.



 

HỘI THẢO KHOA HỌC

300 NĂM PHẬT GIÁO

GIA ĐỊNH - SÀI GÒN - TP HỒ CHÍ MINH


---o0o---

phần iV

các phong trào phật giáo

 

Từ phong trào chấn hưng Phật giáo - một số suy nghĩ về Phật giáo Việt Nam

với tiến trình thống nhất dân tộc

 

Hòa thượng THÍCH THANH TỨ

Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN

Trong buổi tiếp xúc với đại biểu Hội nghị Thống nhất Phật giáo (PG) Việt Nam ngày 8-11-1981, tại Phủ Chủ tịch, ngài Phạm Văn Đồng (khi đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) đã nói: “Trong quá khứ, PG Việt Nam đã gắn chặt với dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Lịch sử đã xác nhận PG Việt Nam là một tôn giáo, từ bản chất bản sắc, từ trong thực tiễn hoạt động của mình biểu hiện truyền thống yêu nước, gắn bó chặt chẽ với dân tộc, với Tổ quốc” (1). Thật xác đáng và ý nghĩa sâu sắc lời nhận định của một vị nguyên thủ về PG Việt Nam, trong bối cảnh lần đầu tiên trong 2000 năm lịch sử PG Việt Nam, 6 năm sau khi nước nhà thống nhất, đại biểu của đủ các tổ chức, giáo hội, hệ phái PG từ khắp ba miền vân tập về thủ đô Hà Nội với một quyết tâm chung xây dựng hoàn thành ngôi nhà chung Giáo hội PG Việt Nam.

Nhân ý đó, trong khuôn khổ của cuộc Hội thảo “300 năm PG Gia Định-Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh”, tôi có đôi dòng suy nghĩ về phong trào vận động chấn hưng PG ở Nam Kỳ trong những thập niên đầu của thế kỷ XX, đặt nó trong cảm thức chung về PG Việt Nam với tiến trình thống nhất dân tộc trong lịch sử.

Như chúng ta đã biết, từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ II sau Tây lịch, theo chân các Tăng sĩ và thương nhân người Ấn, những hạt giống bồ đề đầu tiên đã được gieo trồng và kết quả trên đất Giao Châu. Luy Lâu đã nhanh chóng trở thành trung tâm PG sầm uất của cả khu vực.

Năm 43 sau Tây lịch, đất nước ta rơi vào tay nhà Hán, bước vào thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc. Trong bối cảnh nước mất nhà tan, tư tưởng - văn hóa - lối sống PG đã hòa quyện với văn hóa - đạo lý truyền thống của người Việt cổ, trở thành vũ khí tinh thần chống lại sự xâm lược, nô dịch tinh thần bằng Hán Nho của các triều đại phong kiến phương Bắc. Sự tích Tứ pháp (ở Dâu - Keo) là một hình ảnh đẹp về sự hội nhập một cách tự nhiên, hài hòa mà sâu sắc giữa PG và dân tộc ngay từ buổi đầu gặp gỡ.

Cùng với quá trình trưởng thành của dân tộc, sự truyền bá của các dòng thiền (như Tỳ Ni Đa Lưu Chi năm 580, Vô Ngôn Thông năm 820), PG đã trở thành lực lượng vật chất và tinh thần quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà Lý Nam Đế (544-548) - vị “đế” đầu tiên của nước ta - ngay sau khi lên ngôi, việc đầu tiên là cho dựng chùa Khai Quốc (chùa Mở nước) ở giữa kinh đô. Vị vua tiếp theo lại lấy hiệu là Lý Phật Tử (người con Phật họ Lý). Thần tích, thần phả cung cấp cho ta một danh sách dài những vị tướng ở thời kỳ này có liên quan đến PG. Cho dựng chùa “Mở nước” ở giữa kinh đô, từ thuở đó, phải chăng Lý Nam Đế đã nhận thức rõ vai trò của PG trong việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết thống nhất dân tộc, mà ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn đánh giá cao “chức năng liên kết của tôn giáo”.

Trong buổi đầu xây dựng quốc gia phong kiến độc lập dân tộc Ngô - Đinh - Lê, các Thiền sư cao tăng đồng thời cũng là những nhà chính trị - quân sự - ngoại giao xuất sắc của thời đại. Thiền sư Vạn Hạnh thực sự là “người cha tinh thần”, “người kiến trúc sư” của vương triều Lý, là người “trụ tích trấn vương kỳ” (chống gậy thiền bảo vệ quốc gia - thơ truy tán của Lý Nhân Tông). Chính văn hóa PG là nguồn sức mạnh tinh thần quan trọng tạo nên những chiến công hiển hách “phạt Tống, bình Chiêm, sát Thát” của thời đại Lý-Trần, tạo nên thần thái, bản sắc văn hóa Thăng Long - văn minh Đại Việt huy hoàng. Các Thiền sư - hoàng đế thời Trần đã lập nên thiền phái Trúc Lâm, một thiền phái - hệ tư tưởng đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam.

Thế kỷ XVII, lịch sử dân tộc và lịch sử PG Việt Nam bước sang một trang mới. Do điều kiện địa - chính trị (Géo - Politique) cụ thể, cùng với “giữ nước”, “mở nước” là yêu cầu bức thiết đặt ra lúc bấy giờ. Cùng với những đợt di dân có tổ chức và tự do, PG cũng từ Đàng Ngoài lan truyền vào Đàng Trong, tới tận cùng miền đất mới Nam Kỳ, xen cư và phát triển bên các tín ngưỡng - tôn giáo bản địa. Tuy nhiên, biên giới chính trị sông Gianh nghiêm ngặt đã chia cắt hai miền (xem hành trạng Thiền sư Hương Hải).

Năm 1802, Nguyễn Ánh thống nhất ba miền đất nước. Tuy nhà Nguyễn coi Nho giáo là hệ tư tưởng chính thống, nhưng các vua, vương phi, công chúa và đại thần cũng không kém phần sùng Phật. Vùng đất Gia Định-Sài Gòn xưa - từng là hậu phương tin cậy của Nguyễn Ánh - có nhiều chùa được “sắc tứ”. Bằng hệ thống các chính sách về kinh tế và chính trị, các vua đầu triều Nguyễn đã tích cực và có hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng một nền văn hóa thống nhất, trong đó có Phật giáo. Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên xâm lược nước ta, sự nghiệp đó bị dang dở.

Hòa ước Pa-tơ-nốt ký ngày 6-6-1884, thực chất là một hàng ước, đã chính thức thừa nhận nền thống trị của thực dân Pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Thực dân Pháp chia nước ta làm 3 kỳ, với 3 hình thức cai trị, 3 thể chế chính trị khác nhau. Hậu quả của chính sách khai thác thuộc địa cùng với sự du nhập xô bồ lối sống thực dụng theo kiểu tư sản phương Tây xa lạ với truyền thống văn hóa phương Đông, thái độ bảo thủ và bất lực của nhà Nguyễn đã gây nên một làn sóng đấu tranh để “phản đế, bài phong”, đòi hỏi duy tân đất nước ở khắp ba miền Trung-Nam-Bắc. Hệ tư tưởng Nho giáo đã tỏ ra bất lực trước yêu cầu mới của lịch sử, của nhu cầu duy tân đất nước. Câu hỏi cần thiết đặt ra là : Vậy đâu là nền tảng đạo lý của công cuộc duy tân ? Ngoài những câu hô hào chung chung như “đồng bào, đồng tâm, ái quốc”..., bằng cách nào tập hợp được quần chúng, cố kết được đồng bào? Trước tình hình đó, những sĩ phu Nho học có đầu óc tân tiến, những thiền sư - học giả giàu lòng yêu nước đã quay lại lục tìm những di sản của truyền thống, những triều đại huy hoàng thuở trước, hy vọng tìm được câu trả lời, và họ đã tìm đến PG, như là một lực lượng tinh thần chống lại sự nô dịch tinh thần, bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc, như là một phương thức hữu hiệu để cổ động, tập hợp lực lượng dân tộc.

Cùng với ảnh hưởng của phong trào chấn hưng PG ở Trung Quốc, xuất phát từ yêu cầu của bản thân các tổ chức PG trong nước, theo tôi, đây là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự bùng nổ và quy định mục tiêu của phong trào chấn hưng PG ở Việt Nam - một phong trào tuy diễn ra trong một thời gian ngắn nhưng có sức lan tỏa rất rộng, có ảnh hưởng to lớn trên mọi mặt của đời sống xã hội và tinh thần của lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử PG Việt Nam nói riêng thời cận đại (2).

Phong trào chấn hưng PG xuất phát từ Nam Kỳ nhanh chóng nở rộ khắp cả ba miền. Hội “Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học” chính thức ra đời ngày 26-8-1931 tại Sài Gòn, Hội “Phật học Kiêm tế”, Hội “Lưỡng Xuyên Phật học” của vùng sông Tiền, sông Hậu. Trung Kỳ có Hội “An Nam Phật học” ở Huế được thành lập năm 1932. Bắc Kỳ có Hội “Bắc Kỳ PG” thành lập ngày 18-11-1934 tại chùa Quán Sứ, và Hội “Cổ sơn môn” của tổ đình Hồng Phúc.

Dù nội dung của phong trào rất rộng lớn, trên hầu hết các lĩnh vực của giáo lý - giáo luật - giáo hội đều có rất nhiều vấn đề được nêu lên để thảo luận nhằm cải cách hoặc chấn hưng, nhưng có một nội dung cực kỳ quan trọng có tính nhất quán ở cả ba miền là : nhằm xây dựng một tổ chức PG Việt Nam thống nhất chung trong toàn quốc và phổ cập hoằng pháp bằng chữ quốc ngữ. Từ những cuộc thăm viếng cá nhân hoặc giữa các tổ đình hệ phái cho đến những tranh luận nhiều khi khá gay gắt trên các cơ quan ngôn luận của các Hội, dù hữu thức hay vô thức, kết quả khách quan đưa lại đã góp phần tìm ra tiếng nói chung, xóa đi những bất đồng, tạo ra bầu không khí hiểu biết nhau hơn giữa các sơn môn hệ phái trong từng miền và trên phạm vi toàn quốc. Tiếp bước của phong trào “Đông Kinh nghĩa thục” trong việc truyền bá chữ quốc ngữ, một khối lượng Tam tạng Thánh điển bằng chữ Hán và các tài liệu nghiên cứu Phật học được biên dịch viết bằng chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Nếu khẳng định chữ quốc ngữ là yếu tố quan trọng trong công cuộc xây dựng và củng cố nền thống nhất quốc gia dân tộc, thì trên lĩnh vực này, đóng góp của phong trào chấn hưng PG vượt trội phong trào Đông Kinh nghĩa thục cả về bề rộng lẫn chiều sâu.

Có thể coi cuộc vận động của Thiền sư Khánh Hòa dẫn tới sự ra đời của một “Thích học đường” và một “Phật học thư xã” đầu năm 1928, với sự tham gia của Thiền sư Huệ Quang và nhiều vị tôn túc khác, là khúc nhạc dạo đầu của phong trào chấn hưng PG ở Việt Nam, với mục tiêu tiến tới xây dựng một Tổng hội PG toàn quốc, chùa Linh Sơn ở Sài Gòn - “một giao điểm động... luôn nhạy bén với phong trào cách tân...” (trích báo cáo đề dẫn của Ban Tổ chức Hội thảo), là nơi châm ngòi nổ cho phong trào.

Từ trước đó, năm 1927, đọc tin trên báo Thực Nghiệm xuất bản ở Hà Nội, được biết Thiền sư Tâm Lai có ý nguyện chấn hưng PG, Thiền sư Khánh Hòa lập tức cử người đồng chí nhiệt tình là Thiền sư Thiện Chiếu ra Bắc, gặp Tăng cang Thiền sư Đỗ Văn Hỷ ở chùa Bà Đá để đến tổ đình Tiên Lữ bàn với Thiền sư Tâm Lai về việc xây dựng một Hội PG toàn quốc và chấn hưng PG. Trên đường về Nam, Thiền sư Thiện Chiếu ghé qua Huế trao đổi vấn đề này với các Thiền sư tôn túc ở miền Trung. Bởi nhiều lý do, tuy mục đích chuyến đi của Thiền sư Thiện Chiếu không thành, nhưng nó đã có tác dụng lớn trong việc cổ xúy cho phong trào chấn hưng PG ở cả ba miền, chuẩn bị một Hội PG toàn quốc. Từ đây, việc trao đổi Tăng sinh - giảng sư giữa các tổ đình, giữa các thiền đường, thiền viện của các miền diễn ra thường xuyên là chuyện bình thường.

Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương ngày càng lên cao. Sẵn tinh thần Lục hòa vô ngã, là Phật tử trên đất Việt, hơn ai hết, hiểu rõ về nghĩa “Tứ ân” không phân biệt sơn môn, hệ phái các miền, những người con Phật trong phong trào chấn hưng nhanh chóng hòa chung vào dòng chảy cách mạng. Chùa Tam Bảo, trụ sở Hội Phật học Kiêm tế của Thiền sư Thiện Chiếu trở thành cơ sở cất giấu vũ khí, nuôi giấu cán bộ kháng chiến. Bản thân Thiền sư bị bắt đày ra Côn Đảo tra tấn dã man. Nhiều Thiền sư, cư sĩ là yếu nhân của phong trào chấn hưng PG đã trở thành những cốt cán của các tổ chức kháng chiến kiến quốc trên khắp mọi miền đất nước. Đạo hạnh và tấm gương dấn thân cùng dân tộc của những vị như Thiền sư Thiện Chiếu, Thiền sư Thích Trí Độ, cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám... đã có ảnh hưởng lớn tới các thế hệ Thiền sư kế tiếp, mà tiêu biểu là các cố Hòa thượng (HT) Thích Mật Thể, Thích Thiện Hoa, Thích Trí Thủ, Thích Minh Nguyệt, Thích Thiện Hào...

Giới tuyến 17 tạm thời chia cắt đất nước ta làm hai miền ; một lần nữa, ý nguyện của các Thiền sư thời chấn hưng về một Giáo hội chung của PG Việt Nam tạm thời chưa được thực hiện. Tuy hai miền phân cách, nhưng những người con Phật trên đất Bắc vẫn luôn dõi về miền Nam thân yêu, chia sẻ và cổ vũ phong trào đấu tranh chống Mỹ-ngụy của đồng bào miền Nam nói chung và những người anh em đồng đạo nói riêng, làm hết sức mình để có ngày đất nước thống nhất, Giáo hội một nhà. Được tin HT Thích Quảng Đức noi gương hạnh nguyện đại hùng đại lực, tự nguyện thiêu thân cúng dàng Tam bảo, phản đối chế độ độc tài phát-xít Ngô Đình Diệm, ngày 20-7-1963, Thành hội PG Hà Nội đã kịp thời dựng “Bảo tháp Ấn Quang” tại tổ đình Hồng Phúc - Hòe Nhai, có bài minh tán thán công đức xả thân hộ pháp của Ngài.

Thắng lợi mùa Xuân năm 1975 mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc, một vận hội mới cho PG Việt Nam. Theo lời bậc cổ đức đã chỉ bày: “tùy thời, tùy quốc độ”, ngay từ đầu PG đã gắn bó chặt chẽ, đã là người bạn đồng hành đáng tin cậy của dân tộc. Thực thú vị và sâu sắc, lại chính tại thành phố Sài Gòn-Hồ Chí Minh ngày 12-2-1980 đã diễn ra cuộc gặp mặt lịch sử giữa chư tôn giáo phẩm tiêu biểu Bắc-Trung-Nam và các hàng nhân sĩ Phật tử để tiến tới sự nghiệp thống nhất PG Việt Nam, dưới sự chủ tọa của cố Hòa thượng Thích Trí Thủ. Sau thời gian khẩn trương chuẩn bị, ngày 4-11-1981, lần đầu tiên trong lịch sử PG Việt Nam, 165 đại biểu của 9 tổ chức, giáo hội, hệ phái PG vân tập về thủ đô Hà Nội với một ý hướng chung hoàn thành ngôi nhà Giáo hội PG Việt Nam. Sau hơn nửa thế kỷ, ý nguyện của các nhà chấn hưng Phật giáo đã được thực hiện trọn vẹn.

Lịch sử là một tấm gương trung thực và hàm chứa trong nó bao bài học sâu sắc. Với PG Việt Nam, lịch sử đã chứng minh rõ ràng: thực hành chính pháp và gắn bó cùng dân tộc là lẽ sống còn. Lịch sử đã cho phép tôi xác tín rằng: Dưới ngôi nhà chung Giáo hội PG Việt Nam, tinh thần “Lục hòa vô ngã” và phương châm “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, mọi người con Phật trên đất Việt thân yêu sẽ cùng nhau xây dựng ngôi nhà chung đó ngày thêm tố hảo.

Chân thành cảm ơn quý vị để tâm theo dõi.

 

 

(1) Kỷ yếu Hội nghị Thống nhất PG Việt Nam - 1981

(2) Trong thời gian vận động bắt đầu từ những năm 20 ở Nam Kỳ và dư âm còn kéo dài tới giữa những năm 40, nhưng chính thức các Hội PG ở các miền trong phong trào chấn hưng PG chỉ tồn tại từ năm 1931 đến năm 1941.


 

Đoàn Sinh viên Phật tử Sài Gòn đấu tranh cho tự do tôn giáo (1963)

 

lương hữu định

Năm 1963, sau khi hay tin Hòa thượng (HT) Thích Quảng Đức đã tự thiêu để bảo vệ chánh pháp, toàn thể các giới ở trong nước, nhất là giới trí thức, thanh niên, sinh viên, học sinh, Phật tử hay không phải Phật tử, đã sôi nổi, ồ ạt đứng lên, tham gia tích cực vào phong trào chống chế độ “gia đình trị” của ông Ngô Đình Diệm. Động cơ của sự tham gia này có nhiều, nhưng riêng đối với tôi, thì khi tham gia vào sự kiện này, qua Đoàn Sinh viên Phật tử Sài Gòn thời ấy, thì động lực duy nhất là đòi hỏi tự do tôn giáo. Tôi chỉ xin trình bày các sự kiện dưới con mắt chủ quan của tôi, còn việc đánh giá đúng sai sẽ không nói tới.

1- Sinh viên và Phật giáo:

Gia đình tôi vốn theo đạo Phật, nên thời thơ ấu của tôi đã đậm mùi khói hương, kinh kệ. Cứ mỗi buổi chiều, khoảng 5 giờ, bà ngoại tôi và bà dì tôi lại lên một thời kinh (vì mẹ tôi mất khi tôi mới 4 tuổi). Dì tôi tụng kinh gõ mõ, bà ngoại tôi ngồi lim dim lần tràng hạt. Những ngày lễ, Tết, tôi được theo bà lên chùa. Hình ảnh những ngôi chùa to, những pho tượng đẹp, những tu sĩ trang nghiêm và đáng kính, đã trở thành quen thuộc với tôi. Đến độ bây giờ, chỉ cần nghe tiếng chuông chùa từ xa vọng lại, tôi lại nhớ thấy cảnh kẻ ra người vào tấp nập, miệng luôn chào nhau “A Di Đà Phật”.

Khi ấy, đạo Phật đối với tôi chỉ là những nghi lễ dành cho người lớn, một cách sống của người già. Đối với tuổi trẻ thì chùa là loại thắng cảnh để rủ nhau đi chơi vào những ngày nghỉ, kiểu như “hôm nay em đi chùa Hương, hoa cỏ còn mờ hơi sương” để rồi “em không dám đi mau, sợ chàng chê hấp tấp, số gian nan không giàu”. Còn đối với con nít như tôi hồi đó, thì đức Phật là đấng ban lộc oản chuối, xôi chè.

Cái quan niệm ấy tôi giữ cho tới thời kỳ đi vào đại học, là sinh viên. Khi ấy, đến với Đoàn Sinh viên Phật tử Sài Gòn, tôi chỉ muốn tìm được những người bạn cùng trang lứa, cùng làm việc xã hội: đi thăm các cô nhi viện, các viện dưỡng lão, các làng tình thương, và khi xảy ra thiên tai bão lụt thì đi quyên góp tiền bạc, quần áo, đi cứu trợ. Việc lễ Phật chỉ là một nghi lễ mở đầu hay chấm dứt cho một buổi sinh hoạt.

2- Sinh viên và tự do tín ngưỡng:

Dần dần, việc đi lễ mỗi sáng Chủ nhật trở thành thói quen: sáng Chủ nhật được nghỉ học, ở nhà buồn, đi lễ cho vui. Khi ấy ở chùa Xá Lợi, sau mỗi khóa lễ từ 8 giờ tới 9 giờ, là có một lớp giáo lý ở giảng đường, từ 9 giờ tới 11 giờ. Về sớm cũng chẳng có việc gì làm, tôi vào dự nghe. Từ từ, những bài giảng của đức Thích Ca đến với tôi: Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Bát chánh đạo... Nhất là khi ấy tôi lại học Đại học Văn khoa, được giới thiệu các vấn đề triết học, tôn giáo, triết Đông, triết Tây, nên tôi càng tin tưởng hơn ở một tôn giáo đã có lịch sử 2.500 năm.

Tôi có được biết là ông Diệm theo đạo Thiên Chúa. Ông tin tưởng ở những người Công giáo hơn, người Công giáo được ưu đãi hơn. Nhưng chưa có gì lộ liễu, cho tới đầu năm 1963.

Tháng Tư năm ấy, ông Diệm tuyên bố không thừa nhận Phật Đản là ngày lễ chính thức và không cho phép treo cờ tôn giáo ngoài phạm vi cơ sở tôn giáo, đúng vào dịp sắp tới lễ Phật Đản. Cuộc tranh đấu của Phật giáo (PG) bắt đầu, đòi bình đẳng tôn giáo. Còn đối với tôi, đó là đòi tự do tín ngưỡng, một trong những quyền căn bản của con người. Tôi chỉ còn nhớ được vài sự kiện chính :

Ngày 8-5-1963, đêm trước Phật Đản, tại Huế, các đồng bào Phật tử tụ tập trước Đài Phát thanh để đợi nghe phát đi bài thuyết pháp của thầy Trí Quang đã được ghi âm từ buổi sáng. Nhưng bài ấy đã không được phát thanh, có thể là vì trong đó thầy đòi treo cờ PG. Đồng bào Phật tử tụ tập càng lúc càng đông, chính quyền Huế cho xe tăng ra đàn áp. Đồng bào không chịu giải tán, kết quả có 8 người bị xe tăng cán chết. Những tấm hình chụp được gửi đi các nơi, mọi người phẫn uất.

Ngày 25-5, Ủy ban Liên phái Bảo vệ PG được thành lập để lãnh đạo cuộc tranh đấu đòi tự do tôn giáo. Nguyên tắc tranh đấu là bất bạo động : chỉ tổ chức những buổi thuyết pháp, tuyệt thực, biểu tình, phổ biến thông tin... Đoàn Sinh viên Phật tử đặc biệt đóng góp vào việc thông tin trong giới học sinh, sinh viên, để mọi người biết rõ sự thực, vì khi ấy chính quyền miền Nam kiểm duyệt chặt chẽ báo chí, chỉ đưa ra những tin tức có lợi cho Nhà nước.

Ngày 11-6, HT Thích Quảng Đức tự thiêu. Một hình thức tranh đấu đặc biệt của Phật giáo để bảo vệ chánh pháp.

Ngày 20-8, chính quyền miền Nam bắt đầu một cuộc bắt bớ rộng khắp, đầu tiên là các Tăng Ni ở trong chùa, sau tới các Phật tử ở nhà. Nhiều đoàn viên sinh viên Phật tử đã bị bắt vào dịp này, trong đó có tôi. Đầu tiên, chúng tôi bị tạm giữ ở Tổng nha Cảnh sát đô thành để lấy lời khai. Vì chẳng có gì phải giấu diếm, nên việc lấy cung rất nhanh. Sau đó, chúng tôi được đưa qua trại Lê Văn Duyệt, gọi là để học tập, cho tới ngày 1-11. Đối với chúng tôi, những ngày tháng ở trại Lê Văn Duyệt chỉ lưu lại những kỷ niệm vui nhiều hơn là buồn.

