ự hiện diện của Phật Giáo,...
Người Đông phương chuộng hiếu nghĩa, yêu hòa bình, có tấm lòng tri ân và báo ân, luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác khó khăn. Phật Giáo nói Kinh Vu Lan Báo Hiếu, diễn nghĩa Kinh Phương Tiện Đại Báo Ân, với tinh thần “Thượng báo Tứ trọng ân, hạ tế Tam đồ khổ” cho nên từ giáo nghĩa cho đến hành sự không còn chổ nào có thể làm phật lòng người Đông phương. Pháp Hội Thí Vô Giá theo truyền thuyết là có từ thời Vua A Dục. Nhà vua cử hành đại lễ này với ý nghĩa là kỷ niệm Đức Phật Thích Ca lúc năm tuổi làm lễ cắt tóc theo phong tục cổ của người Ấn Độ (ngày nay phong tục này vẫn còn lưu hành). Và cứ mỗi 5 năm tổ chức một lần và Đức Vua làm đại thí chủ. Vua Lương Võ Đế húy Tiêu Diễn tự Thúc Đạt, người xứ Nam Lang Lăng nay thuộc Thường Châu, Giang Tô Trung Quốc, là vị Hoàng Đế sáng lập ra nước Lương thuộc thời đại Nam Bắc Triều ở Trung Quốc (464-549) là vị vua đầu tiên và cũng là duy nhất của Trung Quốc dùng Phật Giáo để trị quốc, vị vua bốn lần phát nguyện xã bỏ đế vị vào chùa làm nô bộc để tu hành đồng thời là người thiết hội Thí Vô Giá nhiều nhất. Theo thuyết “Lương Hoàng Sám” cho rằng: Thủy Lục Pháp Hội có nguồn gốc từ tích Hoàng Hậu Hy Thị được vua sủng ái nên lòng đố kỵ rất lớn tạo các nghiệp ác, khinh chê Tam Bảo hủy báng Tăng già, sau đó bịnh nặng rồi chết đọa thành con rắn lớn chịu khổ vô cùng, trong mộng cầu vua tìm phương cứu giải, vua nhờ Ngài Chí Công soạn Lương Hoàng Sám làm lễ sám hối cho bà và theo đó làm Pháp Hội Đại Thí, nhờ đó Hoàng Hậu được thoát khổ sanh thiên. Thủy Lục Pháp Hội còn gọi là Thủy Lục Hội, thủy Lục Đạo Tràng, Thủy Lục Trai, Thủy Lục Đại Trai Hội, Bi Tế Hội và gọi đủ là “Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Phổ Độ Đại Trai Thắng Hội” ý nghĩa và công năng siêu độ hết thảy thủy lục nhất thiết du hồn, lục đạo chúng sanh. Đây là nghi thức Pháp Hội long trọng và lớn nhất trong nghi lễ đàn tràng Phật Giáo Bắc Truyền. Thủy Lục Pháp Hội tập hợp hết thảy tinh hoa, Kinh điển, Khoa nghi, nghệ thuật âm nhạc, nghi quỹ, tán tụng, thiết trí đàn tràng, hội họa, văn học.v.v… Thủy Lục Pháp Hội nội dung rất là phong phú đàn nội phức tạp, Đàn Tràng gồm có nội đàn, ngoại đàn và sáu tiểu đàn. 1- Đại đàn còn gọi là “Lương Hoàng Đàn” chuyên lễ bái Lương Hoàng Sám. 2- Chư Kinh đàn, đàn này chư Tăng chuyên tụng Kinh Dược Sư. 3- Pháp Hoa đàn đàn này chuyên tụng Kinh Pháp Hoa. 4- Tịnh Độ Đàn, đàn này tụng Kinh Quán Vô Lượng Thọ và Kinh A Di Đà. 5- Hoa Nghiêm đàn, đàn này tụng Kinh Hoa Nghiêm. 6- Du Già đàn, Đàn Chẩn Tế Diệm Khẩu Nghi lễ Phật Giáo Bắc Truyền do ảnh hưởng tập quán thờ cúng tổ tiên của các dân tộc Đông phương cho nên hầu hết các pháp hội lớn của Phật giáo Bắc Truyền đều tập trung vào việc cầu siêu, tế độ cho người đã mất vì quan niệm rằng “Âm siêu dương thái” cho nên cầu nguyện cho âm giới siêu sanh thì dương gian sẽ khương thái, khi thể hiện những nghi thức thuộc về thế giới siêu hình huyền bí, tính chất Mật Giáo được thể hiện và sử dụng nhiều trong những nghi thức của đàn tràng Pháp hội, nên dễ gây hiểu