Theo Phật giáo, luân hồi có mặt như là hệ quả của luật nghiệp báo Tình trạng của đời sống hiện tại của con người tùy thuộc vào hành vi có chủ ý cetanaa trong cả quá khứ và nhất là hiện tại Năng lực của hành vi có chủ ý sẽ phân định tình trạng của con
Niết-bàn và sự chấm dứt luân hồi

Theo Phật giáo, luân hồi có mặt như là hệ quả của luật nghiệp báo. Tình trạng của đời sống hiện tại của con người tùy thuộc vào hành vi có chủ ý (cetanaa) trong cả quá khứ và nhất là hiện tại. Năng lực của hành vi có chủ ý sẽ phân định tình trạng của con người trong hiện tại và tương lai.  

Ở bậc giác ngộ, các tiếp xúc chỉ còn là các kinh nghiệm đơn thuần, không có mặt của các phản ứng tình cảm và cũng không có sự chấp thủ từ các phản ứng này gây ra, nhờ vào sự chánh niệm và sự tuệ tri sự vật như chính bản chất của chúng là . . . Tham ái bị phá vỡ.

Chấp thủ không còn chân đứng. Sanh tử đành phải vẫy tay chào từ biệt một cách vĩnh viễn, không nuối tiếc!

Như được ghi chép trong kinh điển Phật giáo, điều kiện để con người và các loài hữu tình khác tồn tại là tham ái hay chấp thủ về sự sống (bhava-ta.nhaa). Niết-bàn trái lại là sự chấm dứt các tham ái và chấp thủ đó.

Một trong các đặc tính của niết-bàn là chấm dứt toàn bộ dòng tiếp nối của tái sanh (sa'msaara) hay tái hiện hữu (bhavacakka). Nếu đau khổ (dukkha) được tạo nên hay được định nghĩa bằng sự sanh (jaati), già (jaraa), chết (mara.na'm), sầu (soka), bi (parideva), khổ (dukkha), ưu (domanassa) và não (upaayaasa),[1] thì sự chấm dứt của toàn bộ khối đau khổ (anto dukkhassa)[2] là niết-bàn. Nói cách khác, niết-bàn là sự diệt tận dòng chảy của tái hiện hữu (bhavanirodho nibbaana'm),[3] hay sự chấm dứt của chuổi vận hành sanh và tử (jaatimara.nassa anta'm).

 

Theo học thuyết nghiệp và tái sanh, một chúng sanh được sanh ra là do các trói buộc của vô minh (avijjaa), tham ái (ta.nhaa) và chấp thủ (upaadaana). Sự chứng đạt niết-bàn trái lại bao gồm sự diệt trừ trọn vẹn các trói buộc này bằng cách phát triển tuyệt đối tuệ giác (vijjaa) và trí tuệ (pa~n~naa). Đó là tiến trình chấm dứt luân hồi.

Đức Phật và các vị A-la-hán khác đã diễn tả một cách sinh động kinh nghiệm về sự chấm dứt luân hồi bằng các câu Cảm Hứng Ngữ (Udaana): "sanh đã tận, đời sống thánh đã hoàn thành, điều cần làm đã làm, không còn phải tái sanh nữa."[4]

Khái niệm vòng sanh tử ở đây nên được hiểu dưới góc độ ở tương lai hơn là ở hiện tại. Nghĩa là, đức Phật, đức Như Lai, bậc A-la-hán, bậc giác ngộ, những người đã chứng đạt niết-bàn không thể thoát mình khỏi trạng thái già, bệnh và cuối cùng phải chết.


Tiến trình của cái chết được bắt đầu ngay khi con người được sanh ra trong đời, và như là quy luật duyên khởi tương thuộc không thể tránh khỏi, con người không thể vượt qua nó được. Bậc giác ngộ khác chúng ta ở chỗ các ngài không còn phải đối đầu với sự sanh, già, bệnh và chết ở tương lai và rồi ở những kiếp sống sau tương lai đó nữa. Nói khác, nếu khát vọng cho sự sống (bhava-ta.nhaa) là một yếu tố của tái sanh thì sự diệt trừ tận gốc khát vọng đó sẽ giải thoát ta khỏi sự tái hiện hữu trong tương lai.