3- Bi, Trí và Dũng:

Nhìn lại thời kỳ sinh hoạt với Đoàn Sinh viên Phật tử và nhất là qua cuộc tranh đấu cho tự do tôn giáo, tôi thấy rõ ba giai đoạn thể hiện ba mức độ mà tôi đến với Đoàn:

Đầu tiên chỉ là một ước muốn được đóng góp một cái gì đó cho xã hội, cho những người nghèo khổ; vì biết riêng mình chẳng làm được gì, nên tôi đã đến với Đoàn Sinh viên Phật tử để gặp những người bạn cùng ước mơ ấy. Đó là Bi.

Rồi trong thời gian học ở Đại học Văn khoa, tôi được biết về các vấn đề nhân sinh quan, vũ trụ quan, bản thể luận, cũng như các hệ thống triết học nhằm giải quyết những vấn đề căn bản ấy. Nên khi theo các lớp giáo lý PG, tôi thấy đó là cả một hệ thống triết học toàn diện, chứ không chỉ là những nghi thức trong đời sống hàng ngày. Theo Phật không chỉ là tụng kinh, gõ mõ, lễ Phật, ăn chay... dành cho ông già bà cả hay giới Tăng sĩ, mà còn là cả một quan niệm sống, một cách sống dành cho giới trẻ, giới trí thức. Càng biết nhiều càng say mê, đó là Trí.

Còn Dũng thì thật là khó khăn. Dũng không phải là khỏe mạnh để đi đánh nhau với người khác, mà Dũng là sức mạnh để tự thắng mình. Ngồi yên đó để cho bị đánh đập, bị giam cầm, nhịn đói để biểu lộ sự phản đối, tự thiêu để cảnh tỉnh. Tôi nhìn hình ảnh HT Quảng Đức ngồi giữa ngọn lửa bốc lên, tôi nhớ tới hình ảnh Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập giá. Người ta nói trái tim của HT không cháy vì khi ấy tâm trí Ngài tập trung về trái tim với ước nguyện cầu cho nhà cầm quyền thức tỉnh, cầu cho PG đồ mau qua cơn pháp nạn. Tôi liên tưởng tới lời cầu xin của Chúa Giê-su trước khi tắt thở: “Lạy Cha, xin Cha tha thứ cho những người này vì họ không biết việc họ đang làm”.

l   Kết luận: Khế lý và khế cơ

Thì ra, nếu chỉ hiểu PG qua các biểu hiện ở bên ngoài thì dễ hiểu lầm PG. Nếu chỉ tụng kinh và y kinh chú giải, thì dễ oan tam thế Phật lắm. Còn có vị thiền sư chỉ giác ngộ khi ông thầy chẻ pho tượng Phật bằng gỗ, bỏ vào đống lửa để sưởi ấm một đêm giá lạnh, tuyết rơi trong hang đá. Tìm trong kinh không thấy, tìm trong ảnh tượng lại càng bị trói buộc. Vậy mà khi đi vào đời, tới với người nghèo khổ, những lúc bản thân hay gia đình gặp khó khăn, hoạn nạn, thì lời dạy của đức Thế Tôn lại vang lên, chỉ đường giải thoát. Người ta đã nói về đạo Phật cho giới cư sĩ, cho giới trẻ, cho ngày nay. Khi biết khế lý và khế cơ, thì PG sẽ là của mọi người, mọi thời đại.

Sau năm 1964, tôi hết là sinh viên và cũng vì bị lôi cuốn theo dòng đời, tôi đã rời Đoàn Sinh viên Phật tử, chúng tôi ít có dịp gặp lại nhau, nhưng chắc chắn là ở bất cứ nơi nào, chúng tôi vẫn nhớ đến nhau vì lòng cùng hướng về một đấng Từ Phụ.

Tháng 4-1998

 

Về phong trào Phật giáo Sài Gòn năm 1963

 

PTS LÊ CUNG

(Đại học Sư phạm Huế)

Trong lịch sử phát triển gần 2000 năm của Phật giáo (PG) Việt Nam, phong trào PG miền Nam năm 1963 có một dấu ấn hết sức quan trọng. Đối với đất nước, phong trào này “đã ghi đậm nét trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân miền Nam” (25, 64). Có thể nói rằng, từ sau thời đại Lý - Trần đến nay, trong nhiệm vụ phục vụ dân tộc và đạo pháp của PG Việt Nam, chưa có sự kiện nào có qui mô và tiếng vang rộng lớn như phong trào PG miền Nam năm 1963. Tuy nhiên, phải khách quan mà thừa nhận rằng, trong suốt 35 năm qua, cả giới sử học Việt Nam và phía PG vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào ngang tầm với phong trào này. Trong ý hướng tiến đến việc nghiên cứu phong trào PG miền Nam năm 1963 một cách có hệ thống và toàn diện, bài viết này xin được góp phần tìm hiểu phong trào PG Sài Gòn năm 1963.

* * *

Ngày 6-5-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm (NĐD) ra lệnh cấm treo cờ PG thế giới trong dịp lễ Phật Đản 2507-1963 bằng công điện số 9159. Tiếp theo, chính quyền NĐD gây ra vụ thảm sát tại Đài Phát thanh Huế đêm 8-5-1963 làm 8 Phật tử thiệt mạng và nhiều người khác bị thương. Tin “tình trạng bi đát” ở Huế lan nhanh vào Sài Gòn khiến cho phong trào PG ở đây phát khởi. Mở đầu, ngày 9-5-1963, dưới hình thức của một “lá tâm thư” gởi toàn thể Tăng tín đồ, giới lãnh đạo PG Sài Gòn đã vạch trần những tội ác của chính quyền NĐD trong suốt gần 9 năm thống trị, rằng “Phật tử chúng ta (cả xuất gia và tại gia) có nơi bị chôn sống, bị vu khống, bị tù đày, bị thiên cư, bị nhục mạ, ngày nay lại thêm một cái tát đau đớn nữa là lá cờ PG quốc tế - linh hồn của PG - bị hủy bỏ ngay ngày kỷ niệm đấng Giáo chủ của chúng ta, đến nỗi cuộc hy sinh vì đạo đã phải diễn ra tại Huế”, đồng thời kêu gọi “toàn thể Phật giáo đồ, không phân biệt xuất gia hay tại gia, người Việt hay ngoại kiều, hễ ai còn nhiệt tâm vì đạo, chúng ta hãy tự bình tĩnh, luôn luôn muôn người như một, sẵn sàng bảo vệ đạo, chết vì đạo” (16).

Ngày 10-5-1963, trong cuộc mít-tinh của Tăng Ni, Phật tử tại chùa Từ Đàm - Huế, giới lãnh đạo PG miền Nam đã đưa ra Tuyên ngôn gồm 5 nguyện vọng tối thiểu (*), khẳng định mục tiêu và quyết tâm tranh đấu của mình: “Chúng tôi sẵn sàng hy sinh cho đến lúc nào những nguyện vọng hợp lý trên đây được thực hiện” (1).

Trong khí thế phong trào ở Huế đang lên mạnh, ngày 14-5-1963, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) ra tuyên bố vạch rõ: “Cuộc đàn áp đẫm máu của chính quyền phát-xít Mỹ-Diệm đối với đồng bào biểu tình tay không ngày 8-5 ở Huế là một hành động tội ác tày trời không thể tha thứ được đối với nhân dân ta nói chung và đối với đồng bào theo đạo Phật nói riêng... Cuộc đàn áp đẫm máu lần này đã bóc trần lời của Mỹ-Diệm vẫn thường vỗ ngực xưng là hữu thần, là tôn trọng tự do tín ngưỡng, và nhất định nó sẽ càng nung nấu thêm lòng căm thù và chí kiên quyết tiêu diệt chúng của tín đồ các tôn giáo ở miền Nam Việt Nam” (9, 227). Trong tình hình đó, ngày 15-5-1963, NĐD phải chịu tiếp phái đoàn PG, gồm các vị Tăng già, cư sĩ cao cấp của Nam tông và Bắc tông tại Sài Gòn. Tại cuộc gặp mặt này, ngoài 5 nguyện vọng đã nêu trong bản Tuyên ngôn ngày 10-5-1963, phái đoàn PG Sài Gòn còn ghi thêm 2 nguyện vọng sau:

“1- Chính phủ đảm bảo an ninh cho một phái đoàn ra thăm PG đồ tại Huế và an ủi các gia đình nạn nhân.

“2- Ra lệnh cho các cấp quân dân chính đừng làm điều gì trở ngại những buổi lễ cầu siêu cho vong linh nạn nhân ở khắp các chùa toàn quốc theo chỉ thị của Tổng hội PG” (43, 66).

Cuộc gặp hai bên kéo dài hơn 3 tiếng đồng hồ, nhưng không một nguyện vọng nào của PG được giải quyết; ngược lại, NĐD cho rằng thủ phạm tại Đài Phát thanh Huế là do phía những người cộng sản gây ra.

Khi phái đoàn PG trở về chùa Xá Lợi, họ đã bị Tăng Ni, Phật tử phản ứng dữ dội. Điều này thể hiện rõ trong văn thư ngày 17-5-1963 của trưởng phái đoàn PG gởi cho Bộ trưởng Công dân vụ Ngô Trọng Hiếu: “Chúng tôi trở về tới chùa Xá Lợi được một số Tăng Ni chừng vài trăm vị đã túc trực tại đó để chào đón phái đoàn và yêu cầu chúng tôi cho biết kết quả cuộc tiếp kiến Tổng thống... Thuyết trình xong thì Tăng chúng nhao nhao phát biểu ý kiến, cho rằng phái đoàn đã không đem lại kết quả nào cụ thể cả, chỉ có vấn đề cờ được thỏa mãn một phần nào mà thôi. Rồi phái đoàn chúng tôi bị chỉ trích kịch liệt” (38).

Không chịu lùi bước trước những ngang ngược của chính quyền NĐD, ngày 16-5-1963, giới lãnh đạo PG Sài Gòn tổ chức họp báo tại chùa Xá Lợi, chính thức công bố bản Tuyên ngôn ngày 10-5-1963. Về cuộc hội ngày hôm trước, giới lãnh đạo PG cho biết không một ai thỏa mãn. Tiếp theo, ngày 17-5-1963, tại chùa Ấn Quang, một cuộc trưng bày những hình ảnh về vụ thảm sát tại Huế cũng được tổ chức. Tất cả đã có một sức thuyết phục to lớn đối với dư luận về cái lý mà PG phải đứng dậy đấu tranh.

Ngày 21-5-1963, một cuộc lễ cầu siêu cho các nạn nhân bị thảm sát tại Huế được tổ chức trên toàn miền Nam, thu hút hàng triệu tín đồ tham gia. Tại chùa Ấn Quang, từ sáng sớm có rất đông PG đồ tập trung để dự lễ cầu siêu. Số người tham gia đông ngoài sức dự kiến của Ban tổ chức. Sau lễ cầu siêu, dưới hình thức “rước linh”, gần 1.000 Tăng Ni đã tổ chức một cuộc biểu tình hòa bình từ chùa Ấn Quang về chùa Xá Lợi. Họ chỉ mang theo một biểu ngữ viết bằng tiếng Việt và tiếng Anh: “Tưởng nhớ những Phật tử Việt Nam đã chết vì chính nghĩa ở Huế”. Đoàn biểu tình đi lặng lẽ, không hô khẩu hiệu, nhưng một hệ thống loa phóng thanh gắn ở dọc đường đã phát đi những khẩu hiệu đòi thực hiện những yêu sách của PG. Nhân dân Sài Gòn đã làm đúng yêu cầu của giới lãnh đạo PG là ủng hộ cuộc đấu tranh nhưng không tham gia tuần hành. Lần đầu tiên, tại Sài Gòn, PG đã chính thức đưa cuộc đấu tranh từ trong nhà chùa ra ngoài đường phố, tới các công trường.

Ngày 25-5-1963, một hội nghị đại biểu của 11 tông phái và các đoàn thể PG được tổ chức tại chùa Xá Lợi để thảo luận kế hoạch đấu tranh. Hội nghị cho thành lập Ủy ban Liên phái Bảo vệ PG (UBLPBVPG). Sự kiện này có ý nghĩa rất quan trọng, nó thể hiện sự thống nhất ý chí và lực lượng của PG Sài Gòn trong cuộc đấu tranh. Hội nghị ra Tuyên ngôn “ủng hộ toàn diện 5 nguyện vọng tối thiểu... Nguyện đoàn kết đến cùng trong cuộc tranh thủ bất bạo động và hợp pháp để thực hiện những nguyện vọng ấy” (43, 73).

Trước những yêu sách của PG, chính quyền NĐD trước sau vẫn không thay đổi. Thái độ này đã làm cho giới lãnh đạo PG nhận thức rằng các cuộc điều đình và những yêu sách nhất định không thể đưa lại kết quả, mà cần phải có những biện pháp quyết liệt hơn. Điều này được tỏ rõ trong thư văn ngày 24-5-1963 của Hòa thượng (HT) Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam gởi NĐD: “Để cho những nguyện vọng tối thiểu và hoàn toàn thuộc phạm vi tín ngưỡng ghi trong bản Tuyên ngôn và bản Phụ đính của chúng tôi được thấu hiểu và chấp thuận, tôi thiết nghĩ PG đồ - mà Tăng sĩ PG là phần chính - phải có một cách nào hơn những việc đã làm. Do đó, tôi đã chỉ thị cho các vị lãnh đạo thuộc sáu tập đoàn PG Việt Nam sẽ tuyệt thực 48 giờ đồng hồ, có bác sĩ giám hộ, kể từ 14 giờ 30 ngày 30-5-1963” (43, 78).

Chấp hành chỉ thị trên đây, ngày 30-5-1963, từ 14 giờ 30, cuộc tuyệt thực của giới lãnh đạo PG được tiến hành trên toàn miền Nam. Tại Sài Gòn, trước giờ tuyệt thực, gần 400 Tăng Ni đã biểu tình ngồi trước trụ sở Quốc hội Diệm. Chính quyền NĐD đã huy động lực lượng cảnh sát, công an mật vụ, lực lượng đặc biệt chống biểu tình và chỉ cần đoàn biểu tình có một bạo động nhỏ nhoi để “bạo động” gấp ngàn lần. Nhưng đoàn biểu tình chỉ có những đầu trọc và những bàn tay chắp, khiến bạo lực phải khoanh tay và thất bại trước sức mạnh tinh thần (29). Cùng với Sài Gòn, những cuộc biểu tình phản đối chính quyền NĐD đàn áp PG diễn ra trên khắp miền Nam, đặc biệt tình hình ở Huế trở nên hết sức căng thẳng. Các chùa Từ Đàm, Báo Quốc, Linh Quang đều bị lực lượng Diệm phong tỏa.

Trong lúc đó, khắp nơi trên thế giới đưa tin về cuộc đấu tranh chính nghĩa của PG, phóng viên cùng quan sát viên quốc tế đổ tới Sài Gòn càng lúc càng đông. Để giảm bớt tình hình căng thẳng, ngày 1-6, Diệm cách chức các viên chức cao cấp trong bộ máy chính quyền ở Thừa Thiên-Huế. Tới ngày 4-6, chính quyền NĐD cho thành lập Ủy ban Liên bộ (UBLB) để “nghiên cứu và đề xuất từng bước nhằm giải quyết những vấn đề đang tồn tại từ ngày 8-5” (45, 126).

Mặc dầu ý thức được rằng đây chỉ là một âm mưu hoãn binh của chính quyền NĐD, song tuân thủ đúng đường lối bất bạo động, phía PG vẫn chấp nhận “hợp tác” với UBLB. Ngày 5-6, cuộc hội đàm hai bên được tiến hành. Cuộc hội đàm kéo dài 6 giờ đồng hồ, nhưng không đem lại một kết quả cụ thể nào, trừ việc thỏa thuận cử một phái đoàn ra Huế để giải quyết tình trạng đang căng thẳng tại đây. Tuy nhiên, chính quyền NĐD đã tìm cách đánh lừa dư luận bằng cách phát đi một “Thông cáo chung” nói rằng “hai bên đã gặp gỡ trong bầu không khí thân ái và hiểu biết lẫn nhau” (20). Giới lãnh đạo PG đã vạch rõ rằng họ không hề ký một bản tuyên bố chung nào cả: “Chúng tôi từ chối không ký vào bản tuyên bố chung và việc công khai rằng bản tuyên bố chung đó đã được ký kết là một biểu hiện của sự thiếu thiện chí của Chính phủ” (20).

Trước thái độ cương quyết của giới lãnh đạo PG, chính quyền NĐD buộc phải rút bỏ lệnh phong tỏa các chùa ở Huế, để được xem như là một “thiện chí” trong cách giải quyết. Tuy nhiên, trên thực tế, chính quyền NĐD vẫn ngấm ngầm bắt cóc, thủ tiêu Tăng Ni, Phật tử, vu khống họ là “cộng sản nằm vùng”, cho công an mật vụ len lỏi vào các quán ăn, tiệm cà-phê để theo dõi và bắt giam những người bàn tán về cuộc đấu tranh của PG. Tại Huế, chính quyền NĐD xúi giục các gia đình có con em tử nạn trong vụ đàn áp tại Đài Phát thanh, xin rút ra khỏi danh sách Phật tử, danh sách Thánh tử đạo. Tại Sài Gòn, Diệm cho mật vụ giả danh Phật tử, Tăng Ni vào các chùa để do thám và xúi giục nhằm chia rẽ hàng ngũ Phật giáo. Nổi bật nhất là chính quyền NĐD tìm cách làm mất uy tín Tổng hội PG Việt Nam, coi nó như là một nhóm phân liệt, bằng cách cho khánh thành một ngôi chùa mới ở Sài Gòn cho phái PG Cổ sơn môn, một giáo phái không được Tổng hội PG Việt Nam thừa nhận. Jerrold Schecter viết: “Cách lập luận của Chính phủ là phái Cổ sơn môn sẽ chia rẽ hàng ngũ những người PG và sẽ làm mất giá trị và uy tín phong trào của họ. Đó là một chiến thuật quen thuộc của Diệm nhằm làm chia rẽ lực lượng chống đối ông (46,176). Ngày 8-6-1963, Phong trào Phụ nữ Liên đới ra thông cáo lên án những người PG. Trong tình thế ấy, giới lãnh đạo PG bị bắt buộc phải đưa cuộc đấu tranh lên một mức độ cao hơn.

Ngày 11-6-1963, tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám-Nguyễn Đình Chiểu), HT Thích Quảng Đức đã anh dũng tự thiêu trước sự chứng kiến của hàng chục ngàn Tăng Ni, Phật tử cùng những quan sát viên quốc tế. Lực lượng Diệm được điều động đến để hòng phá tan cuộc tự thiêu, nhưng bị thất bại vì Tăng Ni, Phật tử đã kiên quyết bảo vệ bằng cách vây quanh nhiều vòng. Có người nằm lăn trước xe cứu hỏa, xe cảnh sát không cho can thiệp. “Cuộc hy sinh phi thường và dũng cảm của HT Thích Quảng Đức, hình ảnh cụ ngồi ngay thẳng như tượng đá trong ngọn lửa rực hồng đã nhanh như một làn sóng điện làm sôi nổi dư luận trong cả nước Việt Nam và trên thế giới. Ảnh của vị HT Việt Nam Thích Quảng Đức ngồi trong ngọn lửa được đăng trên hầu hết các báo khắp năm châu, với những dòng chữ nói lên sự khâm phục” (9, 342).

Thật vậy, ở trong nước, “cái chết vô úy của HT Quảng Đức là một hồi chuông cảnh tỉnh cho mọi người, một tiếng gọi đàn cho hàng tứ chúng” (4). Hành động cao cả của Thích Quảng Đức đã làm tăng thêm sự công phẫn của nhân dân miền Nam, kể cả tín đồ Thiên Chúa giáo, đối với chính quyền NĐD. Nó được xem như là một lời kêu gọi khẩn thiết đối với tất cả những ai có lương tri hãy đứng lên chống lại chế độ độc tài gia đình trị NĐD. Ngày 12-6, tại chiến khu, Ủy ban Trung ương MTDTGPMNVN đã long trọng tổ chức lễ truy điệu Thích Quảng Đức. Xã luận báo Nhân Dân, số ra ngày 13-6 viết: “Gương hy sinh anh dũng của HT Thích Quảng Đức là một sự tố cáo, lên án trước dư luận toàn thế giới chế độ độc tài cực kỳ tàn bạo của bọn Mỹ-Diệm. Chế độ ấy phải bị đánh đổ. Mười bốn triệu đồng bào miền Nam quyết đánh đổ chế độ ấy” (19).

Về phía Giáo hội Thiên Chúa giáo, ngay từ đầu của cuộc đấu tranh, có người đã lên tiếng tố cáo Diệm và bày tỏ sự ủng hộ đối với cuộc đấu tranh của PG. Sau cái chết của Thích Quảng Đức, ngày 16-6-1963, Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình, cai quản giáo khu Sài Gòn, đã chính thức lên tiếng trong một bức thư luân lưu. Bức thư xác định rõ: “Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam hoàn toàn đứng ngoài cuộc tranh chấp, mặc dù vai trò chủ động gây ra cuộc tranh chấp là tín đồ Thiên Chúa giáo” (33, 166). Trong bức thư thứ hai gởi cho các hàng tu sĩ và tín đồ Thiên Chúa giáo trước lúc lên đường đi La Mã tham dự Công đồng Vatican II, Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình nhấn mạnh: “Giáo hội không những không gây nên biến cố, mà còn đau đớn vì những tai họa đã và còn là ác quá của biến cố” (33, 167).

Đối với thế giới, sự hy sinh của Thích Quảng Đức là “một hành động tiêu biểu vĩ đại. Nó không chỉ chống lại chế độ Diệm, để chỉ sự hiện hữu của PG và được để ý tới, mà nó còn có ý nghĩa chống lại sự bất công, bất chính của toàn thế giới... Với một hành động lặng thinh, không nói một lời, một vị HT Việt Nam đã nêu ra một tấm gương sáng rùng rợn, một kháng nghị cao đẹp, lộng lẫy, chống lại mọi xấu xa, đê hèn của loài quỷ sứ đang còn tồn tại trong thế giới này” (7, 37-38). “Đây là một trạng thái mới lạ và huyền ảo của bất bạo động. Nó chứng tỏ rõ rệt cái uy quyền tối thượng của tinh thần. Không một bạo lực nào có thể làm suy giảm được tâm hồn, sức chịu đựng của một cá thể đối với mọi ức chế đàn áp chính trị độc tài thật vô biên” (26, 93).

Ngày 30-6-1963, trong một bài giảng tại một nhà thờ lớn ở New York, mục sư Donalds Harrington đã xem cái chết của Thích Quảng Đức giống như cái chết của Chúa Giê-su, Michel Servetus, Jeanne d’ Arc. Ông cho rằng hành động mổ bụng của người Nhật cũng không thể nào so sánh nổi với sự tự thiêu của Thích Quảng Đức, tuy rằng gan dạ như nhau, bởi vì “sự tự thiêu của Ngài đã cứu vớt bao nhiêu sinh linh đang chìm đắm trong khổ hận, kẻ đàn áp cũng như kẻ bị đàn áp đều bừng tỉnh. Ngài đã tô đậm nét vàng son vào trang sử huy hoàng của PG và dân tộc” (26, 112).

“Tại Hoa Thịnh Đốn ngày 12-6-1963, nhân dân Mỹ đã đón nghe một cách xúc động tin cuộc biểu tình tranh đấu của giới Phật tử miền Nam” (11). Vụ tự thiêu đã gây nên một chấn động mạnh, đặc biệt làm cho dư luận Mỹ quay sang chống NĐD và gia đình y. “Uy thế của Mỹ-Diệm bị một cú đánh tinh thần mạnh như trời giáng” (9, 343).

