ là Ưu Bà Tắc giới kinh, có 6 giới trọng và 28 giới khinh. Giới nầy chỉ người tại gia, không bao hàm người xuất gia nhưng đức Thế Tôn hợp căn cơ chế ngăn. Thí pháp do người, nếu thọ 10 giới trọng và các giới khinh, nửa tháng Bố Tát phải đến chỗ Tăng Bố Tát nghe tụng giới. Thảng hoặc như ở gần không có chùa Tăng, tại gia có bàn Phật cũng tự tụng được. Nếu thọ 6 giới trọng 28 giới khinh chỉ ở nhà mình quỳ trước bàn Phật tụng. Giả sử gần nhà có chùa tăng cũng không được nghe tụng giới, vì giới tướng không giống nhau. Đây khác với giới trọng khinh nêu trên; vì sau là 6 trọng và 28 khinh. Cần biết rõ điều khoản để tiện cho việc Bố Tát. Hai kinh trên đều có ghi rõ giới tướng và qui định 3 đàn truyền giới.

1.6Năm thiên sáu tụ giới:

Tỳ Kheo tăng có 250 giới thêm Thâu Lan Giá 17 điều; Ni có 348 giới thêm Thâu Lan Giá 25 giới.

1.6.1 Năm thiên là:

1- Bốn pháp Ba La di, Tỳ Kheo Ni có 8 Ba La Di. Đây là giới căn bản vì tánh nghiêm trọng. Cũng gọi đệ nhất tụ gắn liền tới chết thuộc thổ giữ giới này được sanh cõi trời Tha Hóa, nếu phạm sẽ đọa vào địa ngục nóng bức (thiêu đốt).

2- Thiên thứ hai là 13 pháp Tăng già bà thi xoa; Ni có 17 pháp tăng già bà thi xoa cũng gọi là tụ thứ hai: gắn chặt lưu chuyển thuộc thủy. Giữ giới này thời sanh lên cõi Hóa Lạc thiên; nếu phạm sẽ đọa vào địa ngục kêu thét.

Tụ thứ ba: pháp Thâu Lan giá, Tăng có 17 pháp. Không phải Ni của luật Tứ Phần, Tát Kỳ Ba Dật Đề 30 pháp. Ni có 25 pháp (không phải luật Tứ Phần 30 pháp). Đây chỉ có tên từ khi sanh gọi là luận tụ. Giữ giới này thời sanh lên cõi trời Đâu Suất; nếu phạm sẽ đọa địa ngục khóc gào.

3- Thiên thứ ba: pháp Ba Dật Đề, tăng có 120 pháp luật Tứ Phần, phần hai , trước có 30 pháp gọi là Ni tát Kỳ Ba Dật Đề. Ni có 208 pháp (Luật Tứ Phần cũng phần 2, trước có 30 pháp cũng giống Tỳ Kheo). Cũng gọi là tụ thứ tư. Gắn chặt thuộc kim. Giữ giới này thời sanh lên cõi trời Dạ Ma; nếu phạm sẽ đọa địa ngục chúng hợp.

4- Thiên thứ tư Ba la Đề Đề Xá Ni; Ni có 8 pháp, cũng gọi là tụ thứ năm. Gắn bó như chiếc gậy thuộc hỏa. Giữ giới này thời sanh lên cõi trời Đao Lợi; nếu phạm sẽ đọa địa ngục hắc thằng (dây đen).

5- Thiên thứ năm: 100 pháp Thức xoa Ca la, tức là 100 pháp chúng học, nên cũng gọi là cần phải học. Quy định Tỳ Kheo Ni giống như đây, cũng gọi là tụ thứ sáu. Gắn bó nở hoa ngầm thuộc mộc. Giữ giới này thời sanh lên cõi trời Tứ Thiên Vương; nếu phạm sẽ đọa địa ngục đẳng hoạt.

Chứng nghĩa ghi rằng, Tổ Hoa Sơn giải thích 5 thiên 6 tụ như, các bộ luật Tỳ ni đều không dịch đúng chỉ dùng nghĩa phiên dịch. Dựa theo luật Tăng Kỳ chỉ nêu rõ 5 thiên, còn y cứ luật Tứ Phần mở ra là 6 thiên. Cũng nói rằng, bảy chúng giữ luật nên biết thiên, tụ mới có thể mở - ngăn (khai, giá) chỗ đạt được; giữ gìn đúng cách, làm thanh tịnh ba nghiệp. Đây là việc đầu tiên nói thiên; thiên tức là biến khắp vậy. Vì biểu tỏ sự rõ ràng mà cùng khắp; còn tụ tức là hội vậy. Có nghĩa thâu những gì lưu xuất họp lại mà thành.

Thứ nhất: Ba La Di, Trung Hoa gọi là bỏ lìa, tức vị tăng ở trong bốn pháp này lìa bỏ. Nếu phạm một giới tức là bỏ ra ngoài biển Phật pháp, vĩnh viễn không đạt đến đạo quả. Ni có 8 pháp bỏ, luật Tăng kỳ định nghĩa là rất cực ác. Lấy 3 ý đó giải thích như sau: 1) thoái mất: do phạm giới này lui mất không dự phần chứng quả 2) không được ở chung: không những chỉ mất đạo quả cũng không được thuyết giới yết ma ở trong hai bộ tăng (ni). 3) đọa lạc: bỏ thân này xong đọa vào địa ngục A Tỳ, nên là giới căn bổn của Hữu Bộ. Cũng còn gọi là Ba La thị Ca, dịch nghĩa là tha thắng, có nghĩa lúc vừa phạm bị người tịnh giới khác khi dễ hơn. Lại bị người khác quấy rầy thật đáng thương hơn . Xuất gia thọ giới Tỳ Kheo vì để trừ phiền não, nay bị cấm giới, lại bị người chế nhạo tiêu diệt thiện pháp; trở lại có thể sanh nơi ác thú, nên gọi là tha thắng.

Kinh Ngũ bách vấn ghi rằng, phạm tội Ba La di như tuổi thọ của trời Tha hóa Tự Tại đến 16,000 năm rồi đọa địa ngục nóng bức. Ở nhân gian là 1600 năm thì ở cõi trời kia là một ngày một đêm. Căn cứ theo đây biết được số năm, số tuổi đọa trong địa ngục. Nên nói rằng nghĩ tới địa ngục khổ phải phát tâm Bồ Đề. Người giữ giới há chẳng cẩn thận hay sao! Đây là tụ thứ nhất.

Thứ hai: Tăng già ba thi xoa, đây dịch là sơ tàn. Như phạm tội này, trước hết ở trước tăng che dấu tác pháp sám hối, sau cùng đưa tội ra yết ma. Luật Tỳ Ni Mẫu luận rằng tăng tàn như bị người khác chặt đứt ngang cuống họng gọi là tàn. Theo lý nên sớm cứu độ. Kinh ghi rằng, phạm tội tăng tàn như không kể trời thọ mạng 8000 năm rồi đọa đại địa ngục gào khóc. Số năm ở nhân gian 800 năm bằng một ngày một đêm ở cõi trời kia; lấy đây tính để biết được số năm tuổi ở địa ngục. Đây là tụ thứ hai.

Tụ thứ ba: Thâu Lan giá, đây dịch là thô quá, có nghĩa là không y giới Phật dạy mà hành trì. Tội thô (thô quá) có hai loại:

a) một là tội nặng, phương tiện do thành 2 thiên tội trước

b) có thể đoạn mất thiện căn, là thô ác bất thiện. Cũng có độc đầu Thâu Lan Giá chia nặng nhẹ làm 9 phẩm.

Như ở thiên tùy cơ Yết ma sám hối có nêu. Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề ở đây dịch là: Xả đọa. Có nghĩa là 30 pháp này đa phần do tham ái mà đọa, nếu xả tham ái tức là không đọa, nên gọi là xả đọa. Kinh ghi rằng, phạm tội Thâu Lan giá như tuổi thọ cõi trời Đâu Suất là 4000 năm đọa địa ngục kêu gào. Một ngày một đêm cõi Đâu Suất bằng 400 năm ở nhân gian. Căn cứ vào đó để tính có thể biết được số năm ở địa ngục.

Thiên thứ ba: Ba la đề, đây dịch là đọa. Luật Thật Tụng ghi rằng đọa địa ngục thiêu nấu ngăn chướng, 8 lớp nhiệt xông làm thiêu đốt, 8 lớp hàn băng bưng bít làm che chướng. 30 pháp xả đọa trước họp với 90 tội đọa này thành 120 tội. Kinh ghi rằng, phạm tội Ba Dật Đề như tuổi thọ trời Dạ ma là 2000 tuổi đọa địa ngục Chúng Hợp. Một ngày đêm cõi trời kia bằng 200 năm ở nhân gian. Lấy con số này làm chuẩn có thể tính biết được số năm ở địa ngục. Đây là tụ thứ tư vậy.

Thiên thứ tư: Ba La đề đề xá ni, đây dịch là hướng bỉ hối. Luật Tăng Kỳ ghi rằng, tội này nên phát lồ. Nói phát lồ tức hướng về một Tỳ Kheo nói lời hối lỗi. Kinh ghi rằng, phạm tội Ba la đề đề xá ni như tuổi thọ cõi trời Đao Lợi 1000 năm rồi đọa địa ngục hắc thằng. Một ngày đêm ở cõi trời Đao lợi bằng 100 năm ở nhân gian. Lấy đây làm chuẩn có thể biết được số năm đọa ở địa ngục. Đây là tụ thứ năm.

Thiên thứ năm: pháp chúng học cũng gọi là đột kiết la, đây dịch là ác tác hoặc là thủ giới gồm 100 giới. Giữ điều vi tế (nhỏ nhiệm) rất khó nên học theo đó giữ điều cần phải học. Kinh ghi rằng phạm tội đột kiết la như tuổi thọ cõi trời Tứ Thiên Vương 500 năm đọa địa ngục đẳng hoạt. Một ngày đêm ở cõi Tứ Thiên Vương bằng 50 năm ở nhân gian. Lấy đây làm chuẩn có thể biết được năm tuổi đọa ở địa ngục. Đây là tụ thứ sáu vậy. Hoặc là tụ thứ bảy tức đem tụ thứ 6 này chia làm hai tụ; ở thân gọi là ác tác thuộc tụ thứ 6, ở miệng gọi ác thuyết thuộc tụ thứ 7. Lại trong hai pháp đó bất định hàm trong 3 thiên trước và 4 tụ trên. Sau cùng, 7 pháp diệt tránh hàm trong 90 pháp ba dật đề. Ngoài ra trong tụ thứ ba Thâu Lan Giá rút từ luật Tứ phần, ngoài 250 giới. Lại năm thiên giới đây phán định phân 3 chi nếu phạm 2 thiên đầu gọi là phá giới, nếu phạm 3 thiên sau gọi là phá oai nghi. Nếu phạm trong 90 pháp như pháp 68 tà kiến sanh hủy báng giới, gọi là phá kiến. Giảng rộng như trong luật về tác – trì và chỉ - trì , quy định Bố Tát đại cương có giải thích rõ. Theo Ngẫu Ích đại sư có Trùng Trị Tỳ Ni sự nghĩa tập yếu hành thế; lại còn có Tứ Phần giới bổn tân yếu, Như thích toát yếu, lại có Phạm Võng trực giải hiệp chú phát ẩn v.v… Dù chưa đưa vào tạng cũng nên tìm đọc cho biết.

1.7Hộ giới:

Tiếng Phạn là Bố Tát Trung Hoa dịch là ngã đối thuyết (nói với tôi), có nghĩa nhắm tướng thuyết tội; bèn phỏng theo nửa tháng sám hối mà dịch. Cũng dịch tịnh trụ thiện túc, có nghĩa bỏ xấu ác mà chứng pháp thiện lành, thân tâm được thanh tịnh y giới mà trụ. Cũng dịch là thuyết giới, có nghĩa là nửa tháng nhóm chúng tụng giới làm cho tăng trưởng pháp lành, giữ gìn tự tâm, nên biết Bố Tát đúng là điều quan trọng của việc hộ giới. Kinh Phạm Võng ghi rằng, nay tôi mỗi nửa tháng tụng giới pháp của chư Phật, hết thảy các vị phát tâm Bồ Tát cũng tụng, cho đến 10 phát thú, 10 trưởng dưởng, 10 Kim Cương, thập địa chư Bồ Tát cũng tụng như vậy. Vì thế giới quang từ miệng phát ra; có duyên chẳng phải không nhơn nên gọi là quang. Quang này chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng, đen; chẳng sắc, chẳng tâm, không hữu chẳng vô, chẳng phải pháp nhân pháp quả. Là bổn nguyên của chư Phật, là căn bổn của Bồ Tát đạo, là căn bổn của chúng Phật tử. Vì thế chúng Phật tử nên thọ trì, phải đọc tụng, nên cần học… đây gọi là hộ giới vậy. Hộ giới có thể tướng riêng biệt nửa tháng Bố Tát, cho chí đạo cụ, hộ giữ các tướng đó. Thọ giới chỉ một lần, giữ giới suốt trọn đời. Tân giới đối với các điều răn như 10 giới Sa Di, 24 oai nghi, Tỳ Kheo 250 giới, Bồ Tát 10 giới trọng, 48 giới khinh v.v…Tại giới trường đã đọc kỹ khai - giá - trì - phạm cũng như nghe giảng giải sơ phát tâm đâu chẳng tuân giữ. Vì lo sau khi ra khỏi giới trường dần dà gần gũi người xấu, dần nghe tà thuyết vi phạm không Bố Tát, không trì giới làm rối loạn chân tâm, bèn thành việc ma. Bắt đầu ăn phi thời, kế tiếp uống rượu, thậm chí ăn thịt, lại còn dâm dục… không việc gì mà không làm cả, thương thay! Dưới lớp áo cà sa đã đánh mất nhơn thân. Nghĩ lại xuất gia thọ giới những gì phải làm? Vì thế, Phật dạy, Tỳ Kheo các con phải tự sờ đầu mình. Sờ đầu để biết đầu mình cạo bóng, biết ta là con Phật, nên theo lời Phật dạy lấy giới làm thầy, y theo pháp 4 niệm xứ mà an trụ. Thà giữ giới mà chết chứ chẳng bằng phá giới mà sống! Giới luật thanh tịnh thì thiện pháp phát sanh. Kinh ghi rằng, tinh tấn giữ giới thanh tịnh, gìn giới như giữ châu sáng. Đó là y tướng giữ giới vậy.

Kế nói về y thế mà hộ giới, khởi đầu là 5 giới, cuối cùng là 3 tụ giới, tất cả các giới tướng so đồng nhất thể. Luật qui định phàm trước khi thuyết giới đều nói: nay vì ngươi mà tuyên đọc Yết ma Tam quy làm cho ngươi tự cảm phát giới thể, cho chí lời kết rằng, trở lên Tam quy chính là dung cái thể nơi tâm, nên biết ba Quy là hết thảy giới thể, vì thế nói là thể. Ba quy y theo sách Chánh Phạm ghi rằng, đem huệ thật tướng hiểu rốt ráo các pháp là phi không phi hữu; cũng không cũng hữu; cả hai đều quên, cả hai đều chiếu, 3 trí tròn sáng, đó là tự tánh Phật bảo, biết rõ lý của Pháp tánh. Ba đế đầy đủ là tự tánh Pháp bảo; trí hiểu biết nầy cũng hòa hợp sự lý là tự tánh Tăng bảo. Ba quy y như thế gọi là giới thể. Lại thỉnh Tỳ Kheo giới, sách Chánh Phạm ghi rằng, thập sư trên tòa vừa đến sáng nay nắm giữ vai chính lúc yết ma làm cho giới tử phát tâm thượng phẩm nghĩ tới nghiệp lực dụng tưởng khắp pháp giới, biến khắp các cảnh trần. Nhưng cảnh tùy tâm hiện; song chỉ hiện cảnh, chẳng có biểu sắc tức là giới, cái thể của cảnh trần cũng được cái nhân của giới. Nếu chưa đủ duyên nghĩ tới việc lãnh thọ như trên, thể của cảnh trần này không buộc nơi ngươi. Chỉ một khi phát tâm sau khi suy nghĩ lãnh thọ rồi, đây là thể cảnh trần pháp giới luôn nương tự tâm các ngươi, niệm niệm chẳng quên mất; luôn luôn giữ gìn là lấy giới làm năng y, tâm làm sở y. Tâm – pháp hòa hợp gọi là giới thể. Cái thể này như kinh Phạm Võng cho rằng chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, chẳng sắc, chẳng tâm, phi hữu phi vô, chẳng phải pháp nhân pháp quả, vốn không thể hộ, do bội giác hiệp trần (xoay lưng với giác hiệp theo trần), mê mất bản chơn, chấp nơi tà kiến như thân kiến, biên kiến, tà kiến, giới thủ, kiến thủ. Do 5 món kiến này sanh ra 62 kiến, do các kiến chấp đó nên không dứt sanh tử. Vì thế, giữ giới phòng ngăn nó không cho gần. Đó là y thể mà hộ giới vậy. Nơi mười triền[15], mười sử[16] cho chí tám vạn bốn ngàn trần lao vọng tưởng phiền não đều nên hộ trì làm cho vắng lặng. Kinh Lăng Nghiêm ghi rằng, hết thảy chúng sanh đều do không biết thân tâm thường trụ theo các vọng tưởng; tưởng đây không thật nên bị luân chuyển (xoay vòng). Kinh Hoa Nghiêm ghi rằng, Ta thấy khắp hết thảy chúng sanh có đủ trí huệ, đức tướng Như Lai. Chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên không thể chứng được. Nếu lìa vọng tưởng thì nhứt thiết trí, vô sư trí tự nhiên hiện tiền. Nên nói tri kiến biết tức là gốc vô minh; tri kiến không thấy nữa, đây là Niết Bàn vậy. Nghiệm xét như thế là hộ giới, như người chưa thể đạt đến rất khó, vã cần nương 4 niệm xứ quán, ngỏ hầu cũng có thể đạt được.

Chứng nghĩa ghi rằng, điều răn trong 7 chúng, nay đơn cử Tỳ Kheo là một chúng mà biết các chúng khác. Trong đây lấy giới làm thầy, y 4 niệm xứ mà trụ, thà giữ giới mà chết còn hơn không giữ giới mà sống. Bốn lời nói trên đã bao hàm hết thảy các điều giới. Nay thử lược nêu vài điều để chứng minh việc hộ giới, trong đó có thô - tế - khinh - trọng đều nên tinh ý giữ gìn không trái phạm. Kinh Lăng Nghiêm Phật bảo Ngài A Nan rằng, con tu thiền định để ra khỏi trần lao mà tâm dâm không trừ thời trần không thể thoát được. Giả sử đa trí, thiền định hiện tiền, nếu không đoạn dâm ắt rơi vào ma đạo. Thượng phẩm là ma vương, trung phẩm là ma dân và hạ phẩm là ma nữ. Chúng ma kia mỗi loại tu Tam muội để ra khỏi trần lao mà tâm sát hại không trừ thời trần không thể thoát được. Giả sử đa trí, thiền định sẵn sàng, nhưng không đoạn sát sanh ắt rơi vào thần đạo. Thượng phẩm làm người, làm đại lực quỉ, trung phẩm làm dạ xoa phi hành, điều khiển các quỉ, hạ phẩm làm la sát địa hành. Các loại quỉ thần cũng có đồ chúng, mỗi loại tự cho rằng đã thành vô thượng đạo v.v…

Phật lại dạy: con tu tam muội để ra khỏi trần lao mà tâm trộm cắp không trừ trần không thể thoát được. Giả sử đa trí thiền định sẵn sàng, nếu không đoạn trộm cắp hẳn rơi tà đạo. Thượng phẩm làm tinh linh, trung phẩm làm yêu tinh, hạ phẩm làm người tà tâm. Các loài yêu tinh chấp chặt vào những tà pháp của chúng; chúng cũng có đồ đảng, mỗi bọn họ tự cho rằng đã thành vô thượng đạo v.v… Phật lại dạy: Ba hành đã tròn đủ, nếu đại vọng ngữ cho là thiền định không đạt thanh tịnh, thành ma ái kiến mất chủng tánh Như Lai (Phật). Cho nên chưa đắc bảo đã đắc, chưa chứng nói chứng… là một điên ca tiêu diệt giống Phật. Như người dùng dao chặt cây Đa La, Phật bảo người đó vĩnh viễn mất hết thiện căn v.v… Đây là vấn đề hộ giới rất rộng, rất sâu vậy. Sách Thiền Tông bí yếu ghi, xưa có trạng hỗ Ngũ Vân gặp vị thiền sư một hôm đi dự tiệc; có một thần nhân quỳ gối phía trước. Sư hỏi rằng ngươi là ai vậy?

-     Đáp: Thần hộ giới.

Thiền sư nói: cái họa của ta kiếp trước chưa hết, ngươi có biết việc đó không?

-     Hỏi: sư có tội gì? Chỉ có một lỗi nhỏ thôi mà!

-     Sư hỏi: là lỗi gì?

-     Phàm đổ nước bình bát cũng là vật của thí chủ, sư bèn đổ bỏ đi, chẳng phải việc nên làm, nói xong liền biến mất.

Từ đó thiền sư rửa bát lấy nước uống hết.

Ngoài ra Luận Đại Trí Độ ghi rằng, có một vị Tỳ Kheo ở trong rừng đi kinh hành bên bờ ao sen, nghe mùi thơm của sen, sư kê mũi hửi, tâm ưa đắm thích. Vị tri thần hiện ra nói:

-     Sao ông bỏ thiền lấy trộm hương? Chỉ đắm mùi hương mà các kiết sử lắng (chìm) xuống nay đều khởi lên. Khi đó có người canh cắt hoa, đào gốc mang đi. Thần không nói một lời nào cả. Tỳ Kheo hỏi rằng:

-     Người này phá ao lấy hoa, ngươi không nói; ta chỉ hửi mùi thơm liền bị quở trách là tại sao?

-     Địa thần nói: người ác ở đời thường bị lấm phân dơ, bất tịnh mất đầu, ta đâu đề cập tới làm gì. Ngươi là người tốt hành thiền mà còn đắm mùi thơm làm hỏng mất điều tốt. Vì thế phải trách ngươi, ví như tấm đệm mới trắng sạch mà bị một chấm đen vấy vào, ai thấy cũng lấy làm tiếc. Người ác kia cũng như chiếc áo đen dính mực, ai thấy tiếc bao giờ? Việc hộ giới đây cũng thế rất là tinh vi tế nhiệm. Ôi, há không cẩn thận sao! Trước nhất gọi là trì giới mà khởi sự sơ tâm không chịu cầu giới, nhẫn đến dựa thể mà gìn giữ, nên học rộng kinh Bát Nhã, Hoa Nghiêm phẩm phạm hạnh, kinh Niết Bàn phẩm phạm hạnh, cho chí kinh điển của Thiên Thai tông đều nên thực hành. Như nói nhân giới sanh định, nhân định phát huệ còn chưa theo kịp.

Trước hết quán bốn niệm xứ:

1) quán thân bất tịnh

2) quán thọ là khổ

3) quán tâm vô thường

4) quán pháp vô ngã.

Quán bốn pháp niệm xứ này là điều căn bản của sự tu hành, là khí cụ của hộ giới; vì thế mượn đó đây kết lời khuyên này.

1.8Đạo cụ:

Đạo cụ là vật riêng của Tỳ Kheo Bồ Tát tăng dùng, thuận đạo là vật làm gia tăng pháp thiện. Y cứ theo kinh Phạm Võng có 18 loại đem so với luật có hơi khác. Nay phải hiệp chung mà thuật như sau:

1) An đà hội là y 5 điều

2) Uất đa la tăng: y bảy điều

3) tăng già lê: đại y có 3 phẩm:

- Phẩm thượng y 25, 23, 21 điều,

- Phẩm trung, y 19, 17, 15 điều,

- Phẩm hạ, y 13, 11, 9 điều gọi là y phước điền.

Luật Tăng Kỳ ghi rằng, Phật ở trước động đá Đế Thích thấy ruộng lúa có bờ ngăn phân minh, nên bảo A Nan rằng chư Phật quá khứ y hình tướng như vậy; từ nay dựa theo hình này may y. Sách Tăng Huy Ký ghi rằng bờ ruộng giữ nước cho lúa mạ sanh trưởng để nuôi thân mạng; ruộng pháp y thấm nhuần vì 4 điều lợi của nước, làm tăng 3 mầm thiện để nuôi pháp thân huệ mạng, nên gọi là y phước điền. 4) Ni sư đàn: tọa cụ trải ngồi thiền cũng gọi là tùy tọa y. Luật Ngũ Phần ghi rằng, vì hộ thân, hộ y, hộ giường nệm nên sắm tọa cụ. 5) Tăng kỳ chi: áo đơn (lót) cũng gọi là áo che trong hay áo lót mồ hôi 6) Nê phược ta la: quần thiền thường gọi là kim cang khố (quần đùi), tọa thiền nạp tử, làm cho được tiện lợi 7) Trực chuyết: áo dài chấm sát đất, thường gọi là bào tử, cũng gọi là hải thanh. Trở lên 3 món trích từ luật Tỳ Ni. 8) Bát Đa la: bình bát, Trung Hoa dịch là Ứng lượng khí. Y cứ theo Tây Vức (Ấn Độ) chư tăng đều đi trì bình khất thực. Bát này tùy sức dùng của mỗi người mà có nhỏ lớn khác nhau. Lấy một bát ăn no là lượng, cho nên gọi là đồ lường thích hợp. 9) Tỏa khí la: tích trượng. Căn cứ theo kinh có 2 loại: một loại 4 đốt 12 khoen mà thời nay dùng; một loại là 2 đốt 6 khoen (vòng) hình nhỏ, nặng một cân mà hồi Phật tại thế Tỳ Kheo hay dùng. 10) Trụ trượng: gậy chống. Luật Tỳ Nại Da ghi rằng, Phật nghe tiếng lc ct gậy chống, vì biết già lụn mất sức, hay người bịnh khổ thân nên phải dùng. 11) Phất tử: phất trần (bụi). Luật ghi rằng Tỳ Kheo sợ bị cỏ, côn trùng nên làm đồ phủi bụi (phất trần). Luật Tăng Kỳ ghi rằng, Phật cho làm tuyến phất, quặc phất. Nếu đuôi ngựa hay vật kim ngân báu quí trang trí đều không nên cầm. 12) Sổ châu: chuỗi tràng hay tràng hạt niệm Phật, phần nhiều lấy gỗ tiện 18 hột, 108 hột làm một xâu đeo nơi thân. Trở lên 3 vật trích từ luật Tỳ Kheo 13) quấn trĩ ca: bình đựng nước (quân đội dùng) thường chứa nước mang theo mình dùng uống hay rửa tay. Ký Quy truyện ghi rằng bình chứa nước quân nhân có 2 loại: bình bằng đất nung, nhôm dùng để uống và bình bằng đồng, thiếc để rửa. 14) Táo đậu; (xà phòng) tạo giác dùng để tắm rửa 15) Thủ cân: khăn tay 16) hỏa toại: hộp quẹt, dao lửa, đá lửa, giấy mồi lửa v.v… 17) Lự thủy nang: đãy lọc nước. Tăng Huy Ký ghi rằng, đồ vật dù nhỏ nhưng công dụng rất lớn để bảo vệ sanh mạng, cho nên dùng lụa thật nhuyễn may đó; lọc vi trùng trong nước mới có nước sạch để uống. 18) giới đao: dao cạo tóc. Căn cứ theo kinh Phạm Võng có thêm: tăm xỉa răng, giường dây, nhiếp nhổ râu, lư hương, hộp kinh luật, tượng Phật, tượng Bồ Tát. Kinh Phạm Võng lặp lại: đi hành cước xa nên dùng Kinh - luật - tượng. Luật tạng trọng ở phân ra khu phố khất thực nên dùng cây gậy, phất trần, chuỗi tràng hợp dùng chung là 26 thứ. Tăng hành cước có 26 món nầy như chim có đôi cánh thường đem theo bên mình nên gọi là đạo cụ vậy.