lầm các nghi thức đàn tràng có tính chất bí mật nhưng tất cả chỉ nằm gọn trong bốn chử là “Vận tâm bình đẳng”. Nghi lễ Đàn Tràng Pháp Hội Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ nhưng khi truyền nhập vào phương Đông đã hoàn toàn hòa nhập thành văn hóa tín ngưỡng pháp hội của người Đông Độ và các nghi lễ, nghi thức đều mang tính đặc trưng văn hóa, tín ngưỡng truyền thống Á Đông và là phương tiện độ sanh hữu hiệu của Phật Giáo Bắc Truyền, là nơi gởi gắm tâm tư nguyện vọng của tín đồ Đạo Phật, đồng thời mang đậm nét lễ nghi, nghệ thuật âm nhạc, đạo đức của Phật Giáo Đông Truyền. Từ cội nguồn của “Thí Vô Giá Hội” đến “Thủy Lục Đạo Tràng” và cuối cùng là sự phổ biến của “Trai Đàn Chẩn Tế” tất cả đều là phương tiện hoằng hóa của Phật Giáo Bắc Truyền và là một phần không thể thiếu trong kho tàng văn hóa, nghệ thuật, âm nhạc, trang trí hội họa, diễn tấu của Phật Giáo Thế Giới nói chung, Phật Giáo Đông Độ nói riêng. Giá trị của nghi lễ đàn tràng Phật Giáo Bắc truyền là điểm son chói lọi trong nền văn hóa nghệ thuật nhân loại.
cũng như tinh thần từ bi phổ độ bình đẳng của Phật Đà, sự hòa nhập trong tinh thần vô tư chỉ có một mục đích duy nhất là “Hoằng Pháp Độ Sanh” nên ngày nay khi nói đến văn hóa Đông phương người ta không thể không nhắc đến Phật Giáo.
Chính vì vậy người Đông phương hầu như tiếp nhận hết thảy giáo điển, phương thức tu hành, nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng, âm nhạc của Đạo Phật, xem tất cả như là văn hóa của chính mình và khi thực hiện những điều này một cách tự nhiên thuần thục không một chút do dự hay lo nghĩ. Cho nên khi nói về Pháp Hội của Phật Giáo hầu hết đều có nguồn gốc từ Ấn Độ nhưng thật ra Pháp hội, đàn tràng và nghi thức của Phật Giáo đều được hình thành và phát triển phần đa do người Phật Giáo phương Đông, mà đại diện là Trung Hoa.
Pháp Hội Thí Vô Giá có nguồn gốc từ Ấn Độ gọi là “Vô Giá Đại Hội” còn gọi là “Ngũ Niên Nhất Hội”, “Ngũ Niên Công Đức Hội”, “Ngũ Tuế Hội”. Pháp hội xưng là “Vô Giá” là vì trong Pháp hội này, lòng từ bi hỷ xã, khoan dung bố thí được thể hiện rốt ráo cho nên không có chổ để so lường nữa nên gọi là “Vô Giá”. Ở Pháp hội này tất cả mọi người đều được quyền tham gia, không phân quí tiện, hiền ngu, đạo tục và bình đẳng tham dự, thọ sự cúng dường tài thí bình đẳng như nhau và pháp thí cũng như thế.
Trong thời gian diễn ra Pháp hội nhà vua đem hết thảy tiền tài vật dụng của quốc khố trừ binh khí ra để làm vật bố thí, mọi người tham dự pháp hội đều được cúng dường như nhau, không phân biệt giàu ghèo, sang hèn, tôn giáo hệ phái hay đạo tục, không có sự phân biệt trong bố thí cúng dường, mỗi lần pháp hội có khi diễn ra trong suốt 75 ngày.
Phật Giáo Đông truyền Pháp hội Thí Vô Giá cũng theo gót chân các nhà truyền giáo Đại sư đến với người Đông Phương. Pháp Hội Thí Vô Giá lần đầu tiên được tổ chức tại Đông Độ là vào thời nhà Hán - Trung Quốc. Theo sách “Lịch Đại Tam Bảo Ký” chép: “ Vào thời Hán Linh Đế niên hiệu Quan Hòa thứ ba (công nguyên năm180) Vua Linh Đế tại chùa Phật Tháp ở Lạc Dương làm lễ cúng Tăng.”.