Trên thực tế, cái chết của Thích Quảng Đức đã “có một tầm quan trọng rất lớn và đã chuyển mạnh cuộc vận động của PG sang một thế mới, trên cả hai bình diện quốc nội và quốc tế... Nó thúc đẩy cuộc vận động cho PG ở Việt Nam cũng như ở quốc tế tiến mạnh, tiến nhanh” (28).

Thật vậy, cái chết của Thích Quảng Đức đã làm rung chuyển chính quyền NĐD. Chiều ngày 11-6-1963, chính quyền NĐD ra lệnh phong tỏa các chùa, nhất là chùa Xá Lợi, nơi đang đặt thi hài của Thích Quảng Đức. Khắp các nẻo đường dẫn về chùa Xá Lợi, cảnh sát được huy động để ngăn chặn làn sóng người đang đổ xô về đây. Buổi tối cùng ngày, qua đài truyền thanh, NĐD đọc thông điệp lên án vụ tự thiêu của Thích Quảng Đức là do “một số người bị đầu độc gây án mạng” (37) và “kêu gọi đồng bào hãy bình tĩnh nhận định tình thế” (37). Lời lẽ trong thông điệp một lần nữa bộc lộ bản chất độc tài của Diệm, khi y tuyên bố: “ Sau lưng PG trong nước còn có Hiến pháp, nghĩa là có tôi” (37).

Mặc dầu vậy, những con đường dẫn về chùa Xá Lợi, cảnh sát đã bị làn sóng người tràn ngập. Ngày 12-6-1963, giới lãnh đạo cao cấp của PG từ Huế vào Sài Gòn trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh ở đây. Đám tang của Thích Quảng Đức được ấn định vào ngày 16-6 và giới lãnh đạo PG dự định sẽ tổ chức vào dịp này một cuộc biểu tình lớn để phản kháng chính quyền NĐD không chịu giải quyết các nguyện vọng đã đề ra. Lo sợ một sự bùng nổ lớn vào ngày 16-6, chính quyền NĐD cấp tốc mở cuộc điều đình với giới lãnh đạo PG. Buổi họp đầu tiên được tổ chức từ ngày 14-6. Sau 4 buổi họp, một bản Thông cáo chung được ký kết vào lúc 2 giờ sáng ngày 16-6-1963.

Nội dung bản Thông cáo chung về cơ bản thỏa mãn được 5 nguyện vọng mà giới lãnh đạo PG đã đề ra trong bản Tuyên ngôn ngày 10-5-1963. Đứng về phương diện thương thuyết, việc ký kết bản Thông cáo chung là một thắng lợi lớn của phía PG.

Dĩ nhiên, giới lãnh đạo PG quá thừa hiểu bản chất của chính quyền NĐD, nên họ không tin tưởng một cách ngây thơ rằng bản Thông cáo chung sẽ được thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Trong Thông bạch gởi toàn thể Tăng Ni, Phật tử ngày 17-6, HT Thích Tịnh Khiết, lãnh đạo tối cao của UBLPBVPG, viết: “Một điều quan trọng mà tất cả Tăng Ni và Phật tử đều thắc mắc tự hỏi : Liệu những lời cam kết được ghi trong bản Thông cáo này có được thực thi đúng đắn khắp nơi trong nước hay không ? Điều đó còn đợi thời gian trả lời, tuy nhiên chúng ta tin tưởng ở những lời tuyên bố của Tổng thống và UBLB, nếu những lời cam kết không được thực thi đúng thì đó không phải là trách nhiệm của chúng ta” (43, 143-144).

Để tỏ thiện chí, giới lãnh đạo PG còn ra lệnh hoãn đám tang Thích Quảng Đức và kêu gọi quần chúng ở nhà (vì đám tang đã được hoãn lại) và “hãy trở lại nếp sống bình thường, thành tâm cầu nguyện cho bản Thông cáo chung, một văn kiện được cam kết long trọng giữa Chính phủ và PG được thi hành nghiêm chỉnh” (43, 144).

Về phía quần chúng Phật tử, mặc dầu có lời kêu gọi của giới lãnh đạo PG, nhưng sáng ngày 16-6, một khối lượng quần chúng 700.000 người đã đổ ra đường phố kéo về chùa Xá Lợi, nơi đặt thi hài của Thích Quảng Đức. Cuộc xô xát giữa quần chúng và lực lượng cảnh sát đặc biệt của Diệm xảy ra ở ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Thanh Giản. Thanh niên, học sinh, phụ nữ, bà già đã hăng hái chiến đấu hàng mấy giờ đồng hồ. “Quần chúng hòa với nhau như những giọt nước trong đại dương và trong tình yêu, người ta tự thấy mình lớn lên và không còn sợ hãi nữa” (28). “Đây là cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt nhất ở Sài Gòn trong mấy năm nay. Nó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chế độ độc tài phát-xít Mỹ-Diệm, đẩy chúng vào tình trạng bị cô lập hơn bao giờ hết” (24).

Thái độ hòa hoãn của giới lãnh đạo PG đã làm nhiều người nóng nảy bất mãn. Họ sợ rằng giới lãnh đạo PG chỉ quan tâm đến việc thỏa mãn 5 nguyện vọng, chứ không nghĩ đến nguyện vọng của quần chúng về tự do, dân chủ và công bằng. Để cho quần chúng khỏi ngộ nhận về mục tiêu đấu tranh, trong lần giải thích về bản Thông cáo chung ngày 23-6 tại chùa Ấn Quang, giới lãnh đạo PG đã chỉ ra rằng: “Có người đã đi tới chỗ cho rằng các nhà lãnh đạo PG đã bị mua chuộc”. Về nguyện vọng của quần chúng, giới lãnh đạo PG cho rằng: “Có bình đẳng tôn giáo sẽ có bình đẳng về mọi mặt. Bình đẳng chẳng phải là thực chất thiết yếu của dân chủ, tự do ư ? PGViệt Nam đã hiểu rõ nhu cầu của dân tộc và đã đặt cuộc vận động trong cuộc đấu tranh của dân tộc” (28).

Về phía chính quyền NĐD, chúng ra lệnh loan truyền bản Thông cáo chung ngay khi vừa được ký kết bằng xe phóng thanh của Bộ Thông tin. Điện tín đánh đi các tỉnh loan tin về nội dung của bản Thông cáo chung. Đài Phát thanh Sài Gòn loan tin trên ngay khi trời chưa sáng. Thực ra, đối với chính quyền NĐD, việc ký kết Thông cáo chung chỉ là một kế hoãn binh, một sự nhượng bộ tạm thời để chuẩn bị cho một cuộc đàn áp đại quy mô nhằm đè bẹp phong trào. Âm mưu này được tiết lộ trong một bức mật điện mang số 13242/VP/TT ngày 19-6-1963 của Văn phòng Phủ Tổng thống đánh đi cho các Đại biểu Chính phủ các miền, Tư lệnh các vùng, nguyên văn như sau: “Để tạm thời làm dịu tình hình và khí thế đấu tranh quá quyết liệt của bọn Tăng Ni và PG phản động, Tổng thống và ông Cố vấn ra lệnh tạm thời nhún nhường họ. Các nơi hãy theo đúng chủ trương trên và đợi lệnh. Một kế hoạch đối phó thích nghi sẽ gởi đến sau. Ngay từ bây giờ, hãy chuẩn bị dư luận cho giai đoạn tấn công mới, hãy theo dõi, điều tra, thanh trừng những phần tử PG bất mãn và trình thượng cấp, kể cả sĩ quan và công chức cao cấp” (15, 421). Trong một cuộc họp của 18 tướng tá vào đầu tháng 7-1963, Ngô Đình Nhu tuyên bố: “Nếu chính phủ này không giải quyết vấn đề PG, nó sẽ bị lật đổ vì một cuộc đảo chánh quân sự” (46, 197). Theo Nhu, “bất cứ chính phủ nào thay thế chính phủ này trước hết phải đập tan những người PG” (46, 182).

Vạch trần những âm mưu trên đây của chính quyền NĐD, ngày 21-6, Ủy ban Trung ương MTDTGPMNVN ra lời kêu gọi đồng bào miền Nam và tín đồ theo đạo Phật hãy nâng cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh. Lời kêu gọi viết: “Hiện nay, tuy ngoài mặt bọn Mỹ-Diệm chịu nhận giải quyết một số yêu sách của đồng bào theo đạo Phật, nhưng cuộc đấu tranh chưa kết thúc. Với bản chất ngoan cố và xảo quyệt, Mỹ-Diệm vẫn tìm đủ mọi cách để hãm hại và đàn áp đồng bào... Vì vậy, đồng bào theo đạo Phật cũng như các tầng lớp nhân dân quyết không vì những lời hứa hẹn xảo quyệt của bọn Mỹ-Diệm mà buông lơi và bỏ dở cuộc đấu tranh. Ngược lại, chúng ta cần tăng cường đoàn kết hơn nữa để kịp thời vạch trần mọi mưu đồ xảo quyệt của chúng, buộc chúng phải tôn trọng những lời chúng đã hứa, trả lại tự do cho những người bị bắt, bồi thường cho những người bị thương, những gia đình có người chết và chấm dứt ngay những hành động khủng bố trả thù đối với đồng bào theo đạo Phật và các tầng lớp nhân dân” (21).

Đúng như nhận định trên đây, ngay sau khi Thông cáo chung được ký kết, bằng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau, chính quyền NĐD liên tiếp gây ra những vụ vi phạm Thông cáo chung. Sau đây là một số vụ vi phạm tiêu biểu tại Sài Gòn:

- Ngày 18-6, chính quyền NĐD cho phái Lục hòa Tăng thành lập Tổng hội PG, lấy tên là Tổng hội PG Cổ sơn môn để chống lại phong trào PG. Tổ chức này mới xuất hiện đã bị đồng bào Sài Gòn đả kích mạnh mẽ. Ngày 29-6, Tổng hội PG Cổ sơn môn đánh điện cho Hội PG Sri Lanka, tố cáo Tổng hội PG Việt Nam, “một chi nhánh của Hội PG Sri Lanka”, đang lợi dụng danh nghĩa của Hội để hoạt động chính trị và yêu cầu Hội PG Sri Lanka lên tiếng phản đối.

Ngay sau khi nhận được điện văn, ông W.P.Daluwatte, Tổng Thư ký Hội PG Sri Lanka, đã có điện tín trả lời cho PG Cổ sơn môn rằng: “Hội chúng tôi không có chi nhánh nào ở Việt Nam cũng như ở nơi khác... Mặt khác, chúng tôi cũng biết rằng tại Việt Nam có một Tổng hội PG, và theo như chỗ chúng tôi biết, Tổng hội này có đủ uy tín để đại diện và thay lời cho Phật tử Việt Nam. Chúng tôi tin chắc rằng Tổng hội PG Việt Nam này không bao giờ làm những điều gì trái hoặc thái độ nào có thể gọi là phản PG... Hơn nữa, PG Sri Lanka đã tỏ thái độ rõ rệt của họ về những biến cố vừa rồi ở Việt Nam và họ đã phản đối mạnh mẽ những hành động kỳ thị tôn giáo và những đối xử có tánh cách lăng nhục. Chúng tôi đã yêu cầu Chính phủ chúng tôi và Hội PG Thế giới dùng mọi biện pháp khả dĩ xoa dịu và cải thiện những lỗi lầm đã xảy ra. Chúng tôi đang tiếp tục công việc này, quý Ngài có thể phổ biến bức thư này theo ý muốn của quý Ngài” (33, 66-67).

- Ngày 1-7, trong một lần giải thích về Thông cáo chung tại trụ sở Thanh niên Cộng hòa, Ngô Đình Nhu ra sức công kích, nhục mạ PG, gán cho những người biểu tình đấu tranh chống đối từ ngày 8-5 là những “phần tử phiến loạn”. Đối với giới lãnh đạo PG, Nhu cho là “rất hăng hái lợi dụng xuyên tạc một cách trắng trợn và ngoan cố để đầu độc một số tín đồ và gây áp lực với các vị đại đức từ bi, hầu phát động một chiến dịch bất tuân pháp luật”, rằng “sự nguy hiểm trong việc thiếu giáo dục, thiếu học tập, thiếu cảnh giác nhân dân, để một số bất cứ lúc nào cũng trở thành cuồng tín” (43, 150)... Về sự hy sinh của Thích Quảng Đức, Nhu cho là “một vụ làm chết người có tổ chức, bằng cách tưới xăng đốt một vị HT” (43, 151).

Trong lúc phía PG đang ở trong thế hòa hoãn thì chính quyền NĐD quyết định đem các nhân vật tham gia “vụ đảo chánh hụt 11-11-1960” và “nhóm Caravelle” ra xử trước Tòa án Quân sự đặc biệt vào ngày 8-7, trong ý đồ để cảnh cáo và “dằn mặt” những phần tử lăm le đảo chánh; đồng thời để đánh lệch sự chú ý của quần chúng, đưa họ ra khỏi phong trào. Để phản đối chính quyền NĐD, trước đó một ngày (7-7-1963), nhà văn Nhất Linh uống thuốc độc tự tử. Cái chết của Nhất Linh gây xúc động mạnh trong quần chúng và là một đòn nặng đánh vào chế độ Diệm. Deepe, đại diện báo Newsweek  tại Sài Gòn lúc đó nhận định rằng: “Sau vụ tự thiêu của HT Thích Quảng Đức, cái chết của Nhất Linh sẽ đóng thêm một cái đinh vào quan tài của ông Tổng thống Diệm” (15, 203).

Mặt khác, để đề phòng một cuộc tấn công quân sự trong nội bộ chống lại chính phủ, Diệm cách chức một số sĩ quan giữ những nhiệm vụ quan trọng, thuyên chuyển vòng quanh để các sĩ quan không liên kết được với nhau, đồng thời ra sức ve vãn mua chuộc, như tặng huân chương cao nhất cho hơn 100 sĩ quan cao cấp hoặc lập ra cái gọi là Quốc gia Nghĩa tử cuộc để đảm bảo quyền lợi cho những binh lính, sĩ quan tử trận. Chính Mỹ cũng thừa nhận Diệm là “một tên gian ngoan, nhất mực bênh vực quyền lợi cho gia đình, hay đàn áp một cách thô bạo những khuynh hướng công kích lại” (10).

Tiếp theo, ngày 9-7, bằng Nghị định số 358-BNV/KS, chính quyền NĐD quy định thể thức treo cờ PG chỉ dành riêng cho Tổng hội PG Việt Nam. Tiếp theo, ngày 11-7, UBLB gởi văn thư số 16/UBLB cho giới lãnh đạo PG, trong đó nói rõ trách nhiệm về vụ thảm sát tại Đài Phát thanh Huế (8-5-1963) không thuộc trách nhiệm của chính quyền NĐD, mà là thuộc những người cộng sản: “Những nạn nhân chết đều do chất nổ “plastic” của Việt cộng (chất này, các lực lượng võ trang Việt Nam Cộng hòa không có), chớ không phải bị xe tăng hay xe thiết giáp đằng, như đã có trong luận điệu trước đây” (3).

“Chiến tranh một phía” của chính quyền NĐD không cho phép giới lãnh đạo PG hòa hoãn được nữa, buộc họ phải phát động trở lại cuộc đấu tranh. Trong văn thư số 83 ngày 14-7 gởi NĐD, HT Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam, khẳng định rằng: “Vì sự tồn vong của PG, tôi kính thưa Tổng thống tường, kể từ hôm nay, với tư cách là lãnh đạo tối cao, tôi thấy có bổn phận chỉ thị cho Tăng Ni và thiện tín phát động một phong trào đòi hỏi sự thực thi bản Thông cáo chung dưới mọi hình thức bất bạo động và trong sự tôn trọng các điều khoản của bản Thông cáo chung ấy” (39). Cũng trong ngày hôm đó, ông gởi Thông bạch kêu gọi toàn thể Tăng tín đồ “nhất tề thực hiện phong trào” (35).

Hưởng ứng lời kêu gọi của giới lãnh đạo PG, cuộc đấu tranh của Tăng Ni, Phật tử trên toàn miền Nam tiếp tục trở lại với quy mô và cường độ cao hơn trước. Tại Sài Gòn, chiều ngày 16-7, gần 200 Tăng Ni biểu tình trước tư dinh Đại sứ Mỹ. Họ đòi Mỹ và các nước khác không được viện trợ cho chính quyền NĐD. Chính quyền Mỹ phải chịu trách nhiệm trước chính sách áp bức PG tại miền Nam. Sau cuộc biểu tình, họ trở về chùa Xá Lợi và tham gia cuộc tuyệt thực.

Ngày 17-7, nhịp độ cuộc đấu tranh gia tăng, chỉ trong buổi sáng đã có tới 2 cuộc biểu tình. Cuộc biểu tình thứ nhất xuất phát từ chùa Giác Minh với mục đích như biểu ngữ đã viết: “Chúng tôi đi thăm thầy chúng tôi đang tuyệt thực để đòi thực thi bản Thông cáo chung”. Tuy nhiên, trước lúc cuộc biểu tình xuất phát, chùa Giác Minh đã bị chính quyền NĐD bao vây với các lớp hàng rào kẽm gai. Nhiều xe phun nước và lực lượng cảnh sát được huy động để mở cuộc đàn áp. Quần chúng phẫn nộ đã vượt qua hàng rào kẽm gai, tràn ra đường phố, nhiều biểu ngữ có nội dung cứng rắn xuất hiện, như: “Chúng tôi đã bị lường gạt quá nhiều”, “Cờ PG phải là cờ của tất cả PG đồ”, “Yêu cầu Chính phủ giữ đúng lời thành tín đã hứa”, và khi không còn vượt qua được nữa, đoàn người ngồi xuống tụng niệm. Cuộc biểu tình đã bị đàn áp dữ dội làm nhiều người bị thương. Đoàn biểu tình rút trở lại chùa Giác Minh. Chính quyền NĐD cho phong tỏa chùa, làm trên 600 Tăng Ni bị vây hãm phải chịu đói khát trong suốt 54 giờ đồng hồ.

Cuộc biểu tình thứ hai xuất phát từ chùa Xá Lợi. Bằng cách “đánh lừa” sự cản đường của lực lượng cảnh sát Diệm, Tăng Ni từ chùa Xá Lợi đã từ nhiều ngả đường khác nhau, đến tập hợp trước chợ Bến Thành. Họ đã căng lên nhiều biểu ngữ đòi chính quyền NĐD phải thi hành đầy đủ và nghiêm chỉnh các thỏa thuận ghi trong Thông cáo chung. Đại diện của đoàn biểu tình đã lên tiếng tố cáo: “Chúng tôi tới đây để tỏ cùng quốc dân đồng bào biết rằng : Bản Thông cáo chung đã ký kết hơn tháng nay nhưng Chính phủ đã không thực thi nghiêm chỉnh, mà còn dùng đủ mọi cách để khủng bố, bao vây, bắt bớ, đàn áp, xuyên tạc PG đồ” (15, 440). Đông đảo quần chúng từ chợ đổ ra và từ các ngả đường kéo đến nhập cuộc tham gia đấu tranh, khí thế hết sức sôi nổi. Giám đốc Cảnh sát của Diệm trực tiếp chỉ huy cuộc đàn áp. Tăng Ni bị cảnh sát bắt quẳng lên xe bịt bùng và họ đã chống lại quyết liệt bằng cách xiết chặt lấy tay nhau.

Không khuất phục được ý chí đấu tranh của Tăng Ni, Giám đốc Cảnh sát bày trò thương lượng, bằng cách hứa sẽ chở Tăng Ni về chùa Xá Lợi. Nhưng khi Tăng Ni lên xe, chúng lại cho xe chạy về hướng Lục tỉnh. Biết mình bị lừa, Tăng Ni đã sử dụng rất nhiều biện pháp (như đập cửa xe, đạp thắng, gạt tay lái, mở cửa xe phóng xuống đường). Kết cục, xe phải dừng lại, Tăng Ni thoát ra khỏi xe, tập hợp lại để tiếp tục đấu tranh. Chính quyền NĐD đã điều động một lực lượng lớn cảnh sát để đàn áp. Tăng Ni bị đánh đập, bị bắt quẳng lên xe chở về An dưỡng địa Phú Lâm. Tường thuật về cuộc đàn áp này, tờ Star and Stripes số ra ngày 18-7-1963, viết : “Với sự trợ lực của lính mũ sắt, cảnh sát chiến đấu đã dùng báng súng và gậy gộc đánh các người biểu tình rồi túm cổ họ vất lên xe camion của nhà binh đang đậu bên cạnh. Tăng Ni, đàn bà và trẻ con bị cảnh sát đánh ngã lăn ra đường. Rất nhiều người đổ máu. Cà sa vàng của Tăng Ni và áo dài của đàn bà bị xé rách tả tơi trong khi họ bị dồn lên xe” (8, 220). Và khi về An dưỡng địa, Tăng Ni vẫn tiếp tục đấu tranh. Chính quyền NĐD buộc phải trả họ về chùa Xá Lợi sau 4 ngày giam giữ, chịu đủ mọi thứ ngược đãi.

Trước sự phục hồi phong trào, ngày 18-7, NĐD ra “hiệu triệu” chấp thuận việc treo cờ PG “sẽ được áp dụng cho tất cả môn phái nào tự ý công nhận PG kỳ”, đề nghị giới lãnh đạo PG hợp tác “để cùng nghiên cứu, điều tra và giải quyết tại chỗ, nếu cần, những khiếu nại liên quan đến sự thực thi Thông cáo chung” và kêu gọi “quốc dân đồng bào ghi nhận ý chí hòa giải tột bực của Chính phủ trong vấn đề Phật giáo” (12).

Trên thực tế, “ý chí hòa giải tột bực của Chính phủ...” cũng chỉ là sự tiếp nối những thủ đoạn chính trị như trước đây nhằm đánh lừa dư luận. Ngay khi Diệm ra lời “hiệu triệu”, các chùa Ấn Quang, Xá Lợi, Giác Minh vẫn tiếp tục bị phong tỏa. Ngày 19-7, giới lãnh đạo PG gởi văn thư số 94 cho chính quyền NĐD, khẳng định: “Toàn thể Tăng Ni chúng tôi trong Ủy ban Liên phái thà cam chịu chết chứ không chịu để cho lòng tin tưởng của chúng tôi nơi thành tín của Chính phủ bị thực tế đánh đổ một lần nữa” và yêu cầu giải quyết hết thảy những vấn đề đã xảy ra từ ngày Phật Đản (8-5-1963), họ “mới có thể hợp tác với UBLB mà nghiên cứu, xem xét những vấn đề khác, để cho cuộc hòa giải được hoàn toàn tốt đẹp” (40).

Ngày 21-7, một nhóm thanh niên mặc thường phục len lỏi vào đám đông quần chúng Phật tử tại chùa Xá Lợi, phân phát tài liệu giả mạo. Một người trong nhóm họ bị bắt quả tang, y khai nhận lệnh cấp trên đến chùa Xá Lợi để phát những tài liệu giả mạo nói trên. Tiếp theo, ngày 23-7, trong lúc Sư bà Diệu Huệ đang tổ chức họp báo tại chùa Xá Lợi, để công bố ý nguyện tự thiêu của bà để góp phần bảo vệ PG, thì bên ngoài, chính quyền NĐD tổ chức một cuộc biểu tình mạo danh thương phế binh, lên án và xuyên tạc cuộc đấu tranh của PG. Tuy vậy, việc làm của chính quyền NĐD không đánh lừa được dư luận, ngày hôm sau (24-7), một nhóm thương phế binh gởi thư cho giới lãnh đạo PG, lên án cuộc biểu tình và bày tỏ sự ủng hộ của họ đối với phong trào: “Chúng con nguyện xin chung góp một phần nào cuộc đấu tranh hợp pháp với tinh thần bất bạo động của đồng bào Phật tử cho đến khi nào sự bình đẳng tôn giáo và tự do tín ngưỡng được hoàn toàn thực thi trên lời nói cũng như việc làm trên toàn lãnh thổ Việt Nam” (43, 238).

Trong lúc phong trào đang được đẩy mạnh thì tín đồ các tôn giáo khác cũng lên tiếng tố cáo chính quyền NĐD đàn áp PG và bày tỏ sự ủng hộ của họ đối với cuộc đấu tranh của PG.