Chứng nghĩa ghi Luật Học Cương Duy nêu rằng đạo cụ hộ giới có 18 loại thường mang theo bên mình như: nhành dương, đậu tắm thoa mình, thắng nhiễm tục thời, 3 y vải vụn; ăn tạm thực thời một bát nuôi thân, đủ khai đất thánh. Bình đựng nước suối, tích trượng tiêu biểu hiền Thánh. Lư hương chỉ cái thể thanh tịnh, đãy lược nước cứu vật, khăn lau, đồ phất trần, dao dùng để hàng ma, đèn pin soi chỗ tối, nhiếp nhổ râu nhổ sạch phiền não; giường dây để dứt bỏ tánh cao ngạo. Tiến trình đãi lọc thành tâm giữ gìn 3 nghiệp. Tượng Phật biểu hiện quả, Bồ Tát làm sáng tỏ nhân. Ngoài ra, y cứ theo Ngài Ngẫu Ích sách Giới Y biện ngụy ghi rằng, người xuất gia có y pháp, cũng như quan có đồng phục vậy. Giới của 7 chúng không đồng, còn y cũng khác biệt. Phật dạy 3 y: tăng già lê là 9 điều hoặc 13 điều. 25 điều gọi là phẩm rốt sau, không phải là trên thượng phẩm, Uất Đa La tăng là y 7 điều và An Đà Hội chỉ y 5 điều. Ba y này đều gọi là Ca Sa phải là vải hoại sắc, không phải sắc são nên cũng gọi là y phước điền, vì hình chiếc y giống như ô ruộng phước. Ngoài ra cũng còn tượng trưng vị Tăng làm ruộng phước cho thế nhân. Là Tỳ Kheo nên có đủ 5 y, 3 y như đã nêu trên thêm áo lót mồ hôi và áo che cánh tay. Sa Di chỉ có 2 y: y trên tức y không có sọc ngang cũng gọi là mạn điều y, màu giống như Tỳ Kheo, giới là khác Tỳ Kheo, chỉ may thẳng không cắt thành ô (vuông). Luật ghi rằng, người cầu vắng lặng mặc lấy mạn y thường thường mặc y cắt mãnh mắc tội lạm dụng nặng. Bởi Sa Di tuy đã xuất gia vẫn chưa nhập vào hàng Tăng bảo. Vì thế, y 5 điều do không cắt mãnh, huống chi là 7 điều, 9 điều ư? Nội y tức là áo mặc bên trong để che lót mồ hồi. Là Bồ Tát tại gia tức là Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di thời không cho may y 5 điều mà qui định giống như Sa Di. Y của Bồ Tát tại gia chỉ mặc nơi đạo tràng lúc tu tập hành đạo, còn bình thường không được mặc đắp. Vì thế có khác Sa Di. Ngày nay, y của Tăng sai luật bày ra 9 điều cho thọ giới Sa Di làm cho có đủ 3 y, là một việc dối vậy. Sa Di cho đắp y 7 điều đâu có khác gì Tỳ Kheo là một việc dối thứ hai. Người trước không biết làm sai thường hay cho người cận sự đắp 3 y; người sau kiêu mạn phạm lỗi lầm, đều cấm cận sự không được đắp y 5 điều, là một việc dối thứ ba. Hết thảy qui định y đều lấy chiều đứng 3 khung, ngang 5 khung làm độ, giả sử có tăng giảm đôi chút cũng chỉ để cho phù hợp với tay và thân. Nay chiều đứng 3, chiều ngang 6 khung đó là điều sai lầm, là một việc dối thứ tư. Y phước điền chỉ tương tự hình thửa ruộng nay nhầm lẫn cho rằng, phải thông đường nước là điều dối thứ năm. Y 5 điều, 7 điều cũng tùy có loại vải cũ rộng hẹp mà may thành điều nhiều ít, nay lầm cho rằng, khối đó tượng trưng cho núi Tu Di, khối kia biểu tượng mặt trời, khối nọ tượng mặt trăng, khối đây tượng trưng Tứ Thiên Vương v.v…là điều dối thứ sáu. Tăng Già Lê dịch là Đại Y hoặc hợp trùng y hay còn dịch nghĩa là y tạp sắc do kết nạp nhiều mãnh vải lại may thành. Nay lạm dùng vải nhuyễn mịn, lại còn thêu hoa lên trên nữa, gọi là y thiên hoa, là điều dối thứ bảy. Quy định 3 y của thiên Phật có điểm đồng nên gọi y nghìn Phật. Sách Vân Thê Chánh Ngoa đã luận, nay còn thêu Phật nơi y, là điều dối thứ tám. Người xuất gia dùng tất cả y phục, tọa cụ đều hoại sắc; nay ngược lại lấy 5 màu may y rực rỡ, là điều dối thứ chín. Lại y cứ tấm tọa cụ xứ Tây Vức chỉ dùng riêng cho việc tọa thiền ở Đông Độ dùng để lễ bái, không biết phát xuất từ lúc nào. Dựa theo luật Tứ Phần thứ 15 trong pháp xã đọa: phàm may tọa cụ mới đều phải dùng cái cũ may lên cái mới. Nay lầm dùng sắc mới vải mới viền 4 góc gọi là Tứ Thiên Vương, thật là quá sai lầm!

Bát Đa La dịch là ứng lượng khí, cái bát để lường thức ăn của tăng. Phật cho xử dụng sắt, đất nung v.v… tạo thành; nay lạm dụng bằng đồng, thau hoặc nhôm hay gỗ đều trái với quy định. Lại luật có ghi rằng bình bát dùng thuốc thơm xông kỹ khi đựng đầy vật vẫn không nứt, không rỉ chảy dầu mở v.v… cho nên ngày nay ta biết ăn canh không làm dơ bát, nhưng không biết dùng thuốc xông bèn cho đũa vào bát lấy thức ăn đưa vào miệng, thật là mất oai nghi. Ngoài ra, giới cấm không cho mang bát bằng vàng bạc, châu báu.

Tràng hạt: Kinh Đại Thừa Man Thù hiệu lượng số châu ghi rằng, lấy cây mộc liên tiện thành hạt, hạt Bồ Đề là tốt nhất. Ngày nay chuỗi tràng phần nhiều dùng vàng châu, vật quý giá, để như một phần làm đồ trang sức. Điều này làm tăng trưởng tham lam, lại dễ bị đánh cắp. Đây đều là dối trá không thể không luận cho đúng. Ngoài ra cho chí những đạo cụ khác tuyệt đối không dùng.

Trong không có tâm hộ giới, ngoài không oai nghi gìn luật, làm gì không phạm qui chế tăng chứ? Mong sao hàng Thích Tử chúng ta cùng nhau duy trì chánh pháp ngỏ hầu vãn hồi (vớt vát) tệ nạn, làm giềng mối tăng già mới là tuân lời Phật dạy. Mong sao đối với việc tự lợi, lợi tha đừng cho rằng đây là chấp tướng, mà ẩn mình nơi nhãn hiệu vô tướng. Cũng không nên cho rằng ta là thiền tông dùng những đồ tu hạnh đầu đà này làm gì? Nghĩ sao không suy kỹ Ngài Đại Ca Diếp là sơ Tổ thiền tông tại sao hành hạnh đầu đà đệ nhứt?

1.9Phụ: Biện chính thức Xoa Ma Na

Ngày nay việc truyền giới lầm dối rất nhiều, thậm chí như Thức Xoa Ma Na là một, thật là hết sức sai lầm. Ở đây không thể không bàn đến Ni y cứ theo thời Phật còn tại thế. Thường thường độ người xuất gia cho thọ giới mà không biết giới tướng tạo ra nhiều điều phi pháp. Phật dạy: phải cho hai năm học giới đúng pháp khiến hành giả trước là tập học rồi sau mới cho thọ giới đầy đủ. Hết thảy chúng Ni đều phải học giới, trừ tự tay lấy thức ăn, đưa thức ăn cho người khác. Trong các kinh luật hay ngay cả Lương Hoàng Sám, 5 chúng xuất gia thứ tự thì Thức Xoa đứng trên Sa Di, bởi vì vị này chuẩn bị học giới Đại Ni; cho nên gọi Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni là vậy, thậm chí lúc chúng nhóm họp, Phật dùng nghi thức bất tiện mặc dù Đại Ni cũng phải ở sau Sa Di; Thức Xoa phải sau Đại Ni nữa. Luật Tăng Kỳ ghi rằng, Tỳ kheo Ni ngồi dưới, Sa Di ngồi trên có từ giữa thời Minh; khai mở giới đàn, qui tắc luật lệ cơ hồ chẳng còn nghe thấy chăng? Chỉ phép học giới bỏ phế đã lâu mà danh nghĩa Thức Xoa cũng không nghe biết tới; đến độ có người nữ lưu chưa xuống tóc xin thọ 5 giới liền cho thọ Thức Xoa Ma Na, là đem sai truyền sai tới nay chưa cải đổi. Y cứ luận Đại Trí Độ khi Phật tại thế có một vị trưởng giả, vợ ông không hay có thai, xin xuất gia thọ giới Cụ Túc, sau đó thân bà ta mỗi ngày càng lớn ra nên những nhà quý tộc (giàu có) chê trách Tỳ Kheo Ni. Nhân đó, Phật chế Ni phải thọ 6 pháp học giới hai năm, sau mới cho thọ cụ túc. Căn cứ theo đây người phụ nữ cũng có thể thọ Thức Xoa Ma Na mà không phải chỉ đề cập tới đồng nữ không.

Cũng Trí Độ luận rằng, Thức Xoa Ma Na có 2 loại:

1) Đồng nữ 18 tuổi thọ 6 học giới

2) Bé gái (phu gia) 10 tuổi được thọ 6 học pháp. Đây nói riêng giới đồng nữ.

Phu gia 10 tuổi có thể hiểu là người hoặc nhân mẹ mất, hoặc nhà nghèo khổ không đủ sức nuôi dưỡng bèn đem bé gái cho phu gia nuôi dưỡng 10 năm. Tình trạng bé dần dần phát triển lại ở nhà người bão dưỡng thật khó nên không muốn việc đó. Ngoài ra đồng nữ đến tuổi 18 dù chưa lấy chồng, nhưng tuổi đã lớn nên phải dự phòng vậy. Nhưng không hẳn đồng nữ hay phụ nữ mà đã là kẻ xuất gia thì quyết định không còn hồ nghi thậm chí địa vị họ. Thức Xoa trước Sa Di và sau Tỳ Kheo Ni, với chí xuất gia cầu thọ giới cụ túc; không thể nên có ý hiềm nghi đó. Thức Xoa tạm huởn 2 năm để có cơ sở học giới; không so sánh với Sa Di chưa thọ giới Cụ Túc. Lại Thức Xoa thọ 6 pháp không giống năm giới của Ưu Bà Di. Nay ghi đủ phép học giới của Thức Xoa để giữ gốc nguồn. Cứ theo Luật sư Đạo Tuyên dẫn lục trong luật Tứ Phần tùy cơ yết ma phần 3, thiên thọ các giới pháp. Trong phần truyền giới Ni cũng ghi: sau thọ giới Sa Di Ni kế tiếp mới truyền pháp Thức Xoa Ma Na. Lại ở trước thập sư ni truyền bổn pháp rồi đến trước đại tăng thọ giới cụ túc. Chỉ tùy lúc yết ma truyền giới Thức Xoa phỏng dựa theo đây là thuận hợp. Gọi bổn pháp, là giới căn bổn của đại Tỳ Kheo Ni phải thọ, là học giới nữ, trước thời kỳ lên thọ giới Tỳ Kheo Ni. Nên đổi tên gọi là pháp bổn Ni; lại Thức Xoa Ni thăng tiến lên một bậc. Sa Môn Đàm Đế đời Tào Ngụy có biên tập pháp yết ma quyển hạ, trong đó có chữ “phụ nữ” thuộc quyển 9 như: Sa Di Ni sau khi thọ giới rằng, nghe đồng nữ 18 thọ giới Sa Di Ni 2 năm học đủ giới tới năm đủ 20 tuổi cho thọ giới Tỳ Kheo Ni. Xem thêm trong tăng thọ thiên giới v.v… Ngoài ra, Thức Xoa Ma Na thọ 6 giới như sau đây.

Sa Di Ni phải đến giữa chúng Tỳ Kheo Ni trịch y bày vai hữu, lễ Tỳ Kheo Ni, Tăng xong, quỳ ngay ngắn chấp tay tác bạch như thế này :

-     Đại tỉ tăng lắng nghe con Sa Di Ni … nay từ chư tăng xin 2 năm học giới với Hòa Thượng Ni thượng A hạ B mong tăng tế độ cho con, xin thương xót cho con 2 năm học giới. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng bạch như vậy mới hợp pháp Sa Di Ni. Sau khi bạch xong lễ xuống 3 lạy rồi lui ra chỗ có thể thấy mà không thể nghe (phép yết ma) đợi đại Ni làm phép yết ma xong, cho vào mới bạch rằng:

-     Đại tỉ tăng lắng nghe, con Sa Di Ni… từ tăng xin 2 năm học giới, Hòa Thượng Ni A, nếu tăng phải thời mà đến, tăng thuận nghe; nay cho Sa Di Ni 2 năm học giới; với Hòa Thượng Ni A, bạch như thế, tác bạch có thành không?

-     Đại tỉ tăng lắng nghe, đây là Sa Di Ni … nay từ tăng xin 2 năm học giới với Hòa Thượng Ni A…; nay cho Sa Di Ni 2 năm học giới với Hòa Thượng Ni A, mong chư Đại Tỷ lắng nghe, Tăng cho Sa Di Ni … 2 năm học giới với Hòa Thượng Ni A, nếu bằng lòng thì im lặng; ai không bằng lòng thời nói. Đây là pháp yết ma thứ hai, bạch như thế tác bạch có thành không? (lần thứ 3 cũng như vậy).

Tăng đã thuận cho Sa Di Ni … 2 năm học giới với Hòa Thượng Ni A xong, tăng đã bằng lòng thì im lặng. Việc như thế mà suốt biết. Nên như thế mà truyền cho 6 pháp.

Giới thứ nht: Này giới tử: Đây là 6 học giới.

… Hãy lắng nghe cho kỹ, Như Lai vô sở trước đẳng chánh giác nói ra 6 pháp không được có phạm hạnh bất tịnh, tức là dâm dục. Nếu Thức Xoa Ma Na hành dâm dục, chẳng phải là Thức Xoa Ma Na, chẳng phải con giòng họ Thích; cùng với người nam có tâm ô nhiễm, thân xúc chạm nhau. Mất giới, giới kém nên cho thọ giới lại trong đó nên giữ suốt đời không được phạm, con có thể giữ được không?

-     Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Giới thứ hai: không được trộm cắp cho chí cộng cỏ lá cây, nếu Thức Xoa Ma Na lấy của người giá 5 tiền, hoặc quá 5 tiền; hoặc tự lấy, khiến người lấy; hoặc tự đẳn hoặc bảo người đẳn; hoặc tự phá, bảo người phá, hoặc đốt, hoặc chôn, hoặc hoại sắc, chẳng sắc… Như thế Thức Xoa Ma Na chẳng phải con gái giòng họ Thích. Nếu lấy dưới 5 tiền giới kém phải nên thọ giới lại, từ đây cho đến suốt đời không được phạm, con có thể giữ được không?

-     Đáp: mô Phật con giữ được.

Giới thứ ba: không được giết hại chúng sanh, cho chí con sâu, con kiến. Nếu Thức Xoa Ma Na cố tự tay giết chết người, cầm dao đưa người bảo giết chết, khuyên chết, tán dương chết, như cho uống thuốc, hoặc phá thai, yểm bùa, chú thuật hoặc tự làm, hay dạy người làm không phải là Thức Xoa Ma Na, không phải là con gái giòng họ Thích. Như giết loài súc sanh không thể biến hóa hình được nữa. Giới khuyết phải nên thọ lại, từ đây cho đến suốt đời không được phạm, con có thể giữ được không?

-     Đáp: mô Phật con giữ được.

Giới thứ tư: không nói dối cho đến giởn đùa. Nếu Thức Xoa Ma Na không nói chân thật, chuyện không nói có, như tự nói được pháp bậc thượng nhơn, nói chứng thiền, đạt được giải thoát, được tam muội chánh thọ; đạt quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm; nói trời đến, rồng đến, quỉ thần đến … cúng dường tôi. Đây không phải là Thức Xoa Ma Na, không phải con gái giòng họ Thích. Nếu giữa chúng cố nói dối, giới kém phải nên thọ lại, từ đây cho đến suốt đời không được phạm, con có thể giữ được không?

-     Đáp: mô Phật con giữ được.

Giới thứ năm: không được ăn phi thời. Nếu Thức Xoa Ma Na ăn phi thời; giới kém phải nên thọ lại, từ đây cho đến suốt đời không được phạm, con có thể giữ được không?

-     Đáp: Mô Phật con giữ được.

Giới thứ sáu: không được uống rượu. Nếu Thức Xoa Ma Na uống rượu phạm giới phải nên thọ lại, từ đây cho đến suốt đời không được phạm, con có thể giữ được không?

-     Đáp: Mô Phật con giữ được.

Thức Xoa Ma Na đối với hết thảy giới của Ni trong đó phải học; trừ Tỳ Kheo Ni tới dùng bửa, cho ăn mới nên ăn. Trong đây 4 giới trước nếu phạm gọi là phạm 4 giới nặng nên cho ra khỏi chúng. Nếu phạm với tâm ô nhiễm đụng chạm thân người nam, trộm cắp dưới 5 tiền; dứt mạng loài súc sanh, nói dối, ăn phi thời, uống rượu gọi là khuyết giới. Trở lên các giới quy định, nếu làm đều phạm phải sám hối xin hai năm học pháp, mà vẫn phạm trở lại. Nếu phạm các giới căn bản của đại Ni tất phải như pháp mà sám hối trong 2 năm học giới thanh tịnh rồi mới đưa ra giữa 2 bộ Tăng Ni cho thọ cụ túc giới.

Chứng nghĩa ghi, nếu Thức Xoa Ma Na phạm 6 giới ắt phải như pháp sám hối. Ba lần truyền giới vẫn phạm, lần thứ ba phán giới ngăn như ở trước, có nêu rõ hạng người thứ hai rằng, nếu là Thức Xoa Ma Na, đây gọi là học giới nữ, Phật dạy khiến cho học 3 pháp. Như lúc sám hối nên mỗi mỗi hỏi kỹ. Một là học căn bản: 4 giới trọng; hai là học 6 giới, như tâm nhiễm xúc chạm, trộm cắp dưới 5 tiền, giết sanh mạng, nói dối, ăn phi thời, cố uống rượu. Ba là học hành pháp có nghĩa là các giới đại ni trong những oai nghi. Nếu Sa Di, Sa Di Ni chỉ ban 10 giới căn bản trong đó 7 già trọng tội cả 3 chúng đều phải hỏi. Trong 3 chúng đây hoặc căn bản có phạm 7 già tội mỗi mỗi y luật tẩn trừ (đuổi). Nếu 6 pháp học giới nữ bất tịnh bèn cho 2 năm yết ma; do đương sự đã thọ giới Thức Xoa Ma Na, không phải hàng chúng Sa Di Ni. Lại nữa Thức Xoa Ma Na giới kém lại là người nữ chẳng chân thật học giữ giới thanh tịnh, nhưng cả hai không có điều nào quy định. Ba tụ giới thiếu sót nên không thể thọ Bồ Tát giới được. Trong 3 chúng chỉ nữ học giới nầy có quy định rõ. Thêm phần nghiêm trọng đối với Sa Di, Sa Di Ni, chỉ có Thức Xoa gần đại giới Ni vậy. Vì luật chế trước khi sắp thọ Bồ Tát giới phân kỹ giới có 4 loại: xuất gia Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni; xuất gia Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni; Phật tử nam nữ tại gia ham tu thập thiện đã thọ 5 giới. Từ cấp bực mà tiến lên để dần dần thọ các giới; người chợt phát đại tâm thọ Bồ Tát giới, có nghĩa là đốn thọ - thọ giới ngay tức khắc. Y theo luật chế, điều kiện của Thức Xoa Ma Na là ni xuất gia, không phải giới nữ lưu tại gia. Theo kinh Hoa Nghiêm ghi rằng, Thiện Tài đến Vương đô đại thành, muốn tham học với Bất Động Ưu Bà Di mà không biết ở đâu. Có nhiều người bảo cho Thiện Tài biết rằng, Thiện Tài đến Vương đô thành muốn tham học với Bất Động Ưu Bà Di đích thị là một đồng nữ tại gia, bà săn sóc cha mẹ v.v… căn cứ theo đây để thấy rằng đồng nữ cũng gọi là Ưu Bà Di vậy.

Căn cứ bộ Sự Sao thiên Ni chúng, có dẫn luật Thiện Kiến ghi rằng, lúc đầu Phật không độ cho người nữ xuất gia vì làm cho chánh pháp giảm mất 500 năm; về sau Phật mới vì họ nói 8 kỉnh pháp; ni giới nghe xuất gia y lời dạy thực hành pháp hoàn lại được ngàn năm. Thời nay không theo có nơi giáo pháp bị diệt như sách Hội Chánh ghi rằng, sau khi Phật thành đạo 14 năm Di Mẫu Đại Ái Đạo cùng với 500 thích nữ đến Phật cầu xuất gia, Phật không thuận hứa độ họ. Ngài A Nan vì họ trình bày rõ và thưa thỉnh 3 lần. Phật sai A Nan truyền bát kỉnh pháp cho họ, nếu như Ni có thể thực hành được, mới cho xuất gia. A Nan đáp: con xin vâng thọ trì. Là bạch bốn lần yết ma xong mới thuyết 8 kỉnh pháp và Ngài nói 8 kỉnh pháp. Đây là 8 pháp:

1- Tỳ Kheo Ni trăm tuổi gặp vị Tỳ Kheo mới thọ giới nên đứng lên đón tiếp, xá chào, han hỏi, mời ngồi

2- Tỳ Kheo Ni không được nhạo báng Tỳ Kheo

3- Không được cử tội Tỳ Kheo, không nói lỗi quấy của Tỳ Kheo. Tỳ Kheo được nói lỗi của Tỳ Kheo Ni.

4- Thức Xoa Ma Na đã học giới phải cầu thọ đại giới nơi chư Tăng

5- Ni phạm giới tăng tàn đưa ra trong lễ Bố Tát giữa tháng, trước hai bộ tăng chúng thực hành pháp cử tội.

6- Trong nửa tháng Bồ Tát Ni đến tăng thỉnh cầu thầy giáo thọ (dạy chúng)

7- Tỳ Kheo Ni không nên ở chỗ không có Tỳ Kheo kiết hạ an cư.

8- Sau khi an cư xong, phải đến tăng Tỳ Kheo cầu 3 việc tự tứ, sám hối, đó là thấy – nghe - nghi.

Tám pháp như thế phải cung kính tôn trọng, tán thán hết mình trọn đời không nên vi phạm.

Chứng nghĩa ghi rằng, đây là mẫu mực tối sơ (ban đầu) độ ni chúng. Ngày nay việc truyền thọ giới còn chưa biết pháp này, huống chi hành trì?

Nhưng điều thứ 7 nói không nên ở chỗ không có Tỳ Kheo kiết hạ an cư. Đây dựa đại giới vuông 10 dặm hoặc tới 40 dặm, không có đại tòng lâm Tỳ Kheo không được an cư. Cho nên kỉnh pháp thứ 8 ghi rằng, sau khi an cư xong phải đến trước chúng Tỳ Kheo tăng cầu 3 việc tự tứ như: thấy - nghe -nghi. Y cứ pháp thứ 8 qui định: ni và đại tăng không ở chung một chùa cần nên biết. Theo sách Chiêu Khánh, Thầy Ngọc Luật thuật về 2 bộ tăng qua nghi thức truyền giới phần mở đầu rằng: “vào năm Đinh Mùi vào mùa xuân, tại Côn Sơn có Hòa Thượng Ni Mật Chiếu cùng với Từ Thái phu nhơn lên núi Hoa Sơn thiết lễ cúng dường. Học chúng nữ đi theo xin thọ giới cụ túc, hành trì nửa tháng thuộc các oai nghi. Trước lão nhơn cử Mật Chiếu Ni làm Hòa Thượng, Ni Siêu Trần ở Dương Châu làm Yết Ma, Ni Viên Chứng ở Trấn Châu làm Giáo Thọ và chọn chư ni giới đức hạ lạp cao làm 7 tôn chứng, mở giới đàn truyền giới ni hơn 40 vị. Sau giới đàn đến am Nhất Diệp tỉnh Sơn Nam họp 2 bộ Tăng Ni, trước truyền bổn pháp. Ngày kế Hòa Thượng Ni cho họp chúng lại để thông bạch lời dạy của Như Lai, rồi cùng với hội đồng giới sư 9 vị, hướng dẫn chư ni, lên núi cầu xin thọ Đại giới. Lão nhơn liền tập họp 2 bộ tăng ni, vì đó tác pháp viên mãn.Việc này trước hết lão nhơn tuân lời Phật dạy 2 bộ tăng vì ni truyền nghi thức thọ giới; tức dẫn lễ, sắp xếp giới đàn đều do Ni chúng”. Căn cứ theo đây ra khỏi giới tràng tới am Nhất Diệp tại Sơn Nam phải họp ni chúng. Cho thấy kỉnh pháp thứ 7 không nên an cư nơi không có Tỳ Kheo để chỉ trong ngoại giới tràng mà nói, không phải nói Tỳ Kheo cùng an cư một chỗ. Lại sách Nhứt Mộng Mạn ngôn quyển hạ ghi rằng, vào khoảng tháng 2 năm Thuận Trị thứ 10, ở phủ Hán Dương thuộc Sở, có sư cô Tâm Văn độ 50 tuổi chuyên tu trì giới. Cùng môn đồ 9 người không kể nguy hiểm đường xa, tất cả 10 người lên núi cầu xin an cư 3 tháng và cúng dường 60 thạch gạo, 20 lạng bạc. Xem với tâm thành tha thiết của họ bèn được lân mẫn giúp đỡ, chấp thuận. Trong ngày cúng dường trai phạn họ không chịu vào trai đường hành lễ; thọ trai xong, Hòa Thượng họp chúng và bảo sư cô rằng: cô phát tâm từ xa tới học giới, vì sao không vào trai đường lễ chư Tăng? Luật dạy Tỳ Kheo Ni dù trăm tuổi phải lễ Tỳ Kheo mới thọ giới. Nay tự khinh mạn tăng không thể nào học giới được.

Sư cô đáp: con ở Sở, nếu có thiện tri thức tới chùa thiết cúng trai, Phương Trượng đều cho khách miển lễ nên không phải lễ lạy.

Tôi nói:

-     Họ tham cầu lợi dưỡng làm bại hoại giáo pháp. Hễ thấy có Ni tới cúng dường là cung kính như mẹ ruột những mong được cúng hậu; ấy là vi trùng nơi thân sư tử chứ không thật là thiện tri thức. Núi Hoa Sơn chúng tôi dù sống đạm bạc, thà nhịn ăn chịu đói khát chứ quyết không tham lợi mà phạm luật. Hôm nay buổi cúng dường trai phạn là đãi chúng thường trụ, số tiền cúng hoàn lại cho cô; cũng như gạo để dưới viện có thể tới đó lấy về. Cô ta làm chuyện vô minh bèn nhận lại tiền rồi sau đó dẫn đồ đệ ra phía sau núi đứng trước tịnh thất Thủy Động, cho đệ tử là Cổ Đàm đi vào tịnh thất bạch rằng:

-     Có Sư cô ở xa tới đang đứng ở ngoài động.

Hòa Thượng bèn phương tiện chấp nhận để;

1) làm cho cô không thoái tâm

2) đại chúng được cúng dường nửa tháng.

Tôi nghiêm nghị trả lời: “Chỉ cần tu hành chân thật. Đại chúng chẳng treo bình bát (nhịn đói). Pháp môn tu tập lập đúng do nơi đạm bạc; Phật thuyết luật, sư hành luật đâu thể thấy lợi mà phạm Thánh chế ư ?”

Cổ Đàm thẹn đảnh lễ lui ra, độ 3 hôm sau sư cô Tâm Văn dẫn chúng lên núi, tất cả đều quỳ trước cửa phòng Phương Trượng khóc lóc, và nói rằng: ở Sở mông lung như thế, thật sự chúng con không dám tự khinh thường tăng. Khẩn cầu Hòa Thượng từ bi tha cho chúng con sám hối. Nên có câu rằng: dạy tuân theo là răm rắp hành. Các vị lãnh đạo vì chúng bái cầu, do vậy tôi khiến tới Lộc Sơn trang kiết giới an cư. Tìm vị A Xà Lê nửa tháng tới thỉnh vị thầy giáo giới vì họ giảng bộ luật chính.

Nhân đó, bắt đầu có tập: Giáo Giới Tỳ Ni Chánh phạm gồm 1 quyển để lưu hành rộng. Qui tắc cổ đức dứt khoát rõ ràng cẩn thận như thế. Nghe xong khiến cả 10 người đồng đứng lên, lạy sám hối.

Hết quyển 7, phần trước.

 

 

Quyển 7:

Chứng nghĩa ký
Phần sau

 
 

2.Chương 7: Phần sau - Đại chúng

2.1Treo đơn:

Treo đơn, xưa nói là treo vắt lên. Vì tăng đi hành cước chỉ mang theo y bát nên gọi là quải đáp, tức là y vắt mang theo vậy. Ngày nay đi tham học mang theo hành lý, đổi lại gọi là quải đơn. Phàm dọn đơn, khi có tăng khách đến nhà lấy lễ tiếp đãi. Hỏi khách đến có việc gì cho rõ ràng rồi tùy nghi mà đưa tới phòng. Khách từ xa đưa tới gặp 2 chúng trưởng đưa sang phòng khách quí hay tới phòng chờ. Khách là thiền tăng tới học đưa lên phòng tập thể, theo chúng đi quá đường, tụng kinh… Nếu người không có y bát, chứng điệp, hành lý; thậm chí trông người diện mạo khả nghi từ chối không cho đơn; chỉ cho xem Nội Qui nhà khách và điều lệ liêu xá nêu rõ.