Nhưng Pháp hội được thịnh hành thì phải đến đời của Vua Lương Võ Đế, đây là một vị Vua có công rất lớn đối với sự hoằng truyền Phật Giáo Bắc Truyền và là người Phật tử thuần thành, là đại thí chủ Lớn nhất của Phật Giáo Bắc Truyền xuyên suốt chiều dài lịch sử của Bắc Truyền Phật Giáo từ xưa cho đến ngày nay.
Theo sách “Nam Sử” chép “Nhà Vua 14 lần thiết Hội Vô Giá và bốn lần xã thân vào chùa làm nô” Lương Võ Đế có hai việc làm ảnh hưởng Phật Giáo Bắc Truyền cho đến ngày nay. Thứ nhất là ra lịnh Tăng sĩ Bắc Truyền phải trường trai, hai là người sáng lập Thủy Lục Pháp hội, khởi nguyên của nghi lễ, đàn tràng, kinh sám Phật Giáo Bắc Truyền.
Thí Vô Giá Hội được tổ chức để bố thí cho người còn sống về tài thí cũng như pháp thí, Phật Giáo truyền vào Trung Quốc trong thời kỳ loạn lạc nhất, chiến tranh liên miên, chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn vô số kể, cho nên khi đến đời vua Lương Võ Đế, Nam triều lúc bây giờ có thể nói là tạm được bình yên. Nhà vua sau khi đã 14 lần làm Pháp Hội Vô Giá bố thí cho người sống vì lòng từ bi của một người con Phật công thêm một nhân duyên hết sức thần kỳ là nhân duyên sanh ra Pháp Hội Thủy Lục.
Sách “Thủy Lục Nghi Quỹ Hội Bổn” chép: “ Vua Lương Võ Đế một đêm nằm mộng thấy có vị thần Tăng nói với Vua rằng: Chúng sanh trong luân hồi lục đạo, chịu khổ vô cùng, sao không thiết Thủy Lục Đại Trai để phổ độ cho họ. Tỉnh mộng vua đem việc này ra hỏi các vị Cao Tăng và chiếu lệnh cho Ngài Chí Công đại sư cùng các vị Cao Tăng biên soạn nghi thức Thủy Lục Pháp Hội và tu kiến Đàn Tràng Thủy Lục tại Chùa Kim Sơn.” Đây là khởi nguyên của nghi lễ đàn sám.
Theo “Thủy Lục Nghi Văn” Chí Công Hòa Thượng theo lịnh của Võ Đế cùng với các vị Cao Tăng trong Triều soạn Nghi Thủy Lục, nhưng vì mọi người không hiểu Pháp Hội Thủy Lục tổ chức như thế nào và nghi quỹ phải trình tự lễ nghi ra sao, cho nên đêm ngày đọc tụng, tìm kiếm hết thảy trong các bộ Kinh điển Đại Thừa cho đến ba năm mới tìm ra Kinh “Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni” tích ngài A Nan thấy Diện Nhiên Vương, kiến lập bình đẳng thí thực.
Chư vị cao Tăng dựa trên bổn Kinh và theo ý nghĩa bình đẳng bố thí của Thí Vô Giá Hội soạn ra khoa nghi bình đẳng thí thực sau này thường gọi là chẩn tế và trước đàn chẩn tế thường treo câu “Thí Vô Giá Hội” từ tích này.
Ngoại đàn chủ yếu là tụng kinh và bái sám, tất cả các khoa nghi đều thực hiện trong nội đàn. Gồm các nghi thức như: Niêm đàn sái tịnh, kết giới, khiển sứ phát phù, phụng thỉnh Tam Bảo liệt vị thánh chúng, long thiên hộ pháp giáng đàn, khai kinh, thượng phan. Thỉnh thượng đường, thỉnh hạ đường, cúng phật trai tăng, phóng sanh,cầu siêu, chẩn tế, tống thánh.v.v…Thủy Lục Pháp Hội được tổ chức trong 7 ngày đêm, hoặc là 49 ngày đêm, chư Tăng tham dự thường khoảng hơn 100 vị có khi đến cả 1000 vị và có khi thỉnh cả chư vị Thạc Đức Cao Tăng trong cả nước.
Bích Ngọc (Tuvien.com)