Ngày 20-7-1963, Đoàn Sinh viên Liên giáo tại Sài Gòn ra lời hiệu triệu, nói rằng: “Việc tàn sát PG đồ tại Huế trong ngày lễ Phật Đản vừa qua, việc giở trò lừa bịp giả ký kết, thỏa thuận để xoa dịu những lúc lòng công phẫn trong nhân dân lên quá cao rồi lại tiếp tục bắt bớ, tra tấn, tàn sát đẫm máu, tất cả những việc ấy đã đem lại lợi ích gì cho quốc gia, dân tộc ? Phải chăng chỉ để thỏa mãn lòng đố kỵ nhỏ nhen, óc kỳ thị tôn giáo hẹp hòi của một vài cá nhân?... Các tôn giáo trong nước đều tố cáo hành vi hạn chế tín ngưỡng phản hiến pháp của chính quyền. Ngay cả những tín đồ Thiên Chúa giáo vô tư cũng lên án hành động của chính quyền là hẹp hòi, bẩn thỉu” (17) và khẳng định rằng: “Đoàn Sinh viên Liên giáo chúng tôi gồm đủ thành phần của các tôn giáo: PG, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Tin Lành giáo, Cao Đài giáo, Bahai giáo... được thành lập với mục đích ủng hộ PG đấu tranh ôn hòa đòi tự do tín ngưỡng và hành giáo” (17).

Ngày 24-7, đại diện một nhóm sinh viên và thanh niên Thiên Chúa giáo tại Sài Gòn gởi thư đến đức Khâm sứ Tòa thánh Vatican ở Việt Nam. Bức thư viết: “Sau khi theo dõi những biến cố xảy ra tại Sài Gòn cũng như ở Huế từ 8-5 đến nay, cũng như sau khi đã chứng kiến tận mắt cái chết vô cùng can đảm của nhà sư Thích Quảng Đức và các cuộc biểu tình bất bạo động mới đây của Tăng Ni, chúng con là một nhóm sinh viên Công giáo yêu chuộng tự do và công lý không thể nhắm mắt làm ngơ trước cảnh đau khổ, bị đánh đập, bị bắt bớ của những người dù rằng khác tín ngưỡng nhưng cũng là đồng bào anh em với chúng con.

“Hành động đàn áp nói trên của chính phủ Công giáo đối với PG đồ đã làm tổn thương nhiều đến thanh danh của hàng giáo phẩm Việt Nam nói riêng và Giáo hội nói chung. Không những thế, nó còn gây ra những phản ứng vô cùng bất lợi cho Giáo hội Công giáo trên khắp các quốc gia Á châu... Chúng con tin chắc rằng Đức cha cũng đã khách quan nhận xét, đã phê phán và phúc trình về Tòa thánh những sự việc đã diễn ra” (41).

Ngày 25-7, một nhóm tín đồ Thiên Chúa giáo gồm nhiều thành phần xã hội khác nhau đã gởi thư cho giới lãnh đạo PG. Bức thư viết: “Mặc dầu chúng tôi là đồng bào Công giáo, nhưng ngay từ khi xảy ra những cuộc tàn sát, đàn áp dã man của nhà cầm quyền đối với đồng bào PG, chúng tôi rất đau lòng vì chính những kẻ xuẩn động đã gây ra thảm cảnh và những tiếp diễn của những thảm cảnh đó là những người đã được ánh sáng Phúc âm rọi tới như chúng tôi. Còn đâu trong người của họ tinh thần công bằng, bác ái, kính Chúa, yêu người như mình ta vậy? Họ đã phản bội tinh thần Công giáo của chúng tôi” (43, 239).

Ngày 30-7, nhân ngày lễ chung thất của Thích Quảng Đức, giới lãnh đạo PG đã ra Thông bạch vạch rõ thực trạng xã hội miền Nam dưới chính quyền NĐD: “Sự suy đồi của nền đạo đức dân tộc... nền đạo giáo vẫn bị hăm dọa, quốc gia lâm vào tình trạng chia rẽ đổ nát, người làm kẻ hưởng, nỗi bất bình oan khúc không sao kể xiết” (36), và kêu gọi mọi giới đồng bào hãy đình công bãi thị để phản đối thái độ ngoan cố và độc ác của chính quyền NĐD đối với PG.

Hưởng ứng lời kêu gọi trên, tại Sài Gòn, từ 5 giờ sáng, đồng bào đã tấp nập đổ về chùa Xá Lợi, “ngoài thanh niên ra, hầu hết những người đến dự lễ đều là đàn bà. Họ đều trẻ, khá hấp dẫn và duyên dáng trong bộ áo dài và quần trắng, hoặc cả bà già nhăn nheo, răng bị nhuộm đen vì ăn trầu. Tất cả đều có đính băng nhỏ màu vàng trước ngực, một biểu hiện thương tiếc HT Thích Quảng Đức” (46, 193).

Sau buổi lễ, giới lãnh đạo PG ra Tuyên ngôn tố cáo chính quyền NĐD không chịu thi hành Thông cáo chung và khẳng định lại một lần nữa quyết tâm tranh đấu của mình “để đưa cuộc đấu tranh đến thành công” (34, 112).

Trong lúc cuộc đấu tranh của PG được phục hồi và đang phát triển mạnh mẽ khắp trên các đô thị miền Nam, nhất là ở Huế và Sài Gòn, thì Đại sứ Mỹ Frederick E.Nolting, trong một cuộc phỏng vấn của Don Baker, ký giả của Hãng thông tấn UPI, đã bào chữa cho chính quyền NĐD. Nolting nói: “Hơn hai năm tôi sống ở Việt Nam, tôi chưa bao giờ nhận thấy dấu hiệu nào chứng tỏ có sự kỳ thị tôn giáo” (43, 298).

Tiếp theo, ngày 3-8, trong cuộc nói chuyện với phụ nữ bán quân sự, Trần Lệ Xuân lên tiếng công kích và mạ lỵ PG, rằng “hoạt động của PG là một hình thức phản bội xấu xa...” (46, 196). Về sự tự thiêu của Thích Quảng Đức, Trần Lệ Xuân cho là sư "nướng sư". Trả lời phỏng vấn của ký giả báo New York Times, Trần Lệ Xuân nói: “Tôi còn đánh sư gấp 10 lần như thế nữa à. Phương pháp giải quyết vấn đề PG là phớt tỉnh, không cần biết tới” (43, 307).

Trước thái độ ngang ngược của Mỹ-Diệm, mức độ phong trào đột ngột gia tăng. Trong vòng chưa đầy nửa tháng (4 đến 16-8) đã có tới 4 cuộc tự thiêu. Riêng Huế, phong trào lên rất mạnh, đã có 2 cuộc tự thiêu. Ngày 17-6, Linh mục Cao Văn Luận từ chức Viện trưởng Viện Đại học Huế, các khoa trưởng và giáo chức và giáo sinh đại học từ chức tập thể, sinh viên đồng loạt bãi khóa. Tại Sài Gòn, ngày 12-8, nữ sinh Mai Thị Tuyết An tự chặt tay trái của mình để phản đối chính quyền NĐD; ngày 18-8, một cuộc lễ cầu siêu cho tất cả các vị tử đạo được tổ chức tại chùa Xá Lợi. Sau lễ cầu siêu, Đoàn Sinh viên Phật tử Sài Gòn kêu gọi quần chúng tham gia tuyệt thực tại chỗ, có tới 10.000 người tham gia. Suốt ngày hôm đó, đông đảo đồng bào Sài Gòn kéo đến chùa Xá Lợi để ủng hộ cuộc tuyệt thực, khí thế đấu tranh của quần chúng hết sức sôi nổi.

Để cứu nguy cho chế độ, chính quyền NĐD đã cho thực hiện “kế hoạch nước lũ”, “cương quyết thanh trừng các phần tử phản bội và quá khích trong các giới Tăng Ni, công chức, giáo sư, sinh viên, cũng như trong các đoàn thể nhân dân” (13) nhằm giải quyết dứt điểm “vụ PG”. "Thời gian ấn định cho việc thực hiện xong kế hoạch là từ 21-8 đến 30-8-1963" (13). Đêm 20 rạng ngày 21-8, chính quyền NĐD cho quân tấn công đồng loạt hầu hết các ngôi chùa được dùng làm cơ sở đấu tranh trên toàn miền Nam.

Tại Sài Gòn, cảnh sát dã chiến và lực lượng đặc biệt của Ngô Đình Nhu mặc quân phục (âm mưu của lối cải trang này nhằm để đánh lừa dư luận rằng chính quân đội đã ủng hộ Diệm trong việc “thanh trừng những phần tử phản bội và quá khích”, làm cho phía PG tập trung mũi nhọn về phía quân đội, như vậy quân đội sẽ đứng về phía Diệm) tấn công các chùa và bắt giữ Tăng Ni, Phật tử. Tại chùa Xá Lợi, trụ sở của UBLPBVPG, cuộc tấn công diễn ra rất ác liệt. Mặc dầu có mật báo cho biết chính quyền NĐD sẽ mở cuộc tấn công, nhưng giới lãnh đạo PG vẫn không một ai chịu lùi bước. Tăng Ni, Phật tử đã chống trả mãnh liệt, cho đến lúc kiệt sức thì bị bắt tống lên xe chở vào trại giam. Hầu hết các nhà sư trong giới lãnh đạo PG đã bị bắt trong cuộc tấn công này.

Ở chùa Ấn Quang, theo Phiếu đệ trình số 0289 ngày 22-8-1963 của Tư lệnh Quân đoàn III của Diệm, thì cuộc tấn công của lực lượng Diệm cũng vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của Tăng tín đồ Phật tử: “Việc khám xét chùa Ấn Quang cũng gặp trở ngại vì chùa đã tổ chức phòng thủ và báo động. Khi lực lượng an ninh tiến vào chùa thì gặp một hàng rào kẽm gai có truyền điện nên một số nhân viên ta bị điện giật và bị thương. Một số Tăng Ni canh gác trong chùa dùng gậy định chống trả lúc đầu, nhưng sau đó lại rút lui lên lầu. Các sư liền sử dụng máy phóng thanh kêu gọi đồng bào quanh vùng thức dậy để chứng kiến quân đội tấn công chùa. Trong chùa, trống đánh ầm ĩ để báo động và sử dụng điện thoại để liên lạc với các chùa khác.

“Các Tăng Ni tiếp tục ném đá và ve chai vào các toán an ninh. Đặc biệt là các Tăng Ni có ném một chất hóa học cay mắt và một chai a-xít vào trung đội an ninh trong lúc tiến công vào chùa, nhưng may không có nhân viên nào bị thương” (27).

Cùng lúc với “kế hoạch nước lũ”, Diệm đọc tuyên cáo và ban hành sắc lệnh giới nghiêm, công khai đặt miền Nam trong sự cai trị của chế độ quân phiệt. Sắc lệnh giới nghiêm cho phép quân đội có quyền “xét các tư gia bất cứ giờ nào, bắt giữ những người xét có hại cho an ninh công cộng” (Điều 3), “Tất cả mọi sự vi phạm đến trật tự công cộng đều thuộc thẩm quyền của Tòa án Quân sự” (Điều 4) (31). Ngày 21 và những ngày kế tiếp, chính quyền NĐD đã cho người đi bắt thêm khoảng 2.000 người khác tại nhà riêng của họ, trong đó đa số là giáo sư, luật sư và sinh viên, đông nhất là ở Sài Gòn và Huế.

Bằng việc đánh phá chùa chiền, bắt giữ Tăng Ni và ban hành lệnh giới nghiêm, chế độ gia đình trị NĐD đã “thực sự dẫm trúng vỏ chuối do PG quăng ra” (30), đã tự chọn cho mình một tuyệt lộ.

Sau “kế hoạch nước lũ”, chính quyền NĐD thi hành một loạt âm mưu gian xảo nhằm đánh lừa dư luận, hòng tránh được sự nổi dậy của quần chúng. Ngày 22-8, chính quyền NĐD ra thông cáo cho biết đã khám xét và tịch thu được một số khí giới và dụng cụ bất hợp pháp tại chùa Xá Lợi, Ấn Quang... Ngày 24 và 25-8, anh em Diệm tạo ra một số thư giả mạo của giới lãnh đạo PG gởi cho NĐD, như thư của HT Thích Tịnh Khiết nói rằng HT ủy nhiệm cho một số Thượng tọa (TT) trong Giáo hội Tăng già toàn quốc để trông nom Phật sự, hoặc kiến nghị của 5 vị TT ở Huế nói rằng “trong chế độ cộng hòa nhân vị do Tổng thống NĐD lãnh đạo, chúng tôi xác nhận PG được tùy duyên phát triển tự do tín ngưỡng và hành đạo. Tổng thống và Chính phủ không chủ trương đàn áp và kỳ thị tôn giáo”, rằng “trong cuộc đấu tranh cho 5 nguyện vọng của PG Việt Nam đệ đạt lên Tổng thống, chúng tôi xác nhận đã được Tổng thống giải quyết, thực thi và hòa giải tột bực” (14).

Ngày 26-8, chính quyền NĐD thành lập Ủy ban Liên hiệp Bảo vệ PG thuần túy. Tổ chức này họp báo lên án giới lãnh đạo PG và tán thành cuộc đại khủng bố của chính quyền NĐD. Ngày 10-9, Trần Lệ Xuân lên đường đi châu Âu và châu Mỹ để làm cái nhiệm vụ mà y gọi là “giải độc” cho thế giới. Nhưng đến đâu, Lệ Xuân cũng đều bị nhân dân thế giới tẩy chay, đặc biệt là người Việt Nam ở hải ngoại đã chống lại y một cách quyết liệt, có nơi y đã bị nhân dân ném trứng thối và cà chua vào mặt.

Bằng tất cả những biện pháp trên đây, chính quyền NĐD vẫn không tài nào dập tắt được phong trào. Thật vậy, sau cuộc tấn công vào chùa chiền, phong trào không những không bị đè bẹp mà còn phát triển sâu rộng trong hầu hết các tầng lớp nhân dân. Liền sau “kế hoạch nước lũ”, ngày 22-8, MTDTGPMNVN ra tuyên bố chỉ rõ: “Điều quan trọng bậc nhất hiện nay là tín đồ PG cũng như nhân dân các đô thị kiên quyết giữ vững tinh thần, giữ vững đội ngũ, giữ vững đấu tranh... Tinh thần bất khuất trước sau vẫn là võ khí bất khả chiến thắng của chúng ta. Với ý chí và tinh thần ấy, chúng ta sẽ làm cho Mỹ-Diệm bị thất bại nhục nhã” (6).

Thật vậy, những ngày sau 21-8, cả Sài Gòn rung động trước sự phát triển của phong trào. Nhiều bộ trưởng, khoa trưởng, giáo sư đại học từ chức. Ngày 22-8, một nhóm giáo chức rải truyền đơn lên án chính quyền NĐD tấn công chùa và kêu gọi trí thức vùng dậy đấu tranh: “Chúng ta phải làm gì trong khi khắp nơi, đồng nghiệp của chúng ta thẳng thừng từ bỏ chức vụ để đòi hỏi sự giải quyết vấn đề kỳ thị tôn giáo của Chính phủ. Hơn thế nữa, mới đây, khoảng 1 giờ đêm 20 rạng ngày 21-8-1963, để xác định tính chất tàn ác, vô nhân đạo, Chính phủ NĐD đã cho quân đội tàn phá tất cả chùa chiền ở thủ đô và toàn quốc, bắt giết các vị Tăng Ni và các cấp lãnh đạo PG một cách dã man.

“Quý vị nghĩ sao trước lời kêu gọi này?

“Chúng tôi đang đợi phản ứng của quý vị, là những thức giả có nhiệm vụ tiên phong trong giai đoạn đấu tranh này” (32).

Về phía sinh viên, ngày 22-8, Ủy ban Chỉ đạo Sinh viên Liên khoa được thành lập, hai hôm sau (24-8) đổi tên là Ủy ban Chỉ đạo Sinh viên và Học sinh. Ủy ban này “tuyên bố bãi khóa, nghỉ học để đấu tranh cho tự do tín ngưỡng” (42). Hầu hết các trường đại học, cao đẳng đều bãi khóa. Ngày 24-8, tại Trường Đại học Khoa học có tới 1.200 sinh viên tới trường để thi vào năm dự bị, nhưng không chịu vào phòng thi, họ xé phiếu báo danh, hô các khẩu hiệu: “Đả đảo Chính phủ” và hô hào bãi khóa. Tại Trường Đại học Dược khoa, 700 sinh viên đến trường nhưng không chịu vào lớp. Truyền đơn của UBLPBVPG dán trên bảng đen kêu gọi đình công, bãi thị, bãi khóa để đấu tranh bảo vệ cho sự sống còn của đạo pháp và dân tộc. Tại Trường Đại học Y và Nha khoa, sinh viên đã xông vào phòng hội đồng xé đề thi để lộ đề thi toán. Tại Trường Đại học Luật khoa, có trên 1.200 sinh viên họp mít-tinh lên án chính quyền NĐD và kêu gọi bãi khóa để đấu tranh (42).

Tiếp theo, sáng ngày 25-8, bất chấp lệnh giới nghiêm của chính quyền NĐD, thanh niên, sinh viên, học sinh từ nhiều hướng khác nhau đổ về trước chợ Bến Thành tổ chức biểu tình lên án chính quyền NĐD. Đông đảo đồng bào từ trong chợ đổ ra đường hưởng ứng cuộc biểu tình. Cuộc đàn áp diễn ra, thanh niên, sinh viên, học sinh đã chống trả quyết liệt. Cảnh sát Diệm bắn vào đoàn biểu tình, nữ sinh Quách Thị Trang hy sinh và có tới 2.000 nam nữ sinh viên, học sinh bị bắt đưa về giam tại Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Chính quyền NĐD ra huấn lệnh cho phép các lực lượng an ninh được bắn vào bất cứ đám đông nào tụ tập trên đường phố mà không xin phép. Để đẩy lùi cao trào nổi dậy của sinh viên, chính quyền NĐD ra lệnh đóng cửa các trường đại học và cao đẳng, lùng bắt cán bộ chỉ đạo phong trào.

Lên án hành động trên đây của chính quyền NĐD, trong Lời tuyên bố ngày 18-8-1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Gần đây, ở miền Nam Việt Nam lại xảy ra thêm một tình trạng cực kỳ nghiêm trọng và đau thương. Bọn NĐD đốt phá chùa chiền, khủng bố sư sãi và đồng bào theo đạo Phật. Chúng đóng cửa trường học, bắt bớ hàng loạt giáo sư và sinh viên, học sinh. Tội ác dã man của chúng, trời đất không thể dung. Hành động hung tàn của chúng, nhân dân ta đều căm giận, cả thế giới đều lên tiếng phản đối, nhân dân tiến bộ Mỹ cũng tỏ lòng bất bình... Trước tình thế ấy, đồng bào miền Nam ta đoàn kết nhất trí, không phân biệt sĩ nông công thương, không phân biệt chính kiến, tôn giáo, kiên quyết đấu tranh để giành lại tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định sự thắng lợi tất yếu của cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam: “Dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, cuộc đấu tranh chính nghĩa của đồng bào miền Nam được sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, nhất định giành được thắng lợi” (18).

Sau ngày 25-8, nhìn bên ngoài, chính quyền NĐD dường như có vẻ làm chủ tình hình. Tuy nhiên, trên thực tế, phong trào đang tìm đối sách thích ứng trước sự khủng bố dã man của chính quyền NĐD. Ngày 6-9, đài BBC trong phần bình luận, cho rằng: “Diệm đã nắm vững và Hoa Thịnh Đốn đã nhượng bộ, không đòi vợ chồng Nhu đi nữa” (30). Như để cải chính một cách hùng hồn, ngày 7-9, học sinh các trường bãi khóa. Tại Trường Trung học Võ Trường Toản, học sinh đánh nhau hàng giờ với cảnh sát chiến đấu và đã hô những khẩu hiệu đòi Mỹ chấm dứt viện trợ cho chính quyền NĐD và tuyên bố là Mỹ đã đi với Diệm, không đi với dân Việt Nam. Rất nhiều học sinh nam nữ bị bắt tống lên xe hơi có mang dấu hiệu viện trợ Mỹ để đưa đến trại giam. Buổi chiều hôm đó, phụ huynh học sinh đã tụ tập ở Nha Cảnh sát, biểu tình đòi con. Đoàn biểu tình đã chỉ trích Mỹ ủng hộ Diệm.

Ngày 8-9, học sinh Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng bãi khóa. Cuộc chiến đấu của học sinh chống lại lực lượng cảnh sát Diệm diễn ra rất dữ dội. Trong lúc học sinh đang hô hào bãi khóa biểu tình, cảnh sát chiến đấu được huy động tới bao vây và đàn áp. Học sinh đã dùng búa và các khí cụ của nhà trường chống lại cảnh sát. Hai bên giao tranh suốt buổi sáng làm cho một số cảnh sát Diệm bị thương tích trầm trọng.

Cùng ngày, học sinh Trường Chu Văn An bãi khóa. Tại đây, học sinh đã căng lên nhiều biểu ngữ viết bằng máu tố cáo chính quyền NĐD chà đạp tự do tín ngưỡng, đòi Mỹ ngưng viện trợ cho Diệm. Cuộc chiến đấu chống sự đàn áp của cảnh sát Diệm diễn ra rất mãnh liệt. Học sinh đã dùng bàn ghế và các dụng cụ sẵn có chống lại sự tấn công của cảnh sát. Hai đợt tấn công đầu của cảnh sát Diệm đều bị đẩy lùi. Đợt thứ ba, chính quyền NĐD huy động thêm lực lượng quân đội mới đàn áp được. Có tới 1.200 học sinh bị bắt đưa về trại giam An Nhơn ở Gò Vấp.

Cùng với phong trào đấu tranh mãnh liệt của quần chúng, một số nhà sư trong giới lãnh đạo PG trốn thoát được cuộc khủng bố, hoặc bị quản thúc, vẫn tiếp tục bí mật hoạt động lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi trả tự do cho những Tăng Ni, Phật tử bị bắt. Nhiều thư của giới lãnh đạo PG bí mật gởi Tổng Thư ký Liên hiệp quốc và cho phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc khi phái đoàn này đến miền Nam. Thời gian này, nhiều đoàn thể được thành lập gấp rút để đối phó với tình hình, như Đoàn Thanh niên cứu nguy PG, Thanh niên Tăng đoàn Việt Nam, Thanh niên Quốc Tuệ, Thanh niên Ái quốc đoàn. Các đoàn thể này đã tiến hành các hoạt động bí mật, như rải truyền đơn tố cáo chính quyền NĐD và ra lời kêu gọi nhân dân vùng lên chống bạo quyền. Lời kêu gọi của Đoàn Thanh niên Quốc Tuệ viết: “Gia đình họ Ngô chẳng từ một hành động tàn bạo nào! Chúng bất chấp dư luận, bất chấp lời phản đối của nhân dân trong nước và thế giới. Chúng đã bị vinh hoa che mờ mất lương tri và không còn lấy một chút đạo đức sơ đẳng của con người.

“Thậm chí phá chùa, bắt sư, xả súng vào các đám biểu tình là một hành động man rợ chưa từng có trong lịch sử loài người.

“Các bạn thanh niên, học sinh, sinh viên và đồng bào!

“Giờ phút lịch sử đã điểm.

“Tất cả chúng ta hãy kết khối vùng lên, hô to khẩu hiệu:

“Chiến đấu ! Chiến đấu ! Quét sạch chế độ bạo tàn !” (43, 443-444)

Trong điều kiện lưới mật vụ cũng như lực lượng chống biểu tình của Diệm giăng ra dày đặc, trong phong trào quần chúng xuất hiện nhiều hình thức đấu tranh mới, như các bà mẹ đã lấy bong bóng kết theo những biểu ngữ mang nội dung chống Diệm thả lên không trung; hoặc là những tấm áp-phích hí họa mô tả chế độ độc tài gia đình trị NĐD; hoặc ở chợ Bến Thành có hình thức thả khỉ mang tên những anh em Diệm v.v...