Chứng nghĩa ghi rằng, y cứ kinh Phạm Võng, có nạn tăng giả mạo du hành, mặc áo vá đi khất thực có hai thời điểm: a) từ ngày 15 tháng giêng đến 15 tháng 3 b) từ 15 tháng 8 đến 15 tháng 2, là trong 2 thời kỳ đó. Nguyên vì người học đạo đi xa, không xa hơn 10 dặm; tìm thầy học đạo ra khỏi một tòng lâm vào một chùa khác, cho chí đi khắp đó đây chưa từng nghỉ ngơi. Việc dọn đơn vì thế phải xảy đến vậy. Vì Tri Khách tùy nghi dẫn tới đơn không được coi thường; vị Trụ Trì sẵn lòng từ bi đừng xem thường dọn đơn; nên giữ đạo phong thường trụ, Phật pháp mới tồn tại lâu dài là hoàn toàn do nơi đây. Ngài Vân Thê Liên Trì đại sư nói rằng, chiếc đơn dùng khi có tăng hành cước, vì chịu đói khát, nóng lạnh, trải qua nhiều gian khổ. Nay may được có chỗ đỡ đầu, dù không biết tu hành nhưng biết hổ thẹn. Nhà tu ghé đến nên ân cần cúng dường cho thọ dụng không dám lỗi phần. Cho nên nói rằng ai từng là du phương xem như khách bàng quan vậy.

2.2An đơn:

An đơn tức là đặt đơn, quải đáp tức hành lý, tăng trở về chùa; ở lại một đêm gồm bửa ăn. Một hai bửa là khách qua đường, gọi là khách tăng tạm thời. Nếu khách ở lại một vài tuần, gọi là đại quải đáp; vì khách ở lại lâu nên biết đồ đạc hành lý có thể để ở đâu, liền đưa khách vào nhà gọi là an đơn. Nhưng gặp trường hợp này người xin ở lại, tri khách hỏi xem lai lịch rõ ràng; nhắm lưu được nên cho lưu lại, đưa khách tới phòng ngủ, mời tới phòng khách thọ trai, để khách tự nhiên muốn tụng kinh tùy ý, sau một hai hay ba hôm.

Thưa trình Hòa Thượng doãn nạp. Khách ở qua đêm phải thông báo cho Duy Na biết ghi vào sổ lưu, ghi rằng, ông… khoảng… tuổi, có tới chùa ở lại. Ông là người xã… quận… huyện… tỉnh… con ông bà… Lúc chưa đi tu làm nghề gì… tại cơ sở… xuất gia tại chùa… năm… tháng…

Thầy bổn sư là… thọ Tỳ Kheo ngày… tháng… năm… tại đại giới đàn…

Ngày kế, sáng sớm điểm tâm xong, sau khi nghe hai hồi bảng chuẩn bị đầy đủ hương đèn nghi tiết hướng dẫn lên phòng Phương Trượng đứng bên ngoài cửa đợi thị giả thông báo Hòa Thượng. Hòa Thượng ra ngồi, xong tri khách chấp tay bạch: có thầy… đến thăm Hòa Thượng. Kế tri khách tới lễ 3 lạy xong, Phương Trượng có hỏi gì cứ thành thật đáp. Thăm hỏi xong đưa đến Thiền đường, báo 3 hồi bảng. Giám Tự cuốn rềm màn lên, đại chúng đứng nguyên; tri khách trước lễ 10 phương Phật hướng lên phía trước thầy nói: Các thầy cùng tham dự tiến vào hành lễ, lễ xong; tri khách lui về chỗ. Duy Na tiếp đưa khách tới vị trí, hoặc nhà đông, hoặc nhà tây theo đơn cùng theo chúng, hầu mở cuộc vấn đáp ngắn gọn. Duy Na hỏi tên ghi sổ, cho mang hành lý vào phòng, sửa soạn giường ngủ, thời kinh tối. Tham thiền lần đầu mang tọa cụ lên chánh điện, tọa thiền xong, Duy Na bảo: có thầy mới đến thiền đường đó, chúng ra làm lễ, lễ xong trở lại chỗ. Duyệt chúng đưa lên phòng Phương Trượng làm lễ, lễ xong trở về chỗ. Duy Na lãnh chúng tới liêu chính tuần tự bảo gõ 2 hồi bảng chiều. Phương trượng mời khách dùng trà, Duyệt chúng tiếp đãi. Ngày kế buổi sáng, Duy Na nói rằng, Thầy khách lên điện hành lễ, chúng ra cùng lễ. Tân khách lạy Phật 3 lạy xong hướng qua phía thầy phương trượng ngồi, lạy 3 lạy rồi xoay sang hai bên chúng, mỗi bên xá một xá xong. Duy Na dẫn tới Chúng trưởng, Duyệt chúng, Hương đăng… mỗi nơi xá chào xong, bèn xá Duy Na rồi về chỗ nghỉ ngơi. Nếu thầy Phương Trượng mời dùng cơm, duyệt chúng tiếp đãi hay tùy Ngài có người tiếp riêng.

Chứng nghĩa ghi rằng, đặt đơn an chỗ, chính vì cầu đạo mà đến. Chủ khách cả hai không nên phụ lòng nhau. Trụ trì (Phương Trượng) nên tỏ ra có đạo đức chân thật, săn sóc ân cần. Người tới học cần có tâm nhẫn nại chịu khó tham học. Sách Chích Cổ ghi rằng, xưa tại huyện Diệp - Nhữ Châu có học viện rộng lớn nơi Quy Tĩnh thiền sư làm trụ trì tánh nghiêm khắc lạnh lùng, chúng nễ sợ Ngài. Phù Sơn ở xa tới lúc trời tối, nghe uy danh thiền sư, đặc biệt tới tham vấn. Lúc đó gặp trời tuyết giá, Quy Tĩnh trách mắng đuổi đi, đến đổi tiểu vải ra đất, quần áo đều thấm ướt. Tăng giận bỏ đi, song chỉ đi một đổi xa còn tiếc nuối trở lại ngồi chờ. Giây lát thiền sư lại mắng rằng ông chưa chịu đi sao? đợi tôi đánh hả? Viễn nói: Viễn nhớ hai người ở xa nghìn dặm, đặc biệt tới tham vấn Hòa Thượng Thiền sư, sao để cho giọt nước tràn đi. Sư cười bảo: hai người các ông tới đây đúng là cần tham thiền, liền sai tri khách dọn đơn, chẳng lâu sau sung chức điển tọa, làm cho chúng khổ sở cơ cực. Quy Tĩnh đi khỏi chùa, Viễn khách lấy bột gạo trộn dầu nấu cháo ngũ vị thật chín nhừ. Quy Tĩnh trở về cháo đã để sẵn nơi tòa ngồi của sư. Viễn đến, sư hỏi:

-     Ông lấy bột gạo có liên quan trộm đồ của thường trụ. Viễn nói: sự thật có lấy bột gạo, ngưỡng mong được trách phạt. Sư Quy Tĩnh sai lấy y bát thưởng công trực, lại đánh 30 gậy rồi tha cho. Quy Tĩnh một hôm ra ngoài chùa thấy Viễn ở dưới hàng ba. Sư hỏi: đây là hành lang của chùa, ngươi đã ở đây lâu rồi có từng trả thuế nhà không? Lại truy đòi tiền thuế. Viễn không đổi sắc mặt vào chợ xin tiền hoàn lại, nhưng không chịu ra khỏi chùa. Quy Tĩnh bảo với chúng rằng, Viễn thật tâm muốn tham thiền bèn cho trở về. Sư thượng đường đối giữa chúng giao hoàn y lại v.v…Ôi, cổ nhân gần thầy, chọn bạn sớm chiều không dám lười nhác như thế! Đến như bếp núc, vác xuẩn, lính thủy, lính bộ, binh dịch như chưa từng biết lao nhọc. Người đời nay áo cơm đạm bạc, bèn nghĩ người xưa công việc bề bộn lao khổ mà an nhàn riêng một cõi; an nhiên học đạo là thế đấy! Như Trụ Trì ngày nay chỉ lấy việc đời tự buộc hoàn toàn không biết học kinh nghiệm để tạo điều kiện mà khích lệ người học Phật.

Đức độ cao phong như thế xem chừng không đáng phục; chủ khách hai đàng cô phụ nhau, thật là đáng tiếc!

2.3Cùng làm việc tập thể (phổ thỉnh):

Nếu có việc làm chung tập thể, trước tiên phải thông báo nơi nhà khách như sau:

Đại chúng khi nghe hiệu lệnh bảng tập họp nên có mặt đông đủ để cùng làm việc (làm vườn, trồng cây). Tại nhà kho Giám thâu chuẩn bị trước đồ dùng (dụng cụ) đầy đủ: đợi nghe bảng hiệu xong, đem phân phát mỗi người. Chiếu Nội Quy làm việc buổi sáng cho hoàn tất theo sự chỉ định.

Đại chúng mỗi người trước sau thứ tự ra khỏi chùa lúc công tác không được giởn đùa, nói cười thô tháo. Mỗi người tự lo bổn phận trong sự chú tâm, làm công tác xong lại trở về.

Chứng nghĩa ghi rằng, phép làm việc chung, trên dưới đều ngang nhau. Những ngôi chùa trên núi công việc quá bề bộn, nhân gặp lúc có bảng hiệu nhóm chúng là phải đi hết. Dù Trụ Trì cũng không được muốn lánh việc nhọc; ai có bệnh duyên không nên miễn cưỡng. Người già yếu được phép nghỉ. Đại chúng sống chung mọi việc khai, giá cũng phải hiểu nhau để trợ duyên.

Y cứ theo ngài Chí Siêu tại Đồng Châu, đời Đường người Bằng Dực nương chùa Khai Hóa ở Tinh Châu xuất gia với Tán thiền sư. Làm Trụ Trì bổn tự, thân tâm thanh tịnh, điều hành việc chúng chuyên cần đem lại an ổn số chúng có đến cả trăm người. Quần áo, thức ăn luôn đầy đủ, mỗi khi có việc nhọc ắt lấy mình làm gương trước. Ôi ! Trụ Trì thời xưa phần đông đều như thế đấy cho nên tòng lâm hưng thạnh. Trụ Trì đời nay ở chỗ sang vinh, đẩy nhọc cho người còn riêng mình lẩn tránh; muốn chấn chỉnh lại tòng lâm thật khó thay!

2.4Quy tắc hằng ngày:

Quy tắc hằng ngày 6 quyển trước đã phân biệt rõ các công việc. Đây chương nói về đại chúng bèn nêu chỉ người, người đang thực hành, không luận người nào, làm việc gì, nêu chung nhứt nhứt không sai phạm. Người trách nhiệm trong ngoài hàm chỉ chung mỗi mỗi tuân thủ những điều sau:

1- Giới đức đôn hậu: vì gốc tuệ giác làm cơ sở của Niết Bàn

2- Phải nhẫn chịu mọi đạm bạc mà an bần lạc đạo (sống nghèo an lạc vui đạo) giữ vững đạo tâm

3- Vắng lặng thuần nhất, ý thức với việc chính không để phân tâm

4- Bỏ việc riêng tư, dứt tà, hiến công giữ chánh

5- Nhu hòa nhẫn nhục, tôn trọng kính người

6- Theo chúng nghe lịnh, giữ oai nghi chỉnh tề

7- Chuyên cần tu tập không lười biếng bỏ bê

8- Tuân quy tắc xử chúng, nhìn thẳng không a dua

9- An phận chú ý, không để quên sót

10- Theo quy tắc cùng gấp rút tu hành.

Mười điều trên đây tổng tóm lược đại cương thiện pháp không dấu che mà tỏ trần. Còn có những việc cấm cần nêu ra ở sau.

Chứng nghĩa ghi lời cổ nhân dạy: nói một trượng không bằng làm một thước, nói một thước không bằng làm một tấc. Ô Sào thiền sư gọi thi hào Bạch Cư Dị bảo rằng:

“Chớ làm các điều ác

Vâng làm những điều thiện”

Dị hỏi: đứa trẻ 3 tuổi có biết đạo không?

- Sư nói: đứa bé 3 tuổi vẫn đắc đạo mà ông lão 80 tuổi tu không đắc đạo. Lời nói chí lý thay!

Chín việc cấm đó là:

1- Không được phá giới căn bổn

2- Không được trong khi tụng giới vô cớ tùy tiện theo chúng

3- Không được bất hiếu với cha mẹ

4- Không được mạ nhục sư trưởng

5- Không được cố vi phạm lịnh cấm của chính quyền, nhà nước

6- Không được la cà gần gũi người nữ

7- Không được sau khi thọ giới mà không biết giới tướng

8- Không được thân cận thầy tà

9- Không được uống rượu, đánh bạc.

Không phạm chín điều trên đây gọi là giới đức đôn hậu. Nếu phạm nhẹ bị phạt đuổi khỏi viện.

Chứng nghĩa ghi rằng, Như Lai những ngày sau cùng lấy việc duy trì giới luật làm tông chỉ thường luận đàm. Rời bỏ sự bàn lý, lý làm sao có được. Các nhà Thiền, Giáo phải đủ giới hạnh như sương tuyết mới kham làm mô phạm lâu dài đâu thể đem chất độc làm nên đề hồ (bơ sữa).

Vì thế, muốn duy trì Phật pháp không diệt, con người phải có ý chí. Như nói đi nghìn dặm phải bắt đầu một bước; một bước chưa đi chẳng thế nào đến nơi được, đường xa nghìn dặm khởi đi từ bước thứ nhất, phải nên biết như thế. Từ thân này cho đến Phật thân, tức đây là một bước. Song chắc hẳn không thể do dự không tiến lên, vì tiến tới thời một bước này trong mỗi niệm an toàn. Dừng lại một bước phải nghỉ ngơi, không phải một bước là tới được nghìn dặm đâu! Luận về tiến bộ ở ngay bước đầu không có, nên tiến sâu trong tham sân si mà trong đó mỗi thứ có vướng mắc riêng, nên phải tự biết, tự điều phục.

Và sau đây thêm 6 việc ngăn cấm:

1. Không được bày vẽ ăn ngon

2. Không được mặc quần áo lòe loẹt

3. Không được bàn nhảm việc đời

4. Không được tranh luận tiền bạc

5. Không được canh tác, nuôi súc vật

6. Không được làm mai mối cho trai gái, làm việc hội hè như thế gian.

Sáu việc trên không phạm gọi là an bần lạc đạo. Nếu phạm nhẹ bị phạt, nặng đuổi khỏi viện.

Chứng nghĩa ghi rằng, sáu điều trên đối với tăng trách nhiệm ứng phó, tăng ở tịnh thất… nên biết hổ thẹn không dám phạm, huống chi chúng ở tùng lâm ư? Vì ăn đồ ăn ngon bị vị giác câu thúc, mặc đồ lòe loẹt bị sắc trần trói buộc, bàn phiếm, tranh biện đắm trong tham độc. Canh tác, nuôi gia súc phá giới trọng sát sanh. Hội hè họp chúng làm phát sanh nhiều việc tệ ác khác. Lại 4 điều trước chư tăng dễ phạm; 2 việc sau chỉ những người trách nhiệm phạm (làm). Những điều này đều gây oán hận là gốc khổ cả. Lương Hoàng sám ghi rằng: những gì là gốc khổ oán hận? Đó là mắt ham sắc đẹp, tai thích tiếng hay, mũi ưa nếm hương, lưỡi đắm vị (mùi), thân ham lòe loẹt thường bị 5 trần ràng buộc. Do vậy trải qua vô số kiếp đi trong đêm dài tăm tối không thể giải thoát được, nên giữ an bần lạc đạo.

Không làm 5 việc như sau:

1- Không được vô cớ ra ngoài đi chơi, lân la tới nhà thế tục

2- Không được học theo ứng phó từ chương, xướng ca nghề tạp

3- Không được học thiên văn, địa lý, phù thủy, lư hỏa v.v… những việc ngoại.

4- Không được học nội công, luyện khí và phép vô vi phái Bạch liên, tà đạo

5- Không được hô hào làm những công tác vô ích v.v…

Không phạm 5 việc trên gọi là tĩnh thức việc làm chính. Nếu phạm nhẹ bị phạt, nặng cho ra khỏi viện.

Chứng nghĩa ghi lời cổ nhân nói rằng, một tấc thời gian là một tấc vàng. Lời này cảnh tĩnh người học đạo phải biết thời giờ dễ qua, không nên luống phí vậy. Nếu phạm 5 việc chỉ làm mất tấc bóng quang âm bèn đánh mất tâm thuật của mình, há chẳng răn dè sao?

Pháp Lương Hoàng Sám ghi rằng, mỗi một người nên khởi tâm giác ngộ, biết đời là vô thường; thân người không tồn tại lâu dài. Tuổi trẻ, tráng niên ắt suy nhược chớ có trông cậy dung dưỡng, tự kiểm hành vi ô nhiễm của mình. Vạn vật vô thường đều quy về chỗ diệt, nếu không tin tinh cần tu chuyển nghiệp, không do đâu ra khỏi được. Cho nên phải tĩnh thức trong phận sự chính mình.

Cũng không được làm 6 việc như:

1.      Không được quyên góp (mộ hoá, hóa duyên) phi lý

2.      Không được lạm dụng của tín thí

3.      Không được lấy dùng vật của thường trú tăng

4.      Không được làm hư hại đồ vật dụng mà  không bồi thường

5.      Không được dấu chúng mà ăn

6.      Không được không bạch chúng biết mà đụng đến vật tăng vô chủ.

Chứng nghĩa ghi rằng, công tức là không phải việc tư; dựa theo tiền tài mà nói; chánh tức là không tà, phỏng theo ái ngữ mà nói. Song 6 điều này đa phần dựa tài vật thuyết minh theo kinh luận ghi rằng, nếu vật thuộc người khác, người khác mới được giữ gìn. Đối vật của người dù một cộng cỏ, một lá rau người ta không cho không được lấy, huống gì trộm cắp? Vì do chúng sanh chỉ thấy lợi trước mắt, nên dùng mọi cách vô đạo mà lấy; dẫn đến vị lai phần nhiều bị hoạn họa. Thế nên luôn phải giữ tâm công chính, duy trì 6 điều này.

Có bài kệ cổ ghi rằng:

Tâm ta như đòn cân

Cân đo vị công bằng

Tâm ta giống vách tường

Ngay chính giữ thẳng đường

Công chính làm người phục

Công chính lấy làm gương

Người vâng công giữ chánh

Kẻ trong sạch ai đương?

4 việc cần nên an nhẫn như sau:

1- Không được miệng mắng chưởi, thu tay đánh đấm

2- Không được bị nhục chẳng nhẫn hiện sân ra trên nét mặt

3- Không được dùng oai lực uy hiếp người

4- Không được khi dễ người già cả.

Chứng nghĩa ghi nơi chương đề cập tu hành rằng, chớ có sân giận. Bởi vì một niệm sân tâm khởi, trăm nghìn cửa nghiệp chướng đều mở toang. Khinh mạn như núi cao, nước chảy không mòn. Vã, phi lý sân thô mà lại dễ trừ; chấp lý phát sân tế mà khó dứt. Thế hay xuất thế cũng vậy, nếu không đạt nhẫn từ ắt bại ngay nơi niệm sân. Cho nên người quân tử lấy từ nuôi đức, lấy nhẫn dưỡng tâm; việc nhỏ không nhẫn được, mưu lớn phải loạn. Kiếp đao binh hung hiễm do chứa sân chiêu cảm do ngã chấp mà ra. Cho nên chứa sân làm sao thường có thật ngã được chứ! Biết ngã chấp vốn không, sân kiêu tự dứt; hiện tại, tương lai hẳn chứng đạt thể vô ngã. Sách Chích Cổ ghi rằng. Hòa Thượng Tín Mộc Trăng phủ Vân Môn ở Thiệu Hưng, có vị tăng nương theo học khoảng 10 năm, thủ lễ rất mực, đến nổi tiếng khen đồn xa. Mới đầu chẳng nói tới phải trái, một lần khen sư ngoái mong quyến thuộc. Về sau chư tăng tin lời dèm pha trong sách không chấp thuận, sư thật sự bị vu xấu. Sư giận nói giữa chúng rằng: thị phi có che dấu được không? Chỉ có thần biết mà thôi! Rồi không ai hỏi nữa. Ôi! Xưa cho ta câu chuyện đáng suy nghĩ! Nay đáp lại lấy oán, tôi đề cao cái đức của kia, vu khống (mắng) của kia là việc xấu của ta hay nhẫn nhục mà không cải. Đó mới là nhẫn nhục nhu hòa chí cực vậy. Lương Hoàng sám ghi, đối với chúng sanh không có sự sai biệt khi nhập bình đẳng quán, không nghĩ kẻ oán người thân mà thường dùng con mắt thương yêu nhìn khắp chúng sanh. Nếu như chúng sanh ôm tâm oán đối với Bồ Tát khởi tâm ác nghịch, Bồ Tát là chân thiện tri thức, khéo điều phục tâm, vì chúng sanh nói pháp mầu. Ví như biển cả hết thảy những độc hại không làm hư hoại được, Bồ Tát cũng như thế. Người ngu vô trí không biết báo ân; cũng như chúng sanh khởi vô số việc ác không làm loạn động tâm Bồ Tát. Đó chính là nhẫn nhục nhu hòa vậy.

Không làm 4 việc như sau:

1.      Không được cười giởn vô độ

2.      Không được nói bàn lớn tiếng

3.      Không được thay hình đổi dạng

4.      Không được đứng ngồi nghênh ngang.

-Chứng nghĩa ghi rằng, oai do đức hiển lộ không phải oai của thế lực; nghi do tâm biểu tỏ, không phải dối hiện cái nghi. Ngoài ra oai do nghiêm trì giới hạnh chúng đức mới trang nghiêm; nghi do động tĩnh hợp cách tiến thoái thảy an nhiên. Nên nói rằng hạnh trong sạch đều do đạo nghi, thanh bạch hoàn toàn do giới phẩm. Tỳ Kheo ung dung hành đạo, cảm niệm người học sĩ để an vui; xuất gia Phật tử an ổn hành hạnh khất thực. Thu phục ngoại đạo bỏ tà theo chánh. Cho nên có câu rằng, oai nghi bằng cách dạy vô ngôn. Lại oai nghi gọi là điều ngự, có nghĩa là điều thân không vọng động, miệng không vọng ngữ (nói dối), ý không vọng tưởng. Điều động được 3 nghiệp thiện như thế thời 6 căn tự thu nhiếp. Chích Cổ ghi rằng, Thiền sư Pháp Vân Bổn lúc bình thường làm việc dừng lại, ngó thẳng không chớp mắt, nhập chúng 30 năm chưa từng hé môi cười một tiếng. Khi đứng trông như Thánh tượng đứng thẳng không ngồi. Mâm cổ giả dùng tên thịt cá là không ăn. Bởi một thân oai nghi tề chỉnh như thế không hổ hình tướng người xuất gia. Trong làm mô phạm cho tăng chúng, ngoài làm lợi lạc cho tín đồ xét hai tiếng “oai nghi” đâu có luống phí!

Lại cũng không làm 4 việc như:

1- Không được nghỉ tụng kinh không có lý do

2- Làm việc không được biếng trể

3- Không được không cảnh cáo người ác

4- Không nên làm hại việc có ích, không được làm điều vô ích.

-Chứng nghĩa ghi rằng, cần tu hành nghiệp; cần là không biếng lười; tu là gia công sửa lỗi; không để thì giờ trôi qua vô ích, tinh tấn vượt qua. Hành nghiệp có 2 phần là thế, xuất thế; vì hành nghiệp xuất thế là chính, là yếu. Kinh ghi rằng chớ khinh việc thiện nhỏ mà cho là không có phước. Như giọt nước tuy nhỏ dần dần cũng đầy cái chum (đồ chứa) lớn. Việc thiện nhỏ không chứa không thể thành Thánh. Chớ khinh thường việc ác nhỏ vì cho là vô tội. Việc ác nhỏ tích chứa cũng đủ để làm mất thân người. Đây là lời chư Phật dạy ai dám không tin? Cho nên phải tinh tấn tu thiện nghiệp xuất thế.

Và sau đây là 6 việc không nên phạm:

1- Không được khiêu khích khẩu chiến

2- Không được kết nạp bọn đảng

3- Không được gian trá không thật

4- Không được gièm chê bậc danh đức

4- Không được vu cáo hủy hại người thanh tịnh

5-Không được khinh mắng người trật vai áo.

-Chứng nghĩa ghi theo Lương Hoàng Sám rằng, ngoài ra lỗi của miệng lại là cửa của mọi oán họa. Chư Phật răn nhắc không được nói lưỡi đôi chiều, ác khẩu, nói đặt điều, lời trau chuốt. Nên biết nói mách qué, lời ngọt cốt tạo việc thị phi gây họa không nhỏ, chiêu báo rất nặng. Luận việc xử thế con người, tâm ôm độc hại; miệng phun lời độc, thân làm hành động độc. Vì ba độc này làm hại chúng sanh; chúng sanh bị độc liền kết oán hận quyết tâm muốn báo thù, hoặc trong đời này theo ý muốn, hoặc sau khi chết theo tâm. Oán đối như thế đều do 3 nghiệp. Trong 3 nghiệp, khẩu nghiệp thật sâu nặng, cho chí thọ báo còn gieo các mầm độc. Vì thế xử sự với mọi người nên y cứ bài kệ này:

Điều lợi thứ nhất:Sang

Mới làm cho chúng an

Đừng mở lời hai lưỡi

Dè chừng chớ nói càng

Phàm ra làm việc gì

Nên chớ phụ nhơn tình

Mời gởi hăm hăm đến

Tòng lâm trăm tệ sanh

Việc làm ra đảm trách

Chớ mua một người lành

Một người lành mua được

Mọi việc đều đảo khuynh.

Thêm 15 việc không làm như sau:

1- Không được gàn bướng gây sanh sự

2- Không được nói sai kinh luận

3- Không được dối phô chiếm cơ duyên cổ đức

4- Không được vô tri biên thuật làm người lầm

5- Không được chiêu nạp người xấu

6- Không được tự lập đồ chúng

7- Không được chuyên giữ trẻ nít và sa di nhỏ tuổi

8- Không được dùng việc bất minh muốn làm thầy người

9- Không được dụ dỗ đệ tử người khác, phản lại bổn sư

10- Không được vô sự đột nhập cửa công

11- Không được vọng bàn thời sự đắc thất, thị phi

12- Không được có tâm khinh ngạo các bậc tiên thánh, tiên hiền

13- Không được đem đồ đạc của Tam Bảo cho người

14- Không được xâm chiếm sản nghiệp người khác

15- Không được xông khói nhúm bếp riêng.

Chứng nghĩa ghi rằng, thủ ý an phận lại còn có 20 lời khuyên như sau:

1) Tăng viện lấy vô sự làm hưng thạnh

2) Tu hành lấy hợp cơ duyên làm an ổn

3) tinh tấn lấy trì giới là đệ nhứt

4) tật bệnh lấy giảm ăn làm thuốc thang

5) sân phiền lấy nhẫn nhục làm giải pháp hay

6) thị phi lấy không biện bạch làm giải thoát

7) đãi người lấy thành thật làm chân tình

8) làm việc lấy tận tâm làm công cán

9) nói năng lấy ít lời làm ngay chính

10) trên dưới lấy từ hòa làm tấn đức

11) học vấn lấy chuyên cần làm nhập môn

12) nhân quả lấy minh bạch làm không lỗi

13) già bịnh lấy vô thường làm sách tấn

14) Phật sự lấy tinh thành làm quan yếu

15) Kính khách lấy khiêm nhường làm sự cúng dường

16) sân vườn (chùa) lấy cây thật làm trang nghiêm

17) gặp việc lấy dự toán làm không nhọc

18) xử chúng lấy cẩn ngôn làm thường lễ

19) gặp nguy lấy không loạn để ứng phó

20) giúp vật lấy từ bi làm căn bản.

Chú ý như thế mới ít lỗi lầm. Có bài kệ như sau:

Ta là người xuất gia

Quá bán con nhà nông

Phải nhớ lúc bần cùng

Giữ an phận thủ thường

Giá như người giàu sang

Lạc giữa chốn thiền môn

Nên biết nghĩa pháp không

Nguyên yếu tâm ngươi chết

Người sợ tâm bất tử

Tâm tử nghèo cũng tốt

Giữ được phận an bần

Trọn đời không não phiền.

Cần phải tuân theo Nội Quy không làm 7 việc như:

1- Không được sai mà không làm; cấm đoán lại chẳng ngưng

2- Không được có lỗi bị phạt mà không tuân theo

3- Không được lấy danh nghĩa chùa mà không ở trong tăng giới

4- Không được ngang ngạnh ngăn cản người trách nhiệm làm việc

5- Không được vì việc làm sửa đổi thành qui tắc

6- Không được không thưa thầy bạn khi tự ý làm sai

7- Không được kết giao người có lỗi bị đuổi.

Bảy việc trên không phạm gọi là tùy thuận Quy luật. Nếu phạm nhẹ bị phạt, nặng đuổi khỏi viện.

Chứng nghĩa ghi rằng, trở lên bên trên là 10 khoa cộng gồm 67 việc đều giữ mà không phạm gọi là tùy thuận qui chế. Lại nói rõ ràng hơn từ Tam quy, ngũ giới, giới Sa Di, Tỳ Kheo, Bồ Tát, Bách Trượng Thanh Quy, cho chí lễ nghi 300 oai nghi, lục độ, vạn hạnh… Luật pháp thế gian liệt ra không phạm gọi chung là tùy thuận qui tắc, không có nêu nơi 7 điều trên.