Cần ghi nhận rằng khi biết rõ cái chết là không thể tránh khỏi, mà con người cứ tiếp tục tái sanh như kết quả của khát vọng hiện hữu (bhava-ta.nthaa), đức Phật và các bậc A-la-hán không phải mất thời giờ lo lắng về cái chết, cũng không cần phải nỗ lực một cách vô ích để xa lánh cái chết.

Hơn bao giờ hết, đức Phật đã chỉ ra cho chúng ta con đường vượt thoát khỏi đau khổ bằng cách hành trì chánh niệm và tỉnh giác trong từng phút giây của sự sống, tại đây và bây giờ.


Theo Phật giáo, luân hồi có mặt như là hệ quả của luật nghiệp báo. Tình trạng của đời sống hiện tại của con người tùy thuộc vào hành vi có chủ ý (cetanaa) trong cả quá khứ và nhất là hiện tại. Năng lực của hành vi có chủ ý sẽ phân định tình trạng của con người trong hiện tại và tương lai. Vì thế, "các chúng sanh là những kẻ phải thừa tự tài sản hành vi của mình."[5]

Vòng tái hiện hữu (bhavacakka) được mô tả trong chuổi duyên khởi (Pa.ticcasamuppaada), bao gồm 12 mắc xích bắt đầu từ sự thiếu trí tuệ (avijjaa) hành (sa.nkhaara), thức (vi~n~naa.na), tâm-vật-lý (naama-ruupa), sáu giác quan (salaayatana), tiếp xúc (phassa), cảm thọ (vedanaa), tham ái (ta.nhaa), chấp thủ (upaadaana), tái hiện hữu (bhava), sanh (jaati), già và chết (jaraa-mara.na).[6] Cội nguồn của chuổi vận hành này chỉ có thể bắt đầu bằng tính tương thuộc duyên khởi đa chiều và đa dạng, trong đó, thức phân biệt (vi~n~naa.na) là một.

 

Trong đạo Phật, thức phân biệt (vi~n~naa.na) tạo nên trạng thái hiện hữu (bhava) trong đời sau, mặc dù đạo Phật không thừa nhận một tác nhân thực thể trong đầu thai, theo nghĩa một chủ thể thường hằng bất biến. Thức như loại thực phẩm (vi~n~naa.nahaaro, thức thực) được trích dẫn như là nguyên nhân trực tiếp của sự tái hiện hữu mới trong luân hồi ở tương lai.

[7] Chính ý thức tồn tại này (sa'mvattanika vi~n~naa.na) đã chịu trách nhiệm cho sự tái hiện hữu.[8] Hơn nữa, trong tiến trình của tái hiện hữu (bhava), thức (vi~n~naa.na) không chỉ hoạt động đơn độc. Nó được sự hỗ trợ song hành của các năng lực vô minh (avijjaa), sự chủ ý (kamma/cetanaa), tham ái (ta.nhaa) và chấp thủ (upaadaana). Như vậy luân hồi được điều kiện hóa bởi năm yếu tố sau đây, vô minh (avijjaa), thức (vi~n~naa.na), sự chủ ý (kamma), tham ái (ta"nhaa) và chấp thủ (upaadaana) trong đó các yếu tố 2-4 là quan trọng hơn hết, như đoạn kinh dưới đây mô tả: ''mghiệp (kamma) là mảnh đất (khetta'm); thức (vi~n~naa.na là hạt giống (biija'm) và tham ái (ta"nhaa) là độ ẩm (sineho)".

 

Do bị vô minh (moha) chi phối, tham ái trói buộc, thức được hình thành trong thế giới thấp kém (hiinaaya dhaatuyaa).[10] Để chứng đạt niết-bàn chúng ta không nên vận hành thức trong quỷ đạo của tái hiện hữu (vi~n~naa.na'm bhave na ti.t.the).[11] Như vậy nhờ vào sự diệt trừ sạch (nirodha) bộ ba yếu tố này, sanh, già và bệnh chết không có mặt trong hiện hữu ở tương lai. Đây là điều được đức Phật trình bày trong đoạn kinh dưới đây:

Chính bản thân ta chịu sanh, già, bệnh, chết, sầu khổ và phiền não, khi nhận chân được sự nguy hiểm của chúng, ta đã tìm kiếm cái không bị sanh (ajaata), không bị già, (ajara) không bị bệnh (abyaadhi'm), không bị chết (amata), không bị sầu khổ (asoka'm), không bị phiền não (asankili.t.tha'm), sự an tịnh tối thượng vượt thoát khỏi mọi trói buộc - ta đã chứng đạt niết-bàn. Tuệ nhãn và tuệ tri sau đây đã xuất hiện trong ta; sự giả thoát của tâm trở thành bất động. Đây là đời sống cuối cùng. Ta không còn phải tái sanh nữa.[12]