Trong lúc những hoạt động chống đối của quần chúng liên tục diễn ra bằng đủ mọi hình thức, thì trưa ngày 5-10, Đại đức (ĐĐ) Thích Quảng Hương tự thiêu trước chợ Bến Thành. Một số nhà báo Mỹ bị lực lượng Diệm đánh khi họ đang chứng kiến vụ tự thiêu này. Dư luận Mỹ sôi nổi phản đối Diệm. Trong điều kiện phong trào đang gặp rất nhiều khó khăn, ngọn lửa Thích Quảng Hương đã chứng tỏ cho dư luận trong nước và quốc tế biết rằng “vụ PG” vẫn còn nguyên vẹn và có tác động mạnh mẽ đến Liên hiệp quốc trong phiên họp ngày 7-10-1963 tại New York khi bàn đến vấn đề PG Việt Nam. Tại phiên họp này, đại biểu Sri Lanka tố cáo chính quyền NĐD đàn áp PG và vi phạm nhân quyền, và đề nghị cử một phái đoàn sang miền Nam điều tra “vụ PG”. Đại hội đồng Liên hiệp quốc chấp thuận và đồng ý hoãn việc thảo luận “vụ PG” cho đến khi có phúc trình của phái đoàn về vấn đề này.

Vào lúc 0 giờ 30 ngày 24-10, phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc đến Sài Gòn. Giữa lúc phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc đang hoạt động, thì vào 10 giờ ngày 27-10, ĐĐ Thích Thiện Mỹ tự thiêu trước nhà thờ Đức Bà (Sài Gòn). Sự hy sinh của Thích Thiện Mỹ được xem như là lời kêu gọi khẩn cấp đối với Liên hiệp quốc trong việc tố cáo chế độ bạo tàn NĐD trước diễn đàn quốc tế, hầu mong sớm chấm dứt nỗi thống khổ của Tăng tín đồ PG miền Nam.

Cùng với phong trào đô thị, nổi bật là phong trào PG, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam không ngừng phát triển, làm cho mâu thuẫn Mỹ-Diệm từng bước phát triển và trở nên gay gắt không thể nào khắc phục được. Thật vậy, từ sau chiến thắng Ấp Bắc (2-1-1963), Mỹ đã tính đến việc thay Diệm. Tờ New York Times, ngày 5-2-1963 nhận định rằng: “Bây giờ mà thay ngựa ở miền Nam là một việc làm nguy hiểm, nhưng thà nguy hiểm mà sẽ đem lại những khả năng thành công, còn sợ nguy hiểm thì chắc chắn sẽ thất bại” (22). Tờ Tin tức hàng ngày Washington viết: “Tổng thống Diệm phải hiểu rằng, giữa việc cứu vớt chế độ ông ta và việc cứu vớt bản thân ông ta, thì việc sau là thứ yếu” (22). Tuy nhiên, đây chỉ là ý nghĩ bước đầu của kế hoạch “thay ngựa” của Mỹ.

Từ tháng 5 trở đi, trước những thất bại liên tiếp và nặng nề về chính trị và quân sự, chính quyền Kennedy bắt đầu gây sức ép với Diệm. Trong một cuộc tiếp xúc với Diệm, Truheart - đại diện Mỹ - chỉ ra rằng: “Chính quyền Kennedy không ưa thích rối ren” (46, 135). Mâu thuẫn Mỹ-Diệm càng trở nên căng thẳng, nhất là từ sau khi chính quyền NĐD tấn công chùa và ban hành lệnh giới nghiêm. Ngày 24-8, sau khi đến Sài Gòn nhận chức Đại sứ được hai ngày, Cabodge Lodge nhận được điện văn từ Nhà Trắng, trong đó vạch rõ: “Cố vấn Ngô Đình Nhu chịu trách nhiệm về sự tấn công đàn áp chùa chiền. Đại sứ Hoa Kỳ phải minh danh: Chính lực lượng đặc biệt của ông Nhu, chứ không phải quân đội tham dự... Hoa Kỳ không thể tha thứ tình trạng quyền hành nằm trong tay Ngô Đình Nhu. Tổng thống NĐD được dành một cơ hội để loại trừ Ngô Đình Nhu và tay chân, phải thay thế họ bằng những nhân vật quân sự và chính trị có khả năng nhất... Nếu Tổng thống Diệm vẫn còn ngoan cố, thì chúng ta (người Mỹ) sẽ đi tới chỗ không thể tiếp tục ủng hộ ông nữa. Ông Đại sứ có thể loan báo cùng các vị tư lệnh quân sự liên hệ rằng: “Chúng ta sẽ trực tiếp yểm trợ cho họ trong mọi trường hợp tạm thời gián đoạn của một chính quyền trung ương” (5, 227-228).

Tại Sài Gòn, trong một cuộc tiếp xúc với Diệm, Lodge đã chính thức yêu cầu Diệm gạt bỏ Nhu, nhưng không được Diệm chấp nhận. Ngày 2-9-1963, Tổng thống Kennedy tuyên bố: “Bằng việc thay đổi chính sách và thay đổi cả người nữa, có thể giành được thắng lợi ở Việt Nam” (9, 395). Tuy nhiên, Mỹ vẫn chưa quyết định dứt khoát việc thay Diệm. Sau khi Mc. Namara và Taylor sang miền Nam vào cuối tháng 9 trở về báo cáo tình hình, ngày 2-10, chính quyền Kennedy ra một bản tuyên bố 5 điểm, trong đó nói rằng: “Tình hình chính trị tại Nam Việt Nam vẫn còn hết sức nghiêm trọng. Mỹ vẫn tiếp tục phản đối các hành động đàn áp tại Nam Việt Nam” (44, 234). Tại Sài Gòn, Lodge trách mắng Diệm “đừng phá hoại các cố gắng chiến tranh của Mỹ” (2). Mặt khác, trong tháng 10, Mỹ gia tăng áp lực kinh tế bằng cách cắt bỏ viện trợ cho lực lượng đặc biệt của Nhu và một phần “viện trợ thương mãi hóa”. Mỹ còn tạo ra những động tác đánh lừa Diệm về tình hình, như Mỹ đồng ý cho Diệm tổ chức bầu cử “quốc hội”; Lodge báo tin cho Diệm hay y về Mỹ để thảo luận lại chính sách đối với Diệm; Đô đốc Felt, Tư lệnh Quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương, đi dự Hội nghị Đông-Nam Á, đến Sài Gòn. Cả Felt và Lodge giả vờ ghé thăm Diệm vào sáng ngày 1-11-1963.

Miếng đất tốt cho một cuộc đảo chánh quân sự đã được Mỹ chuẩn bị ráo riết bằng mọi cách. Ngày 1-11-1963, cuộc đảo chánh thực sự đã diễn ra. Anh em Diệm-Nhu bị giết chết. Chế độ độc tài gia đình trị NĐD sau 9 năm thống trị miền Nam bị sụp đổ. Phong trào PG miền Nam nói chung, phong trào PG Sài Gòn kết thúc.

* * *

Đối diện với “cái khổ” của dân tộc và đạo pháp bị ngoại bang dày xéo, bị bàn tay bạo quyền thống trị, Tăng Ni, Phật tử Sài Gòn cũng như Tăng Ni, Phật tử trên toàn miền Nam đã cùng với nhân dân miền Nam buộc phải đứng dậy đấu tranh. Bạo quyền NĐD đã sử dụng hết mọi phương kế để bóp chết phong trào từ trong trứng nước, nhưng cái đức của PG: “Từ bi, cứu khổ cứu nạn, vô ngã vị tha” vốn được nuôi dưỡng từ mạch sống của dân tộc, đã vươn dậy cùng với cả dân tộc quật khởi. Chính quyền NĐD bị đánh đổ.

Nhìn lại lịch sử dân tộc và lịch sử PG kể từ khi được du nhập vào nước ta, điều khẳng định là trên cả hai bình diện dựng nước và giữ nước cũng như trong đấu tranh chống bất công cường quyền, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam đã khẳng định là một bộ phận gắn bó chặt chẽ với dân tộc, đã góp tiếng nói và công sức vào cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Cuộc đấu tranh của Tăng Ni, Phật tử Sài Gòn năm 1963 góp thêm một cứ liệu hùng hồn chứng minh cho nhận định trên đây.

Điều cần nhấn mạnh thêm là Sài Gòn - thủ đô của “Việt Nam Cộng hòa”, cứ điểm vững mạnh nhất cả về mặt chính trị và quân sự của Mỹ-Diệm, nơi mà anh em Diệm-Nhu dốc hết sức lực để đàn áp, khủng bố, nhưng qua thực tế đấu tranh cho thấy Tăng Ni, Phật tử Sài Gòn đã đóng trọn ý nghĩa vị trí tiền tiêu của mình trong phong trào PG miền Nam năm 1963, góp phần rất xứng đáng trong cuộc đấu tranh lật đổ chính quyền NĐD.«

 

Chú thích

(*) 5 nguyện vọng như sau : 1- Yêu cầu Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thu hồi vĩnh viễn công điện triệt giáo kỳ của PG ; 2- Yêu cầu PG phải được hưởng một quy chế đặc biệt như các Hội Truyền giáo Thiên Chúa đa được ghi trongDụ số 10 ; 3- Yêu cầu Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ PG ; 4- Yêu cầu cho Tăng, tín đồ PG được tự do truyền đạo và hành đạo ; 5- Yêu cầu Chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những kẻ giết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền bồi đúng mức.

Tài liệu tiếng Việt

1- Bản Tuyên ngôn của Tăng, tín đồ PG Việt Nam đọc trong cuộc metting của Phật tử tại chùa Từ Đàm - Huế, ngày 10-5-1963. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8352.

2- Hồng Chuyên. Từ lâu Mỹ đã chuẩn bị đảo chính quân sự để thay Diệm. Báo Nhân Dân, ngày 3-11-1963, tr.3.

3- Công văn số 16 ngày 17-7-1963 của UBLB gởi TT Thích Thiện Minh, Trưởng phái đoàn PG. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.HS.8353.

4- Diễn từ của HT Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam, sau lễ hỏa thiêu nhục thân của HT Thích Quảng Đức. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.

5- Kiêm Đạt. Chiến tranh Việt Nam. Nxb Đại Nam, Chicago, Illinois, USA, 1992.

6- Đó là một bằng chứng hùng hồn nhất về sự suy yếu, lúng túng, cô lập của chính quyền Diệm (Tuyên bố của MTDTGPMNVN ngày 22-8-1963). Tuần báo Thống Nhất, số 323, ngày 30-8-1963, tr.3.

7- Thích Mãn Giác. Ông René De Berval. Nguyệt san Liên Hoa, Huế, ngày 27-2-1963.

8- Tuệ Giác. Việt Nam PG tranh đấu sưã. Nxb Hoa Nghiêm, Sài Gòn, 1964.

9- Trần Văn Giàu. Miền Nam giữ vững thành đồng, tập II. Nxb Khoa học, Hà Nội, 1966.

10- T.H. Nội tình nhà Diệm đang rối ren nghiêm trọng. Báo Quân đội Nhân dân, ngày 15-8-1963, tr.4.

11- Hành động phát-xít của Mỹ-Diệm đàn áp đồng bào Pg miền Nam đang bị dư luận thế giới lên án. Báo Quân đội Nhân dân, ngày 15-6-1963, tr.1.

12- Hiệu triệu của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa (18-7-1963). Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8468.

13- Kế hoạch thanh toán vụ tranh chấp bạo động của Tổng hội PG tại Thừa Thiên. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8466, tr.1-5.

14- Kiến nghị của 5 vị TT ở Huế gởi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8466.

15- Nguyễn Lang. Việt Nam PG sử luận, tập III. Nxb Văn học, Hà Nội, 1994.

16- Lá tâm thư ngày 9-5-1963 của TT Thích Tâm Châu, Phó Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam gởi quý HT, TT, ĐĐ Tăng Ni cùng toàn thể Phật tử Việt Nam. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.

17- Lời hiệu triệu của Đoàn Sinh viên Liên giáo gởi toàn thể sinh viên, học sinh Việt Nam. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.

18- Lời tuyên bố ngày 28-8-1963 của Hồ Chủ tịch về tình hình miền Nam Việt Nam hiện nay. Báo Quân đội Nhân dân, ngày 29-8-1963, tr.1.

19- Lửa căm hờn đang rực cháy. Xã luận báo Nhân Dân, ngày 13-6-1963, tr.1.

20- Hùng Lý. Cửa từ bi nổi cơn phẫn nôå. Báo Nhân Dân, ngày 12-6-1963, tr.4.

21- MTDTGPMNVN kêu gọi đồng bào và tín đồ theo đạo Phật nâng cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh. Báo Nhân Dân, ngày 22-6-1963, tr.4.

22- M.N. Về vai trò của PG miền Nam trong cuộc lật đổ chế độ độc tài NĐD. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 89, tháng 8-1966, tr.4-10.

23- Thích Đức Nghiệp. Hồi ký đặc biệt về vụ tự thiêu của HT Thích Quảng Đức. Đạo Phật Việt Nam. Nxb TP Hồ Chí Minh, 1995, 191-210.

24- Những sự kiện lịch sử Đảng, tập III. Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985.

25- Những văn kiện chủ yếu của MTDTGPMNVN (từ 12-1963 đến 10-1964). Nxb Sự thật, Hà Nội, 1964.

26- Quốc Oai. PG tranh đấu. Nxb Tân Sanh, Sài Gòn, 1964.

27- Phiếu đệ trình số 0289/QĐ III/VPTL ngày 22-8-1963 của Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn III kiêm Tư lệnh vùng III chiến thuật, kiêm Tổng trấn Đô thành Sài Gòn, gởi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu TM-HS 209.

28- Tâm Phong. Nhớ lại cuộc vận động của PG. Tuần báo Hải Triều Âm, số 20, ngày 24-8-1963, tr.10-11.

29- Tâm Phong. Nhớ lại cuộc vận động của PG. Tuần báo Hải Triều Âm, số 18, ngày 30-8-1963, tr.5.

30- Tâm Phong. Nhớ lại cuộc vận động của PG. Tuần báo Thiện Mỹ, số 1, ngày 27-11-1963, tr.12.

31- Sắc lệnh ngày 20-8-1963 tuyên bố tình trạng giới nghiêm trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04 KS.8468.

32- Tài liệu rải ngoài đường và trong trường học. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu TM-HS.686.

33- Nam Thanh. Cuộc đấu tranh của PG Việt Nam. Viện Hóa đạo, Sài Gòn, 1964.

34- Nguyễn Thanh. Sự thật cuộc đấu tranh PG Việt Nam. Nxb Hoa Đạo, Sài Gòn, 1964.

35- Thông bạch số 84 ngày 16-7-1963 của Phó Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam gởi toàn thể Tăng đồ và tín đồ trong nước. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.

36- Thông bạch của HT Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam và của UBLPBVPG gởi toàn thể PG đồ trong nước nhân ngày lễ chung thất của HT Thích Quảng Đức. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.

37- Thông điệp của Tổng thống gởi đồng bào thủ đô, ngày 11-6-1963. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8464.

38- Thư văn của phái đoàn PG Việt Nam gởi ông Bộ trưởng Công dân vụ ngày 17-5-1963. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.

39- Thư văn số 83 ngày 14-7-1963 của HT Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam gởi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.

40- Thư văn của TT Thích Tâm Châu gởi, Chủ tịch UBLPBVPG gởi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.

41- Thư ngày 24-7-1963 của đại diện một nhóm sinh viên và thanh niên Thiên Chúa giáo tại Sài Gòn gởi đức Khâm sứ Tòa thánh Vatican tại Việt Nam. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.

42- Tin về hoạt động tôn giáo (mật) số 17357/TCSQG/CII/2/M ngày 24-8-1963. Bộ Nội vụ, Nha Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu TM-HS.686.

43- Quốc Tuệ. Công cuộc đấu tranh của PG Việt Nam. Tác giả xuất bản, Sài Gòn, 1964.

Tài liệu tiếng Anh

44- Hammer, Ellen J. A Death in November (American in Vietnam in 1963). E.p.Dutton, New York, USA, 1987.

45- Nivolon, Francois. The Vietnam Buddhist Crisis. Far Eastern Economics Review, No.2, Volume XLI, July 11, 1963.

46- Schecter, Jerrold. The New Face of Buddha. John Weatherhill, Tokyo, 1967.


 

Sự phát triển của Phật giáo tại miền Nam từ năm 1951 trở đi

 

Sa môn MINH THÀNH

GIÁO HỘI TĂNG GIÀ NAM VIỆT

Giáo hội Tăng già được thành lập năm 1951 (ngày 5 tháng 6). Buổi lễ ra mắt diễn ra tại chùa Hưng Long, số 298 đường Pierre Pasquier, gần Ngã sáu Chợ Lớn (nay là đường Ngô Gia Tự), từ đó Giáo hội Tăng già Nam Việt (GHTGNV) đã trở thành tổ chức quy tụ Tăng già toàn miền Nam, lãnh đạo PG tại Nam phần này, trụ sở đặt ở chùa Ấn Quang. Sở dĩ buổi lễ ra mắt diễn ra ở chùa Hưng Long là vì hồi ấy, Ấn Quang chỉ mới là ngôi nhà lá nhỏ, chật hẹp khuôn viên, không đủ sức chứa đại biểu. Hưng Long là chùa xưa to, có bề thế, rộng. Trong lễ này có 3 vị trưởng lão Hòa thượng (HT) chứng minh và mười mấy đại biểu các tỉnh cùng quan khách Phật tử cũng như Ban Quản trị Hội Phật học Nam Việt (Hội Phật học Nam Việt chính thức có giấy phép hoạt động trước đó mấy tháng) tham dự. Thành phần GHTGNV ở cương vị Trung ương gồm có: HT Đạt Thanh, Lâm thời Pháp chủ; ngài Đạt Từ (1895-1977), Trị sự trưởng; ngài Huyền Dung, Trị sự phó; ngài Nhựt Liên, Tổng Thư ký ; ngài Phước Cần, Trưởng ban Giám luật ; ngài Quảng Liên, Trưởng ban Hoằng pháp; ngài Thiện Hòa, Trưởng ban Giáo dục; ngài Quảng Đức, Trưởng ban Nghi lễ; ngài Tắc Chi, Chưởng quỹ; ngài Quảng Minh (Hội trưởng Phật học Nam Việt), Kiểm soát viên.

Từ Trung ương, Giáo hội vận động thành lập giáo hội ở các tỉnh, một năm sau thì khắp các tỉnh Nam phần đều có giáo hội tỉnh. Hai năm họp đại hội một lần, bầu lại Ban Quản trị. Trong kỳ Đại hội 2, năm 1953, ngài Huyền Dung được bầu làm Trị sự trưởng, nhưng cuối năm ấy, ngài đi du học bên Anh nên ngài Thiện Hoa thay chức ấy, và cũng đại hội này, ngài Thiện Hoa làm Trưởng ban Hoằng pháp thay cho ngài Quảng Liên đi du học bên Sri Lanka; ngoài ra vẫn như cũ. Đến năm 1954 thì ngài Tổng Thư ký Nhựt Liên sang Lào trụ trì chùa Bàng Long nên Thầy Thiền Định thay Ngài làm Tổng Thư ký. Cũng trong năm 1953, HT Huệ Quang được suy tôn lên ngôi Pháp chủ thay thế HT Đạt Thanh vì tuổi cao xin nghỉ. Đến năm 1956, HT Huệ Quang (1888-1956) đi dự Hội nghị PG Thế giới ở Népal, Ấn Độ, rồi Ngài viên tịch bên ấy. Năm 1957, suy tôn HT Khánh Anh (1895-1961) lên ngôi Thượng thủ Giáo hội Tăng già toàn quốc, sau khi HT Tuệ Tạng ở ngôi vị ấy viên tịch ở Hà Nội. Trong Đại hội Giáo hội Tăng già toàn quốc năm 1959 này, ngài Thiện Hòa được bầu làm Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già toàn quốc. Ngài Trí Thủ, Trưởng ban Hoằng pháp Giáo hội Tăng già toàn quốc và nhiều vị khác ở các chức vụ trọng yếu khác. Về Giáo hội Tăng già Nam Việt thì từ 1955 trở đi, lãnh đạo cốt cán là hai ngài Thiện Hòa và Thiện Hoa, cùng sự giúp sức của một số vị Tăng già trong các chức vụ quan trọng khác. Ngài Quảng Liên về nước năm 1957, làm Đốc giáo Phật học đường Nam Việt thay ngài Thiện Hoa, khi này ngài Thiện Hoa làm Trưởng ban Hoằng pháp, soạn sách, dịch kinh, đi giảng Phật pháp ở các giảng đường Xá Lợi, Ấn Quang hay những nơi có lễ lớn, chăm lo việc phát triển công việc hoằng pháp có chiều sâu và rộng.

* Phật sự 13 năm của GHTGNV (1951-1963):

1- Công việc nội bộ:

Lập Tỉnh Giáo hội, sách tấn Tăng già, làm lễ bố tát ngày 15 và 30 và nghiêm trì giới luật. Tổ chức an cư kiết hạ hàng năm, khai Đại giới đàn, lập Tăng tịch. Năm 1956 thành lập Ni bộ Nam Việt tại chùa Từ Nghiêm, Chợ Lớn, coi sóc hết cả Ni bộ Nam phần, lập chi nhánh GHTGNVở Cao Miên (Campuchia), tổ chức Đại hội hai năm một kỳ bầu Ban Trị sự Trung ương, vạch chương trình Phật sự, phúc trình mọi Phật sự trong hoạt động kết quả hai năm. Mỗi lần Đại hội đều có những yếu tố mới, công việc nội bộ hoàn chỉnh, tổ chức có quy củ.