Phụ: 10 điều tu thân của Ngài Liên Trì (trích sách Đàm Lâu Pháp vựng)

1- Không có tâm khi dối

2- Không được tham tiền của

3- Không được sử gian

4- Không được dùng mưu

5- Không được che dấu lỗi

6- Không được phung phí

7- Không được gần người nữ

8- Không được ngồi lê

9- Không được lánh nhọc

10- Không được phí thì giờ.

* Nguyên chú ghi rằng, nói tâm khi dễ, hễ trộm vật của thường trụ, lừa đảo vật của tín thí như Phật tượng, kinh điển, đồ trai tăng, hội hè, tạo tự, đúc chuông, làm cầu, đắp đường… tất cả những tài vật như thế mà lấy dùng riêng. Cho đến dối người, dối quan, dối trời, dối thần…những việc ám muội đều gọi là khi dối. Dù không trộm, lừa đảo như đã nói, chỉ thích ham chứa giữ tiền bạc, keo rít không cho, bỏ của ra để thu lợi, cho vay lấy lời đều gọi là tham tài. Lúc đáng nói nín thinh không nói; đáng can ngăn ngồi trơ nhìn không can ngăn. Ngoài biểu lộ người ngu khờ, trong ẩn chứa điều đáng chê trách đều gọi là sử gian. Không chịu an thân chỉ tạo mưu tính kế, hoặc mưu tính chỗ ở, hoặc mưu đồ chúng, mưu toan kinh sám, mưu tính đàn thí, mưu làm pháp chủ, làm giới sư; cho chí kết giao với bè bạn xấu ác, ra vào cửa quan. Tâm tánh ác độc, tư cách khả ố, đốc sử đặt điều, trái lý nhiều việc v.v… đều gọi là dùng mưu cả. Khinh người, cười người, quát nạt người, làm thầy người, ghen tài người, bêu riếu người; nhận người đào tẩu, chiếm tài sản người, khiêu khích thưa kiện, không nhường nhịn người đều gọi là che dấu tội họa. Phô trương phòng xá, ăn uống sung túc, quần áo hoa hòe, chủ nhiều sản nghiệp, tinh chế đồ dùng, xem thường ngũ cốc… Phóng túng giao du, nuôi dưỡng tôi tớ, đút lót nhiều cho bọn đảng… một mực không biết hỗ thẹn đều gọi là phung phí. Tăng ni nhỏ tuổi kết làm bạn đạo. Phụ nữ bái làm cô nương lui tới gia đình vọng tộc, tìm kết thâm giao không tránh khỏi sự gièm pha đều gọi là thân cận người nữ. La cà tới nhà giàu, chầu chực cửa sang… Hoặc mượn thi văn biển ngạch, hoặc mượn quyền thế, hoặc đòi hỏi tiền bạc… Suốt ngày bôn ba không nghĩ tới tu tịnh đều gọi là ngoại diện. Sớm tối lễ tụng xao lãng bê tha, công tác Phật sự trì trệ không theo chúng đều gọi là lánh nặng tìm nhẹ. Mạng người qua hơi thở, thời khắc không đợi người. Việc chết chưa tường tấc bóng đáng tiếc, để luống qua ngày trống rỗng gọi là luống phí thì giờ. Chín việc trước quan hệ tới giới và một việc sau nói đến nỗ lực không ngừng vậy.

2.5Phụ: Người Xuất Gia

Răn những việc không tốt, có 32 điều trích từ Vân Thê pháp vựng như sau:

1) Ngồi ngay trước Phật thọ người lễ bái bất tường

2) Mắng người trước Phật: bất tường

3) Trên pháp tòa chỉ trích người và buộc miệng tố cáo bậc tiên hiền sai lỗi: bất tường

4) Cầm y thọ người lễ

5) Đang ăn mắng người

6) Phân biệt thức ăn ngon dỡ sanh tâm chê ghét

7) Gấm vóc, the lụa mỏng may tăng y dùng hằng ngày

8) Giường nằm dùng mền đôi, chiếu đôi, lụa mỏng làm nệm, tơ lụa làm màng

9) Dáng sớm mắng chửi người

10) Hiềm ghét tín thí khinh chê nhỏ mọn

11) Mua bán nô bộc (tôi tớ), cung ứng dịch sứ như nhà hào phú

12) Người khác lao lực riêng mình nhàn hạ.

13) Người nghèo khó riêng mình giàu sang

14) Tuổi trẻ làm pháp sư, làm thầy thí thực, làm sư trụ trì

15) Tuổi trẻ ỷ bẩm chất thông minh, khinh chê bậc kỳ lão

16) Ỷ tuổi lớn hạ cao, khinh khi lớp đàn em

17) Vô cớ được tặng trọng hậu

18) Người đem lòng chí thành tiếp ta, ta lấy tâm xảo trá đối xử lại

19) Ưa thích bàn việc lỗi người và che lỗi mình

20) Lấy đồ vật Tam Bảo làm lợi cho người thế tục

21) Ân sủng đệ tử Sa Di cho ăn ngon, mặc đẹp

22) Phát ngôn khích động thô lỗ làm cho người khó chấp nhận

23) Có nhiều người hộ pháp, nhiều kẻ cúng dường liền tự tôn tự đại

24) Không có bịnh sai người đổ đồ dơ

25) Trong khi bịnh sân giận với người phục vụ

26) Mặc y đi tiểu giải

27) Gặp những tai họa như thủy nạn v.v… oán hận trời đất

28) Thiếu nợ người, nghe người chết sanh tâm vui mừng

29) Chưa nói đã cười trước

30) Lúc vô sự luôn sầu than

31) Dốt đặc giáo lý, vọng bàn cổ nhân, coi thường mọi người

32) Có chút ít hiểu biết tự cho là tổ sư. Những việc trên làm tổn phước tổn thọ, phần nhiều rước lấy tai họa cho nên gọi là bất tường; phải cùng nhau giữ giới răn dè.

Chứng nghĩa ghi sách Thiền Tông Bí yếu rằng, Thiền sư Thừa Hạo chùa Ngọc Tuyền đi tham vấn sư Đắc Tháp phát sáng tâm yếu đạt được Đại tự tại tam muội, tạo chế mũi trâu, người đời gọi là Ngưu Đầu Khố, chép danh hiệu lịch đại tổ sư, bèn nói rằng: chỉ có Văn Thù, Phổ Hiền sánh kịp con. Theo sách dẫn trên nên tòng lâm nhân đó gọi là Hạo bố côn. Giữa niên hiệu Nguyên Phong làm Trưởng chúng ở động Nhương Dương ẩn tu, có một tăng làng cũng đến tham học. Sư thấy mặt mắng rằng:

-     Ngươi có đạo lý gì dám vác mặt tới đây làm trò đùa ư?

Tăng nhân giận xung thiên, tìm tới Lộc Môn như đã nói, rồi bỏ đi luôn. Ôi! đây là một dạng thức bất tường đó vậy. Có pháp sư Tề Ngọc thời Tuyên Hòa năm thứ 6 ở Thượng Trúc, thấy có một ông tăng mất quy cách liền quở rằng: ông vô tri như súc sanh vậy. Sau hối hận nói: vị ấy tuy là người hư, mắng là súc sanh có tội với Tam Bảo. Từ đó 3 năm luôn đối trước Phật sám hối lỗi lầm. Như thế ngõ hầu mới chuyển việc xấu ác chẳng lành trở nên thiện lành vậy. Nhưng tại sao ban đầu ta không giữ lời cẩn trọng nhỉ? Người có học lấy đó tự soi sáng tâm mình vẫn hơn.

2.6Qui tắc sống chung

Tâm dừng ảnh dứt, ổn định danh lam. Nội Qui tu tập đồng chí hướng phải tham vấn bậc kỳ túc để hiểu sâu mà trăm mối do từ đời này sang đời sau phải biết. Nhân do tri kiến mỏng cạn nên sơ tâm dần lui sụt làm cho giềng mối đạo mất hướng; mô phạm đa phần sai trái, tập nhiễm lâu ngày trở thành thói tệ.

Trụ trì… ấn ký.

Tự thẹn đức mỏng, tài sơ rỗng tuếch lời Phật dạy, không pháp chi báo đáp, muốn quay lại đi đến chỗ đồi phong. Chỉ mong bậc hiền nhân trở lại cùng tôn trọng giới luật Phật chế. Tổ răn mực thước điều trị ba nghiệp, diệt trừ tội lỗi, ở chốn tòng lâm như thế vốn phải tuân hành. Nếu không được như vậy không đủ sức sống chung.

Phạm 32 việc sau đây cho ra khỏi viện:

1-     Phạm giới căn bản đuổi khỏi viện.

2-     Tu thiền cốt ở thật tham thật ngộ, người lộng ngôn, khẩu đầu thiền

3-     Tụ năm tụ ba chơi đùa trước cửa sơn môn tán gẫu hay ngồi không bị phạt không tuân hành: đuổi.

4-     Uống rượu, xem người đùa vui bị phạt đuổi khỏi viện. Nếu bị bịnh nặng không rượu trị bịnh không lành phải bạch chúng mới được uống; hút thuốc bị phạt.

5-     Cố cho người có tội trở lại, tính làm hại tòng lâm, làm náo loạn người tốt.

6-     Tranh cãi phải trái, châu miệng chửi rủa, thu tay đánh đấm bất cứ ngay gian.

7-     Đúng lý không nhẫn, phạm lỗi mà sân, đúng lẽ không phạt người phạm lỗi.

8-     Lúa thóc các thứ mà không thưa Trụ trì tự bán dùng riêng bị phạt đền bồi xong, đuổi luôn

9-     Xâm tổn của Tam Bảo như xắn bớt tre gỗ, hoa quả cho người bồi thường xong, đuổi.

10- Xin của thí giữ ở chùa vẫn tự đi xin thêm; xét việc nặng nhẹ để xử phạt, không tuân đuổi khỏi viện.

11- Đem việc công giữ làm việc riêng và theo thói tục cố hữu không phải của người tu hành liền cho ra khỏi viện. Biết mà không nêu lên cùng bị phạt.

12- Với mắt không tinh dối luận kiến thức người; phát ngôn không tự biết sai trái cho ra khỏi viện.

13- Công phu, tọa thiền ngao du ra ngoài không theo chúng bị phạt. Trừ đi công việc công, hay bị bịnh, không tuân bị đuổi.

14- Cải vả trong thiền đường bị phạt, nơi chánh điện dấu không nêu lên; đợi ra khỏi nhà nêu lên, toàn ban làm việc trong chùa cùng bị phạt.

15- Trừ việc công không ở tại liêu mình mà tới phòng khách tự tung phóng túng bị phạt.

16- Như chơi bài, đánh bạc nặng phạt đuổi khỏi viện. Chức sự không nêu ra cùng bị phạt.

17- Vô sự không được trong lúc bửa ăn đùa cười.

18- Không được tranh chỗ ngồi, không được chẳng theo chỗ ấn định.

19- Không được đứng lên trước khi chưa kiết trai.

20- Không được cầm chén vào bếp lấy thức ăn, vi phạm bị phạt.

21- Lúc uống trà, nghe Quy Ước, trừ việc công không theo chúng bị phạt. Không được sai mượn người lấy trà bánh đem về phòng cho; người lấy cùng bị phạt.

22- Kinh sách của thường trụ, hàm quyển trang trong đều không cho mượn đem ra khỏi chùa, vi phạm bị phạt. Cũng không được tự ý lấy, phải bạch chúng mới mượn.

23- Khinh khi bậc kỳ đức, nói lời xấu ác, sanh tâm phỉ báng.

24- Không nghe người chức sự kết buộc tội thành điều mà bất mãn tố cáo bị phạt.

25- Không có bịnh nặng lén chúng ăn uống riêng bị phạt. Ghé nhà bạn bè ở cách đêm bị phạt.

26- Các phòng nghe chuông báo thức không dậy bị phạt. Ỷ mình có công không chịu tuân phục theo, phạt nặng.

27- Phàm nhận vật của tín thí mà không cho người chấp sự biết nhận vội, phạt đền bồi, trừ bạn bè thân quen.

28- Để râu tóc dài, từ chối thẳng không cho ở.

29- Trời nóng nực oi bức không được chỉ mặc quần đùi. Mùa đông trời lạnh đốt lửa cùng đội nón bị phạt.

30- Tiền bạc của Tam Bảo thu chi có sổ sách, vào mỗi kỳ họp phải báo cáo. Không ghi rõ hoặc gian dối bị phạt.

31- Ở trong chúng ra ngoài gây lộn, nghiêm đuổi, dựa cớ ấy bằng cách cất đơn, không cho nhập vào lại.

32- Bao che người có tội nặng (lỗi lớn) và trẻ nhỏ hoặc lén kết nạp đồ chúng bị phạt đuổi

Tòng lâm không có tăng trông coi trong ngoài bất chánh. Những điều tệ xấu làm sao chấm dứt; quy tắc làm sao tái lập được? Vị thầy trông coi phải tận tâm xem xét không được theo tình cảm riêng. Nếu người nào phạm chiếu quy luật phạt. Không phạt, vị tăng trách nhiệm bị phạt.

Bên trên là 32 điều quy định đúng, là quy tắc hành đạo. Đại chúng sống chung nên tôn trọng để duy trì nề nếp.

Ngày…tháng…năm

Trụ trì … cẩn bạch.

-Chứng nghĩa ghi rằng Phật tổ (Thích Ca) lập giáo pháp, kiến tạo tòng lâm giúp chúng tu tập. Nghiêm tu thanh tịnh là báo đáp 4 ân và làm cho 3 nghiệp thanh tịnh. Cho nên Trụ Trì không tiếc thân mạng, vét bùn, khuân nước vì để nuôi dưỡng tài năng, nung đúc Thánh trí. Sân chùa không thể không rộng lớn, lễ pháp không thể không nghiêm minh, quy tắc không thể không lập. Lập qui tắc trên dưới mới yên; lễ pháp nghiêm gian thù lui bước; cửa chùa đủ rộng thời có tinh thần tôn sư trọng đạo. Luận về khiêm nhường tiếp vật, như núi dung, biển nạp. Phong cách trụ trì hễ gặp việc thi hành, không được mặt lạnh quay đi, phòng những việc tế vi, sửa dần lỗi lầm của mình, ngỏ hầu mới có thể làm cho trong ngoài về sau thay đổi vô sự mà được an lạc vậy. Song muốn điều động được người trước hết phải điều chỉnh chính mình mới mong điều phục một phần thói quen của người khác. Xem kẻ khác như chính bản thân, bỏ cái Ta theo người, theo quy tắc xưa (lão Tổ: Tổ Bách Trượng) mới làm được. Sách Chích Cổ ghi rằng, Nam Đảng Không thiền sư tư chất thông mẫn, tri kiến sâu rộng, giữ gìn giới luật tinh nghiêm. Hội hè mời Ngài đều không đi …Có người đón thầy tới nhà thọ trai, cúng dường tiền vật lập chùa. Ngài nói: gánh công bỏ của mới quý đẹp, nhưng dấu chúng mà ăn không phải tự phá giới sao? Cuối cùng Ngài chẳng tới dự.

Ngu Am có bài thơ ca tụng rằng:

Sùng Giác mất bổng lộc

Cần cù chăm thảo mộc

Chay tịnh lập sơn cốc

Hai việc phước đức luân.

Ông muốn cần được phước

Tôi tôn trọng giới luật

Sơn môn có ngày tàn

Giới luật như kim cang (bất hoại).

Cúng dường chỉ là một việc nhỏ; túi rỗng lọt hạt cải, từ đáy một lỗ hổng thấm lọt được kim khâu. Toàn thân Bảo Giác do ngươi mua chuộc được, ngươi không thấy Văn Thù tái thế là bậc thầy thanh lương; giữ luật trọn đời không hề giải đãi sao? Ta là những hạng người gì mà dám không dùng đầu đội ư?

2.7Qui chế thiền đường và quy tắc tọa thiền.

(xem chương 8: mục tiết lạp ở dưới)

Qui chế tịnh nghiệp đường có 16 điều như dưới đây:

Luận biển sanh tử khôn dò, nếu không niệm Phật làm sao vượt qua được. Đạo Bồ Đề cao vợi, nếu không có cõi Tịnh độ làm sao nương tựa được. Nay đại chúng cùng thấu rõ chỉ chuyên niệm hồng danh 6 chữ lập nguyện cùng nhau, nỗ lực nhất tâm bất loạn; chỉ sợ thời gian lâu, đi xa dễ sanh lười biếng, sự thật mất còn danh, lao lực lập thành không gia tâm sách tấn; không lấy gì ràng buộc thân tâm; hẳn phải có chương điều mới mong chỉnh đốn ta - người. May được cùng giữ qui tắc mà nhắc khuyên nhau, không tranh ngã tranh nhân để cho tịnh nghiệp chóng thành. Đài sen sớm nỡ thấy Phật A Di Đà ở cõi Tây Phương. Thân này chứng tam muội được như thế thời ước nguyện không mất. Xin được nêu ra 95 quy ước sau đây:

1- Thời khóa hằng ngày 10 giờ niệm Phật; đến 9 giờ (tối) quán tưởng (tham thiền) và một thời lạy sám hối. Dù đông lạnh, hạ oi cũng không được lơ là.

2- Mỗi nửa tháng có trăng và không trăng, tụng luật Tứ Phần giới bổn; tụng gọn ít là kinh Phạm Võng. Quỳ gối chấp tay đọc lời phát nguyện và hồi hướng sanh Tây Phương.

3- Gặp Khánh Đản Phật A Di Đà và Quan Âm, Thế Chí thành tâm thiết lễ tưởng niệm

4- Mỗi năm hai tháng, tháng giêng, tháng hai đều có 2 kỳ niệm Phật để cầu nguyện vạn vật đổi mới, trời đất canh tân; nhằm nói lên ý nghĩa mạng người vô thường, ngày tháng luống qua.

5- Mỗi ngày lúc chiều nên cúng xuất sanh thí thực. Đọc chú Biến Thực chân ngôn 49 lần, niệm hiệu Phật 1000 lần để giúp đỡ quỉ thần

6- Mỗi ngày niệm Phật, thọ trai (dùng bửa) đều đắp y

7- Nên cấm chỉ rong chơi không được ra ngoài xem ngóng, lên phố nhàn du. Trừ phi đi thăm bịnh cha mẹ, sư trưởng, có thể tạm thời xin phép, ngoài ra đều không được.

8- Xin phép ra ngoài nên có ngày giờ nhất định. Nếu quá hạn không về, phạt quỳ hương

9- Nên miễn nghinh đón khách quí tiếp đãi đàm đạo ít lời vì thì giờ qua nhanh. Nếu gặp nhân duyên hỏi Phật pháp, không nêu ở phần này

10- Nên che dấu việc tạp. Phàm Kinh sách, giấy mực, thi, kệ, chữ viết… tất cả để chỗ cao, không được hời hợt xem thường.

11- Không nên trả lời ngoài kinh tạng. Giả như người đến tự viện cũng không hẹn ngay. Dù trả lời không được, chỉ cần tụng kinh A Di Đà, lạy sám Tịnh Độ, niệm Phật mà thôi.

12- Trong chùa, trừ niệm Phật ra, tất cả không nên nói tạp. Giả sử có việc cần hỏi đáp cũng nên nhỏ nhẹ

13- Niệm Phật bị hôn trầm dùng cờ hiệu nhỏ đi tuần để nhắc nhở tĩnh táo lại; cờ hiệu tới không đứng lên bị phạt

14- Có lỗi không sám hối, can ngăn không trừ, phạt quỳ hương. Phát tức nổi xung gây gỗ đôi bên đều bị phạt. Một người nhẫn, một người sân, người sân bị phạt

15- Phàm có lỗi nên cùng khuyên nhau theo Nội Quy, khiến người kia lập tức sám hối ngay. Không được để cách ngày, đêm

16- Vô cớ xông vào phòng, tụ lại bàn chuyện nhãm bị phạt quỳ hương. Không phải có việc quan trọng, giờ chỉ tịnh (ngủ) không về chùa phạt hương.

Những điều quy định trên nếu phạm, Duyệt chúng phải nêu ra. Đưa ra nhưng đương sự bất tuân là đuổi. Biết mà không đưa ra, cả 2 cùng bị phạt quỳ.

Ngày…tháng… năm

Trụ trì… cẩn ghi.

-Chứng nghĩa ghi rằng, tông Tịnh Độ thành lập ở Đông Độ bắt đầu từ Ngài Lô Sơn Huệ Viễn. Ngài khuyên người bỏ cõi Ta Bà, cầu sanh về Tịnh Độ. Giáo thuyết ấy lấy kim ngân làm vật ô nhiễm của tâm; lấy tước lộc làm cái khổ hoạn của thân, lấy nữ sắc chiếc búa chặt mạng sống, lấy ăn ngon mặc sang, nhà cao cửa rộng làm hố hầm đọa lạc của ba cõi. Chỉ mong thoát khỏi thân người sanh lên 9 phẩm sen, được thanh tịnh mà dứt hết bẩn nhơ. Nên Ngài quy tụ các nhà trí thức, 18 vị hiền tài khắc hoa sen, 6 thời lễ tụng, tinh thần khẩn thiết lúc lâm chung (chết) mỗi người được như sở nguyện. Từ đó về sau lời dạy ấy được tôn trọng. Người tu tịnh nghiệp sanh về nước Cực Lạc thay thế nhiều người. Song trong đó có danh mà không thật. Tới mạt Đường người chuyên tâm niệm Phật cũng không phải là ít. Cho tới ngày nay lòng người đã tệ bạc, tội lỗi ngày càng phát sanh. Tụ tập nhiều người mạo danh là Liên Xã, dối cầu ăn mặc hay giữa nam nữ có phần phức tạp; sanh nhiều tệ đoan thường hay xảy ra. Cho nên người trong Liên Xã thà ít không nên kết nạp nhiều; cho chí việc nam nữ lộn xộn trong cùng tổ chức. Việc như thế xưa kia chưa từng có; người nữ thường nên phải ở nhà niệm Phật chớ xen lẫn giữa đàn ông. Tránh tiếng đời gièm pha để hộ trì chánh pháp không thể xem thường. Dựa theo Tư Tề đại sư trong sách Nghiệp Đường Minh ghi rằng, nhà gọi là tịnh nghiệp, chỉ nghĩa là gì; chỉ là duy nhất tinh chuyên niệm Phật Di Đà. Tâm chưa được thuần nhất, nghiệp hẳn là bất tịnh, chỉ mê cùng tán loạn sống ắt nhóm bịnh. Bọn người như vậy ra khỏi nơi đây nên hợp thời kiểm soát, hoặc cần chăm hoặc biếng lười. Lười thời phát gắt gõng, cần chăm nên tiến bộ. Nỗ lực một đời quyết gặp Phật A Di Đà. Ngoài ra ở chùa Tư Phước thuộc Hồng Lũy Sơn tại Bắc Kinh có Triệt Ngộ thiền sư nói rằng “Tâm hay tạo nghiệp, Nghiệp do tâm tạo, nghiệp tùy tâm chuyển. Tâm không thể chuyển nghiệp tức bị nghiệp buộc, nghiệp không tùy tâm chuyển tức là tâm năng buộc”.Tâm có thể chuyển nghiệp, tâm hợp với đạo, tâm hợp cùng Phật tức là hay chuyển nghiệp. Nghiệp chuyển tâm buộc, tâm nương thường phận xoay vần tạo ra thọ, tức là nghiệp buộc mọi cảnh giới hiện hữu hết thảy quả báo đời sau đều chỉ do nghiệp mê lầm. Duy tâm hiện ra, chỉ nghiệp cảm nên, cho nên cảnh trước mắt, quả báo đời sau đều có nhứt định. Do nghiệp hay buộc tâm chỉ tâm mới hiện khởi. Cảnh hiện báo về sau đều không nhứt định. Do tâm hay chuyển nghiệp, nên nếu người đang tạo đúng hay buộc tâm, cảnh hiện hữu về sau nhứt định đưa tới quả báo mà liền phát tâm quảng đại tu hạnh chân thật. Tâm cùng Phật hợp, tâm hợp với đạo tâm hay chuyển nghiệp. Tiền cảnh, báo về sau định nhưng bất định. Lại tâm hay chuyển nghiệp, tiền cảnh hậu báo khi bất định, nhưng đại tâm bổng lui sụt, việc tu tập kém khuyết nên nghiệp hay buộc tâm, tức là tiền cảnh, hậu báo bất định mà định. Nhưng nghiệp sẵn tạo đã qua không thể nại cớ cho là may mắn phát tâm nhưng cơ duyên do ta tạo nghiệp, chuyển nghiệp mà không do người khác. Như ta phát tâm niệm Phật cầu sanh về cõi Cực Lạc hay quán sát y chánh báo hoặc niệm danh hiệu, niệm niệm tương tục nối luôn không dứt thời tâm và Phật hợp, hợp rồi lại hợp; hợp đến chỗ chí cực tức tâm hay chuyển nghiệp mà tiền cảnh của Ta Bà chuyển thành Cực Lạc. Đầu thai quả báo địa ngục chuyển làm bào thai hoa sen thành người tự tại an lạc cõi Lạc Bang. Nếu ngay lúc tâm nghĩ gì, tâm hoặc ngẫu nhiên mất thăng bằng hoặc bỗng sanh lui sụt không hiệp cùng Phật thời nghiệp hay buộc tâm mà tiền cảnh vẫn lưu báo về sau, vẫn đương nhiên trở lại thọ khổ của chúng sanh. Song ta có chí thoát khỏi cầu sanh Tịnh Độ có thể thản nhiên mà cảnh giác, phấn chí mà phát tâm.

2.8Qui tắc Phật thất

Luận về Phật thất nguyên vì hiểu rõ chu kỳ lẽ sanh tử. Bảy ngày là một kỳ, mỗi ngày 6 thời không gián đoạn. Ban đầu một thất, 2 thất cho đến 3, 4 thất. Bốn phương thính chúng câu hội, nhất thời thắng hội rộng khai. Chỉ sợ lười dễ sanh, tinh tấn khó đến, nếu không ràng buộc lấy gì sách tấn thân tâm. Không có quy tắc lấy gì để người tin kính, nên cẩn trọng lược ghi những điều qui tắc như sau:

1- Trong 7 ngày đầu nên buông hết vạn duyên, phải dụng công không dứt, cần yếu là nhứt tâm bất loạn. Xem như trước mặt là một hội liên trì vậy.

2- Canh 5 nghe chuông liền thức dậy xuống giường, sau khi rửa mặt xong, tất cả chúng đều vào điện niệm Phật, không được nằm yên không dậy, lánh nhọc an thân.

3- Sáng mặt trời đã lên liền dùng cháo. Sau khi dùng cháo xong vào ngay chánh điện niệm Phật, chờ một cây nhang tàn mới đứng dậy đi kinh hành. Kinh hành mãi đến khi cây hương còn một tấc trở về chỗ ngồi niệm Phật. Cây hương khác đốt khẩn niệm hiệu Phật, nghe 3 hồi chuông dứt, đồng loạt nghĩ niệm. Nghỉ giải lao dùng trà xong, gõ mõ nhỏ khởi sự tiếp tục niệm.

4- Ngồi niệm tới hương cháy hơn một tấc, hai vị lãnh chúng Đông Tây đứng lên xoay mặt vào nhau xá một xá, nhìn lên tiến tới đi từ từ lên cầm phan chắc nơi 2 tay bước đi đều, theo hàng đôi. Giây lát, mõ dẫn 2 hàng người cùng đi, không được đi sai lộn. Thấy người nào ngà ngật, người cầm phan lớn tiếng niệm Phật đánh thức tĩnh đưa phan cho người đó cầm. Đương sự liền đi kinh hành, người cầm phan trước bèn ngồi thế chỗ y. Cứ theo phan, người kinh hành niệm Phật không thể ngủ, và lần lượt như thế mà nhắc nhỡ nhau. Đến lúc cây nhang còn hơn một tấc, mõ dẫn trở về chỗ ngồi, phan cũng trở về chỗ. Hai bên đối diện, người cầm phan cắm vào giá rồi về chỗ, cây nhang vừa cháy hết như trên.

5- Người cầm phan cần phải xem kỹ nếu thấy mắt nhắm tuy vẫn ngồi ngay, đầu thẳng, miệng niệm theo chúng. Người này hoặc hơi hôn trầm hoặc đang lúc đắc ý, không nên giao phan, không nên trao đổi qua lại, nếu đưa phan qua bị phạt. Nếu người đầu hơi cúi gật mới đưa phan cho cầm

6- Người hôn trầm thấy phan đưa tới tâm sân nổi lên không tiếp cầm phan bị phạt quỳ một cây hương.

7- Người cầm phan trên tay mà tự ý chạy rối loạn hàng ngũ bị phạt

8- Người cầm phan, thấy có người hôn trầm đáng đưa cho cầm mà không đưa bị phạt

9- Kinh hành nên đi thứ tự không được rối loạn chen trước lấn sau, nghểnh cổ lắc đầu bị phạt. Nếu lánh nặng tìm nhẹ mình trần vào phòng, luận bàn tạp nhạp phạt gấp đôi.

10- Ngoài công tác ra, trừ việc Phật sự chung, thì giờ trống nên nhiếp tâm niệm Phật. Nếu dụm đầu lại nói chuyện bị phạt. Nếu lấy cớ có việc đi ra ngoài thả bộ, phát hiện ra được bị phạt nặng. Giả như có việc chung không đến được nên báo cho lãnh chúng biết rồi mới đi, ai vi phạm bị phạt.