Nói tóm lại, đối với bậc giác ngộ, người đã chứng đạt niết-bàn chuổi duyên khởi 12 mắc xích (pa.ticcasamuppaada) đã bị chặt đứt từng khúc. Ở đây, vô minh (avijjaa) tên trọng não mặc dù không phải là nguyên nhân đầu tiên đã được chuyển hóa thành trí tuệ hay tuệ giác (vijjaa/pa~n~naa), 11 mắc xích còn lại đã trở nên bất lực và không thể liên kết với nhau được nữa, như một đầu tàu xe lửa đã tách khỏi đường rây, các toa còn lại không sau chạy được.

Ở bậc giác ngộ bây giờ các tiếp xúc (phassa) chỉ còn là các kinh nghiệm đơn thuần, không có mặt của các phản ứng cảm xúc và cũng không có sự chấp thủ từ các phản ứng này gây ra, nhờ vào sự tuệ tri sự vật như chính bản chất của chúng (yonisa manasikaara, như lý tác ý) và sự chánh niệm (sati). Các cảm giác (vedanaa) theo sau đó cũng được chuyển hoá. Tham ái (ta"nhaa) bị phá vỡ. Chấp thủ (upaadaana) không còn chân đứng. Sanh tử đành phải vẫy tay chào từ biệt một cách vĩnh viễn không nuối tiếc!

CHÚ THÍCH

[1] D. II. 305.

[2] Ud. 80.

[3] S. II. 117.

[4] M. I. 4: Khii.naa jaati vusita'm brahmacariya'm kata'm karaniiya'm naapara'm itthattaayaati.

[5] M. III. 203; MLS.III.249: "Này bà-la-môn, nghiệp là kẻ thừa tự của chúng sanh, nghiệp là dòng họ, nghiệp là bà con, nghiệp là viên thẩm phán (kammapatisarana). Nghiệp làm cho chúng sanh thiên sai vạn biệt, trở nên cao thượng hay thấp kém."

[6] S. II. 2ff.

[7] S. II. 13: vi~n~naa.nahaaro . . . punabbhavaabhinibbattiyaa paccayo.

[8] M. II. 262.

[9] A. I. 223: "Ito kho €nanda kamma'm khetta'm vi~n~naa.na'm biijam tanhaa sineho avijjaaniivarananaana'm sataana'm sattaana'm tanhaasa~n~nojanaana'm majjhimaaya dhaatuyaa vi~n~naana'm pati.thita'm."

[10] S. II. 97; S. IV. 86.

[11] Sn. 1055.

[12] M. I. 167; MLS I. 211.
 

 

 

Về Menu

niết bàn và sự chấm dứt luân hồi niet ban va su cham dut luan hoi tin tuc phat giao hoc phat

饒益眾生 そうとうぜん tạp Nam 陀羅尼被 大型印花 住相 五十三參鈔諦 天风姤卦九二变 供灯的功德 曹洞宗 長尾武士 æ å chu tu trong phat giao 佛教名词 每天都能聽到同行善友的善行 Lý giải bí mật chữa bệnh hóa hổ 川井霊園 正法眼藏 ç 净土网络 Nguyên nhân nhiều người trẻ bị 借香问讯 是 ทำว ดเย น Omega 3 thật sự có lợi cho tim mạch Quan 上座部佛教經典 緣境發心 觀想書 雀鸽鸳鸯报是什么报 cu si Thi viết Ăn chay khoa học tho mang cua phat phap 精霊供養 仏壇 拝む 言い方 ä½ æ 白佛言 什么意思 nhà モダン仏壇 dia tang kiếp trước kiêu ngạo kiếp này cả зеркало кракен даркнет ทาน Phương cách ăn uống giúp huyết áp pha t tu khong hie u da o bạn บทสวด 市町村別寺院数 Giảm huyết áp cao không cần đến thuốc โภชปร ตร 5 nguyên nhân gây tử vong ở trẻ æ Nguyên nhân phân phái đầu tiên trong 每年四月初八