2- Công việc hoằng pháp, đào tạo cán bộ cung ứng cho ngành này:

Năm 1953, ngài Thiện Hoa, vốn là đồng học với ngài Thiện Hòa ở trường Phật học Báo Quốc từ năm 1938 đến năm 1945, từ Trà ôn lên tham dự hẳn vào công việc trùng hưng PG ở trung tâm Sài Gòn. Ngài làm Trưởng ban Hoằng pháp của GHTGNV, ban đầu là tiếp dạy hàng tuần các môn Phật pháp, kinh điển cho học tăng tại Phật học đường Nam Việt, Ngài là Đốc giáo (Giám học). Với hai chức vụ Đốc giáo và Trưởng ban Hoằng pháp, ngài chăm lo công việc thật siêng năng hiếm có, suốt tháng ngày dạy học, đi giảng, dịch kinh luận, viết sách, tối lại mở lớp dạy Việt ngữ cho đồng bào quanh đây, phương pháp của ngài là dạy vần chữ O, chỉ một tháng là học viên đọc, viết được chữ. Khi ấy, Hội Truyền bá Quốc ngữ đến dự, họ thấy phương pháp của ngài rất hay, khen chí tình. Những năm kế tiếp là 54, 55, 56, 57, công việc hoằng pháp trở nên dày đặc, ngày nối ngày với việc nối tiếp mà môn nào cũng phải gia tâm làm tận lực. Năm 1955, ngài bắt đầu soạn Phật học phổ thông làm sao cho dễ hiểu, giúp người mới học Phật lãnh hội nhẹ nhàng. Mỗi bài có dàn bài chi tiết kỹ lưỡng. Ban đầu đem dạy cho học tăng, từ lớp sơ đẳng tới trung đẳng với từng cahier bài chưa đóng tập, mỗi khóa 10 bài. Khi dạy ấy, ngài Thiện Hoa nhằm huấn luyện người có khả năng để những năm sau sẽ đi giảng các tỉnh. Rốt cuộc đi tới nguyện ước, thì chỉ có quý Thầy Thanh Từ, Huyền Vi, Từ Thông, Thiền Định, Quảng Long, Chính Tiến đi giảng có kết quả khả quan vì quý Thầy này đã tốt nghiệp Trung đẳng Phật học, tuổi lớn, tiếp nhận bài học, diễn nói vững chãi. Thế là từ năm 1956, ngài Thiện Hoa lập Giảng sư đoàn cử đi giảng Phật học phổ thông ở các tỉnh Nam phần. Đây là việc phổ biến giáo lý khắp các tỉnh cho đồng bào Phật tử có tính chất quy mô sâu rộng. Các kỳ giảng Phật học phổ thông được lên lịch kỹ càng với vị trí địa điểm, giảng sư lưu động mỗi nơi giảng hai tuần rồi sang tỉnh khác. Người hăng hái chuẩn bị phép tắc cũng như lo liên hệ hiệu trưởng các trường trung học hoặc tiểu học từng trú xứ trong các tháng nghỉ hè, là ngài Thiện Bình, trụ trì chùa Thiên Phước, Cai Lậy. Ngài là cán bộ đặc biệt thừa lịnh hai thầy Thiện Hòa và Thiện Hoa trong mọi công việc Giáo hội. Ngài Thiện Bình (1903-1993) vào học Ấn Quang năm 1951, vì tuổi lớn nên ngài Thiện Hoa giao chức Tri khố. Sau thời gian học, ngài được điều đi làm Phật sự như vừa nói. Hai thầy Huyền Vi và Thanh Từ thường đi song song từng nơi mà giảng, còn thầy Từ Thông và Thiền Định thì đi riêng. Hai thầy Quảng Long và Chính Tiến thì đi một hai nơi rồi nghỉ vì hai thầy nói giọng Bắc, đồng bào Nam Kỳ nghe không được. Các buổi giảng còn có chiếu phim thời sự Phật giáo nên tạo được không khí rộn ràng, sôi nổi. Đây là lần đầu tiên, lâu đời tới nay mới có cuộc diễn giảng Phật pháp rộng lớn và đem đến cho mọi người nguồn giáo lý mới lạ, đầy hấp dẫn, dễ nghe, nên các buổi giảng dù ít cũng không dưới 200 người, còn thì từ 3, 400 trở lên. Do vậy, mượn các trường học có sân rộng, giảng ban đêm mát mẻ, đèn sáng, âm thanh tốt. Có nơi Tỉnh trưởng cũng đi nghe, sẵn sàng cho mượn hệ thống âm thanh, loa phát rất tốt. Sự đón rước giảng sư rất long trọng. Cuộc giảng Phật học phổ thông thành phong trào có thế mạnh dần từ đầu và về sau còn kéo dài suốt mấy năm. Thành công trong việc giảng Phật học phổ thông này coi như thành quả đầy khích lệ cho công việc hoằng pháp của GHTGNV. Quần chúng nghe hiểu giáo lý Phật càng nhiều, ở khắp nơi họ trở thành tín đồ có hiểu biết lịch sử, giáo lý rành, từ đó quy y theo Phật càng đông. Các Tỉnh hội Phật học Nam Việt, số hội viên cũng tăng lên. Các chùa hội quán lần lượt được xây cất. Bấy giờ có những nơi rất nhu cầu về trụ trì.

3- Khóa huấn luyện trụ trì đầu tiên đặt tại chùa Pháp Hội, Dược Sư:

Từ kỳ nhập hạ 1957, ngài Thiện Hoa mở khóa huấn luyện trụ trì ở hai trú xứ chùa Pháp Hội và chùa Dược Sư. Từ đó trở đi, hàng năm đều mở hai khóa trụ trì vào mùa kiết hạ và kiết đông. Khóa Tăng thu nhận 30 vị, khóa Ni 50 vị. Mục đích khóa này là cung cấp toàn diện kiến thức về diễn giảng, về nghi lễ của Giáo hội cho đông đảo Tăng Ni từng xuất thân lớp sơ đẳng Phật học đường, hay những vị Tăng Ni từ khi đi tu xuất gia, nhưng chưa có cơ hội học qua trường lớp giáo lý. Những vị tốt nghiệp khóa trụ trì này được Giáo hội bổ nhiệm đi trụ trì các chùa do Hội Phật học mới xây cất ở các nơi, hay các chùa do chủ chùa cúng lại cho Giáo hội, như chùa Giác Sanh ở Phú Thọ, Ni sư già yếu mà chùa thì cất và lưu truyền trên 100 năm, nay Ni sư cúng lại cho Giáo hội quản cố. Giáo hội đã cử Thầy Thiện Thành, tốt nghiệp khóa trụ trì đầu tiên đến trụ trì, và Ngài trụ nơi ấy đến khi viên tịch. Cũng có nhiều vị xuất thân từ khóa huấn luyện trụ trì, về sau thành giảng sư nổi tiếng. Chương trình học bao gồm phương pháp diễn giảng, tổ chức hành chánh, nghi thức truyền Tam quy Ngũ giới, Bát quan trai, nghi lễ theo Giáo hội tức đơn giản không như xưa, tán tụng trống đẩu quá nhiều, giáo lý, lịch sử Phật Tổ đều được giảng, cả đến bộ Lăng Nghiêm, Duy Ma Cật cũng được giảng tóm tắt. Giáo sư gồm ngài Thiện Hoa là chủ giảng, còn có quý ngài Thiện Hòa, Huệ Hưng, Thiền Định. Học viên mãn khóa trở về trú xứ, rồi khóa hai lại trở lên dự học, hai năm là 4 khóa tốt nghiệp.

Năm 1959, khóa huấn luyện trụ trì được dời về chùa Tuyền Lâm, đường Lục Tỉnh, đổi tên là khóa Như Lai sứ giả. Mấy khóa huấn luyện ấy đã cung cấp đủ nhu cầu, sau đó không còn mở tiếp. Khóa Như Lai sứ giả khi mới nghe tên này, nhiều người thấy nó lớn quá, nhưng ngài Thiện Hoa nói, tại sao lại ngần ngại. Chúng ta là Tăng sĩ, người hành Như Lai sự, tác Như Lai sứ là đúng rồi. Chí hướng chúng ta là hoằng truyền giáo pháp Phật Tổ, làm cho ánh sáng trí huệ Phật pháp rực sáng giữa cuộc đời đầy đau khổ, như thế chúng ta là trưởng tử Như Lai, phải hành Như Lai sự, tác Như Lai sứ thì đó là hạnh nguyện sung mãn rồi. Từ đó, ngài viết câu châm ngôn cho học viên ghi lòng rằng: “Con nguyện hiến thân cho đạo pháp, nơi đâu đạo pháp cần, chúng sanh cần thì con đến. Chẳng kể gian lao, không từ khó nhọc”.

4- Thiết lập kinh tế tự túc nhà chùa:

Ngài Thiện Hòa thấy việc in kinh, luật, luận, sách cần xuất bản ngày càng nhiều, thì chỉ có việc lập nhà in thì mới tiện lợi. Do đó, Ngài quyết định lập nhà in ngay phía sau nhà Tổ Ấn Quang. Công việc in theo lối xưa thật là bề bộn, nào sắp chữ, đổ bản chì, vỗ phông v.v..., thợ thì chọn Minh Đức, Thiện Thắng và mấy huynh đệ nữa đi lên nhà in Thạnh Mậu học sắp chữ. Thế là tháng 5 năm 1954, máy in được lắp vào vị trí và bắt đầu hoạt động hết sức náo nhiệt, máy chạy ồn ột suốt nghe kích thích lạ, làm như ai nấy nghe máy nhắc mình siêng năng hơn. Giàn máy này cổ lỗ, hiệu MARINONIE của Pháp, đâu cũng mấy chục năm, nhưng còn xài được khá, do nhà in Thạnh Mậu bán lại giá rẻ vì nhà in này sắp trang bị giàn máy tối tân của Nhật (nhà in này lập năm 1927 ở miệt cầu Băng Ky, Gia Định, chủ nhân là bà Thạnh Thị Mậu, hồi ấy chuyên in sách Phật, mãi đến sau này đổi thành nhà in Hạnh Phúc, khi này in ra mới đẹp, sáng tỏ; trước kia thì in lem nhem).

Ngài Thiện Hòa đặt tên là Nhà in Sen Vàng, từ đó kinh, luận do ngài Thiện Hoa dịch đều in nơi đây và còn lãnh in nhiều sách khắp nơi cho khách hàng. Giàn máy Marinonie chạy một lần 16 trang khổ vừa, 6 năm sau thì giàn máy này cho hưu. Khi này năm 1959, ngài Thiện Hòa bổ nhiệm thầy Tắc Phước làm quản đốc nhà in, nên suy tính công việc, thầy cho mua máy Yoda của Nhật, hai ba máy chạy lẹ, in mau đẹp, lời hơn in kiểu cũ. Bấy giờ sắp chữ xong là đặt lên in luôn, rồi trả chữ vào ngăn, không còn lối vỗ phông, đổ chì như xưa nữa. Bấy giờ công nhân tay nghề giỏi đều thuê các anh chị người đời làm cả, nào in, nào sắp giấy, đóng cắt may họ đều làm tất. Tăng sĩ chỉ mình thầy Tắc Phước quản lý mọi thứ. Sau cử thầy Minh Thành quản lý xưởng Bồ Đề Hương, Thầy Phước Định quản lý xưởng Vị trai Lá Bồ Đề.

Từ năm 1957, ngài Thiện Hoa đặt Nhà Xuất bản Hương Đạo rồi mở phòng phát hành kinh sách Ấn Quang, phòng này do chư Tăng Ấn Quang trực tiếp điều hành, gởi sách đi phát hành khắp nơi. Thầy Thanh Viên là chính, coi ngó mọi công việc bên ấy. Hồi đầu khi nhà in mới lập, giấy in ra phát cho mỗi học tăng một xấp vài trăm tờ, ngồi xếp theo cahier, các học tăng ngoại trú chủ nhật đi làm công việc ở Phật học đường Ấn Quang, nơi mình học, như quét lau phòng, bàn, xếp giấy, lau sàn nhà v.v... Năm 1957, thầy Thiền Định, trưởng ban in kinh sách chữ Hán như Lăng Nghiêm, Thập Thiện, cung cấp kinh cho học chúng học, thầy đem bộ kinh vô Chợ Lớn mướn nhà in Tàu in, thầy đặt tên là Ban ấn hành Phật điển giáo khoa. Việc này được nhiều anh em hưởng ứng vì tốn tiền không mấy mà có kinh để học, khỏi chép quá mất thì giờ, và cũng in nhiều bản để phát hành như Sa di luật giải, Nhị khóa hiệp giải, Lịch sử Phật, Trung đẳng, Sơ đẳng Phật học giáo khoa thư v.v... nhưng cũng không dễ mua, nên phần đông học kinh chữ Hán là phải chép trước, hoặc có những bộ kinh in bằng bột, tức viết chữ Hán trên giấy pelure bằng mực policopie tím đậm rồi nhồi bột nếp với dầu hôi, vừa đặc đặc thì in giấy pelure vào cho thấm, gỡ ra, khi ấy có một trang kinh, đặt tờ pelure fort vào vuốt nhẹ, gỡ là được một trang kinh. Cứ thế, in chừng 20 bản là mờ, nhồi bột lại in trang khác.

5- Công việc mở mang giáo dục Tăng già - lập các Phật học đường:

Chi nhánh của Phật học đường (PHĐ) Nam Việt là PHĐ Phước Hòa (Trà Vinh), Giác Sanh, Pháp Hội, Bình An (Long Xuyên), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Từ Nghiêm (Ni), Giác Nguyên... Một trong những công việc hệ trọng của GHTGNV là tạo dựng các PHĐ đào tạo Tăng tài, gồm cả PHĐ cho Ni chúng. PHĐ Nam Việt được thành lập năm 1950 tại chùa Sùng Đức, cuối tháng 7 âm lịch năm Canh Dần 1950, dời lớp sơ đẳng xuống Ứng Quang, tháng 10 dời toàn bộ hai lớp trung và cao đẳng xuống đây. Ngài Thiện Hòa được Hội đồng Giáo thọ bầu cử lên chức Giám đốc PHĐ Nam Việt từ năm 1951, vì ngài là người có tinh thần kiên nhẫn, hòa được với hết thảy mọi người cộng tác dù Bắc hay Trung, Nam. Vả lại, khi ấy ngài lớn tuổi hơn hết trong các vị giáo thọ, lại là người sinh trưởng tại Nam phần. Trong sự thiết lập thành PHĐ Nam Việt này thì thầy Trí Hữu đã đem chùa Ứng Quang của mình hiến cho 7 vị (và ngài giữ một chân) là các Pháp sư: Thiện Hòa, Quảng Minh, Huyền Dung, Nhật Liên, Quảng Liên, Trí Minh và Trí Hữu. Khi ấy, Pháp sư Nhật Liên đề nghị hai việc là cử ngài Thiện Hòa làm Giám đốc, và đổi Ứng Quang ra Ấn Quang, có nghĩa là Tổ ấn trùng quang. Đề nghị ấy được Ban Giáo thọ chấp nhận thông suốt. Từ 1950, PHĐ Nam Việt đã mở 3 cấp: sơ, trung và cao đẳng. Những năm đầu 1950, 1951, 1952, 1953, giáo thọ dạy đầy đủ, Phật sự chưa nhiều lắm nên có thì giờ dạy đều, nhất là ngài Thiện Hòa hàng tuần dạy gần như bữa nào cũng có giờ dạy từ lớp sơ đẳng đến trung đẳng. 1952-1953, lớp sơ đẳng Ni giới tại chùa Từ Nghiêm, Dược Sư cũng được mở, ngài Thiện Hòa cũng đến đó dạy. Năm 1953, có thêm ngài Thiện Hoa đến dạy. Coi như hai nơi ấy là chi nhánh đầu tiên của PHĐ Nam Việt. Năm 1953, mở chi nhánh PHĐ Nam Việt lớp sơ đẳng tại chùa Bình An (Long Xuyên), nhưng được vài tháng thì giải tán vì gặp khó khăn ở vùng Hòa Hảo ; cũng năm 1953 mở chi nhánh PHĐ Nam Việt tại chùa Pháp Hội dạy tiếp lớp của chùa Bình An. Lớp sơ cấp này có 40 người tốt nghiệp cuối năm 1954. Năm 1956, mở chi nhánh PHĐ tại chùa Phước Hòa tỉnh Trà Vinh dạy 6 năm. Ban Giám đốc điều khiển chi nhánh này lần lượt có: thầy Tịnh Đức, thầy Trường Lạc, kế có thầy Thanh Từ, thầy Hồng Tịnh, kế có thầy Hoàn Quan, thầy Bửu Lai. Cũng năm 1956, mở lớp trung đẳng cho chư Ni tại chùa Dược Sư. Năm 1958, mở lớp sơ đẳng cho Ni chúng tại chùa Tăng Già (chùa Kim Liên - Q4) ở Vĩnh Hội và mở lớp sơ đẳng cho chúng Tăng tại chùa Phật Ân (Mỹ Tho) và chùa Phật học Biên Hòa. Năm 1959, khi đi giảng Phật học phổ thông ở Trà Vinh, thầy Từ Thông thấy cơ ngơi của trường Lưỡng Xuyên còn sử dụng được nên Thầy phát nguyện mở lớp sơ đẳng 3 năm tại đây và được thầy Thiện Hòa chấp thuận; năm 1960, mở chi nhánh PHĐ tại chùa Giác Sanh (Phú Thọ). Điều khiển trường này do các thầy Thiện Nghị, Liễu Minh, Minh Thành và một số các vị khác. Vì nơi đây lên xuống Ấn Quang khá gần nên có nhiều thầy đến dạy, trông coi học chúng.

6- Những cải tổ tại PHĐ Nam Việt:

Từ năm 1954, 1955, 1956 có nhiều biến chuyển bên ngoài, như Hiệp định Genève, đình chiến, tạm chia hai miền. Tăng chúng cũng có nhiều suy nghĩ, khuynh hướng học văn hóa trở thành một nhu cầu. Dịp may khi ấy, năm 1954, ngài Nhất Hạnh đến trụ nơi PHĐ Nam Việt để theo học chương trình cử nhân văn khoa, Đại học Văn khoa Sài Gòn, nên ngài đã đề nghị ngài Thiện Hòa, Thiện Hoa sửa đổi toàn diện chương trình học nơi đây. Do được hai thầy chấp nhận cho nên thầy Nhất Hạnh đã mạnh dạn lập ra chương trình đào tạo mới, tức cho học văn hóa lớp 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 ban đêm hoặc ngày học xen giáo lý, dạy toàn chữ Việt. Chương trình này rất thiết thực vì trình độ văn hóa khá thì học tăng mới có khí cụ sắc bén để đi vào chính lý Phật pháp dễ dàng. Hai lớp trung và cao đẳng đã tốt nghiệp 53, 54. Như vậy, lớp sơ đẳng hồi này chia làm hai lớp bổ túc A và bổ túc B. Đến cuối năm 1957 thì số học tăng bổ túc A, tức học hai chương trình lớp 7 và 8 xong, Ấn Quang mới gởi một số vị ra học ở Phật học viện Hải Đức (Nha Trang), vì ngoài ấy có trường Trung học Bồ Đề gần Phật học viện, học tăng đi học và ở Phật học viện ban đêm học kinh rất tiện. Các học tăng được gởi ra đó, mỗi người được trường đài thọ tiền cơm là 200 đồng, như thầy Thắng Hoan, Đức Niệm, Từ Mãn, Minh Hiện, Thiện Phú, Hồng Huệ v.v... Trí Không, Trí Hòa không ra Nha Trang được, thì ở lại học trường tư đô thành hoặc nơi nào có duyên với trường công mà theo học chương trình ngoại điển. Từ năm 1958 trở đi, PHĐ Nam Việt không còn lớp chuyên dạy nội điển như cũ. Các học tăng tốt nghiệp sơ đẳng các Phật học viện chi nhánh khi lên Ấn Quang thì được tiếp tục đi học chương trình ngoại điển ở các trường BĐ hoặc trường trung học công lập hay tư thục. Nhiều vị đã đậu tú tài, lên đại học hay xuất dương du học về sau như thầyTrí Sanh, thầy Đức Niệm, thầy Trí Quảng, thầy Tịnh Hạnh...

* Từ năm 1949 ở Huế đã thiết lập trường BĐ tức trường do Giáo hội quản lý làm chủ, dạy theo chương trình nhà nước, hàng tuần có dạy giáo lý, giáo sử PG cho học sinh, phần đông là con em Phật tử, có những em nghèo khó được miễn phí. Vị hiệu trưởng là vị Tăng già có văn bằng đã tốt nghiệp chương trình học của quốc gia. Từ ấy, một số tỉnh miền Trung lần lượt mở trường Bồ Đề cho Tỉnh hội cai quản. Tại Nam phần, đô thành Sài Gòn, ngài Thiện Hòa mở trường Bồ Đề đầu tiên đặt tại chùa Giác Ngộ, đường Nguyễn Chí Thanh hiện nay, dạy từ lớp Một trở lên. Hàng tuần có quý thầy được cử đến dạy giáo lý. Trường này mở năm 1959, do ngài Quảng Liên làm Hiệu trưởng (ngài về nước năm 1957 và năm 1960 ngài lại đi Mỹ du học nên thầy Quảng Chánh được thay vào làm Hiệu trưởng). Lần lượt các tỉnh Nam phần đều có mở trường trung tiểu học Bồ Đề gần trụ sở Giáo hội hay trụ sở Hội Phật học tỉnh, theo mô thức trường Bồ Đề Trung ương Sài Gòn. Sau năm 1963 thì nhiều trường BĐ tỉnh được mở ra như trung học Bồ Đề Long Xuyên, Long Khánh, Vĩnh Long, Long An, Bồ Đề Nguyễn Văn Khuê Sài Gòn, Mỹ Tho, Bến Tre, Chợ Mới (An Giang) v.v..., sách giáo khoa cho chương trình Phật pháp áp dụng ở các trường Bồ Đề cũng được ngài Thiện Hoa cộng tác với cư sĩ Võ Đình Cường biên soạn kỹ lưỡng, từ đệ thất, đệ lục, đệ ngũ và đệ tứ của chương trình trung học. Trường Bồ Đề cũng là một hình thức hoằng pháp nhưng chuyên ngành về giáo dục, nuôi dưỡng tâm Bồ đề cho thanh thiếu niên gốc Phật tử hay không Phật tử cũng tốt cả, có nhiều em là học sinh Bồ Đề, rồi trở thành đoàn viên Gia đình Phật tử, ở đô thành hay ở các tỉnh.

Gia đình Phật tử (GĐPT) là một tổ chức giáo dục con em Phật tử bằng hình thức sinh hoạt hàng tuần, giống hình thức Hướng đạo sinh. Tổ chức này ra đời ở Huế vào những năm 1940, lần lượt phát triển ở khắp nơi. Tại Nam phần, GĐPT Chánh Giác là đầu tiên được thành lập năm 1951 tại chùa Phật Quang (Chợ Lớn) của thầy Huyền Dung. Kế tiếp có các GĐPT Chánh Đạo, trụ sở (đoàn quán) đặt tại chùa Xá Lợi. Lần lượt các tỉnh đa phần đều có GĐPT sinh hoạt như Trung ương. Bên trên Ban điều hành sinh hoạt có Gia trưởng thường là vị Hội trưởng Hội Phật học hay thành viên Hội Phật học, và có vị Tăng làm Cố vấn giáo lý, hàng tuần dạy giáo lý, sau khi các em ca hát sinh hoạt. Cách năm thường mở khóa huấn luyện huynh trưởng, Giáo hội cử một vị Tăng già đến phụ trách phần giáo lý cho họ. Các GĐPT đông đảo đoàn viên thường đồng phục màu lam trông rất đẹp mắt, thuần hậu, khả ái ; họ sống theo khẩu hiệu Hòa thuận, tin yêu, vui vẻ, đạo tình phát triển sâu đậm, giữa chị trưởng đoàn viên và huynh trưởng đoàn viên. Các lễ lớn như Phật Đản, Vu Lan, các GĐPT góp phần quan trọng làm cho lễ thêm trang nghiêm, lôi cuốn với tràng hoa, hàng ngũ, tụng niệm, trang hoàng trật tự, trình diễn văn nghệ mừng lễ, mọi việc ấy làm cho sắc diện Phật giáo khắp nơi có những cái mới, lôi cuốn được quần chúng, cũng là một cách hoằng pháp chuyên ngành, dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên. Nhiều em thuở bé đi GĐPT mà lớn lên thành bậc xuất gia hoặc người cư sĩ rất có tư cách dạn dĩ, trật tự, siêng năng, giỏi giắn. Khởi thỉ tổ chức này có tên là Gia đình Phật hóa phổ, xuất phát ở Huế.

7- Công việc kiến thiết tự viện của GHTGNV:

Khởi đầu là kiến thiết chùa Ấn Quang, là trụ sở của GHTGNV, khởi thỉ chỉ là một ngôi nhà lá vách cà tàng, cửa nẻo đơn sơ, và chu vi chật hẹp. Từ khi xuống đây, với chức vụ Giám đốc, ngài Thiện Hòa đã vận động kết quả khả quan nên trước là nới rộng khuôn viên chùa, trường, điều đình chi tiền cho một số nhà lá ở sát cạnh dời đi nơi khác. Cứ thế mà nới rộng, một căn nhà thuở ấy chỉ vài chục ngàn là có thể dọn đi nơi khác, cất chỗ khác dễ dàng. Đầu tiên là xây dãy nhà phía trái (từ ngoài ngó vào) 8 x 14m làm lớp học, phòng ở, lợp ngói tự chế là từng miếng hình vuông 4 tấc bằng xi-măng mỏng, vách sườn nhà bằng gỗ, nền tráng xi-măng, ngăn thành lớp học và phòng Giáo thọ. Ngôi nhà này hoàn thành chỉ hơn một tháng xây cất, người góp tịnh tài nhiều nhất qua cuộc vận động là bác sĩ tại gia đệ tử đầu tiên của HT Thiện Hòa, bác sĩ Cầm, làm Giám đốc Sở Vệ sinh Chợ Lớn. Từ khi cảm mến đức độ ngài Thiện Hòa, hai vợ chồng phát tâm quy y, hàng tuần chiều thứ bảy là hai ông bà lại đến giảng đường Ấn Quang nghe ngài Thiện Hòa giảng Phật pháp. Ông bà hết sức chăm chỉ, siêng lo Phật sự, không hề vắng một buổi nghe pháp nào. Do ảnh hưởng uy tín của ông bà mà một số gia đình quen thân với hai người đã quy y với ngài Thiện Hòa, tạo nên quy củ thiện tín ngoại hộ hết sức đắc lực cho PHĐ Nam Việt buổi sơ khai này, công đức thật cao thượng.