11- Tàn một cây nhang xong, ai trực trong ngày rót trà hai bên, chúng tuần tự uống trà. Không được trà dư đổ hắt ra đất, ai phạm bị phạt. Làm vỡ chén phải đền. Dùng trà xong mới đứng lên, người nào đứng dậy trước bị phạt.

12- Lúc đi đại tiện giới hạn một tấc hương, đi tiểu hạn nửa tấc hương. Vô cùng lúc với người khác không được nói cười giao đầu kề tai nhau, ai phạm phạt quỳ hương

13- Khi tọa hương cây hương cháy quá hai tấc, Duyệt Chúng phải tuần tra hai bên xem có ai chưa tới, đem dời bồ đoàn (tọa cụ) ấy tới trước Phật, lúc người đó đến liền chấp tay quỳ niệm hương xong, nhè nhẹ đứng lên lễ Phật, xoay qua lễ Phương Trượng, rồi tự cầm bồ đoàn về chỗ ngồi..

14- Người sơ cơ không ngồi kiết già được có thể ngồi bán già cũng được; cần thiết là phải ngồi thân ngay thẳng

15- Tiếng niệm Phật cần phải rõ ràng dứt khoát, không được cao quá, cao thì niệm không lâu được; cũng không được thấp quá, thấp là bị hôn trầm (ngủ gật), chỉ cần tiếng phát ra giữa môi và lưỡi; tâm niệm miệng xướng, tai nghe cho chí đứng - nằm - ngồi luôn luôn giữ một câu niệm A Di Đà Phật. Như thế mới tin được tiếng, tiếng nhiếp niệm; niệm niệm nhiếp tiếng đó là công phu, lâu ngày tự nhiên trở thành thuần thục.

16- Trong lúc tu Phật thất gặp bịnh duyên nên tin tưởng đức Phật A Di Đà là vô thượng y vương. Nếu cố gắng nỗ lực không rời ma bịnh liền tiêu. Nếu như không thể tiếp tục được nữa cần phải nghỉ ngơi nên báo cho chủ thất biết, kế đến cho đại chúng biết. Phải dẹp bồ đoàn rồi mới ra khỏi chỗ. Không được cố kéo dài bịnh dây dưa làm hỏng tịnh nghiệp. Nếu có việc riêng ra khỏi chùa mà không báo cáo, bị phạt nặng.

17- Ở trong chúng hoặc đi tới lui hợm hĩnh, lời nói gây xích mích, sách động loạn chúng, đuổi khỏi chùa

18- Trong chúng có lỗi, Duyệt Chúng đưa ra mà không chịu nhận bị phạt; người biết mà không nêu ra cùng bị phạt.

19- Trong đạo tràng có người già bịnh nên tìm cách tùy thuận không nên câu nệ quy tắc, như tùy hỷ niệm Phật; tạm đến rồi đi cũng không có nơi điều quy định này.

20- Dùng cháo tiểu thực đốt 3 cây nhang, dùng ngọ trai đốt 4 cây. Tụng thời kinh Tịnh Độ, lễ 12 lạy Phật A Di Đà, Quan Âm, Thế Chí, Địa Tạng Bồ Tát mỗi vị 3 lạy. Ba tự quy, lạy Tổ xong, uống trà, nghỉ giải lao xong đi kinh hành niệm Phật. Niệm 1000 lần hay quy định theo giờ giấc 15 phút, 30 phút hoặc 45 phút hoặc một tiếng đồng hồ xong trở lại hồi hướng.

Mỗi người về chỗ nghỉ ngơi, thầm niệm Phật rồi đi ngủ đúng theo thời biểu qui định không nên sai trái.

21- Đêm thứ 7 hoàn mãn phần hồi hướng, niệm Sám Văn Tây Phương; quỳ niệm Phật, Bồ Tát, Tự quy y xong, lui ra lễ Tổ. Đại chúng tới phòng Phương Trượng đảnh lễ 3 lạy và chờ Ngài khai thị xong, lễ tạ xong mỗi người tự lui về chỗ. Mỗi khi mãn thất, học chúng đi, đứng, nằm, ngồi đều thầm niệm Phật, kỵ nhất là bàn nhãm nói tạp; 2 thất, 3 thất đều áp dụng như thế.

22- Lấy trong Nội Quy mà nói phạt đều là phạt quỳ hương niệm Phật. Do vì nhân địa mà ngã xuống, trở lại nhân địa mà đứng dậy. Chỉ nên một lần ngã mà đứng dậy chứ không nên vụt đứng vụt ngã, tự sai lầm không nhỏ vậy.

Trụ trì… cẩn sao lục.

Ngày… tháng… năm…

Chứng nghĩa ghi rằng, qui tắc tu tịnh nghiệp cùng Nội Qui Phật thất, tuy phân hai nhưng chú mục cảnh sách, đại bộ thật ra không có khác nhau. Phật thất thời gia công hành trì. Tư Tề đại sư nói rằng: “niệm Phật không là điều khó, khó là ở chỗ nhất tâm. Nhứt tâm cũng không khó, khó ở chỗ dứt gốc ái”. Nên quán thân thể nầy bẩn hôi khó mà nói hết được, trong ngoài và ở giữa không có một vật nào trong sạch cả. Cái thân này đã như vậy, thân khác cũng như thế; che dấu ác tâm thâm căn, cẩn thận chớ sanh tham đắm. Nên quán cõi Cực Lạc thuần là hoa sen sanh, không gá thai của cha mẹ nên thọ mạng vô cùng thanh tịnh.

Lúc nhứt tâm niệm Phật, hoa sen liền hóa sanh, nếu người niệm không gián đoạn quyết định được vãng sanh nước An Dưỡng. Lại nói rằng, Nam Mô A Di Đà người nào mà chẳng niệm được. Nếu niệm không cảm ứng như mẹ con khó gặp nhau. Đi, đứng và ngồi, nằm luôn phải buộc cột tâm niệm niệm tiếp nối liên tục, niệm đạt thành một khối. Niệm Di Đà như thế, Di Đà tự hiện đến, quyết định sanh Tây Phương, trọn đời không thoái chuyển.

2.9Phụ: sớ hồi hướng Phật thất

Tấu vì: mắt biếc rỡ ràng, thấy sen xanh hàng cây la liệt. Hào quang uyển chuyển, trời người vui hưởng ánh trăng đầy. Bốn tám nguyện mở bày sâu rộng, tiếp độ đều mà chẳng nói không, độ hằng hà sa chúng ngu mông (muội). Niệm 10 niệm mà vãng sanh xong, nhiệm mầu ứng hiện vô song, lòng từ che phủ bao dung.

Nay có Phật thất dâng sớ văn hoàn tất, đối trước Phật xướng tuyên công đức. Ngưỡng mong oai đức từ bi, rủ thương chứng tri.

Đọc tại chùa … thành phố… Vâng lời di giáo Thích Ca Như Lai mở khóa tu tịnh nghiệp này. Pháp sự Sa Môn …cúng Phật và cúng các bậc hiền Thánh, tạo nên Phật thất.

Trụ trì Tỳ kheo …

Đạo tràng Phật thất có … chúng Tỳ kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di… vị.

Hôm nay cúi đầu niệm hương, nhất tâm đảnh lễ Thánh chủ hai cõi Di Đà, Thích Ca, Quan Âm, Thế Chí các bậc đại Thánh hiền trên tòa kim liên. Đoái mong cảm thông cho việc làm của chúng con. Nhân vì chúng con thân mạng chẳng đồng song tâm niệm vẫn một. Tự nghĩ rằng sanh ra nhằm đời mạt pháp trôi nổi trong sóng dục mãi quên về, cách Thánh càng xa, cận ánh từ quang mà khó thấy. Bèn nương tòng lâm mở bày Phật thất trong vòng 7 ngày dụng công tu tập, nguyện nhất tâm bất loạn, quyết định chọn ngày … tháng… đến ngày… kết thất. Mời thỉnh bốn chúng câu hội về bổn tự trì niệm hiệu Phật A Di Đà muôn đức hồng danh trong 7 ngày đêm.

Lại nguyện: lời kinh lan ra khắp xứ trừ sạch căn trần. Lúc niệm hiệu Phật tăng phước huệ, dù tăng, dù tục đều kết nên nhân của chín phẩm, hoặc nữ hoặc nam cùng hẹn đạt quả nơi ba bực (thượng, trung, hạ) mong được như vậy. Ngưỡng mong từ bi nhiếp thọ.

Văn sớ đã tỏ bày trên nguyện Tam Bảo chứng minh.

Văn sớ hồi hướng (kết thúc) Phật thất.

Ngày… Tháng… Năm….

Trụ trì … dâng sớ.

Chứng nghĩa ghi rằng theo sách Trùng đính Tây Phương công cứ rằng: vào rằm tháng 5 năm thứ 53 đời Càn Long, Lục Cận Đường tại Tô Châu, giáng đàn bảo các con rằng, có một biến cố rất là quan trọng mọi người không thể nào chạy trốn thoát, người người đều phải tử vong, các con có biết không? Hiện tại chúng ta bốn đại nhẹ nhàng, tinh thần khoẻ mạnh, chưa từng nghĩ một sớm nằm trên giường bệnh hồn phách ly tan không biết đâu là đâu không nhận ra đông tây, chẳng phân được nam bắc. Đường trước mờ mờ tơ hào không nắm được, theo nghiệp xoay vần phải thọ khổ vô cùng. Chỉ có khi còn mạnh khỏe lo tu tịnh nghiệp, đến lúc chợt thấy Phật tới tiếp dẫn sanh trong hoa sen thọ mọi điều vui, sống lâu vô cùng. Các con có chí về đạo này nên ta giảng ba môn tín, hạnh, nguyện. Tín là tin có cõi Tây Phương Tịnh Độ, cũng như tin cõi Ta Bà là có thật thời Tịnh Độ đâu không phải là thật hữu. Cùng trong viên minh giác hải khởi niệm là đến, cũng giống như cùng một xứ cùng một thành, cất bước là tới ngay. Đã tin cõi Tịnh Độ quyết định hẳn đến. Lại nên tin pháp môn niệm Phật như mặc áo, ăn cơm; mặc áo chống lạnh, ăn cơm trừ đói, niệm Phật khỏi sanh tử. Nay tin, mai không tin chưa gọi là chân tín mà phải tin hết lòng. Một niệm bổng nhiên không tin chưa gọi là chân tín. Từ nay trở đi cho tới khi chết một lòng tin ráo riết không một tơ hào nghi hoặc mới là chân tín (tin thật).

Đã tin có cõi Tây Phương, lại tin có pháp môn niệm Phật. Nói suông lời tán dương có ích gì cho việc sanh tử? Cho nên phàm người phát lòng tin phải nên theo đúng lời dạy thực hành. Ngày nay tin liền thực hành hôm nay, ngày mai tin liền thực hành ngày mai, cho chí mong từng chữ thật là khẩn thiết. Thế gian tin Phật niệm Phật cũng không thiếu chi người, nhưng hoặc vì họ mong hiện đời này giàu có hoặc cầu đời sau được phước thọ (sống lâu), được làm thân người không bị đọa lạc. Đây là trái với ý chỉ Phật dạy. Phật dạy ta thoát khỏi sanh tử, ta lại men vào sanh tử. Phật dạy ta sanh về Cực Lạc, ta lại bám víu Ta Bà. Một đời tin niệm phó cho đông hải cũng như làm ruộng gieo giống xong bèn chờ hạt nẫy mầm, có đúng không? Cho nên người phát tâm tin chân chánh nên hành hạnh chân. Hành hạnh chân nên phát nguyện tha thiết, trọn đời nầy quyết định không sanh lên cõi trời hay cõi người, ắt hẳn cần sanh cõi Tây Phương Tịnh Độ. Niệm Phật như thế mới tùy thuận lời Phật dạy, không đến nổi luống uổng thời gian. Các con nên cố gắng lên!

2.10     Phân từng khu phố (khất thực)

Y cứ khi Phật còn tại thế chư Tăng ban ngày phân ban đi khất thực. Ở Đông độ chưa tuân theo qui định này. Nên tòng lâm hoặc có ruộng vườn làm của hoặc thâu nhận của tín thí cúng dường. Mỗi tiết đông, tiết hạ hoặc gặp năm mất mùa, Trụ Trì đốc suất chúng đi khất thực một lần. Lúc đi khất thực, tri khách, Duy Na, Giám viện đồng tới phòng Phương Trượng để qui định ngày họp chúng sáng hoặc chiều. Sau khi nghe hai hồi bảng, Phương Trượng sai thị giả đi mời chúng tới trai đường bàn việc đi hoá duyên (hoá trai). Tới ngày ấn định, nghe hiệu lệnh đại chúng đắp y vân tập Phật điện chờ ra khỏi chùa đi khất thực. Tri khách mời Phương Trượng niệm hương, Duy Na cử bài tán hương. Phương Trượng lễ Phật xong, Duyệt chúng nhịp khánh, đại chúng đồng niệm Phật 3 lần. Thủ chúng cầm tích trượng đi trước, chúng thứ tự mà đi. Thị giả bưng bát đi kế bên Phương Trượng, nhận đồ cúng đưa thị giả bỏ vô bát. Tri khách chia 2 bên phố đi khất thực, chư tăng hàng một đi chậm rãi, có oai nghi trật tự. Đứng cho ngay ngắn, đi phải cho đều không được so le, nếu muốn đi tiểu trước phải giải y gởi cho người đồng hành. Chọn chỗ kín tiểu giải xong, rửa tay sạch sẽ liền theo chúng đắp y nhập đoàn. Nếu gặp thí chủ mời uống trà hoặc dùng ngọ trai tới chỗ thọ thực, cần phải giữ oai nghi phép tắc, khiến người ta thấy đem tâm cung kính, phát lòng hoan hỷ. Cho đến khi trở về chùa phải đến chánh điện đứng theo thứ tự thường lệ. Duy Na nhịp khánh, đại chúng đồng tụng bài tán hương, Phương Trượng lạy Phật. Đại chúng cùng lạy Phật 3 lạy rồi ngồi vào bàn thọ trai. Tối hôm đó, đại chúng dùng cơm thừa trong ngày. Mấy việc vừa nêu trên cần phải biết. Mang vác gạo thóc về chùa, Giám viện giao qua tri khố, kiểm điểm số lượng nhập vào kho, trình báo cho Trụ Trì biết và yết bảng báo cáo với đại chúng. Việc này liên quan tới huệ mạng chư Tăng. Đi đường ban chức sự phải giám sát (xem xét) không để xảy việc đáng tiếc. Do lầm nhân quả ăn của thường trụ (Tam Bảo) liền phải trả ngay.

- Chứng nghĩa ghi rằng, phân bố theo Tây Vức tại mỗi chùa chư Tăng đông không thể nào một gia đình cúng nổi; đi khất thực tùy khả năng thí chủ cho nhiều ít mà phân tán ra, cho nên gọi là phân vệ, tức phân theo khu phố.

Nghĩa của khất thực xem chương mở đầu phần chứng nghĩa về thâu nhận đồ cúng có nói rõ. Vì Phật bậc Năng Nhân xuất thế dạy chúng Thích Tử không chứa vật thừa để đắm tâm tham, ngăn phòng đạo nghiệp. Chỉ giữ một bình bát tùy thân, 3 y mặc trên người, gặp mỗi lúc cần thực phẩm đi đến nhà chúng đệ tử tại gia khất thực. Không chọn giàu nghèo, sang hèn mà đi khất thực bình đẳng. Đây là cung cách đi khất thực của đức Phật vậy. Ngài Tiêu Sơn Tánh Hải nói rằng, giới của Tỳ Kheo lấy 4 việc xả bỏ, 4 pháp nương tựa làm gốc. Bốn việc xả bỏ là giới đương giữ, 4 pháp nương tựa là chỗ đang ở chùa viện, đó là 4 nơi nương tựa: 1) ngày thứ nhứt thường đi khất thực, ngày thứ nhì giặt giũ y phục, ngày thứ ba ngồi dưới gốc cây tại lan nhã (vắng lặng), ngày thứ tư có bịnh lấy thuốc thục trị liệu; không đi khất thực đều mắc vào tà mạng để sống. Kinh Quyết Hậu Niết Bàn ghi, 4 vị tăng trở lên cùng ở chung được nhận 8 món đồ bất tịnh thời bửa ăn tăng tịnh thực có thể miễn đi khất thực. Cùng ở chung già lam (chùa) chúng có thể khỏi ngồi dưới cây, thí chủ cúng thức ăn có thể miễn trét phân; cúng thuốc men thường miển lấy thuốc củ nát, thời 4 nơi nương tựa đều mở cho. Vân Thê Liên Trì đại sư nói rằng, hồi Phật tại thế phân bố đi khất thực là theo đúng gia phong vậy. Tòng Lâm Đông Độ không thể làm theo không phải dám phế bỏ mà cũng do hoàn cảnh khiến như vậy. Luận về thành thị ô hợp nam nữ tụ hội; chỗ núi non vắng vẽ là nơi tịnh tu của người xuất gia, phân tán đó là được, hợp đó là rối loạn. Hơn nữa ở trong chúng rồng rắn lẫn lộn dễ sanh sự làm mất thanh danh. Cho nên các bậc tôn túc xưa mỗi vị ở nơi hang lạnh dứt tiếp xúc; cày ruộng bừa đất, ngày ăn một bửa nuôi thân. Không có vọng tưởng khác tức bỏ thành thị ở Tòng lâm, cũng phải lo chuyện đi quyên giáo; không để đại chúng suốt ngày bươn chãi mà bỏ phế đạo nghiệp. Tuy không phải Phật dạy, cũng phù hợp tâm Phật là mỗi năm đi khất thực một lần cũng còn giữ được mẫu mực mà theo. Nếu là du tăng đi khất thực đúng ra không đi đơn độc một mình. Tôi, Nghi Nhuận nói rằng, trụ trì tòng lâm tôn trọng điều Phật dạy thường đi khất thực. Ở đây đưa ra một việc để nêu lên những việc khác. Vua Khang Hy nói Nam Nguyên Tín thiền sư ở chùa Tây Phương tại Duy Dương, lãnh chúng 30 năm, không lên yết kiến, chẳng chúc mừng không làm việc thế gian. Ngài chỉ lấy đạo làm chính, mùa đông, mùa hạ một tấm áo nạp; lạnh nóng chỉ một bình bát, khất thực bình đẳng; noi theo đó làm việc thường, sống thọ ngoài 70 tuổi, do chưa hề một ngày biếng lười. Trừ sách ngữ lục ra, còn có một quyển thi kệ hành cước. Nay chép ra mười bài cho người sau học hỏi. Luận về nghi thức của Phật trước đây có kệ rằng:

1- Phật xưa có dạy ôm bình bát

Ngày nay bắt chước chẳng hai cơ

Đạo vốn Không ai người thừa kế

Trăng dọi đáy hồ sóng hoa rơi

2- Cắt tóc, đắp y chẳng nệ hà

Sống đời khất sĩ hạnh cao xa

Bịnh suy tâm thoái nay tuổi già

Chín đĩnh dây tơ mỏi vọng vào…

3- Khất thực tự nhiên sống thanh bần

Đội trời, đạp đất không nhiễm trần

Bình bát hiện hoa chẳng phải sành

Trước mắt trông người thật tín thành.

4- Thẹn vì phước mỏng tài năng mọn

Một bát trọn đời thêm chẳng thuận

Bé mọn tùy duyên an giữ phận

Hiểu rõ kiếp không ấy trường xuân.

5- Đường dài bình bát chẳng ai thân

Động tĩnh hữu vô khắp xa gần

Giàu có tùy duyên nhờ rải phước

Công thành quả mãn được thi ân.

6- Trọn đời chớ bảo trì bát chăm

Hạt gạo làm tiêu kiếp đói thầm

Chợ búa lánh xa trần vắng lặng

An nhàn vui hưởng giữa thế nhân.

7- Khất thực trên đời đâu nhọc lao

Tiêu tán cống cao ngã mạn nhào

Sự tạp, lý thanh lọc trì bình

Gia phong nguyện lực hạnh thanh cao.

8- Chợ sớm nhao nhao lẳng tựa dầu

Vui trong khất thực để quên sầu

Xiển dương lời Phật không chi khác

Trừ sạch chướng ma dứt ác mau.

9- Khất thực trí cao rộng ươm mầm

Viện đình việc đáng phải kiên tâm

Chẳng y từ lực vung ba cõi

Ai tin tông Tổ đạo cao thâm.

10- Trí huệ chưa từng riêng lại qua

Một bát dứt nghi truyền pháp gia

Biết rõ não phiền đà dứt sạch

Nhập định không sai ấy chính ta.

Hỏi: đi khất thực không cần tham thiền ư?

- Đáp: đúng nhờ tham thiền để biểu hiện nghi khất thực đâu có gì trở ngại chứ? Xưa đức Thế Tôn một hôm dạy A Nan rằng: giờ khất thực sắp đến con nên vào thành trì bát. A Nan vâng dạ.

- Phật bảo: con đã trì bát, nên theo nghi thức của 7 vị Phật quá khứ.

- A Nan bèn hỏi: nghi thức của 7 vị Phật quá khứ như thế nào?

- Phật bảo A Nan: A Nan phải vâng lời.

- Thế Tôn nói:bưng bát đi đi!

Căn cứ theo đây, Phật lấy thiền cơ làm nghi thức khất thực thật rõ sáng tỏ.

Ngày nay người có ý chí đối với đạo, nên đi khất thực, thật quả đã tin lời dạy giữ thực hành, nghi thức giống thời Phật, tại sao trở ngại việc tham thiền?

2.11     Lượm được vật rơi

- Tăng chúng lượm được vật rơi liền thưa Giám Viện biết lấy để giữ trong kho. Niêm yết bảng 2 chữ vật rơi để tiện làm cho người mất đồ biết tới nhận lại. Nếu người lượm được đồ mà không cho vào kho bị phạt nặng đuổi khỏi viện.

Người mất đồ dán giấy, trên giấy (phiếu) viết: tôi tên là … vào giờ .. . ngày…tháng…năm… đánh mất món…

Nếu ai thấy lượm được đem lại xem kỹ rồi hoàn lại. Nếu mạo nhận (nhận gian) bị phạt nặng đuổi khỏi viện.

-Chứng nghĩa ghi rằng, nhặt vật rơi như tình cờ có một vật bỏ rơi đưa cho vào kho tạm giữ một thời gian không phải cất dấu lâu dài. Xưa nay tòng lâm sau 2 bên trai đường (nhà ăn) có bảng thường niêm yết 2 chữ vật rơi, chữ lớn. Đôi khi phải đổi dán 2 chữ khác cho đúng. Bởi vì Phật chế giới trộm cắp dù một cọng cỏ, một trái ớt không cho thời không được lấy. Nếu lượm vật rơi đem cất giấu, tức là của không cho mà lấy cũng phạm giới ăn trộm; vì trưởng dưỡng lòng tham trái lời Phật dạy.

Người quân tử đạo Nho còn không giữ vật phi nghĩa, huống gì ông tăng cất giữ vật rơi để trưởng dưỡng lòng tham ư? Vì thế, cho vật lượm được đem vô kho rồi niêm yết làm cho người biết tới nhận lại. Sách Vân Thê Sùng Hành Lục ghi rằng, đời Tùy có vị tăng giàu có tới tá túc ở chùa Tịnh Đức tại Ích Châu. Ban ngày ra ngồi bên đường đọc kinh, mọi người truyền đồn là người giải thoát. Lúc bấy giờ tại Lăng Châu có quan thích lại Triệu Trọng Thơ nghe tin nên tới thử, bèn cưỡi ngựa đi qua. Ông ta giả vờ đánh rơi xâu tiền, vị tăng ngồi đọc kinh tự nhiên chưa hề thấy gì. Đi một đoạn xa. Thơ sai người lại lấy tiền, tăng cũng vẫn không nhìn. Ngay lúc đó Thơ quay lại hỏi vị tăng rằng:

- Xâu tiền dưới đất, thấy có người lấy đi sao không nhận lại giùm?

- Không phải vật của bần đạo dối nhận làm gì?

Thơ xuống ngựa làm lễ, thán phục rồi đi …

2.12     Phụ: Qui tắc nơi tĩnh hành đường

Tĩnh Hành Đường cũng gọi là Niết Bàn đường. Ấn Độ gọi là vô thường đường. Người đời gọi là bệnh xá, qui tắc chung gồm 15 điều lập nên khu nhà nầy để cho người bịnh. Vì chúng sanh tham đắm tới chết vẫn không biết. Phật dạy dời đổi chỗ khiến cho ta biết vô thường, sắp đến, làm cho tâm niệm phấn khởi, tĩnh táo vượt qua mà lo gấp tu hành. Xử dụng nhà này nên nghĩ đến thân mạng vô thường nhanh như hơi thở. Người khỏe mạnh còn thế huống gì người bịnh ư?

Lại phải quán thân này bốn đại không điều hòa, trăm đốt muốn rã rời; ăn uống giảm dần, thuốc thang hết hiệu quả. Tiểu tiện ra trên giường, rên rỉ nằm liệt chiếu, như cá bơi trong chảo dầu bỗng chốc bị nóng bỏng. Như đèn trước gió, trong tích tắc tắt ngúm. Nên biết thân này không tồn tại lâu, hẳn phó thác cho tử thần. Đường trước mờ mờ chưa biết về đâu. Nếu việc gì chưa xong làm cho xong cố giữ tâm không cho vướng bận. Người nào chưa được như thế sớm cầu Tịnh Độ quyết định vãng sanh phải buông hết mọi duyên, nhất tâm niệm Phật có những điều riêng như sau đây:

1- Trong nhà một giường rộng (đôi) dành cho người bịnh nhẹ. Giường chiếc cho người bịnh nặng. Nếu dùng lộn xộn bị phạt

2- Người bịnh nên kéo màng lại để tránh gió, che mùi hôi hám. Nếu người không quen, bị rét khó trị, nên buông màng xem xét bịnh nhân

3- Người bịnh nặng vào nhà tịnh dưỡng, trước bàn Phật chuẩn bị hương đèn. Giám Viện, Thư Ký, Duy Na … theo sau đưa vào. Đọc lời trăn trối của bịnh nhân liền viết ra trên giấy, chẳng chịu viết tùy theo sự tăng giảm của người bịnh, bị phạt. Bịnh nhân nếu không muốn viết, và không chịu nằm giường; nếu bịnh nhẹ không cần phải viết giấy (di chúc). Chỉ tới trước Phật đốt hương đèn rồi Giám Viện đưa vào nằm.

4- Người trách nhiệm tĩnh hành đường (bệnh xá) phải khỏe mạnh, lấy lòng từ làm chính ghi sổ ngày … tháng … năm nào có ai vào nhập bịnh xá. Sau ghi ngày, tháng và năm xuất viện. Nếu quên ghi bị phạt.

5- Trong bệnh xá nên tùy thời rưới quét sạch sẽ. Quần áo bệnh nhân nên hợp thời giặt phơi. Thuốc thang cần lưu tâm châm chế không được lơ là biếng trể

6- Người bịnh trong phòng chỉ một hay hai, Thầy hương đăng lo chăm sóc. Như nhiều phải mời thêm người phát tâm săn sóc bịnh. Nếu 3 lần mời không được người nào, chiếu việc trong liêu luân phiên chăm sóc, ba ngày đổi một phiên; hoặc bịnh nhân muốn bỏ tiền thuê người giúp, nên chấp thuận.

7- Trong chúng có bác sĩ (thầy thuốc) nên đứng trong ban Điều Hành. Người chưa am tường mà nhận trị bịnh bị phạt. Làm hại người bị đuổi khỏi viện; tham lợi đều bị đuổi.

8- Người bịnh cần thuốc thang, ăn uống, Tri khố, Tri ẩm thực, Điển tòa lo thuốc men, thức ăn uống đem cho, không cấp cho bị phạt. Nếu cái đáng cho mà không cho, trước chúng biện minh, nếu ai tự ý bạc đãi bất công bị phạt.

9- Người bịnh nặng nhập bệnh xá cần phải phó thác việc tang nghi, buông bỏ hết mọi duyên, nhất tâm niệm Phật. Lại chăm sóc người bịnh nặng phải 2, 3 người luân phiên ngày đêm không rời. Hễ có việc ra ngoài cũng miển. Nếu sắp lâm chung liền báo nhà khách, tri khách cắt đặt ngay một số người tới niệm Phật cho tới lúc đi luôn. Theo Đại Tạng kinh Vô thường, lúc lâm chung nên có biện pháp lo liệu.

10- Tuân lời Phật dạy, vị tăng tịch nên thay quần áo sạch. Lúc nhập quan, khi trà tỳ (thiêu), nhập tháp đều đọc chú Tỳ Lư rải cát bên trong. Không được quên rải cát này. Nên mời thỉnh các bậc cao tăng trì chú nhiều nhiều càng thêm mầu nhiệm; ít nhất cũng niệm được 1080 biến chú này: Án a mộ già, phế lỗ giả na. Ma ha mẫu nại la mạ nê. Bát Đầu ma, nhập phược ra. Ba la dã đa dạ hồng. Căn cứ theo kinh văn đem cát tán sa đặc này, đặt lên thi thể người mất được lợi ích không thể nghĩ bàn

11- Người bịnh nhẹ nên ngồi yên niệm Phật. Nếu không tôn trọng ra ngoài đi dạo gây nhiều rắc rối cho ra khỏi phòng.

12- Người trách nhiệm bệnh xá và người chăm sóc bệnh nhân chớ hiềm ghét dơ dáy, đừng làm trái ý bệnh nhân càng làm gia tăng bịnh, chớ rời giường bịnh lâu khiến người bịnh cần không đáp ứng kịp. Nếu có tâm tham hoặc để ý muốn của cải nên cho, làm khó thời người bịnh phiền não, cũng đừng nổi sân. Chỉ nhiếp tâm tạo phước, đừng tham của người bịnh đáp tạ lễ. Nên biết rằng trong 8 loại phước điền chăm sóc bịnh nhân là số một, nên tích cực làm việc tận tình.

13- Phàm người bịnh nặng mỗi lần có mồ hôi xông lên nên dùng khẩu trang che miệng hay lá thuốc cứu xông, lá tùng bách đốt v.v… Dùng lửa nhỏ ngọn xông khói, không làm phương hại tới người khác.

14- Tăng du phương và tăng ở xa tới mà bị bịnh. Tri khách hỏi lai lịch rõ ràng mới nhận, liền viết tờ chi tiết, ghi sổ v.v…

15- Đám tang vị tăng bắt đầu từ bịnh nặng cho đến khi chết, cuối cùng đặt nơi Tổ đường. Xem chương Trụ Trì phần đăng vị ở trước. Lược bớt gia giảm châm chước mà dùng.

Ngày … tháng… năm….

Trụ trì … cẩn lục.

-Chứng nghĩa ghi rằng, xưa có cư sĩ Việt Nhiên Triệu Linh Căng chọn chùa Pháp Luân tại núi Nam Nhạc, Tĩnh Hành Đường ghi rằng: thường trong các thứ khổ, bịnh khổ là sâu nhất; trong các loại phước săn sóc bịnh là phước hơn cả. Vì thế cổ nhân lấy có bịnh làm thiện tri thức; nhắc người lấy săn sóc bịnh làm phước điền. Nay ở tòng lâm có người bịnh phải đưa tới Tĩnh Hành Đường; không những ở đó tu tĩnh cải nghiệp để bịnh lành mà cũng muốn người (bịnh) ban đêm yên tỉnh một mình có dịp suy gẫm đại sự, đâu có luống phí chứ? Đã theo lệnh đường chủ săn sóc thuốc thang, lại nhắc nhở thường trụ cung cấp đầy đủ nhu cầu cho người bịnh. Đây là qui tắc của đức Phật trước kia, đời nay không được như vậy, người bịnh không tự xét soi lỗi lầm càng làm gia tăng thêm phiền não. Đường chủ chỉ còn cái danh mà sự thật là hư giả, hay trái lại dấu sự hiềm hận; của Tam Bảo nên cung cấp hằng ngày còn hơn là phó mặc bỏ bê không an ủi. Bịnh nhẹ do vậy trở thành nặng, bịnh nặng đưa tới cái chết không đáng thương sao! Cho nên những vị chức sự chúng thường trụ phải biết săn sóc bịnh là phước điền mà từ bi tìm cách giúp đỡ, để trừ dứt bịnh khổ và trở lại hồi phục. Người bịnh phải biết rõ nhân quả, tĩnh táo nhận ra tội lỗi, có tâm hối hận ăn năn tức là cơ hội lành mạnh. Tâm đã trong sạch, bịnh cũng tự trừ. Như có bị nhức đầu nóng trán, kêu khổ thầm lặng suy tư thọ bịnh là ai? Đã không thấy người, bịnh từ đâu đến? Người - bịnh cả hai đều quên còn có vật nào khác giúp thấy rõ phân minh; nhìn đúng như thế là bịnh kia chấm dứt. Lại trong qui tắc, vị tăng mất đọc chú Tỳ Lô tán sa như kinh ghi rằng, đem chân ngôn này chú nguyện (gia trì) trong đất cát rải trên người chết và rải nơi tháp mộ người chết ấy, nếu ở ác thú hợp thời liền được ánh sáng và thân thể, trừ diệt được các tội báo làm cho thân khổ được sanh về nước Cực Lạc v.v…

2.13     Phụ: săn sóc người bịnh

Luật Tứ Phần, Phật dạy: từ đây tới lúc chết nên săn sóc bịnh nhân, phải cần chăm nom người bịnh. Nếu muốn cúng dường Ta, trước hết nên cúng dường người bịnh, cho chí đi trên đường gặp lúc chúng xuất gia, có người bịnh; Phật dạy 7 chúng đều đứng lại chăm sóc. Nếu bỏ đi không săn sóc người bịnh đều qui kết có tội. Đúng là tứ đại (thân: đất - nước – gió - lửa) khó điều hòa; túc nghiệp khó tiêu trừ. Người xả tục xuất gia, cô thân độc ảnh nghèo, bịnh nối nhau, không người hầu cận. Nếu không được chăm sóc bịnh nhân, mạng sắp an nghỉ (dứt). Lại Tăng Kỳ Luật ghi rằng, đi đường gặp chúng xuất gia có người bịnh liền phải kêu xe chuyên chở (tới bệnh viện) cúng dường đúng pháp. Nhẫn đến lúc chết cũng phải lo tẩn liệm, mai táng không được bỏ bê. Phàm người săn sóc bịnh luôn phải nói lời êm nhẹ, đừng dùng lời thô ác. Đến lúc lâm chung phần nhiều những ác nghiệp đều hiện ra không thể lập tức trừ dứt được. Cho nên người chăm sóc bịnh nhân nên biết dùng phương tiện đặc biệt khéo léo nói lời an ủi khuyên người ấy niệm Phật. Nếu không niệm lớn được thời chỉ thầm niệm và làm cho niệm niệm nối tiếp nhau một tích tắc không ngừng. Thừa phước lực này mà làm nhân vãng sanh Tịnh Độ. Luận Đại Trí Độ ghi rằng, từ lúc sanh ra làm thiện đến lúc lâm chung ác niệm khởi, bèn sanh nơi ác đạo. Từ lúc sanh tạo ác đến lúc lâm chung khởi niệm thiện mà được sanh lên cõi trời. Nên đưa kinh tượng tới chỗ người bịnh (như kinh Di Đà, tượng hoặc hình Phật A Di Đà, Quan Âm) ghi rõ tên kinh, tên tượng nói với người bịnh khiến mở mắt xem thấy để được tĩnh táo. Chăm sóc người bịnh như thế, công đức rất lớn vậy.

-Chứng nghĩa ghi rằng y cứ trong kinh tạng, Phật thuyết Sanh kinh, chương tật bịnh 26 ghi rằng, tại vườn ông Cấp Cô Độc có một vị Tỳ Kheo bị bịnh sống riêng một mình, không có thức ăn, thuốc thang, không đứng dậy nổi. Tiểu giải tiết ra, người bịnh nằm liệt trên giường nhìn quanh tứ phía không một ai đến giúp đỡ cả. Lúc bấy giờ Ngài A Nan trông thấy tới bạch Phật. Phật đích thân tới chỗ vị Tỳ Kheo bịnh và hỏi rằng:

- Nay con bịnh có cần xem xét thuốc thang, giường cụ gì không?

Vị Tỳ Kheo bịnh bạch Phật rằng:

- Con có một mình không người chăm sóc, không có đồ ăn uống, thuốc men; và nhà con cũng rất xa.

Phật hỏi: khi mạnh khỏe con gặp người bịnh có thăm hỏi an ủi không?

- Bạch Phật không.

Phật bảo: khi mạnh con không săn sóc người, không thăm nom an ủi người bịnh, ai phải chăm sóc con đây?

Thiện ác có đối, tội phước có báo. Ân sanh thành đền đáp lại, nghĩa tuyệt lơ là. Phật đỡ ngồi dậy muốn lấy nước tắm rửa Tỳ Kheo; lúc đó có Thiên Đế tắm thay Phật. Phật hỏi ông ở thiên thượng nơi thơm tốt sạch sẽ, có thể nhẫn giúp tắm rửa bẩn thỉu cho người bịnh không?

- Thiên Đế đáp: Phật là thầy cứu giúp hết thảy chúng sanh 10 phương công đức tràn đầy mà còn chăm sóc bịnh nhơn, huống chi tôi tội phước chưa dứt mà không tạo thêm phước sao?

Lúc đó Phật rửa tay, Thiên Đế xối nước tắm rửa sạch, bịnh nhơn nằm lại và uống thuốc thang tức thời lành bịnh. Phật vì đó nói kinh liền lúc đó vị Tỳ Kheo chứng quả (A La Hán). Đức Thế Tôn nói bài kệ rằng:

Nên chăm sóc bịnh nhân

An ủi và hỏi thăm

Thiện ác có báo ứng

Trồng cây kết trái khăm.

Lại nữa, sách Thiền Lâm Bảo Huấn ghi câu chuyện rằng, xưa có Cao Am ở với Vân Cư nghe đệ tử bịnh đưa tới Tĩnh Hành Đường than thở rằng, nếu ta ra đời sớm chiều có người hầu hạ, thậm chí co thân, đun nước, chưa từng chẳng cho ăn uống, hoặc gặp tiết trời hơi lạnh được vỗ về, an ủi hỏi han áo, có đủ ấm không? Hoặc gặp lúc trời nóng, quan sát gương mặt hỏi: có nóng quá không nhỉ? Không may chẳng được ai giúp, không hỏi người có hay không có chúng thường trụ tận tâm giúp đỡ hoặc người trách nhiệm hoặc người khác. Cao Am quát nói:

-Xưa Bách Trượng vì ông già bịnh mà lập chúng săn sóc, các ông không bịnh, không chết hay sao?

Ngài Vân Thê Liên Trì nói rằng, trong kinh gọi 8 loại phước điền, săn sóc bịnh là phước điền số một, đâu chẳng vì Người tu không nhà, cô thân hồ hải, phiêu lưu bịnh khổ thật đáng thương xót! Làm chủ tăng phường mà bịnh không ai lo cho ta, chết không ai chôn, đâu là đạo từ bi chứ? Chính vì thế Trụ trì nên cố gắng để khuyên người giúp đỡ người lâm bịnh.

2.14     Văn Cảnh tỉnh đại chúng

Đại sư Từ Giác, Trách Công thuật:

Kết tập Thanh Quy là nền tảng của đại chúng mà trong 8 môn đều từ đây phát sanh. Cho nên ở quyển cuối này đưa ra nghĩa tổng quát. Luận về hai cây quế rủ che bóng, một cây trổ hoa thơm ngát, từ hồi tòng lâm thiết lập, điều chính yếu là chúng tăng. Là vì khai thị chúng tăng nên có trưởng lão để làm biểu tượng cho chư tăng, có Thủ tọa gánh vác việc chư tăng, có Giám viện điều hòa chúng tăng; có Duy Na cúng dường chư tăng, có Điển tòa vì chúng làm việc. Có trị tuế vì chúng xuất nhập, có Tri khố vì chúng tăng ghi hết còn, có Thư ký vì chúng giữ gìn Thánh giáo; có Tạng chủ tiếp đón đàn na, có Tri khách vì chúng tăng mà thỉnh mời, có thị giả vì chư tăng mà duy trì y bát, có liêu chủ vì chúng mà phụ trách thuốc thang. Có đường chủ vì chúng mà hong phơi; có dục chủ, thủy đầu vì chúng ngăn che ấm lạnh. Có than đầu, lô đầu vì chúng mà xin đồ. Có Hóa chủ làm việc nhọc, có Trang chủ, tri viên, mài mực vì chúng tăng mà dọn dẹp. Có tịnh đầu vì chư tăng mà cấp hầu, có tịnh nhân để như trợ duyên hành đạo thập phần hoàn bị đồ dùng cho thân, trăm việc thành vạn sự không lo.

Nhất tâm hành đạo được rãnh nhàn là ngoại vật thế gian tôn quí. Thanh tịnh vô vi, chúng Tăng là trên hết, hồi niệm công sức của nhiều người, há không biết tri ân báo ân sao? Sớm tham, tối vấn không bỏ tấc bóng để mới báo đáp ân Thầy. Tôn ti có chừng mực, cử chỉ đàng hoàng để đền ân thủ tọa, ngoài tuân luật lệnh, trong giữ qui tắc để đền ân Giám Viện. Lục hòa cùng chung ở, như nước với sữa hòa hợp để trả ơn duy na. Vì muốn thành đạo nghiệp nên mới thọ thức ăn này để đền ân điển tọa. An ổn tăng phòng, cất giữ vật rơi để tri ân trị tuế. Vật của Tam Bảo một tơ hào không phạm tới để đáp ân tri khố. Tay không rời bỏ bút, ý chuyên đạo nghiệp là ân thư ký. Cửa sáng, bàn sạch, lời dạy soi tâm là ân tạng chủ; có tài dấu kín, mọi việc đắp bồi để báo ơn tri khách. Ở ắt có thường, gọi ắt đến trước là công ơn thị giả. Một bình một bát, xử chúng như sơn để báo ân liêu chủ. Thà tâm bịnh khổ, cơm thuốc tùy nghi để báo ân đường chủ. Nhẹ nhàng êm thấm, không mê lầm nhân để báo ân dục chủ, vận thủy. Ngậm miệng khoanh tay, nhún mình nhường người để báo ân hỏa đầu quân, lô đầu. Xét đức hạnh mình tự hổ nên cúng để đền ân hóa chủ. Kể công nhiều ít, đo lường của kia từ đâu đem đến để đáp ân trang chủ, tri viên. Gánh nước, tải củi để báo ân tịnh đầu. Tự yêu tiếc phúc, rộng mà dễ tùy, gọn mà dễ làm để báo ân tịnh nhân. Đó là việc bên lề tòng lâm, đạo nghiệp làm mới tồn tại trên cả cơ duyên một đời giữ làm chưa xong. Kẻ sĩ trung lưu nuôi dưỡng Thánh thai, chí như khi chưa ngộ bổn tâm cũng không bỏ bê, là chân tăng bảo, là ruộng phước thế gian. Trong thời kỳ mạt pháp, cập bến lành tức chứng quả nhị nghiêm[17]. Nếu như tòng lâm chẳng duy trì, thời xe pháp không quay, chẳng có trưởng lão để lãnh đạo chúng. Ba nghiệp không điều hòa, 4 oai nghi không nghiêm chỉnh không phải là tài đốc suất chúng của thủ tọa. Lượng bao dung không rộng, tâm yêu thương chúng không dày không xứng để giữ chúng của Giám Viện. Người tu hành bất an, đám bại hoại không mặc tẩn không phải cách điều khiển chúng của duy na. Sáu vị không ngon, ba đức không tinh khiết không phải cách phục vụ chúng của điển tọa. Liêu phòng (nhà) không sửa, đồ đạc không đầy đủ không phải cách làm chúng an ổn của trị tuế. Cất giữ của Tam Bảo, giảm bớt của chúng tăng không phải cách phục vụ chúng của Tri khố. Ván viết không cân, chữ viết dối tháu không phải là vai trò biên chép của Thư ký. Bàn ghế không ngay, làm ồn không ngớt không xứng phần vụ quản thủ của Tạng chủ. Ghét nghèo yêu giàu; trọng tục khinh Tăng không phải vai trò của Tri khách. Lễ phép chẳng kính, tôn ti không theo không xứng làm nhịp cầu giữa chúng của thị giả. Phạt đuổi chẳng nghiêm, giữ gìn chẳng cẩn không phải là cách cư xử của liêu chủ. Không cung cấp giúp đỡ, làm bịnh nhân phiền muộn không phải cách đối đãi của đường chủ. Nước nóng không đầy đủ, lạnh ấm không điều hòa không phải trách nhiệm của dục chủ, vận thủy. Chuẩn bị thiếu sót làm cho động chúng không phải việc làm của thán đầu, lô đầu (lo than củi, đèn dầu). Gặp của bất công, không tận lực hết lòng, không xứng vai trò hóa chủ đem cúng chúng. Đất có lợi, người vô công không phải người thay chúng của trang chủ, tri viên, ma đầu. Cạo đầu không đúng lúc, các duyên không đủ, không phải việc phục vụ chúng của tịnh đầu. Cấm mà không bỏ, ra lệnh không làm theo không phải thuận chúng của tịnh nhơn. Như ở trong tăng chúng mà khinh thầy chê pháp, giữ tánh tùy tiện, không phải để báo ân Thầy giáo thọ. Ngồi nằm sái phép, đi đứng vụt chạc không phải để báo ân Thủ tọa. Khi dễ vương pháp, không đoái hoài đến tòng lâm, không phải để báo ân Giám Viện. Trên dưới bất hòa, tranh cải quyết liệt không phải để báo ân duy na. Ham ăn đồ ngon, chê bai món dỡ không phải để báo ân điển tọa. Tha hồ thọ dụng không nghĩ tới người sau, không phải để báo ân trị tuế. Tham lam lợi dưỡng, không tiếc của Tam bảo không phải để báo ân tri khố. Hoa hòe bút mực, văn chương lã lướt, không phải để báo ân thư ký. Khi dễ kinh luật, xem đọc ngoại điển không phải để báo ân tạng chủ. Liên lạc kết giao với người đời, tiếp xúc người sang chẳng phải để báo ân tri khách. Quên lời mời thỉnh, trọng công truyền lịnh, không phải để đền ân thị giả. Làm hư hại đồ dùng, che dấu tỏ gian không phải để báo ân liêu chủ. Giận nhiều, vui ít không hợp người bịnh không phải để báo ân đường chủ. Gõ nhịp gây ra tiếng, dùng nước không biết tiết kiệm chẳng phải để đền ơn dục chủ, vận thủy. Tự tham lam vơ vét ngăn chặn mọi người không phải để đền đáp hỏa đầu quân, lô đầu. Không nghĩ tới tu hành mà an nhiên thọ của cúng không phải vì để báo ân Hóa chủ. Suốt ngày đầy đủ, không dụng tâm tu không phải để báo ân trang chủ, tri viên, ma đầu. Khạc nhổ lên tường, vung vãi xả rác lung tung chẳng phải để báo ân tịnh đầu. Thanh sắc bao biện, sai sử vô chừng chẳng phải chỗ báo ân tịnh nhơn.

Trở lên chỉ nêu một ít điểm cần yếu, chưa bao hàm hết qui tắc thiền môn, mong bỏ xấu theo tốt để cùng làm cho xong bổn phận người xuất gia, những mong ở hang sư tử trở thành sư tử. Trong rừng chiên đàn thuần toàn loại chiên đàn khiến 500 năm sau được gặp lại tại hội Linh Sơn. Muốn biết Phật pháp hưng suy, quan trọng do tăng đồ, Tăng là phước điền nên phải tôn trọng. Trọng tăng tức là trọng pháp, khinh Tăng là khinh pháp. Trong giữ nghiêm minh, ngoài gìn cẩn mật. Thiết đặt cơm cháo cúng dường, một sáng rỡ ràng, công việc tòng lâm hiển nhiên phải nhận làm nên kính trọng, đãi ngộ đồng đều. Không nên tự tôn tự đại, cũng như cống cao ngã mạn; đem việc riêng đền việc công. Vạn vật vô thường đâu thể bảo đảm được bền lâu! Một mai gặp lại chúng, mặt nào nhìn nhau. Nhân quả không sai sợ khó trốn tránh. Luận Tăng là Phật tử thọ cúng không gì hơn được trời, người thảy đều cung kính.

Đức Thế Tôn 2600 năm còn lưu bóng mát che chở đàn con cháu. Trong ánh hào quang là một phần công đức dùng mãi không cùng. Chỉ biết phục vụ chúng mà chẳng sợ lo nghèo. Tăng không phân phàm thánh mà chung hết thảy mười phương. Đã gọi của thường trụ hẳn nên phân đều, đâu có sanh tâm phân biệt, khinh thường thánh tăng lưu lại qua đêm; nếu ở lại 3 hôm có quyền nhận của cúng dường. Tại tăng đường cúng dường bửa ăn sẵn lòng cung cấp. Khách tục còn phải tiếp rước, huống tăng già há chẳng quan tâm? Nếu sẵn sàng với tâm rộng lượng mình tự được phước vô cùng. Chư tăng hòa hợp, trên dưới đồng lòng, thường biết khuyết toàn cùng nhau bao bọc. Việc trong nhà bẩn chớ để bên ngoài hay biết. Tuy nhiên đối với việc không phương hại, chắc ít ai đoái tới, ví như vi trùng trong thân sư tử mới ăn được thịt của sư tử mà thôi. Không phải thiên ma, ngoại đạo có thể phá hoại được giáo pháp; chỉ có đệ tử của Phật mới làm Phật pháp suy tàn. Nếu muốn đạo pháp mãi lưu truyền, Phật pháp tiếp tục lâu dài, làm phát huy Tông tổ mong lấy văn này làm chuẩn mực.

-Chứng nghĩa ghi, Thiền sư Minh Giáo Cao, Thiên Tôn Tăng nói rằng, giáo hẳn tôn kính tăng, vì sao vậy? Vì Tăng ấy lấy Phật làm tánh, lấy Như Lai làm nhà, lấy pháp làm thân, lấy huệ làm mạng, lấy thiền duyệt làm món ăn. Cho nên không theo họ tục, không kinh doanh như người đời; không tu hình thức, không tham sanh, không sợ tử. Không tiếc gì năm vị, người xuất gia phòng thân có giới, nhiếp tâm có định, biện giải có huệ, lời nói răn dè. Ba nghiệp thanh tịnh và cuối cùng thân không nhiễm, lời nói chắc chắn, suy nghĩ cẩn thận đúng, tinh thần sáng suốt, nên suốt ngày không rối loạn, lời nói tỏa huệ vậy. Trọng đức dứt mê lầm là điều hiển nhiên, lấy đây làm nhân tu hành, lấy đây làm quả đạt thành. Có từ có bi, có đại thệ, có đại huệ. Từ ấy là luôn muốn cho mọi vật được an ổn, bi ấy là luôn muốn làm khô cạn mọi sự khổ, thệ ấy là thề cùng với mọi người nhận rõ chân lý, huệ ấy là lấy chánh pháp soi sáng quần sanh. Thần mà thông đó, trời đất không thể yểm che, mật (kín) mà hành đó quỉ thần không thể lường được, đó là quảng diễn giáo pháp vậy. Luận bàn không trở ngại đó là hộ pháp vậy. Phấn đấu không đoái tới thân, hay nhẫn được những cái mà người ta không nhẫn được; hay làm được cái mà người ta không làm được, đó là chánh mạng. Ăn như vậy mà ăn, ăn mà không làm nhục, đó là thiểu dục vậy.

Áo nạp, bát niền mà không bị nghèo. Người vô tranh có thể nhẫn mà không nhẹ thể; người vô oán năng động mà không tổn hại. Lấy thật tướng đãi vật, lấy đức từ tu thân, cho nên ở trong thiên hạ được kính trọng. Người không nói dối nên được tin tưởng; đến như pháp vô ngã nên nhường là thật. Có oai đáng kính, có nghi đáng noi theo. Trời, người vẫn mong nhưng nghiễm nhiên có phước ở đời, hay dẫn dắt cõi tục. Người quên mình dù thác làm cầm thú mà không keo lận. Kẻ đọc tụng dù nóng lạnh nhưng không bỏ bê, lấy pháp xuất xử - làm việc. Đi vào khắp nẻo nhân gian, tới nơi làng xóm; thấy danh như tiếng dội lại, thấy lợi như bụi trần, thấy vật sắc như tia chớp lòe. Đất bằng hợp lối xe đi mà không là hèn mọn, vì đạo mà xử sự. Dù ở nơi núi sâu non thẳm, lấy cỏ làm sáo che thân, ăn cây rừng mà sống an nhiên tự tại không bị lợi danh thu hút, thế quyền khuất phục. Tạ ân vua, các quan hầu không đề cao là người độc lập. Lấy đạo tự thắng, dù hình ảnh đáng thương mà không cô độc, vì cùng ở chung. Lấy pháp làm quyến thuộc, gặp đủ người trong bốn biển mà không bị hổn loạn là do sở học. Ngoài 3 tạng, 12 bộ kinh, sách của bách gia chư tử khác đạo không thể không thông hiểu.

Tổ thuật lại pháp ấy hẳn có văn có chương vậy. Người hành trung đạo chẳng không chẳng hữu là học thấu đáo. Lìa niệm tức thanh tịnh hợp nhất chân như, là không chỗ phân biệt, Tăng quí nơi con người là tâm rộng rãi, là đức vẹn đầy vậy. Đó là Đạo lớn, đó là hiền không phải hiền như người đời nói. Đó là Thánh không phải Thánh như thế thường nghĩ. Hiền Thánh xuất thế nổi bật vậy. Tăng như thế há không đáng tôn sao? Ôi thôi, đạo pháp đã tới thời mạt vận, cách Thánh càng xa! Tuy là người xuất gia mưu cầu đạo lại đi tranh danh đoạt lợi cho mình. Thấy Phật pháp suy tàn bèn làm cho pháp môn sáng tỏ, dạy giềng mối đem lại niềm tin cho nhiều người. Thật là lợi lạc cho đàn hậu học để khắc ghi đạo mầu từ đó. Người từng đem tâm KHÔNG cầu pháp, quyết chí theo thầy mà gần nhất là việc hiển danh lập thân, xa là cách phàm chứng thánh, tái lập lại thời tượng pháp, ai bỏ tục làm Tăng?

Cho nên cần phải tu thân, ít nói, giữ gìn sau như trước. Chuyên lo việc học, cẩn trọng lo hành pháp, tránh ác làm lành. Vâng lời Thầy hết lòng, có giỏi cũng không tự khoe khoang. Việc ác khởi lên phải nhanh chóng trừ dứt, giữ nhân nghĩa đã hành đúng chưa? Nếu nhổ tận gốc nghèo thời vui mà quên lo lắng; thấy liền nghĩ như nhau, đương nhân chẳng nhượng. Danh lợi không làm động được chí nguyện; sanh tử không đủ quấy rối người có tâm ưu tư. Trí có đủ để phá tan mê lầm, lòng từ có thừa để nhiếp hóa người. Lúc khốn phải giữ mình thanh tịnh, khi đạt nên khiêm nhường thiên hạ, làm cho chân phong đang bệ rạc có cơ tái chấn hưng. Đuốc tuệ lu mờ làm cho tiếp tục sáng tỏ, đó gọi là đại trượng phu vậy. Xứng đáng gọi là sứ giả Như Lai thân đâu không an nơi Tăng bảo; diệt gian dối phức tạp mới là yêu mến bậc hiền. Trước ái mộ kẻ thượng hiền, sau thời chìm lặn vào hạng hạ ngu. Bọn người như đây thật đáng thương xót! Đọc lời cảnh sách này tâm nên suy nghĩ: Phật pháp hưng suy do tăng hành xử. Cho nên trọng tăng là trọng pháp, khinh tăng là khinh pháp đó. Muốn ra khỏi thế gian báo ân Phật, xin hãy cố gắng. Muốn ra khỏi thế gian báo ân Phật, xin hãy cố gắng…

 

2.15     Phú (phó) pháp

Phú pháp nguyên gọi là phó y từ Tổ Tổ nối truyền, lấy pháp y làm biểu tín, truyền tới Đông Độ đời Lục Tổ, do sanh ra tranh chấp nên chấm dứt từ đó mà không giao phó y nữa. Gần đây phú pháp cũng gọi là phó y, đặc biệt giữ cái danh vậy. Pháp tức là tâm, tâm không thể thấy, đâu có qui tắc mà thấy được. Đúng là nhờ thầy khai đạo đem tâm truyền tâm thời việc phó pháp hoàn bị, cho chí dạy chọn phân tòa trong thời mạt pháp, nhưng không ghi ra ở đây. Chỉ lược thuật nguyên tắc thiền tông cho người sau biết pháp có căn cứ nguồn gốc; đồng thời cũng để cổ võ học nhân. Dựa theo thiền tông nguyên lưu khởi nguyên từ đức Thế Tôn giơ cành hoa giữa chúng tại hội Linh Sơn, Ma ha Ca Diếp ngộ được mỉm cười. Đức Phật bảo:  Nay ta có chánh pháp nhãn tạng

Niết Bàn diệu tâm

Thật tướng vô tướng

Không lập văn tự

Chỉ thẳng tâm người

Thấy tánh thành Phật

Pháp môn vi diệu

Phó chúc cho ngươi

Ngươi khéo hộ trì

Đừng để gián đoạn.