Qua năm 1952, ngài Thiện Hòa vận động tài chánh xây dãy nhà bên phải. Ngôi nhà này lợp ngói vuông, tường gạch khang trang, xong ngôi nhà này thì ngài Thiện Hòa lo xây chánh điện có mẫu giống chùa Từ Đàm (Huế). Chánh điện khánh thành năm 1953 (rằm tháng 7 âm lịch). Ngày 8-3-1953, lễ suy tôn Pháp chủ Huệ Quang được tổ chức cực kỳ long trọng, lễ diễn ra nơi ngôi nhà Tăng vừa xây nên trở thành trang nghiêm. Phía hậu phông, ngài Nhựt Liên cho vẽ cảnh núi rừng với mai vàng, ý để nhắc tới núi Huỳnh Mai Ngũ Tổ là nơi truyền y bát mà ngài Huệ Năng thành Lục Tổ, mở mạnh nguồn thiền đầy chất hiện thực sinh khí Trung Quốc. Khi lễ diễn ra, Thầy Bửu Huệ (1914-1992) tốt nghiệp lớp cao đẳng Ấn Quang, đã long trọng dâng lên HT Huệ Quang y, hậu và ấn, giúp HT mặc y, hậu, tọa trên lễ đài. Bên ngoài cờ năm sắc treo hai dãy từ chùa Ấn Quang ra tới ngã ba Vườn Lài, gối đầu vào đường Pasquier là cổng quyền môn với đỉnh nhọn cao ngất. Từ đó, cờ năm sắc giăng tủa xuống, chính giữa đề hàng chữ thật hùng vĩ: LỄ SUY TÔN PHÁP CHỦ. Vùng này hãy còn toàn nhà lá, và đường Lorgeril thuở đó lồi lõm, không có điện nước. Thế nên khung cảnh buổi lễ với trang trí sáng ngời cờ xí chập chùng, banderol giăng ngang nhiều bức, làm cho toàn khung cảnh nổi lên kỳ lạ hấp dẫn, vì từ xưa giờ chưa hề có cuộc lễ vĩ đại tôn nghiêm như thế. Sau ba cơ ngơi đã hoàn tất thì cất nhà Tổ vào năm 1955. Khi ấy, với cơ ngơi vừa hoàn thành, PHĐ Nam Việt và trụ sở GHTGNV đã như tự gánh lấy nhiệm vụ vinh quang là chùa bản doanh, chùa gốc vì có các chi nhánh PHĐ, hình thế PHĐ Nam Việt như cánh tay vươn tới các tỉnh, như quả tim cung cấp máu, hồng huyết cầu cho sinh hoạt khắp các tỉnh. Hội Phật học hoạt động từ năm 1957 trở đi có tính chất riêng cho cư sĩ, vì từ năm ấy, ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền làm Hội trưởng suốt cho đến khi ông viên tịch năm 1973, nhưng mọi việc làm bên Hội Phật học đều có sự phối hợp với GHTGNV. Bên trên Hội vẫn có vị Chứng minh Đạo sư Tăng già lãnh đạo tinh thần. Từ 5-10-1953 đã triệu tập phiên họp quan trọng tại trụ sở Giáo hội dưới quyền chủ tọa của HT Pháp chủ Huệ Quang, giữa Giáo hội và Hội Phật học để thống nhứt các sự việc quan trọng gồm trong bốn mục là: 1- Góp ý thảo luận và quyết định Phật sự quan trọng; 2- Giải quyết mọi thắc mắc giữa hai bên khi có sự việc xảy ra ở Trung ương cũng như tỉnh; 3- Khi tập đoàn này phối hợp ra quyết định thì cấp dưới phải triệt để thi hành; 4- Tập đoàn này có tư cách lãnh đạo tối cao cho hết thảy Phật sự. Tập đoàn cử bốn đại biểu phối hợp: hai Tăng già, hai cư sĩ bên Hội Phật học. Ban này họp bất thường khi có sự việc. Ngài Tổng Thư ký đệ trình công việc Giáo hội hàng tháng cho đức Pháp chủ Huệ Quang, cũng như thỉnh ý họp phiên bất thường này. Thế nên khi Hội Phật học đưa ý kiến xây cất chùa Xá Lợi, làm trụ sở cho Hội, cũng là nơi tôn trí xá lợi Phật thì GHTGNV và Hội Phật học đã cổ động khắp nơi, từ các tỉnh đến đô thành. Chùa Xá Lợi bắt đầu xây cất từ năm 1956, năm sau thì hoàn tất. Đây trở thành ngôi chùa khang trang, nằm giữa đô thành hoa lệ. Hết thảy là do ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền trực tiếp thu xếp sơ đồ kiến trúc bố trí toàn khu vực, trực tiếp trông coi việc xây cất. Như thế, chùa Xá Lợi của Hội Phật học nhưng trong đó, Giáo hội Tăng già đã lãnh đạo, đã biến thành đạo tràng cho tất cả Phật tử. Hàng tuần, Giáo hội đều có cử giảng sư đến giảng Phật pháp.

Nghi thức trang trí, tôn thờ trong chánh điện Ấn Quang hay ở các Hội Phật học mới xây cất đều có mẫu giống nhau là thờ một vị Phật, tức Giáo chủ Gautama ngồi cội bồ đề. Sát bàn thờ là tòa cao hơn sàn gạch phía dưới, đấy là nơi vị chủ lễ hành lễ với chuông mõ hai bên. Việc đề xướng thờ một vị Phật này xuất phát từ Huế với An Nam Hội Phật học năm 1933. Đây là lối thờ phụng có tính cải cách, khác với chùa xưa là chùa thờ Tam thế Phật, và nhiều vị Bồ Tát hàng lớp cấp bực từ trên xuống. Hai bên là thờ Thập thiện, ngoài là Hộ pháp, có thể nói chùa xưa thờ tổng cộng cả 5, 6 chục tượng Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng. Bây giờ chỉ độc tôn một vị Giáo Tổ thôi, do vậy chánh điện toát lên vẻ trang nghiêm hùng vĩ, đáp ứng được nhu cầu tâm linh thời đại về tín ngưỡng, dễ thu hút lòng tin khi chiêm bái, hành lễ, tạo được sự chú mục tập trung. Các pho tượng Phật này đều được chăm sóc nghệ thuật tuyệt diệu. Pho tượng Bổn sư thờ nơi chánh điện chùa Ấn Quang do ông Trương Đình Ý đắp, ông là một kiến trúc sư tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương và là một Phật tử trung kiên, thọ Bồ tát giới, trường chay. Đắp tượng là phát xuất từ cảm xúc sâu đậm, xuất phát tự đáy sâu cõi lòng. Có như thế, pho tượng mới bốc tỏa một vẻ tươi mát tôn nghiêm khó diễn tả.

Trong chiều hướng phát triển nơi đào tạo Tăng tài ấy, ngài Thiện Hòa có nhiều suy nghĩ kiến tạo cơ ngơi có đủ bề thế cho lĩnh vực tu học của Tăng Ni nên ngài nghĩ đến những đại tòng lâm của thuở xưa và quyết định nhanh trong ý nghĩ đó, ngài đã đi Bà Rịa kiếm đất và ngài đã khẩn 100ha đất nay là Đại Tòng Lâm này, hồi ấy nơi đây hoàn toàn hoang vu, đó là vào năm 1956. Từ đó bắt đầu khai phá, công việc tiến triển chậm vì chiến tranh, vì thiếu tài chánh, chỉ làm sáng bộ mặt bên ngoài gần lộ, làm lễ phòng ranh, tức đặt cổng đi vào chính thức ngày nay. Còn các cơ ngơi khác đều kiến thiết kế tiếp như cô nhi viện Diệu Quang, ở xã Bình Chánh; lò thiêu, tháp Phổ Đồng, chùa Huệ Nghiêm (năm 1964 trở đi, lớp trung đẳng chuyên khoa mở tại đây là lớp chuyên về nội điển, năm 1969 biến thành Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm và chánh điện ngày nay là do thầy Minh Phát, đệ tử cố HT Thiện Hòa xây cất). Trong thời gian xây cất các chùa trước năm 1963, ngài Thiện Hòa còn tái thiết chùa Giác Ngộ, chùa Tuyền Lâm, đó là các chùa được cúng vào GHTGNV. Sau năm 1963, trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), HT Thiện Hòa giữ chức Trưởng ban Kiến thiết. Năm 1969, ngài trùng tu lại ngôi chánh điện Ấn Quang hiện nay. Kiến trúc này do ngài phác họa tỉ mỉ từ ý thức dung hòa Á-Âu, Nam phương Bắc phương PG, hai cổng vào trên nóc có hình Đại tháp Bồ Đề. Mỗi hình tượng chạm trổ tinh vi đều biểu lộ các sự việc ý nghĩa từ nguyên thỉ gốc Ấn Độ. Năm 1957, HT đi dự lễ Phật Đản ở Đông Hồi, qua Thái Lan và nhiều nước, mỗi nơi ngài quan sát sự kiến trúc của mỗi xứ, nên khi trở về, lúc tái thiết ngôi chánh điện này, Ngài đã vẽ ra và thực hiện những gì mình suy nghĩ chọn lọc tinh túy mỗi nơi kia. Do vậy, ngôi chánh điện ngày nay, trong chừng mực nào đó, ta có thể nói nó đã bộc lộ trọn được tinh thần dung hợp Nam-Bắc tông PG hết sức uyển chuyển. Ngôi chùa Ấn Quang ngày nay tự nhiên có dáng dấp độc đáo, không hề có ngôi chùa nào tương tợ như vậy trước nó. Như vậy, qua hai lần kiến thiết, từ ngôi nhà lá thuở ban sơ mà ngày nay Ấn Quang trở thành vẻ tráng lệ đặc biệt của tinh thần dung hợp Bắc-Nam thật quý báu.

8- Các Phật sự khác từ 1951 đến 1963:

Năm 1952, trên đường đi dự Hội nghị PG Liên hữu Thế giới, phái đoàn Sri Lanka đi bằng tàu thủy, có đem theo xá lợi Phật và cho hay sẽ ghé cảng Sài Gòn trong 24 giờ, các Phật tử Việt Nam có thể cung nghinh xá lợi Phật lên bờ để chiêm bái. Được tin ấy, GHTGNV và Hội Phật học Nam Việt gấp rút tổ chức lễ cung nghinh thật rầm rộ, vĩ đại chưa từng có, đúng là nghìn năm một thuở, như lời kêu gọi tham dự lễ cung nghinh do Ban Trị sự Tăng già phát đi khắp nơi. Vai trò chính lo điều hành, mượn địa điểm là ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền. Ông là người thông thạo việc tổ chức và quen biết các quan lớn trong bộ máy Nhà nước. Ông đã xin mượn Câu lạc bộ Đông Dương (mà dân quen gọi là Nhà Kiếng) làm nơi tôn trí xá lợi. Đây là một hội trường vĩ đại so với bấy giờ, tọa lạc tại vườn Tao Đàn ngày nay, vô cùng thuận lợi cho lễ cung nghinh. Nhanh chóng, ông chỉ huy sắp xếp một chánh điện tạm nhưng đầy vẻ uy nghi, hùng vĩ, ấy là do tham khảo ý kiến Thượng tọa (TT) Tổng Thư ký GHTGNV, ngài Nhựt Liên. Bao lam tạm từ dưới trông lên là hàng chữ hùng vĩ KIM CANG ĐẠI ĐỊNH. Bốn chữ ấy lần đầu xuất hiện làm bao lam tạm mà lại vô cùng có ý nghĩa, gieo vào lòng thiện tín, Tăng đồ biết bao cảm xúc. Đám cung nghinh này có mười mấy đoàn thể Phật tử, không phân biệt hệ phái, chủng tộc, cả đô thành và các tỉnh, ước chừng 5.000 người tham dự, trang nghiêm linh đình. Xá lợi được tôn trí trên con bạch tượng, xe này do ngài Đạt Từ y hậu chỉnh tề phụng tống đi đầu rồi phía sau là Tăng già Ni chúng và Phật tử với banderol, cờ năm sắc trùng điệp nối theo như bất tận, thật là lễ cung nghinh xứng đáng, làm hoan hỷ hết thảy tình cảm thiêng liêng mà hết thảy Phật tử dành cho đức Gautama. Suốt đêm ngày, người người lũ lượt tới chiêm bái. Sau cùng đến giờ chia tay, xá lợi lại được đưa xuống tàu trực chỉ Tokyo.

Cũng trong năm 1952 này, một trận hỏa hoạn thiêu rụi 3.000 căn nhà lá bên Khánh Hội. GHTGNV và chư vị khắp các hội đoàn Phật tử, GĐPT đã lao vào cứu trợ. Lần đầu tiên, chư Tăng PHĐ Nam Việt túa ra đi phát gạo cứu trợ, giúp đồng bào gom góp dọn lại nền nhà v.v..., công việc thật hào hứng làm không biết mệt, không kể giờ giấc. Cũng là lần đầu tiên ở đô thành này, người ta thấy Tăng sĩ ở đâu mà đông dữ vậy. Rồi sang năm Thìn 1953, trận bão lụt, nước lũ tràn ngập thật sự dữ dội mênh mông như biển, từ núi Châu Thới đứng nhìn về phía Bắc chỉ thấy mênh mông biển trời, GHTGNV kêu gọi khẩn cấp cuộc lạc quyên cứu trợ, rồi mang phẩm vật đi tận nơi an ủi, ban phát cho đồng bào. Ngài Nhựt Liên đáp máy bay ra Phan Thiết tặng đồng bào bị bão 100.000 đồng.

Năm 1957, lễ Phật Đản này, Ngô Đình Diệm phế bỏ ngày Phật Đản, tức trong các ngày lễ quốc gia, không có kể đến ngày lễ Phật Đản. Bấy giờ Tổng hội PG gởi thơ yêu cầu tái lập vị trí ngày lễ Phật Đản trong danh mục quốc lễ hàng năm. Thấy không chèn ép được vội nên Ngô Đình Diệm đã ký quyết định cho ngày lễ Phật Đản được cử hành với tư cách là ngày lễ quốc gia.

9- Phật sự từ năm 1963 đến năm 1975 và đến nay 1998:

Lễ Phật Đản 1963 bị Ngô Đình Diệm cấm treo cờ năm sắc của PG. Từ đó, Tổng hội PG Việt Nam phát động cuộc đấu tranh bất bạo động, đòi quyền bình đẳng tôn giáo. Ngày 11-6-1963, HT Quảng Đức tự thiêu. Biến cố này làm cuộc tranh đấu ngày càng dữ dội hơn lên. Bề ngoài họ Ngô hứa giải quyết nhưng bên trong là âm mưu trá ngụy nhằm thủ tiêu PG. Cuộc tranh đấu lan khắp, tình trạng không thể yên lúc nào được vì dư luận khắp thế giới lên án nhà Ngô bởi bao nhiêu hành động kỳ thị tôn giáo của họ, thế nên cuối cùng ngày 1-11-1963, quân đội đã lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, hai anh em chết thảm. Từ đó, PG kết hợp hết thảy mọi đoàn thể lớn lập thành GHPGVNTN. Danh xưng Giáo hội Tăng già không còn được dùng, mà chỉ có một Giáo hội là Phật giáo Thống nhất, khắp nơi tỉnh thành đều có Ban Đại diện.

Riêng công việc của GHPGVNTN thì ngài Thiện Hòa về lĩnh vực kiến thiết vẫn tiến triển, ngài là Trưởng ban Kiến thiết trong Giáo hội Thống nhất, PHĐ được mở ra nhiều nơi. Công việc hoằng pháp cũng tiến triển. Nói chung là mọi Phật sự đều tiến mạnh theo chiều hướng đã phát đi từ trước đó.

Năm 1981, Giáo hội PG Việt Nam ra đời đã tạo điều kiện cho PG Việt Nam phát triển.

 lKẾT LUẬN

Lịch sử là con mắt nhìn thấu suốt tương lai băng qua hiện tại. Do đó, vị trí hoạt động Phật sự của GHTGNV cũng tồn tại trong dòng lịch sử truyền thừa Phật pháp. Như trình bày trên, ai cũng có khái niệm sáng tỏ về vai trò duy nhất của GHTGNV trong 13 năm hoạt động. Nhân kỷ niệm thành phố Sài Gòn 300 tuổi, từ năm 1698 đến năm 1998, trong phạm vi PG góp phần làm cho bản sắc dân tộc thêm tươi sáng mọi mặt trong thời lượng 300 năm qua, để cho chúng ta thấy quá khứ hiển linh và mở đường đi tới tương lai với nhiều kinh nghiệm quý báu. Bài tham luận này cho chúng ta biết công việc Phật sự trong thời gian gần đây, 50 năm trở lại, dù thời lượng ngắn nhưng rất có ý nghĩa lớn lao. Và qua đó, ta cũng biết thêm về bao nỗi gian khổ, quyết tâm cho tiền đồ PG mà tiền bối đã dũng mãnh phụng sự chánh pháp và dân tộc. Ngày nay, chúng ta thừa hưởng di sản, là tự thấy trách nhiệm mình trên ý nghĩa truyền thừa thiệu long thánh chủng, truyền đăng tục diệm, phụng sự đạo đời và chúng sinh không mệt mỏi.


 

Sinh hoạt buổi đầu của Ni giới tại Sài Gòn

 

THÍCH NỮ NHƯ ĐỨC

Lịch sử của Sài Gòn cũng là lịch sử chung của những thành phố quan yếu. Mỗi người, mỗi đoàn thể, mỗi dân tộc sinh sống trên đó đóng góp cho Sài Gòn từng mảng lịch sử riêng, và tất cả những cái riêng hòa nhập với nhau, kỷ niệm của mỗi đời sống cùng chảy theo dòng biến động lịch sử.

Vào khoảng đầu thế kỷ XX, Sài Gòn là nơi tập trung những hoạt động văn hóa xã hội, kể cả hoạt động Phật giáo (PG). Tổ đình Giác Lâm, Giác Viên một thời đã đào tạo các bậc Tăng sĩ trí thức, hàng long tượng Tăng già xuất phát từ đó cũng nhiều, chư tôn Hòa thượng (HT) từ các miền, các tỉnh thường về Sài Gòn hoạt động, đẩy mạnh phong trào chấn hưng PG. Trong khung cảnh ấy, Ni giới miền Nam cũng chịu ảnh hưởng. Các bậc Ni tiền bối Sài Gòn, có dịp tiếp cận với những tư tưởng mới, nhờ sự giáo dục và nâng đỡ của các bậc thầy, đã hoạt động tích cực để thay một lớp áo mới cho giáo đoàn của mình. Trên văn đàn Từ Bi Âm, trong những tập bút ký và thơ ca, còn ghi lại dấu tích của các Ni trưởng (NT) Diệu Tịnh (khai sơn Hải Ấn ni tự), NT Diệu Tấn (sáng lập ni trường Kim Sơn), NT Diệu Tánh (tức Sư trưởng Huê Lâm).

1- NT Diệu Tịnh (1910-1942)

Quê quán ở Gò Công nhưng sống ở Sài Gòn từ nhỏ, NT mang ít nhiều tính chất của người Sài Gòn dám nghĩ dám nói dám làm. Xuất gia năm 14 tuổi tại chùa Tân Lâm (Gia Định), kinh qua những thử thách buổi đầu khi Ni chúng thời ấy chưa có chùa riêng, NT mang trong mình hoài bão tự lập. Khi học xong ni trường Giác Hoa (Bạc Liêu), NT về Gia Định dịch các bộ kinh phổ thông ấn tống, sau mỗi quyển kinh đều có đăng những bài kêu gọi các Ni cô. Nhưng bài ấy mang tên Tiếng chuông một, Tiếng chuông hai..., thấy chưa được sự hưởng ứng mạnh, NT viết luôn bài Tiếng chuông sắp bể. Năm 1932, tạp chí Từ Bi Âm ra đời, NT viết nhiều bài gởi đăng, nhân diễn đàn công luận để bày tỏ quan niệm và chí hướng của mình.

Các bài viết của NT Diệu Tịnh xoáy quanh các vấn đề giáo dục Ni chúng, nhấn mạnh bổn phận của Ni giới trong phong trào sinh hoạt PG. Văn khí hùng mạnh, lập luận chính xác, có thể tiêu biểu cho cách viết của giới văn học PG thời bấy giờ... “Thế nên chị em Ni lưu chúng ta đối với PG ngày nay, phải ráng lo tu học, đạt thấu lý huyền vi, hầu sau này đem hết năng lực liễu bồ ra lãnh lấy cái trách nhiệm hoằng pháp lợi sanh, đặng kháng cự với tà sư ngoại đạo. Như vậy mới không phụ cái chí khí xuất gia, lại đúng với nghĩa vụ của trang nữ lưu học Phật...” (Trích trong bài diễn văn của NT Diệu Tịnh, Từ Bi Âm số 79).

Ngoài khả năng viết, còn khả năng thuyết pháp giảng dạy, NT là vị Giáo thọ Ni đầu tiên của Gia Định - trường hương Giác Hoàng năm 1933. Năm 1934, NT mở lớp gia giáo ba tháng ở chùa Thiên Bửu (Búng). Năm 1935, mời các NT đồng thời thành lập chùa ni Từ Hóa tại làng Tân Sơn Nhì (Gia Định), năm sau chùa dời về Tân Sơn Nhất, đổi hiệu là Hải Ấn ni tự. Chùa Ni riêng cho Ni ở, một mình một cõi để tận tình hóa độ và làm việc dễ dàng, ước mơ đó so với thời này thật đơn giản, nhưng thời trước Ni chúng chưa có tổ chức riêng, thật cũng khó thực hiện. Bút ký của NT còn ghi lại những khó khăn gian nan: chùa nghèo, thầy trò ít oi, tài sản chỉ có một khạp nước tương mặn vì cứ thêm muối và nước, ăn cơm bằng chén đất, đũa chà tre.

Cảnh khổ không làm giảm khí phách, NT tiếp tục viết bài và đi thuyết giảng từ trong Nam dần ra Trung, thành lập Bình Quang ni tự ở Phan Thiết, viếng Bình Định, Đà Nẵng. Khi học luật Tỳ kheo tại Hà Nội, NT được mời thuyết giảng tại Hưng Yên. Vào đến Huế, dạy Phạm Võng lược sớ cho đức Từ Cung...

Cuộc đời của NT đầy hào khí nhiệt tâm, Từ Bi Âm làm thơ khen tặng có những câu:

Hành vi ngôn luận hãn siêu quần

Vì cớ sao mà hiện nữ thân

Trăm kiếp rèn nên gươm trí tuệ

Một tay tháo sổ cũi phong trần...

(Tặng Diệu Tịnh ni cô - Từ Bi Âm 73)

2- NT Diệu Tấn (1910-1948)

Quê ở Sa Đéc, xuất gia tu học với Hòa thượng (HT) Chí Thiền, chùa Phi Lai (Châu Đốc). Bắt đầu tham dự vào các hoạt động tại Gia Định năm 1934, NT là người đầu tiên mở cô nhi viện trực thuộc Hội Dục Anh Sài Gòn. Năm 1935, NT từ Gia Định ra Huế, ban đầu dự thính các lớp Từ Đàm, Báo Quốc, sau chính thức theo học ni trường Diệu Đức. PG Gia Định từng chịu nguồn ảnh hưởng từ PG Thuận Hóa, và con đường của NT Diệu Tấn cũng một hướng này. Về Nam (1939), NT mở ni trường Kim Sơn tại Phú Nhuận.