Và Phật truyền kệ rằng:

Pháp vốn pháp không pháp

Không pháp pháp cũng pháp

Nay lúc trao không pháp

Pháp pháp nào từng pháp

Bèn làm sơ Tổ (Ca Diếp) Thiền Tông. Tổ Tổ kế thừa theo thứ tự như sau:

Tổ thứ nhất là Ma ha Ca Diếp truyền xuống A Nan tổ thứ hai, A Nan truyền Tổ Thương Na Hòa Tu; Thương Na Hòa Tu truyền Ưu Bà Cúc Đa, Ưu Bà Cúc Đa truyền Đề Đa Ca, Đề Đa Ca truyền Di Giá Ca, Di Giá Ca truyền Bà Tu Mật, Bà Tu Mật truyền Phật Đà Nan Đề, Phật Đà Nan Đề truyền Phục Đà Mật Đa, Phục Đà Mật Đa truyền Hiếp Tôn Giả, Hiếp Tôn Giả truyền Phú Na Dạ Xoa, Phú Na Dạ Xoa truyền Mã Minh. Mã Minh truyền Ca Tỳ Ma La, Ca Tỳ Ma La truyền Long Thọ, Long Thọ truyền Ca Na Đề Bà, Ca Na Đề Bà truyền La Hầu La Đa, La Hầu La Đa truyền Tăng Già Nan Đề, Tăng Già Nan Đề truyền Già Da Xá Đa, Già Da Xá Đa truyền Cưu Ma La Đa, Cưu Ma La Đa truyền Xà Dạ Đa, Xà Dạ Đa truyền Bà Tu Bàn Đầu, Bà Tu Bàn Đầu truyền Ma Nỗ La. Ma Nỗ La truyền Hạc Lặc Na, Hạc Lặc Na truyền Sư Tử. Sư Tử truyền Bà Xá Tư Đa, Bà Xá Tư Đa truyền Bất Như Mật Đa. Bất như Mật Đa truyền Bát Nhã Đa La, Bát Nhã Đa La truyền Bồ Đề Đạt Ma, Tổ thứ 28 khởi đầu truyền sang Đông Độ là Tổ Thứ Nhất. Bồ Đề Đạt Ma truyền tổ Huệ Khả, Huệ Khả truyền Tăng Xán, Tăng Xán truyền Đạo Tín, Đạo Tín Đại Y Thiền Sư truyền Hoằng Nhẫn Đại Mãn thiền sư. Hoằng Nhẫn Đại Mãn Thiền sư truyền Huệ Năng Đại Giám Thiền Sư. Huệ Năng Đại Giám thiền sư truyền xuống hai nhánh: một nhánh tại Hồ Quảng cho Nam Nhạc tức là Hoài Nhượng Đại Huệ thiền sư, nhánh thứ hai tại Thanh Châu cho Thanh Nguyên là Hành Tư thiền sư.

- Chứng nghĩa ghi rằng phó pháp nguyên lưu xuất phát từ kinh Phó Pháp tạng, Kinh Đạt Ma Đa La Thiền v.v…Về sau kế thừa các chi phái từ các sách Thiền. Nam Nhạc y theo Lâm Tế, Thanh Nguyên dựa theo Động Sơn, đó là các sách lưu hành của Thiền tông. Hai phái Thiền này rất thạnh hành. Theo Ngũ Gia Tông phái một quyển tập hợp tất cả các hệ phái, rồi phải tái kết hợp biên tập tiếp tục không để lu mờ việc truyền phú pháp. Tuy lấy tâm truyền tâm nhưng không thể không có kệ phó pháp, nếu không có kệ hẳn làm cho chi phái rối loạn. Truyền lưu không theo tiêu chuẩn làm cho pháp môn mất trình tự, cũng làm đảo lộn thứ lớp. Sách Ngũ Gia tông phái trong đó mỗi phái được hoàn bị pháp mạch ngược dòng tìm nguồn, nên mỗi phái thông suốt đủ tinh tường các danh lục như đã luận giải. Dựa sách Kim Sơn chùa Giang Thiên tại Nhuận Châu quyển 9 ghi ngữ lục chí học thông sách Tố Lưu Tầm Nguyên Đồ Thuyết kệ rằng: Tổ hành giới định thông Mới chứng được viên thông Pháp sáng vượt thực tế Đạt ngộ lý chân không. Đây là môn hạ của Bích Phong Sơn Thiền sư, Tổ Định thiền sư vào ở chùa Tuyết Phong, là Tổ chữ khởi đầu 47 dưới Bích Phong, thành lập một phái riêng, kế thừa đến 20 chữ, hoàn toàn không phải từ chính tông Lâm Tế xuất phát. Cho đến Huyền Hữu truyền Tổ ấn kiệt xuất Thiên Đồng Ngộ Khánh Sơn sửa đổi hai nhánh mới dùng chữ “Viên” kéo dài cho tới nay; trước mắt chữ “Không” sắp hoàn tất. Lòng người bất nhất, hoặc theo phái Tổ Long Sơn hay lập riêng một phái, hoặc nguyên bài kệ từ chữ “Tổ” bắt đầu trở lại. Hoặc chữ “Không” truyền thừa kế tiếp; nhưng mà chung cục không phải chỉ bấy nhiêu. Thiền là tông lớn trong các tông luôn hưng long dòng pháp. Nên nghĩ tới cội gốc, nguồn mạch cốt để tìm sự thật. Có chánh tông chánh phái thời nguồn mạch lưu chuyển lâu dài, không đến đổi pháp Tổ nạ dòng (đục ngầu trào lên) được quy về chánh phái. Đây là cuốn sách Ngũ Gia Tông phái đáng tham khảo phát hành rất lâu tại phòng Kinh sách Tây Hồ chứ không phải ký ức của tôi nhớ ra đâu, đó gọi là Tố Lưu Tầm Nguyên vậy (ngược dòng tìm nguồn mạch). Xin trích lục Lâm Tế Chánh Tông đời 24 Thiền sư Hải Chu Vĩnh Từ biệt xuất kệ pháp phái Lâm tế như:

Phổ Vĩnh trí quảng hoằng thắng đức

Tịnh huệ viên minh chánh pháp hưng

Tánh hải trừng thanh hiển mật ấn

Đại thừa diệu đạo ngộ tâm đăng

Phật ân hạo mãn lưu phương viễn

Tổ hạnh siêu tông tục từ thâm

Giới định di kiên thông nghĩa lý

Quy thành cẩn thủ trấn thường tân

Phấn thiện xương vinh nhân đạt bổn

Vi tường long thạnh phục truyền đăng

Công duệ tịch chiếu dung chân tế

Bảo cảnh cao huyền thể dụng thân

Nhiêu ích linh văn thơ cảnh tú

Tín trì nguyên ký tế thời trân

Liễu nhiên vô kế không chư huyễn

Giác thọ khai phu quả tự hinh.

Nghĩa là:

Trí sâu đức rộng lưu khắp cùng

Tuệ viên tròn sáng Phật pháp truyền

Tánh hải lặng trang hiển mật ấn

Đại Thừa đạo nhiệm ngộ tâm đăng

Phật ân chan chứa thơm hương mãi

Hạnh Tổ vượt tông nối dõi ân

Giới định kiên cường thông nghĩa lý

Viên thành cẩn trọng gìn như mới

Vun thiện bồi vinh tới quả nhân

An tường hưng thạnh lại thêm tăng

Công lao nhuần nhuyễn sáng cõi chân

Gương báu treo cao thể dụng phần

Lợi lạc linh văn gôm nét đẹp

Giữ gìn nguyên vẹn giúp muôn dân

Hiển nhiên không kế không pháp huyễn

Bồ đề quả lộ hiện tự thân.

Bài tụng này gồm 120 chữ từ Tổ Hải Châu Từ kế chữ Vĩnh cùng bực với phái Bích Phong ở chữ Định đồng hàng. Từ chữ Định đến chữ Không trong bài tụng này đồng bực chữ Thanh. Sau chữ Phấn đối sự liễu ngộ pháp chân chữ Không là dứt, tức từ nơi bài tụng này hiển lộ mật ấn, hiển tự khởi. Đó là phái Lâm Tế chánh tông không nên bám víu liên tục và lập riêng các phái. Nếu từ chư Tổ lưu xuất các phái, đã có lập kệ riêng của phái phải biết mình thuộc chữ gì trong bài kệ, ứng hợp với phái chánh đây đồng bực chữ gì, thời ngược dòng tìm nguồn không đến đổi uổng phí công lao. Đến sách phú pháp, phải từ đức Thế Tôn truyền cho Ca Diếp khởi đi, Đông Độ từ Sơ Tổ khởi đi mãi cho tới thời cận đại có sách các tiểu phái ra đời. Bỏ Tổ là tội rất lớn, lại thêm vong bổn (mất gốc) nữa. Do người, kế thừa nên Tổ đạo mỗi ngày càng suy vi. Kế đây lược bàn về nguồn mạch: tông môn lấy nhứt niệm không sanh làm chánh kiến. Gạt văn tự là bị chướng ngại, giá người sau khi ngộ bổng la lên lâm cơ cũng trọng chỗ thấy mà khinh gốc gác. Gặp sự ngụy tạo cũng không xét kỹ vẫn lưu truyền, gian ngụy do đây xuất phát, song ngụy tạo lẫn lộn với sai lầm. Học rộng là biết rõ nguồn gốc thiền tông, lầm lẫn đối với trong tiểu chú giải lời Phật Tổ, đăng tải Kheo huyền tố bi ký, riêng có Thiên Vương Ngộ xuất hiện, sau Mã Tổ có Viên môn, Pháp nhãn cũng qui về dưới Mã Tổ. Kế tục sau sách Ngũ Đăng Hội Nguyên là Chỉ Nguyệt lục đều là tiểu chú giải, thêm sau đó vẫn còn hồ nghi. Vào đời Nguyên đến giữa Nguyên Vân Hác Thụy có tập Tâm Đăng lục dẫn thẻ ghi các bi ký làm đảo lộn tôn thống làm uổng phí công tuyển chọn của Ngũ Đăng, ra sách Tể Lôn Vĩnh tập Ngũ Đăng toàn thư đều thuộc loại ngụy tạo này. Lại trước khi Nam Nhạc còn sống sau có Thanh Nguyên, trước có Đại Huệ Cảo, kế có Hổ Kheo Long, huynh đệ làm đảo ngược lại qua Viễn Môn trụ tập ngũ đăng tục lược. Phái Thanh Nguyên lầm đưa vào Lộc Môn Giác đời thứ 5 thuộc môn hạ Trường Ông Như Tịnh. Tổ tôn đảo lộn vị trí, đời thứ lầm lẫn. Kế đăng tiếp tục các sách đều là sách sai lầm như thế cả. Phái Nam Nhạc lẫn lộn cả Hải Châu làm một, sai lầm lục vô văn là một ý mạch nguồn thế đại. Tổ đạo đổi giòng đâu thể không loạn. Khương Hy giáp thành may có Hành Dương Lạc Hà là Trí Giai Thiền sư chấp bút đính chánh cho ấn hành một cuốn danh lục, mới nêu rõ những lầm lỗi sách cũ của Tổ phụ, để giúp người sau thu thập được điều mới y cứ theo lịch triều năm Giáp Tý biên niên, nghiên cứu các châu quận hẻo lánh thay người sau trước. Bậc Thầy truyền thọ, lai lịch tông phái, thuật cổ luận kim, việc nhiều lời ít, không quá rườm rà. Công việc nhằm sửa đúng cái sai thật đáng nói ở chỗ dụng tâm. Luận bàn chỗ đúng, ngòi bút sắc cạnh thật vô tư đối với sách Tể Lôn Vĩnh tập Ngũ Đăng toàn thư. Như hai bên sát phạt lẫn nhau. Ngoài ra, Như Mộc Trần Mẫn có Thiền Đăng Thế Phổ, Đàm Kiết Nhẫn với Ngũ Tông Cứu, Sơn Hiểu Triết với Sùng Chánh Lục và Bảo Tích lục, Tế Thủy Quảng có Hiển Chánh Thuyết, Mai Cốc Duyệt với Lâm Tế Chánh Tông lục, Thạch Nguyên Vân với Tịch Vọng Thuyết, Điền Tỳ Tế với Đông Minh Tổ Đăng Lục, Cự Linh Dung với Tục Tăng Bảo truyện, Đoạn Khởi Trứ có Nam Nhạc Cách Tổ, Tương Lưỡng Aám với Tôn Thống Biên Niên, Lạc Độc Tiên với Tục Chỉ Nguyệt lục, Trứ Am Vấn với Tục Đăng Tồn Cảo, Mật Vân Ngộ với Tịch Vọng Bạt và Mộng Thuyết lục v.v… Hễ có liên hệ với Hải Châu Từ, Bảo Phong Nguyên, Vô Văn Thông v.v… đều lầm lẫn. Không những không phân tích phản đối từ cuốn 1 đến cuốn 4 luận khảo năm tông 2 phái về khởi nguyên. Khảo chánh là Thanh Nguyên Tư khi còn sanh tiền và sau Nam Nhạc, trước là huynh sau đệ vậy. Lại luận Thiên Hoàng Ngộ chỉ một người cùng huynh đệ Dược Sơn Nghiễm đồng xuất thân từ Thạch Đầu Hy Thiên. Ngộ truyền cho Long Đàm Tín, Long Đàm Tín truyền xuống Đức Sơn Giám, Đức Sơn Giám truyền xuống Tuyết Phong Tồn. Tuyết Phong Tồn truyền cho hai người là Nguyên Sa Bị và Vân Môn Yển. Sở dĩ nói tông Vân Môn vì Thanh Nguyên đời thứ bảy, Nguyên Sa Bị truyền cho La Hán Sâm, Sâm truyền cho Thanh Lương Ích. Vì thế gọi Tông Pháp Nhãn từ Thanh Nguyên đời thứ chín vậy. Dược Sơn Nghiễm truyền cho Vân Nham Thạnh. Vân Nham Thạnh truyền cho Động Sơn Giới. Do vậy có tông Động Sơn Thanh Nguyên đời thứ năm. Nam Nhạc Nhượng truyền cho Mã Tổ Đạo Nhất, Đạo Nhất truyền cho Bách Trượng Hoài Hải. Bách Trượng Hoài Hải truyền cho hai người là Hoàng Bá Hy Vận và Quy Sơn Linh Hựu. Hoàng Bá Hy Vận truyền cho Lâm Tế Nguyên nên gọi là tông Lâm Tế Nam Nhạc đời thứ năm. Linh Hựu truyền cho Ngưỡng Sơn Huệ Tịnh nên gọi là tông Quy Ngưỡng cùng phái Nam Nhạc đời thứ năm. Năm tông này kế truyền chánh truyền có nguồn gốc. Quyển 5 đến quyển 7 luận khảo về các đời tông Tào Động khá đầy đủ. Ngài Động Sơn truyền cho Phù Dung Khải, Phù Dung Khải truyền cho Lộc Môn Giác, Lộc Môn Giác truyền cho Thanh Châu Biện, Thanh Châu Biện truyền cho Từ Châu Bảo. Dưới Châu Bảo có một phái kế truyền tới nay. Ngoài ra, Phù Dung Khải truyền cho Đơn Hà Hưởng, Hưởng truyền cho Sùng Tiên Liễu. Sùng Tiên Liễu truyền cho Thiên Đồng Giác, Giác truyền Tuyết Độc Túc Am Trí Giám, Giám truyền cho Thiên Đồng Trường Ông Như Tịnh v.v… Hai phái này từ đời Tống đến cuối Minh hơn 500 năm không có thuyết khác, tiếp tục sai lầm đưa tới Lộc Môn Học đời thứ 5. Lầm lỗi y cứ dưới Ngài Như Tịnh. Đây đều biện chánh. Quyển 8 đến quyển 14 luận về các thế hệ tông Lâm Tế khá đầy đủ để tham khảo, như Hưng Hóa đối với tông Lâm Tế, Tuyết Nghiễm đối với Vô Chuẩn, Minh Thông đối với Thiên Kỳ đều xa thế hệ. Bàn về Hải Châu Phổ Từ là thế hệ Vạn Phong Thời Uûy cùng Bảo Tạng Trì là huynh đệ. Hải Châu Vĩnh Từ là thế hệ Đông Minh Thời, liên hệ tới Hải Châu Phổ Từ ở trước là cháu pháp điệt. Dựa vào chánh tông nguyên lưu, nối tiếp thế hệ Vạn Phong, Hải Châu Phổ Từ trước truyền cho Bảo Phong Minh Tuyên, Bảo Phong Minh Tuyên truyền cho Thiên Kỳ Bổn Đoan, nay còn lưu truyền. Từ Bảo Tạng Trì, Đông Minh Thời trở lại kệ truyền pháp có 2 chữ Dực Thiện mà về sau Hải Châu Vĩnh Từ không còn nghi gì nữa. Chùa Dực Thiện, nơi về sau Hải Châu Vĩnh Từ đã ở đó, nguồn mạch khởi từ Bảo Tạng Trì là dưới Vạn Phong xuất phát ra một phái. Song Quang Trạch, Vô Văn, Minh Thông đi xa thế hệ Thiên Kỳ, thời Bảo Tạng Trì, Đông Minh Thời sau Hải Châu Vĩnh Từ 3 đời là sai lầm phát xuất từ đó. Lại luận cùng danh Vô Văn Thanh có 67 người đời sau không rõ, cùng tên khác người. Nhận lầm Tổ người khác là Tổ của mình, tự do sử dụng điển tịch (sách sử) ngụy tạo lấy ngoa truyền ngoa. Tóm lại một lời nói rằng, truyện Phù Nghiễm của Vô Văn, Minh Thông họ Phù, người quận Mân (Phúc Kiến), phủ Võ huyện Quang Trạch. Dựa theo sách Chánh Tông lục đăng tải, Vô Văn quận Võ, sanh ngày 5 tháng 12 năm Giáp Tuất niên hiệu Chánh Đức năm thứ 9 đời Minh vào giờ Tý, xuất gia năm 17 tuổi vào năm Gia Tĩnh thứ 9 tức năm Canh Dần. 20 tuổi thọ giới Tỳ Kheo năm Quí Tỵ. Năm Bính Ngọ, 33 tuổi đi tham học. Lại Ngũ Đăng đăng tải Vô Văn sanh đời Tùy, con Châu Quan ở chùa núi Long Tuyền vào năm Tân Hợi niên hiệu Gia Tĩnh thứ 30. Tham khảo Ngũ Đăng toàn thư đăng tải, Thiên Kỳ viên tịch năm Mậu Ngọ niên hiệu Hoằng Trị thứ 11 đến năm Tân Hợi niên hiệu Gia Tĩnh có cả 54 năm đâu có gần Quận Võ, Vô Văn, Minh Thông chứ? Cho nên biết rằng Minh Thông thuộc thế hệ xa. Biết đây là thế hệ xa lấy mọi ngụy trá sai lầm truyền tải. Cố nhiên hẳn biết như vậy không nên tranh luận. Nên biết rằng đây không phải là Vô Văn, chắc hẳn không thể thêm 2 chữ Tuyệt Học được. Lại nữa tên húy là Minh Thông không phải Chánh Thông; không thể lẫn lộn được. Minh Thông truyền cho Phù Nghiễm - Nguyệt Tâm - Đức Bảo, Đức Bảo truyền cho Huyễn Hữu. Huyễn Hữu truyền xuống 4 người: Thiên Đồng Mật Vân Ngộ, Vân Môn Tuyết Kiêu Tín, Khánh Sơn Thiên Aån Tu, Bảo Phác Liên, song pháp mạch rất thạnh. Thiên Đồng Khánh Sơn đúng danh lục là Huyễn Hữu, không phải truyện Phù Nghiễm. Thuyết này tuy có xuất xứ, nhưng bị người bài bác rất nhiều. Dù không quan hệ kệ truyền pháp làm y cứ, nhưng đối với Phù Nghiễm có cơ duyên khế ngộ. Phù Nghiễm có phó chúc thu gọn không nên bài xích chê trách.

Hỏi: chánh danh trước Thanh sau Nam, cớ gì trong đây vẫn đảo lộn thứ tự?

- Ðáp: Chánh sanh trùng truyền đăng đời sau, trước anh sau là em theo lễ vậy. Nay trước Nam Nhạc sau Thanh Nguyên, đời sau trùng pháp Thanh Quy làm thầy thiên hạ. Thiền – Giáo - Luật đều trùng sách tôn Tổ trước của họ. Lại hỏi Bảo Tạng, Ðông Minh, sau có Hải Châu, tuy phái nhỏ biệt xuất nhưng không loại bỏ. Trước Hải Châu Phổ Từ, tuy chánh tông sai thiếu nhưng không bổ khuyết, tại sao?

- Đáp: lưu truyền đã lâu và rộng khắp, đối với lịch đại Tổ theo thần vị thứ tự đời; và đời sau, phú pháp đại diện một số đời đã biến đổi bên trong. Ở chỗ chính danh ngay lúc ấy còn khó cải đổi huống gì nay đã hơn 100 năm lại càng khó sửa hơn nữa.

Lịch Tổ tuy không tâm phân biệt ở chánh danh chẳng thể không luận bàn, vì quyển sách đưa ra lý nên sửa cho đúng. Nay nguyên bản không dám sửa, chỉ lược bàn điểm sai lầm lẫn lộn như trên đã nói.

2.16     Phái Nam Nhạc

Hoài Nhượng truyền cho Phổ Chiếu Đại Tịch tại Giang Tây. Mã Tổ Đạo Nhất truyền một đời cho Bách Trượng tại Hồng Châu. (Đại Trí Hoài Hải), Hoài Hải truyền cho Hoàng Bá tại Hồng Châu tức là Chánh Giác Đoạn Tế Hy Vận. Hy Vận truyền cho Lâm Tế Nghĩa Huyền (Lâm Tế Chân Thường) là thế hệ thứ nhất tông Lâm Tế. Lâm Tế truyền cho Quảng Tế Tồn Tương (Hưng Hóa Tồn Tương) ở Ngụy Phủ. Quảng Tế Tồn Tương truyền cho Huệ Ngung (Nam Viện tại Nhữ Châu), Huệ Ngung truyền cho Diên Thiều (Phong Huyệt tại Nhữ Châu), Diên Thiều truyền cho Tĩnh Niệm (Thủ Sơn tại Nhữ Châu). Tĩnh Niệm truyền cho Vô Đức Thiện Chiêu (Thái tử ở Phần Châu). Thiện Chiêu truyền cho Từ Minh Sở Viên - Thạch Sương tại Đạm Châu. Sở Viên truyền cho Phương Hội - Dương Kỳ tại Viên Châu. Phương Hội truyền cho Thủ Đoan (Bạch Vân tại Thơ Châu, Thủ Đoan truyền cho Pháp Diễn - Ngũ Tổ Đông Sơn thuộc Kỳ Châu. Pháp Diễn truyền cho Viên Ngộ - Phật Quả - Khắc Cần - Chiêu Giác ở Thành Đô. Khắc Cần truyền cho Thiệu Long - Giang Kheo tại Bình Hỗ, Thiệu Long truyền cho Ứng Am - Đàm Hoa - Thiên Đồng tại Minh Châu. Đàm Hoa truyền Mật Am Hàm Kiệt - Thiên Đồng tại Minh Châu, Hàm Kiệt truyền cho Tổ Tiên Mật Ấn - Ngọa Long phá am tại Khánh Châu. Mật Ấn truyền cho Vô Chuẩn Sư Phạm - Phật Giám - Kính Sơn tại Hàng Châu, Phật Giám truyền cho Tổ Khâm Huệ Lãng - Ngưỡng Sơn Tuyết Nghiễm tại Viên Châu. Huệ Lãng truyền cho Cao Phong Nguyên Diệu ở Thiên Mục tại Hàng Châu. Nguyên Diệu truyền cho Trung Phong Minh Bổn ở Thiên Mục tại Hàng Châu. Minh Bổn truyền cho Thiên Nham Nguyên Trường - Ô Thương Phục Long, Nguyên Trường truyền cho Cao Phong Thời Ủy - Đặng Úy tại Tô Châu. Thời Uûy truyền cho Bảo Tạng Phổ Trì - Đặng Úy tại Tô Châu, Phổ Trì truyền cho Hư Bạch Huệ Thời - Đông Minh tại Hàng Châu, Vĩnh Từ truyền cho Bảo Phong Minh Tuyên tại Nam Kinh, Minh Tuyên truyền cho Thiên Kỳ Bổn Đoan, Bổn Đoan truyền cho Vô Văn Minh Thông. Minh Thông truyền cho Nguyệt Tâm Đức Bảo ở Tiếu Nham tại Bắc Kinh, Đức Bảo truyền cho Huyễn Hữu Chánh Truyền ở Long Trì tại Nghi Hưng. Chánh truyền truyền cho Mật Vân Viên Ngộ ở Thiên Đồng tại Minh Châu, và Thiên Aån Viên Tu ở Khánh Sơn tại Nghi Hưng. Từ Đại Giám trở đi tới đây là 34 đời.

Từ Viên Ngộ Khắc Cần biệt xuất một chi là Đại Huệ Tông Cảo Phổ Giác tức Kính Sơn tại Hàng Châu, Phổ Giác truyền cho Lại Am Đảnh Nhu ở Tây Thiền tại Phước Châu. Đảnh Nhu truyền cho Mộc Am An Vĩnh ở Cổ Sơn tại Phước Châu, An Vĩnh truyền cho Mai Oâng Ngộ Minh ở Tịnh tại Hàng Châu. Ngộ Minh truyền cho Nhược Khẩu Lãng Ích tại Thái Nguyên, Lãng Ích truyền cho Phiệt Độ Phổ Từ tại Phần Châu, Phổ Từ truyền cho Nhất Ngôn Đạo Hiển ở Tướng Quốc tại Lạc Kinh, Đạo Hiển truyền cho Tiểu Am Hành Mật tại Tây Kinh, Hành Mật truyền thừa 2 người Ngưỡng Viên Khâm, Khâm truyền cho Vô Niệm Trí Hữu tại Thọ Châu, Trí Hữu truyền cho Hình Sơn Hoài Bão, Hoài Bão truyền cho Thiết Ngưu Đức Viễn tại Tần Lãnh, Đức Viễn truyền cho Nguyệt Minh Liên Trì ở Châu Dương tại Thục Hồ, Liên Trì truyền cho Xuy Vạn Quảng Chân ở Tụ Vân tại Trung Châu. Quảng Chân truyền cho Thiết Bích Huệ Cơ ở Trị Bình, Khánh Trung tại Trung Châu, Huệ Cơ truyền cho Sơn Đăng Lai ở Cao Phong tại Trung Châu. Khởi từ Đại Giám là 31 đời.

Từ Vô Chuẩn Sư Phạm biệt xuất một chi là Đoạn Kiều Diệu Luân ở Tịnh Từ (chùa) tại Hàng Châu, Diệu Luân truyền cho Phương Sơn Bảo Kiên ở Đoan Nghiêm tại Đài Châu, Bảo Kiên truyền cho Vô Kiến Tiên Đỗ ở Hoa Đảnh thuộc Đài Châu, Tiên Đỗ truyền cho Bạch Vân Trí Độ ở Phước Lâm tại Xử Châu. Trí Độ truyền cho Cổ Quật Tuấn ở Thiên Giới tại Kim Lăng, Tuấn truyền cho Vô Tế Minh Ngộ tại Đông Phổ, Minh Ngộ truyền cho Nguyệt Khê Trừng, Nguyệt Khê Trừng truyền cho Di Phong Dung. Di Phong Dung truyền cho Bảo Phương Tấn ở Thiên Mục tại Hàng Châu, Bảo Phương Tấn truyền cho Giả Ông Hiểu ở Đông Tháp tại Gia Hưng. Hiểu truyền cho Vô Thú Như Không tại Gia Hưng, Không truyền cho Vô Huyễn Cổ Trạm Tánh Trũng ở Xa Khê tại Tô Châu. Trũng truyền cho Nam Minh Huệ Quảng ở Hưng Thiện tại Gia Hưng. Quảng truyền cho Phổ Minh Diệu Dụng ỡ Mã Hồ tại Gia Hưng, Dụng truyền cho Vân Phong Điều. Khởi đi từ Đại Giám tới đây là 35 đời.

Trở lên là phái Nam Nhạc.

2.17     Chi Thanh Nguyên

Hành Tư truyền thừa cho Thạch Đầu Hy Thiên tại Hoành Sơn, Hy Thiên truyền cho Dược Sơn Duy Nghiễm tại Lễ Châu, Duy Nghiễm truyền cho Vân Nham Đàm Thạch tại Đàm Châu. Thạch truyền cho Động Sơn Lương Giới, là đời thứ nhất tông Động Sơn. Giới truyền cho Vân Cư Đạo Ứng tại Hồng Châu, Ứng truyền cho Đồng An Phủ ở Phượng Thê Sơn tại Hồng Châu, Phủ truyền cho Đồng An Chí tại Hồng Châu, Chí truyền cho Lương Sơn Duyên Quán tại Đảnh Châu. Quán truyền cho Thái Dương Cảnh Huyền tại Trịnh Châu, Huyền truyền cho Nghĩa Thanh ở Đầu Tử Sơn tại Thơ Chẩn, Thanh truyền cho Phù Dung Đạo Giai ở Tích Châu tại Sơn Đông, Giai truyền cho Huệ Định Tự Giác Chùa Vạn Thọ Lộc Môn Sơn tại Nhượng Châu. Giác truyền cho Đại Giác Phổ Chiếu Hy Biện ở Thiên Ninh tại Thanh Châu, Biện truyền cho Đại Minh Bảo tại Từ Châu, Bảo truyền cho Vương Sơn Thể tại Thái Nguyên. Thể truyền cho Tuyết Nham Mãn ở Đại Minh tại Từ Châu, Mãn truyền cho Vạn Tùng Tú ở Báo Ân tại Yến Kinh. Tú truyền cho Tuyết Đình Phước Dụ ở Vạn Thọ tại Thiếu Lâm, Dụ truyền cho Linh Ẩn Văn Thái tại Cao Sơn. Thái truyền cho Hoàn Nguyên Phước Ngộ tại Bảo Ứng, Ngộ truyền cho Hưởn Quật Văn Tài ở Hương Nghiêm, Tài truyền cho Tùng Đình Tử Nghiêm ở Vạn An tại Nam Dương. Nghiêm truyền cho Ngưng Nhiên Liễu Cải ở Cao Sơn. Liễu Cải truyền cho Câu Không Khế Bân tại Cao Sơn. Khế Bân truyền cho Vô Phương Khả Tùng ở Định Quốc tại Tây Kinh, Khả Tùng truyền cho Hư Bạch Nguyệt Đơn Văn Tải tại Cao Sơn. Đơn Cải truyền cho Tông Cảnh Đại Chương Tôn Thư ở Tiểu Sơn tại Bắc Kinh. Tôn Thư truyền cho Đại Thiên Huyễn Hữu Thường Nhuận tại Cao Sơn và Bẩm Sơn Thường Trung.

Từ Đại Giám trở đi là 34 đời. Trở lên là phái Thanh Nguyên.

- Chứng nghĩa ghi rằng, y cứ các sách Ngũ Đăng Hội Nguyên, Tục Đăng Tồn Kiều, Chánh Nguyên Lược Tập v.v… Hai tông Lâm Tế và Tào Động biệt xuất nhiều chi phái không thể lục đủ hết được. Ở đây chỉ ghi một phái chính để làm sáng tỏ nguồn gốc. Sau Nam Nhạc ngoài phái chính ra lại có thêm Đại Huệ Cảo và Đoạn Kiều Luân là hai chi nữa, lấy người của chi phái đưa lên làm chỗ trọng yếu. Lại dưới Đại Giám 4 đời kiệt xuất phái Qui Sơn Linh Hựu, Linh Hựu truyền cho Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, đó là tông Qui Ngưỡng. Lại nữa sau Đại Giám 7 đời xuất hiện phái Vân Môn Yến, đó là tông Vân Môn. Ngoài ra, dưới Đại Giám 9 đời có Pháp Nhãn Văn Ích, đó là tông Pháp Nhãn. Như vậy, 3 tông này đều đã không có kế thừa cho nên không đưa ra gốc gác.

2.18     Phụ: Thiên Thai giáo quán tông

Thiên Thai một tông chuyên xiển dương Kinh Pháp Hoa. Theo Ngài Trí Giả, sách Quán Tâm luận ghi rằng, đảnh lễ Thầy Long Thọ. Nghiệm đó để biết rằng Trí Giả xa bái Long Thọ làm sơ Tổ; gần thời bẩm bái Huệ Văn - Bắc Tề, làm tổ thứ hai; Huệ Văn truyền xuống Nam Nhạc Huệ Tư, là tổ thứ ba. Huệ Tư truyền cho Trí Nghiễm Đức An (Trí Giả), Trí Giả là tổ thứ tư.

Lấy nhất niệm hoằng truyền 3 nghìn cõi, trong viên mãn thực hành giáo quán, dù trải qua ở quan quyền, nhà giàu sang v.v… những lợi lộc, nhưng quy về gốc Thiên Thai ở Quốc Thanh, nên gọi là Tông Thiên Thai.

Trí Giả truyền xuống Chương An Quán Đảnh Phi Phàm là tổ thứ năm, Phi Phàm truyền cho Pháp Hoa Trí Uy là tổ thứ sáu, Trí Uy truyền cho Thiên Cung Huệ Oai là tổ thứ bảy, Huệ Oai truyền cho Tả Khê Huyền Lãng Huệ Minh là tổ thứ tám. Huyền Lãng truyền xuống Kinh Khê Trạm Nhiên là tổ thứ chín, Trạm Nhiên truyền xuống Quốc Thanh Đạo Toại Hưng Đạo là tổ thứ mười, Hưng Đạo truyền cho Quốc Thanh Quảng Tu Chí Hành là tổ mười một. Chí Hành truyền cho Vật Ngoại Chánh Định là tổ mười hai. Chánh Định truyền cho Nguyên Tú Diệu Thuyết là tổ mười ba, Diệu Thuyết truyền cho Thanh Tủng Cao Luận là tổ mười bốn. Cao Luận truyền cho Loa Khê Nghĩa Tịch Thường Chiếu là tổ mười lăm, Thường Chiếu truyền cho Minh Châu Bảo Vân - Nghĩa Thông Tánh Viễn là tổ mười sáu. Tánh Viễn truyền cho Tứ Minh Tri lễ Ước Ngôn Pháp Trí là Tổ mười bảy. Pháp Trí truyền cho Nam Bình Phạm Trăn là Tổ mười tám. Phạm Trăn truyền cho Tùng Giản Từ Biện là Tổ mười chín. Từ Biện truyền cho Xa Khê Trạch Khanh là Tổ 20, Trạch Khanh truyền cho Trúc Am Nghi Ông Khả Quán là Tổ 21. Khả Quán truyền cho Bắc Phong Nguyên Thật Tông Aán là Tổ 22, Tông Aán truyền cho Phật Quang Pháp Chiếu là Tổ 23. Pháp Chiếu truyền cho Tử Đình Sư Huấn là Tổ 24, Huấn truyền cho Đông Minh Huệ Nhựt là Tổ 25. Huệ Nhựt truyền cho Phổ Trí Vô Ngại là Tổ 26, Vô Ngại truyền cho Nam Thiên Trúc Lâm Huệ là tổ 27. Lâm Huệ truyền cho Đông Thiền Nguyệt Đình Đức là Tổ 28, Đức truyền cho Tôn giả Diệu Phong Chân Giác Bách Tùng là Tổ 29. Đó là thời trung hưng của Giáo Quán Tông.

Kệ truyền pháp của Thiên Thai Giáo Quán như sau:

Chân truyền chánh thọ

Linh nhạc tâm tông

Nhứt thừa đốn quán

 Ấn định cổ kim

Niệm khởi tịch nhiên

Tu tánh lãng chiếu

Như thị trí đức

Thể bổn huyền diệu

Nhân duyên sanh pháp

Lý sự tức không

Đẳng danh vi hữu

Trung đạo viên dung

Thanh tịnh phổ biến

Cảm thông ứng thường

Quả huệ đại dụng

Thật tướng vĩnh phương.

Dịch nghĩa:

Chân truyền chánh pháp

Linh nhạc ấn tâm

Nhứt thừa giáo quán

Xưa nay hướng chân

Khởi niệm lắng trong

Tự tánh sáng soi

Trí đức làu thông

Thể tánh thậm thâm

Nhân duyên sanh pháp

Sự lý đều không

Sẵn danh là hữu (có)

Trung đạo viên dung

Thanh tịnh vô cùng

Mọi nơi cảm thông

Trí huệ diệu dụng

Thật tướng hằng luôn…

Lại lập kệ tiêu biểu thực hành như:

Phật pháp rộng truyền

Tổ đạo sâu hoằng

Thành lập tôn chỉ

Năng sở tịnh nhiên

Công hành thật hiển

Thông tỏ hẳn yên

Vạn pháp biến hiện

Hai, ba tinh chuyên

Ngộ nhập pháp môn

Giáo hóa đồng hành

Ta, người lợi lành

Rốt ráo sáng thanh

Khai thông nguồn mạch

Chỉnh đốn cương lãnh

Đời đời giữ thường

Luôn làm thuyền nương…

Từ đây trở xuống các phái khá phức tạp, nay chỉ lục ghi một chi của Linh Phong. Ngài Bách Tùng truyền Thiên Thai cho U Khê Vô Tận Truyền Ðăng là tổ thứ 30, Đăng truyền xuống Hiểu Phong Linh Phong Ngẫu Ích Trí Cưu Tố Hoa là Tổ 31. Phái Linh Phong giáo quán biệt xuất kệ như sau:

Trí sáng chân như hiện

Bản tánh khởi thật tu

Gốc chính phân ngăn dứt

Nguồn chân biển giác lưu

Giữ tín bồi nhân tốt

Nguyện rộng đạo càng sâu

Luật lệ bàn qui tắc

Đạo pháp vững ngàn thu…

Trí Cưu truyền Thương Huy Tịnh Thạnh, Tịnh Thạnh truyền cho Cảnh Tu Chân Minh, Chân Minh truyền cho Lý Nguyên Như Hồng. Như Hồng truyền cho Tố Liên Hành Châu, Hành Châu truyền cho Huệ Giác Toàn Thành. Toàn Thành truyền cho Hoằng Hải Tánh Phô. Từ Long Thọ trở đi đây là đời Tổ 37.

Đây lược tựa Thai giáo Chánh Tông Nguyên Ủy, những phái khác khá phức tạp không tiện đăng tải rõ từng phái một được.

- Chứng nghĩa ghi rằng, Thai Tông Nguyên Lưu một cuốn và Chỉ Nguyên Tập, các Tổ đều có tiểu truyện. Chỉ có Tổ thứ 28 trong sách Nguyên Lưu là Thiền truyện Minh Ông, trong sách Chỉ nguyên là Nguyệt Đình Đức Công. Căn cứ theo Đông Thiền Minh Ông mất vào năm Vạn Lịch nguyên niên. Bách Tùng sanh năm Đinh Dậu đời Gia Tĩnh, năm 22 tuổi tới chùa Đông Thiền nghe kinh Pháp Hoa. Tuy cùng một thời nhưng Đông Thiền là chủ giảng còn Nguyệt Đình là pháp sư (người giảng pháp) không phải là Minh Ông. Nên sách Chỉ Nguyên tập cho rằng Bách Tùng xuất phát từ cửa của Nguyệt Đình Đức Công. Chỉ có sách Nguyên Lưu nêu trực tiếp Minh Ông là đời thứ 29; cần phải quyết nghi đã. Khảo cứu lại chùa Lâu Trạch ở Gia Hưng có xuất bản một cuốn sách Thế phổ Thiên Thai tông đi thẳng cho Diệu Phong Bách Tùng là Tổ thứ 18. Ở trên trực tiếp Tứ Minh lấy nối hưng thạnh Tông Thiên Thai làm giao tiếp vậy. Nhiều đời nhìn chung rất xa cháu con không được ghi chép, cho chí mạch nguồn không theo khảo sát kỹ. Việc này không riêng Thai Tông như vậy. Ngày nay pháp mạch Đài Tông đều truyền bá thạnh hành các nơi. Có những cuốn như Chỉ Nguyên tập, Thế Hệ Nguyên lưu… cần nên tham khảo, vì để tiếp nối dòng pháp. Nên phải tùy lúc, tùy nơi lưu tâm ghi lại để duy trì về lâu về dài. Thậm chí kệ truyền pháp của Bách Tùng xử dụng để định danh; tiêu biểu hạnh dùng để lập hiệu. Vì thế pháp mạch chân truyền tức tiêu biểu hạnh của giáo pháp. Pháp tiêu biểu cả hai không trước và cũng không sau vậy.

2.19     Phụ: Hiền Thủ giáo quán tông

Tông Hiền Thủ chuyên xiển dương kinh Hoa Nghiêm. Từ Bồ Tát Văn Thù kết tập cho tới Long Thọ đích thân tới Long Cung đọc nốt bộ Kinh Hoa Nghiêm. Tại Đông Độ Tông Hiền Thủ có 5 nhà kế thừa làm Tổ; theo kế thừa thời ứng hợp như Đài Tông, Long Thọ là Tổ thứ nhất, Đỗ Thuận Đế Tâm tạo Hoa Nghiêm pháp giới quán là Tổ thứ hai. Đổ Thuận truyền cho Vân Hoa Trí Nghiễm Chí Tướng chế tác Hoa Nghiêm sưu huyền nghĩa sao là Tổ thứ ba. Tướng truyền Pháp Tạng Hiền Thủ Quốc Nhất chế dịch Hoa Nghiêm Thám Huyền Ký đời Tấn, Nhất thừa giáo nghĩa phân tề chương v.v… trước thuật có hơn trăm quyển, để hoằng truyền giáo quán gọi Tông Hiền Thủ là Tổ thứ tư. Pháp Tạng truyền cho Trừng Quán Đại Thức Thanh Lương Quốc Sư Tông Đường dịch kinh Hoa Nghiêm biện chế sớ sao là Tổ thứ năm. Thanh Lương truyền cho Khuê Phong Tông Mật sáng tác Hoa Nghiêm hạnh nguyện phẩm sao là Tổ thứ sáu. Tông Mật truyền cho Huyền Khuê Chân Áo Triệt Vi là Tổ thứ bảy, Triệt Vi truyền cho Hải Aán Nguyệt Lãng Bỉnh Nhiên là tổ thứ tám. Bỉnh Nhiên truyền cho Thủ Đăng Đức Hiện là Tổ thứ chín. Trường Thủy Tử Tuyền Dao kế thừa là Tổ thứ 10, Tịnh Nguyên Tịch Hải Tiềm Duệ là tổ 11. Hy Xung Thần Giám Thừa Chiếu là tổ 12, Diệu Quán Đạo Minh Trạm Nhân là Tổ 13. Sư Hội Qui Nguyên Ngọc Phong là Tổ 14. Liễu Tâm Thâm Đạo Huệ Châu là Tổ 15. Đạo Ngộ Bổn Giác Quán Huệ là Tổ 16, Thanh Giới Nhứt Như Khiết Am là Tổ 17. Huệ Quỳnh Lương Bích Trân Lâm là tổ 18, Diệu Túy Siêu Luân Chân Thúy là Tổ 19. Tế Ngộ Xuân Cốc Lực Thân là Tổ 20, Đại Đồng Nhất Vân là Tổ 21 (Phổ Tế biệt phong). Minh Sơn Hiền Tiên Cổ Phong là Tổ 22, Thê Nham Huệ Tấn Hành Thành Chỉ Ông là Tổ 23. Quảng Thông Đạt Am là Tổ 24, Tô Am Phổ Thái Giả Am là Tổ 25. Chân Viên Đại Phương Biến Dung là Tổ 26, Vân Thê Liên Trì Thù Hoằng Phật Huệ là Tổ 27. Thổ Kiều Thiều Giác Quảng Thừa Minh Lý là Tổ 28, Liên Cư Tân Y Đại Chân là Tổ 29, Bảo Luân Đức Thủy Minh Nguyên là Tổ 30.

Đây là phần sơ lược truyền thừa của Hiền Thủ Chánh tông, các phái khác khá phức tạp không thể đăng tải rõ từng chi được.

2.20     Phụ: Nam Sơn Luật Tông

Nam Sơn Luật tông chuyên xiển dương luật học (tỳ ni). Tỳ ni Tàu dịch là diệt, tức hay diệt ác của thân và miệng; cũng còn gọi là luật pháp. Luật do Phật chế nhưng kết tập thành, không phải một người làm nên được. Lần đầu tiên Ngài Đại Ca Diếp cùng với 500 Thánh chúng kết tập trong hang Tất Bát La và Ưu Bà Ly tuyên lại luật tạng gọi là Thượng Tọa bộ. Kế đó có Bà Thi Ca và 1000 người phàm lẫn Thánh kết tập ngoài hang đá gọi là Đại chúng bộ. Hai kỳ kết tập này gọi chung là Ma Ha Tăng Kỳ Luật. Từ Ngài Ca Diếp, A Nan, Mạt Điền Địa, Thương Na Hòa Tu, Ưu Ba Cúc Đa là 5 đời thể thức chung không có phân phái. Sau Ưu Ba Cúc Đa có 5 đệ tử, mỗi người có một lối nhìn bèn phân Luật tạng thành 5 bộ phái như:

1) Đàm Vô Đức tức là luật Tứ Phần

2) Tát Bà Đa bộ là Thập Tụng luật

3) Ca Diếp Di bộ là Giải Thoát luật

4) Di Sa Tắc bộ là Ngũ Phần luật

5) Bà Tha Phú La Bộ.

Luật bổn tương lai tại Trung Hoa như Ngài Diệu Lạc cho rằng, phân thành một tạng Luật để làm 5 bộ như gậy vàng không mất chất vàng. Y cứ theo 10 đại đệ tử của Phật, Ngài Ưu Ba Ly trì luật đệ nhất. Ngày nay bên Đông Độ ta có một tông trì luật thích hợp chọn Ưu Bà Ly tôn giả là Sơ Tổ. Lần lượt truyền thừa đến Đàm Ma Ca La (Trung Hoa dịch là Pháp Thời là vị Sa Môn Tây Trúc Ấn Độ), vào đời Ngụy Gia Bình năm thứ hai, Ngài đến Đông Độ phiên dịch luật Tứ Phần, là sơ Tổ truyền luật tại Đông Độ. Bắc Đài Pháp Thông, người thời Hiếu Nguyên Bắc Ngụy, nhân học luật Tăng Kỳ kỹ lưỡng, đứng đầu truyền luật Tứ Phần là Tổ thứ hai, Pháp Thông truyền cho Vân Trung Đạo Phú là Tổ thứ ba. Đạo Phú truyền cho Đại Giác Huệ Quang là Tổ thứ tư, Huệ Quang truyền cho Cao Tề Đạo Vân Huy Nguyện là Tổ thứ năm. Huy Nguyện truyền cho Hà Bắc Đạo Hồng là Tổ thứ sáu, Đạo Hồng truyền cho Hoằng Phước Trí Thủ là Tổ thứ bảy. Trí Thủ truyền cho Chung Nam Sơn chùa Tây Minh: Đạo Tuyên Thật Tướng Trừng Chiếu là tổ thứ tám. Luật tông truyền tới đây rất thịnh hành. Cho nên người đương thời thường gọi là tông Nam Sơn.

Về sau kế tục truyền thừa truyền giữ làm Tổ vị. Trừng Chiếu truyền cho Sùng Thánh Văn Cương là tổ thứ 9, Văn Cương truyền cho Sùng Phước Mân Ý là Tổ thứ 10. Mân Ý truyền cho Đại Lượng Đạo Tĩnh là Tổ 11, Đạo Tĩnh truyền cho Đàm Nhất là Tổ 12 (Thiệu Hưng Khai Nguyên). Đàm Nhất truyền cho Biện Tú là Tổ 13, Biện Tú truyền cho Chương Tín Đạo Trừng là Tổ 14. Đạo Trừng truyền cho Trừng Sở là tổ 15, Trừng Sở truyền cho Doãn Kham Chân Ngộ là Tổ 16. Chân Ngộ truyền cho Nguyên Chiếu Trạm Nhiên là tổ 17, Trạm Nhiên truyền cho Thật Tướng Viên Minh Quang Giáo là Tổ 18. Quang Giáo truyền cho Đạo Phu Như Huyễn là Tổ 19, Như Huyễn truyền cho Như Hinh Cổ Tâm Huệ Vân là Tổ 20.

Tới thời này Luật học trung hưng, hẳn nhiên việc truyền bá sáng tỏ hoàn bị mà trong nhân gian tương truyền là Ưu Ba Ly hóa hiện. Huệ Vân truyền cho Tịch Quang Tam Muội (Chùa Long Xương ở Bảo Hoa Sơn, Kim Lăng) là Tổ 21. Tới đây Luật tông thạnh hành có biệt xuất kệ như:

Như tịch độc đức chân thường thật

Phước tánh viên minh định huệ xương

Hải ấn phát quang dung giới nguyệt

Ưu đàm hiện thụy tục thiên hương

Chi kỳ vạn phái luật nguyên viễn

Quả kết thiên hoa tông bổn trường

Pháp thiệu Nam Sơn hoằng chánh mạch

Đăng truyền tâm địa vĩnh liên phương.

Dịch nghĩa:

Chân như độc đức đúng chân thường

Phước tánh định huệ đạt viên thành

Hải ấn chiếu soi trăng giới sáng

Vô ưu hoa hiện tỏa ngát hương

Rõ ràng môn phái luật truyền xướng

Kết quả đơm hoa đạo pháp trường

Nam Sơn cật lực lưu nguồn mạch

Tâm đăng mãi mãi rạng ngàn phương.

Tam Muội truyền cho Độc Thể Kiến Nguyệt là Tổ 22, Kiến Nguyệt truyền Đức Cơ Định Am là Tổ 23. Định Am truyền Chân Nghĩa Tùng Ân là Tổ 24, Tùng Ân truyền Thường Tùng Mẫn Duyên là Tổ 25. Mẫn Duyên truyền cho Thật Vinh Trân Huy là Tồ 26, Trân Huy truyền Phước Tụ Văn Hải là Tổ 27, Văn Hải truyền Tánh Ngôn Lý Quân là tổ 28. Tới đây lược, vì các môn phái Luật quá nhiều không thể nêu rõ ràng từng phái hết được.

Chứng nghĩa ghi rằng, người xuất gia là sự bắt đầu ở trong đại chúng; phó pháp là việc chung cục giữa chúng lý. Người không cạo tóc không có lý do gì mà vào hàng ngũ tăng được. Đã làm Tăng bèn lấy hai buổi công phu sáng tối làm công khóa (thời khóa chung). Tấc bóng qua nhanh nhưng không biết việc sanh tử đại sự; chí cầu hướng thượng chỉ một bề để mong được truyền tâm, thọ ký ư? Ở đây đặc biệt nêu việc phó pháp mà các đời chư Tổ Thiền tông truyền thừa cho nhau. Như trên đã chỉ rõ mô hình nêu mạch nguồn mà môn nhân (hạ) đạt đến. Nhưng nếu Giáo giúp minh tâm, Luật làm nền cho định huệ cũng là phụ thuộc; chỗ thích hợp vẫn là luật tôn giáo toàn vẹn, việc tu tập của đại chúng được hoàn bị mới đáng đề cập hơn cả.


 


[1] Ngũ đức: năm đức người xuất gia theo như Kinh Phước Điền giải rằng: 1. Đức phát tâm xuất gia, chí cầu đạo cả; 2. Hủy bỏ hình tướng đẹp, phải mặc y phục nhà tu; 3. Cắt lìa mọi yêu thương của cha mẹ, anh em, chị em. Nói chung là tất cả những mối thâm tình cốt nhục không còn bị vướng bận, 4. Sẵn sàng hy sinh thân mạng để phụng sự đạo pháp; 5. Có chí hướng cầu Đại thừa để giúp đỡ nhiều người mà trong đó gần nhất là người thân thuộc.

[2] Hai sự nhiếp hóa: thâu tóm để giáo hóa. Hai pháp đó là: định và trí, nhờ đó Bồ-tát nhiếp được các căn; nhẫn được việc khó nhẫn.

[3] Giới kiền độ: thuộc chương phẩm, thiên. Như luật Tứ Phần có 20 kiền độ tức là 20 chương.

[4] ) Phái Ni kiền tử: là một giáo phái tu hành cực đoan lâu đời có từ thời đức Phật, gọi là đạo Jain. Giáo chủ phái này là Nataputta. Đạo Jain chủ trương tu khổ hạnh, xem việc hành hạ xác thân là phương tiện cứu cánh để được giải thoát. Đạo này ngày nay vẫn còn tại Ấn Độ. Thậm chí có những tu sĩ đạo Jain trần truồng, không mặc quần áo. Cũng có một số khác nhịn ăn cho tới chết.

[5] Tứ thánh quả: 4 quả Thánh thuộc hàng Thanh Văn là 1. Tu Đà Hoàn, 2. Tư Đà Hàm, 3. A Na Hàm, 4. A La Hán (tương đương quả vị Bồ Tát).

[6] Ngũ giới Ưu bà tắc hay 5 giới của người cư sĩ tại gia. Tại gia có nam cư sĩ là Ưu bà tắc và nữ là Ưu bà di. 5 giới đó là: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.

[7] Tứ sự cúng dường: bốn món vật dụng cần dùng cúng dường chư Tăng là: đồ ăn uống, quần áo, thuốc men, vật trải tọa thiền (luôn cả mùng mền) để chư tăng có đủ phương tiện tu tập thực hành đạo giải thoát.

[8] Bố tát: Lễ tụng giới của chư Tăng ni vào ngày mồng một và ngày rằm mỗi tháng để ôn nhắc lại giới luật đã thọ. Tỳ kheo Bồ Tát mà không tụng giới Bố tát được xem như lơ là không hành trì theo luật qui định.

[9] Thập sư: Hội đồng giới sư trong đại giới đàn truyền giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Sa di ni, Bồ tát giới. 10 vị sư là: 1. Đàn đầu hòa thượng 2. Yết ma A Xà lê 3. Giáo thọ  A Xà lê và 7 vị tôn chứng sư, từ vị thứ nhất đến vị thứ 7. Ba vị ngồi trên là tam sư, 7 thầy ngồi 2 bên hay phía dưới là thất vị tôn chứng sư.

[10] Bốn pháp xử xự: đây là bốn cách đối ứng sao cho thích hợp của Thầy Tỳ kheo. bốn phép đó là: 1. bị mắng không mắng trả lại, 2. bị hạ nhục không hận tìm cách trả lại, 3. bị đánh không đánh trả lại, 4. bị giết không giết lại.

[11] Bốn nơi nương tựa: cũng thuộc pháp của Thầy Tỳ kheo theo đúng hạnh xả, ngày ăn một bửa, đó là: 1. nương tựa bốn pháp y, 2. nương tựa chiếc bình bát đi khất thực để nuôi thân, 3. nương tựa Tăng đoàn, 4. nương tựa gốc cây, như ngày nay tự viện hay nơi thanh tu thích hợp.

[12] Đột kiết la: tội nhẹ của chúng Tỳ kheo. Phạm tội này phạt cảnh cáo để sửa đổi. Ðó là tiểu giới thuộc 100 pháp chúng học; có thể sám hối và tự sửa đổi, không cần đưa ra kỷ luật.

[13] Ngũ thiên thất tụ: năm thiên bảy tụ giới của Tỳ kheo trong 250 giới qui định phân loại theo tội phạm và mức độ xử phạt. 5 thiên đó là:

Thiên 1: Phạm tội ba la di (trọng tội): phạt đuổi khỏi chùa

Thiên 2: tội tăng tàn 13 pháp hay 17 pháp (ni), có thể sám hối trước đại tăng, cũng như phạt làm việc do tăng qui định.

Thiên 3: Tội ba dật đề hay xả đọa (30 pháp): đưa vật trình ra trước tăng để xả rồi sám hối tội đáng đọa lạc. Nếu phạm không có tang vật nhưng gây tai tiếng xấu cho tập thể gọi là pháp đọa.

Thiên 4: tội thâu lan giá có 3 cấp bực: nặng, vừa và nhẹ ví như cố ý giết mà đối tượng chưa chết, hay âm mưu bại lộ việc bất thành…

Thiên 5: ác tác và ác thuyết – nói bậy và làm bậy, vi phạm bị phạt nhẹ như vi cảnh vậy.

Thất tụ là 7 nhóm giới như sau: Nhóm 1: 4 pháp cực ác; Nhóm 2: 13 pháp tăng tàn; Nhóm 3: 30 pháp xả đọa; Nhóm 4: 90 tội đọa; Nhóm 5: 2 pháp bất định; Nhóm 6: 100 pháp chúng học; Nhóm 7: 7 pháp diệt tranh cải 

[14] Diệt tránh: dứt tranh cải. Đây là giới luật Tỳ kheo cần phải diệt trừ sự tranh cải nổi lên để an ổn trong chư Tăng.

[15] Thập triền: 10 món trói buộc làm cho chúng sanh không thoát ra khỏi vòng sanh tử. đó là: 1. Vô tàm, 2. Vô quí (không biết hổ), 3. tật (ganh ghét), 4. xan (keo kiệt), 5. sân (hờn giận), 6. thụy miên (ham ngủ), 7. trạo cử (tâm chập chờn dao động), 8. hôn trầm (tối tăm, chìm đắm), 9. sân nhuế (giận dỗi, nổi xung thiên), 10. phú (tráo trở, che mù tâm).

[16] Thập sử: 10 mối sai khiến, vì phiền não có sức sai khiến chúng sanh hành động sai lầm để tạo nghiệp được chia làm 2 loại: lợi và độn (trì trệ, nặng nề) – Tham, sân, si, mạn, nghi: 5 độn sử; thân kiến, tà kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ gọi là 5 lợi sử (nhạy bén). 

[17] Nhị nghiêm: hai pháp phước đức và trí tuệ trang nghiêm, chỉ Phật đạt được trọn vẹn mà thôi.

 

--- o0o ---

 

Mục Lục >> 01  >> 02  >>  03 >>  04 >> 05  >> 06  >> 07 >> 08 >> 09

 

--- o0o ---

Trình bày: Linh Thoại

Cập nhật 07-2008

 

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

thÕ duong su ngó Trung thu hoài ức và trăn trở 西南卦 BÃÆn người béo phì có nguy cơ mắc bệnh 31 dao tin 580 651 t l quach tuan du chuan bi to chuc live show nhac phat hoai vong ton su Sinh tố dưa hấu dâu tây Phụ nha khoa hoc albert einstein va dao phat Chảy đi sông ơi nhá cáo chung 永平寺 cham tÕng Người là niềm tin 4 lời khuyên cho người lười tập thể CHÙA Gió Trẻ ăn chay trường kim cang tuc Thầy nghỉ ngơi thảnh thơi để trở về với giá trị đích thực của cuộc sống chua gam va su phat trien phat giao xu nghe niệm phật một tháng phật di đà cho xuan dinh dau cua moi nguoi Lễ giỗ Đệ tam Tổ Trúc Lâm si鎈 Chùa Thơ nhung cung bac com chay ô Tự du già Dễ Æ Ẩm Thừa Thiên Huế Trùng tu Đài kỷ niệm khẩu cac ban tre thoi nay nhin cuoc doi nhu the nao sau thuc HẠky