Phần Giáo thọ Tăng có Đại đức Hành Trụ (HT Đông Hưng) sau khi tốt nghiệp Báo Quốc đã dạy tại đây, tiếp theo là quý Thầy Như Hoàn, Hành Long, Hành Huệ, cụ Trần Huỳnh, HT Minh Nguyệt. NT Diệu Tấn vừa là trụ trì, vừa là Giáo thọ dạy Luật và Duy thức. Phần ngoại hộ có một vài thí chủ phát tâm, Ni chúng tự túc thêm bằng cách thêu đan. NT giỏi thơ văn và ứng đối, giới trí thức thời ấy nhiều phen đến viếng trường cùng đàm luận đạo lý, chứng tỏ một trường học của Ni đã có sức thuyết phục. Ni chúng đa số là các vị tuổi trẻ, có đủ tri thức và nhiệt tâm lãnh hội Phật pháp.

Qua phần tổ chức sinh hoạt của ni trường đầu tiên tại Sài Gòn này, chúng ta thấy NT Diệu Tấn đã thành công với một mô hình hoàn chỉnh, Ni giới đã có phần hội nhập vào sinh hoạt xã hội tại Sài Gòn. Ngày nay một số vị tôn túc Ni nằm trong ban lãnh đạo Ni bộ và trụ trì các tự viện, đều có từng học qua trường Kim Sơn.

3- NT Diệu Tánh (tức Ni trưởng Như Thanh, 1911-1999)

So về niên đại xuất thế thì ba vị NT đồng nhau, về năm xuất gia tuy có hơn kém nhưng các vị đồng là bậc hảo tâm xuất gia, đều là hàng nữ lưu trí thức. NT Như Thanh quê quán tại Thủ Đức, xuất gia tại chùa Phước Tường (Thủ Đức), trong bài thơ của Thượng tọa Minh Phát nói về Ni trưởng có câu:

Thủ Đức từ khi gởi chút duyên

Phước Tường xuất thế được lưu truyền...

Ngôi chùa mà NT trụ trì đầu tiên là chùa Hội Sơn vào năm 1935. Tại đây, ý hướng kiến tạo già lam của NT đã phát khởi. Hội Sơn vốn là một cổ tự của vùng Thủ Đức, trải qua nhiều đời Tổ sư trụ trì đã ghi dấu sự có mặt của Phật pháp bên bờ sông Đồng Nai. Thấy được tính cách quan trọng ấy, NT đã vận động thân phụ là cư sĩ Hồng Ngộ và bào huynh là kiến trúc sư Hồng Đạo xây thêm một dãy nhà thiền và nhà trù, trùng tu cho ngôi cổ tự thêm phần mỹ quan. Ngày nay chúng ta còn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chùa Hội Sơn, cũng nhờ một phần công lao của Ni trưởng.

... Hội Sơn một độ ngôi phương trượng

Trùng kiến Huê Lâm buổi ban đầu...

(Thơ của TT Minh Phát)

Hội Sơn cũng là nơi hoạt động Phật sự đầu tiên của NT Như Thanh. Năm 1942, sau khi tham học ở Huế và Hà Nội về, NT mở một lớp dạy Luật cho Ni chúng. Đến năm 1944, NT khai hạ kỳ, giảng bộ Luật Tứ phần Tỳ kheo ni lược ký, bổ túc cho Ni chúng thêm kiến thức về Luật học. Đặc biệt trong các trường của NT Như Thanh từ trước cho đến sau này, rất ít có hình bóng các vị Giáo thọ Tăng, điều này cho thấy Ni chúng có thể tự túc về giáo dục, đó là một tiến triển khá lớn.

Sau khi hai NT Diệu Tịnh và Diệu Tấn viên tịch, NT Như Thanh tiếp tục sự nghiệp giáo dục Ni chúng. Năm 1948, NT về Chợ Lớn nhận chùa Huê Lâm, thành lập Phật học viện, mở trường tiểu học, trung học... Toàn bộ vùng Sài Gòn-Gia Định bấy giờ có NT là người đầy đủ uy tín để gây dựng và kết hợp Ni giới. Sau những chuyến đi vận động, NT được sự đồng tình của tất cả quý NT miền Nam, được sự khích lệ của HT Pháp chủ Huệ Quang, NT đã mở Đại hội Ni bộ Nam Việt tại chùa Huê Lâm (1956), kết thúc thời kỳ sơ khai và bắt đầu thời kỳ trưởng thành của Ni chúng.

 lKẾT LUẬN

Lịch sử phát triển của Ni bộ miền Nam mang một phần dấu ấn Sài Gòn. Yếu tố chính là nhờ các bậc lãnh đạo Ni thời ấy kiến thức cao rộng, hết sức kêu gọi và thúc đẩy Ni giới từ bỏ lối sống khép kín để hòa mình vào đại cuộc. Yếu tố khách quan không kém phần quan trọng chính là không khí thông cảm, tinh thần phóng khoáng của thành phố Sài Gòn. Chính nhờ môi trường thuận lợi này, khoảng hơn hai mươi năm sau bài báo đầu tiên của NT Diệu Tịnh, Ni giới đã hân hạnh tham dự vào dòng sinh hoạt PG, đóng góp thêm cho lịch sử thành phố những điểm son tốt đẹp.«


 

Giai đoạn chấn hưng Phật giáo 1920 – 1930

(Trích đoạn tham luận tại Hội thảo)

 

lê quốc sử

Mặc dù đông đảo quý Hòa thượng (HT) ưu tư nhiệt tình lo nghĩ đến tồn vong của Phật giáo (PG), nhưng số lượng dấn thân chỉ đếm được trên đầu ngón tay, làm sao có thể chống đỡ ngôi nhà PG trước nguy cơ xiêu đổ? Trong số Tăng đồ tài sức thì ít. Còn ngoài xã hội lúc bấy giờ, các tệ trạng mê tín dị đoan, đồng bóng được thực dân Pháp khuyến khích, chèn ép PG, lại có một số người theo Tây chẳng biết PG là gì, làm gì, dạy gì? Một tai hại nữa là kinh điển toàn in ấn bằng chữ Hán, chỉ một số rất ít người biết đọc biết viết và cũng chưa đủ ba tạng kinh. Thâm độc hơn, chữ Hán thực dân Pháp lại cấm dạy và học, chỉ khuyến khích học Pháp văn và chữ Quốc ngữ theo mẫu tự La-tinh, nhưng lại vì thành kiến tẩy chay không học. Vì vậy chỉ có các nhà sư ở chùa mới dạy và học chữ Hán để lo cho mình học, hiểu để hành đạo thôi.

Trước tình hình như vậy, trong giới PG đòi hỏi phải làm một cuộc cách mạng để thay đổi cục diện hiện thời, nên quý vị HT đầy tâm huyết vì tiền đồ Phật pháp như HT Lê Khánh Hòa, nhà sư Thiện Chiếu khó có thể ngồi yên được, nên các ngài phải hành động là lẽ tất nhiên.

Năm 1911, cuộc cách mạng Tân Hợi do Tôn Văn tức Tôn Trung Sơn tổ chức và lãnh đạo, đã đánh đổ chế độ phong kiến Mãn Thanh, thực hiện đường lối Tam Dân: dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc. PG Trung Quốc dựa vào sự thay đổi đó phát động phong trào chấn hưng PG rầm rộ ở Trung quốc. Báo chí Trung quốc phát hành hàng ngày loan tin các cơ quan của Hội Phật học liên tiếp được thành lập và hô hào PG các nước cải tiến. Điều này có ảnh hưởng lớn đối với Việt Nam.

Năm 1920 quý HT họp thành lập “Lục hòa” cũng với mục đích để đoàn kết Tăng chúng phát triển phong trào xây dựng Lực lượng hình thành tổ chức, thực hiện chấn hưng PG Việt Nam. Nên tháng 1 năm Kỷ Tỵ, Hội Lục hòa quý vị phân công nhau đi vận động như: HT Khánh Hòa đi vận động các chùa trong Nam, nhà sư Thiện Chiếu thì hướng dẫn một phái đoàn ra Trung, Bắc vận động các chùa hưởng ứng phong trào chấn hưng PG Nam Kỳ nói riêng, PG Việt Nam nói chung.

Để phục vụ cho công cuộc chấn hưng PG, sư Khánh Hòa cho ra tạp chí Pháp âm, còn sư Thiện Chiếu cho xuất bản tờ Phật hóa Tân thanh niên để vận động phong trào chấn hưng Phật giáo. Đây là hai tờ báo PG chữ Việt đầu tiên, mở đường cho các tạp chí PG bằng chữ Việt sau này. Ngoài hai tờ tạp chí trên, sư Thiện Chiếu còn cho xuất bản Phật học toàn thư được đại đa số Phật tử và giới trí thức học giả hoan nghênh.

Cũng trong năm này, các trường gia giáo ở Nam kỳ lục tỉnh được mở ra để đào tạo Tăng tài và thỉnh thoảng có tổ chức thuyết pháp cho tín đồ nghe như: chùa Tuyên Linh của sư Khánh Hòa ở Bến Tre, đến chùa Phi Lai ở Châu Đốc của Tổ Chí Thiền, chùa Kim Cang, Cầu Voi, Long An, chùa Giác Hoa ở Bạc Liêu dạy 100 sư ni trẻ của bà Hai Ngó (đệ tử của Tổ Phi Lai), phát tâm cất chùa Giác Hoa và trường gia giáo tự túc cúng đường cho 100 sư ni tu học năm 1927, chùa Kim Huê, Vạn An, Phước Long ở Châu Đốc, chùa Long An của Tổ Khánh Anh ở Trà Ôn...

Ảnh hưởng của phong trào chấn hưng, PG Nam kỳ có ảnh hưởng lan rộng trong và ngoài nước, nhờ có sự tham gia tích cực của quý vị Tổ sư tiền bối yêu nước, hết lòng lo lắng cho tiền đồ đạo pháp và dân tộc như: Tổ Hoan Hỉ chùa Long Thạnh (Bà Hom) đã cùng Nguyễn Văn Bường - Phan Văn Hớn nổi dậy khởi nghĩa 18 thôn vườn Trầu ở Hóc môn - Bà Điểm ngày 25 tháng chạp năm Giáp Thân. Hay Tổ Huệ Tâm, pháp danh Trung Nghĩa, hoạt động lãnh đạo phong trào Thiên Địa hội của Phan Xích Long năm 1913 ở Chợ Lớn. Trong những vị lãnh đạo phong trào còn có quý HT Phi Lai ở chùa Tây An, Châu Đốc, HT Bửu Chung chùa Phước Long. Trong số các vị Tổ và HT trên có một số vị hoạt động chống Pháp bị bắt bớ tù đày Côn Đảo nhiều lần vượt ngục trở về vẫn có mặt trong phong trào như HT Huệ Tâm-Trung Nghĩa. Lúc bấy giờ phong trào cách mạng ở Nam Kỳ nổi lên như: phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, phong trào Duy Tân của cụ Phan Chu Trinh, Đảng Thanh Hòa Thanh niên cao vọng của Nguyễn An Ninh, phong trào Công hội đỏ của cụ Tôn Đức Thắng, Thanh niên cách mạng đồng chí hội đang tuyên truyền vận động giới Tăng Ni Phật tử theo khuynh hướng tích cực tham gia yêu nước.

Ảnh hưởng báo chí tiến bộ trong nước cũng như nước ngoài cũng góp phần không nhỏ cho các phong trào, nó tác động tích cực vào tinh thần tư tưởng yêu nước của các Tăng Ni Phật tử và các từng lớp nhân dân như báo Người cùng khổ, Việt Nam hồn, báo chí Trung quốc.

Cuộc vận động chấn hưng PG Nam kỳ đến năm 1929-1930 mới tạo được điều kiện đưa ra tổ chức hợp pháp.

- Giai đoạn PG hình thành đấu tranh hợp pháp (1928-1929):

Như đã kể trên, sư Khánh Hòa và sư Thiện Chiếu đã góp công góp sức lớn trong công cuộc chấn hưng PG Nam kỳ: các vị lập thư xã các tỉnh, dịch ba tạng kinh, xuất bản báo chí và tạp chí Phật học... nên cả nước đều nghe tên các vị, nên ở trung kỳ mở trường hạ, vào thỉnh HT Khánh Hòa ra thuyết giảng, vì quý Thầy ngoài Trung kỳ cho rằng HT Khánh Hòa đạo lý thâm sâu nên cung thỉnh. HT nhận lời vì một là để nắm tình hình Tăng chúng ngoài đó và để chấn hưng PG, ngài cho HT Huệ Quang ra chùa Long Khánh, Qui Nhơn, trước để lo chuẩn bị, trong ngày thượng tuần tháng 4 âm lịch năm Đinh Mão, HT Khánh Hòa hướng dẫn một phái đoàn ra Trung, HT Khánh Hòa làm chủ giảng suốt ba tháng hạ và cổ động việc chấn hưng PG. Qua giảng giải kinh điển làm cho HT Phước Huệ ở chùa Thập Tháp cũng là bậc đạo cao đức trọng vô cùng thán phục.

Tháng 5 âm lịch năm Đinh Mão, sư Thiện Chiếu đi họp ở Hà Nội về ghé Qui Nhơn gặp HT Khánh Hòa và trao cho HT bản chương trình của PG hội Trung quốc. (Hải Triều Âm - cơ quan ngôn luận của PG hội Trung quốc) và đôn đốc HT Khánh Hòa gấp rút tiến hành công việc chấn hưng PG không nên để trễ. Sư Thiện Chiếu trụ trì chùa Linh Sơn, số 149 đường Douemont, nay là Cô Giang, quận 1, ông là hội viên Thanh niên cách mạng đồng chí hội với trách nhiệm được phân công phụ trách phong trào chấn hưng PG.

Đến ngày 10 tháng 7 âm lịch sau khi mãn hạ, từ Qui Nhơn về, HT Khánh Hòa ghé chùa Linh Sơn gặp sư Thiện Chiếu bàn bạc kỹ về việc thành lập Hội Phật học. Hai vị nhất trí chương trình và phân công nhau tổ chức thực hiện, HT Khánh Hòa đi về chùa Tuyên Linh, Bến Tre, cho mời toàn thể bổn đạo họp. Trong buổi họp, HT trình bày: Nay thời cơ đã đến, ý nguyện Tăng chúng cần trung hưng PG đang hồi suy vong nhưng không có tiền thì khó thực hiện được. Vì vậy chúng ta nên vì sự trường tồn của Phật pháp mà bán chánh điện chùa Tuyên Linh để lấy tiền làm việc ấy. Bổn đạo chấp nhận ý Thầy, làng Ba Tri mua để lấy cây cất đình nay vẫn còn với giá 1.000 đồng, lúc đó là một số tiền lớn. HT Khánh Hòa giao cho HT Tâm Quang chùa Viên Giác và HT Từ Phong chùa Liên Trì, Bến Tre, cất giữ và vận động thêm. Nghe quý HT trung hưng Phật pháp, bà Lê thị Nghĩa hỷ cúng 100 đồng. Ngài gom góp số tiền này cùng với số tiền quyên góp của sư Thiện Chiếu vận động được để xây cất thư xã và trường Phật học. Mặt khác, HT Khánh Hòa còn vận động được một số cư sĩ ở Trà Vinh hỷ cúng 1.000 đồng để thỉnh ba tạng kinh, nay vẫn còn tại chùa Linh Sơn, quận 1.

Khi thành lập Phật học viện và thư xã xong đến ngày 27 tháng giêng năm Kỷ Tỵ 1929, ngài Khánh Hòa nhận phân công đi vận động để thành lập Hội Nam Kỳ Phật học và trường Phật học. Cuộc hành trình đi vận động của ngài khắp Nam kỳ đến Nam Vang gần hai tháng. Khi kết thúc cuộc hành trình trở về thư xã chùa Linh Sơn thì thấy các vị đã khởi công biên tập để xuất bản tờ tạp chí đầu tiên nhan đề “Pháp Âm”. Trong ban lâm thời tổ chức, cả bộ Biên tập cử ngài Khánh Hòa chức Chủ nhiệm, tạp chí Pháp Âm bắt đầu ra số thứ nhứt ngày 31 - 8 - 1929. Ngài Khánh Hòa có viết bản Tự trần đăng lên báo Pháp âm trang 17 - 20 nói về lý do lập thư xã và tình thế bắt buộc ngài phải đảm nhận trọng trách ấy. Lễ khánh thành Pháp bảo phường và Thư xã và tàng kinh thất tháng 12 năm 1929. Tại chùa Linh Sơn, Sài Gòn, Hội Phật học Nam kỳ tổ chức hội nghị giới thiệu danh sách Ban chấp hành lâm thời, ngài Khánh Hòa được bầu làm Chánh hội trưởng. Trường Phật học cũng được xây cất xong, phần tuyên dương công đức các vị hữu công trong đóng góp: HT Phi Lai, Châu Đốc, đóng góp 300 đồng, bà thí chủ Lê Thị Nghĩa, Bến Tre, đóng góp 300 đồng, một số cư sĩ ở t vinh hỷ cúng 1000 đồng, và số tiến bán chánh điện chùa Tuyên Linh 1.000 đồng của ngài Khánh Hòa góp lại xây cất trường Phật học và Pháp bảo phường có để ba tạng kinh. Trường Phật học và Pháp bảo phường, Tàng thư viện nay còn tại chùa Linh Sơn, Cầu Muối.

Nguyên chùa Linh Sơn là trụ sở của hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học, nguồn gốc chùa là của bà Nguyễn thị Nghi xây cất đã lâu đời, bà đã chết không có con. Trước chánh điện thờ Phật, sau hậu Tổ thờ Linh Sơn thánh mẫu. Lúc sư Thiện Chiếu làm trụ trì, theo tục lệ người Tàu vô xin xăm bói quẻ, đến năm 1929 vì yêu cầu lập Hội nên giao lại cho ngài Khánh Hòa làm trụ trì Linh Sơn để đủ điều kiện đứng xin thành lập hội, Thư xá, Pháp bảo phường, Tàng kinh thất. Đây chỉ là tổ chức lâm thời, phải chờ nghị định của Toàn quyền Pháp mới được chính thức thành lập.

- Giai đoạn cao trào cách mạng Việt Nam 1929-1931:

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời xác lập vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam, làm cho các tầng lớp nhân dân lao động, trí thức tôn giáo phấn khởi đứng lên đấu tranh chống sưu cao thuế nặng, đòi cải thiện dân sinh, đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo rất sôi nổi, quyết liệt.

Phong trào chấn hưng PG như gấm thêm hoa, năm Canh Ngọ 1930, hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học được chính thức thành lập, trụ sở đặt tại chùa Linh Sơn do ngài Khánh Hòa làm chánh hội trưởng, Hòa thượng Chí Thiền, Từ Phong, Huệ Quang, Chánh Quả, Thiện Dư cùng quý vị cư sĩ trần Nguyên Chấn, Nguyễn văn Côn, Huỳnh văn Quyền, Trần văn Khuê, Phạm Ngọc Vinh, Nguyễn văn Nhơn, Lê văn Phô đều nằm trong Ban chức sự của hội.

Hội Nam knghiên cứu Phật học chánh thức hoạt động ngày 25-8-1931, Hội ra tạp chí Từ Bi Âm ngày 1-1-1932 là cơ quan truyền bá giáo lý của hội, lập Pháp bảo phường, thỉnh Đại tạng kinh từ Trung Quốc về dịch, giảng dạy cho học tăng. Những người có công đối với hội và PG nói chung trong giai đoạn này đối với Tăng như: ngài Khánh Hòa chùa Tuyên Linh (Bến Tre), HT Huệ Quang, chùa Long Hòa (Trà Vinh), Chí Thiền, chùa Tam Bảo (Rạch Giá), Chí Thiền, chùa Phi Lai (Châu Đốc), Từ Phong, chùa Giác Hải (Chợ Lớn), Chánh Quả, chùa Kim Huê (Sa Đéc), An Lạc, chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho), Chánh Tâm, chùa Thiện Phước (Trà Ôn), Tâm Quang, chùa Viên Giác (Bến Tre), HT Lê Phước Chí, chùa Kế Sách (Sóc Trăng), Huệ Thành, chùa Thành Linh (Cà Mau), Tâm Chơn, chùa Pháp Võ (Châu Đốc), Diệu Pháp, chùa Long Khánh (Trà Vinh), Thiện Chiếu, chùa Linh Sơn, Yết ma Nguyễn văn Chức, chùa Tam Bảo (Hà Tiên), Huỳnh Công Quảng - Minh Trường, chùa Hậu Phước (Mỹ Tho), Giáo thọ Thiên Tâm, chùa Đại Giác (Biên Hòa), Huệ Định, chùa Phước Long (Sa Đéc), Từ Phong, chùa Liên Trì (Bến Tre), HT Thiện Dư, Thủ tọa Điển, chùa Linh Thứu (Xoài Hột - Mỹ Tho...).

Các cư sĩ ở Trà Vinh thỉnh Tam tạng kinh từ Trung quốc về hiến cho Hội, ngài Khánh Hòa biến chùa Huyền Linh làm Pháp bảo phường, HT Nguyên Chánh Tâm hiến ruộng chùa cho Hội thu huê lợi làm Phật sự.

Về phân công phụ trách Từ Bi Âm: ngài Khánh Hòa Chủ nhiệm, HT Bích Quy và Liên Tôn làm Chánh phó chủ bút, ngài Trí Độ bình dịch, Thượng tọa (TT) Thiện Quy (Mỹ Tho), TT Giác Nhựt (Cần Thơ), TT Khất Chánh, làm trợ bút.

Tóm lược quá trình vận động chấn hưng PG Nam kỳ trong những thuận lợi khó khăn mà quý Ngài phải vượt qua nhưng vẫn chưa đạt được mục đích của mình như:

Đến năm 1931 mới được chánh thức thành lập Hội Nam Kỳ và tạp chí Từ Bi Âm, vì một số khó khăn do nhà cầm quyền ràng buộc phép tắc, và phải có người thân Pháp đứng ra xin phép thành lập Hội chúng mới cho... nên phải cậy đến thế lực của Commis Trần Nguyên Chấn xin phép. Ông Chấn buộc ngài Khánh Hòa nếu muốn được ông xin phép thì phải chấp nhận ba điều kiện: một là phải để cho rể ông là Phạm Ngọc Vinh làm chủ nhân sáng lập Từ Bi Âm hội Phật học, hai là phải làm tờ cam kết mượn chùa Linh Sơn và đất của ông để cất Thư xá, trường học, mặc dù đất và chùa là của bà Nguyễn thị Nghi chứ không phải của ông Trần Nguyên Chấn và bà phải nhường chức Phó Hội trưởng vĩnh viễn cho ông không ai được tranh cử. Cũng bởi tờ cam kết có dụng ý xấu này mà về sau ông chiếm đoạt chùa Linh Sơn và hội Phật học. Vì điều lệ hội và phép tắc quá khó khăn nên ngài Khánh Hòa và ban Tổ chức lâm thời phải chấp nhận. Sau khi thành lập xong hội Nam Kỳ và trường Phật học, ngài Khánh Hòa làm Chánh hội trưởng, bị Commis Trần Nguyên Chấn nắm hết quyền khống chế tổ chức, hội bị tê liệt luôn, chủ trương của ngài Khánh Hòa mở trường Phật học tại chùa Linh Sơn là để đào tạo Tăng tài sau nhân ra các tỉnh. Nhưng năm đầu mới mở lớp dạy đã bị Trần Nguyên Chấn cản ngăn, mật báo với chánh quyền Pháp không cho dạy kinh luật Phật, ông Chấn nói với nhà cầm quyền Pháp, ngài Khánh Hòa dạy lý thuyết cộng sản, tuyên truyền cộng sản, Ngài bị thực dân Pháp kêu lên tra xét hạch hỏi làm khó dễ hoài, vì thế trường Phật học phải đóng cửa để rể ông Chấn là Phạm Ngọc Minh lấy trường này đặt chỗ làm nhà in riêng, sau nhà in ấy dẹp ngôi trường và Pháp bảo phường ông Chấn và ông Vinh biến thành của riêng cho con ông Chấn là bà Đá và cháu vợ bà Thanh.

Còn nói về điều lệ hội thì Thống đốc Nam kỳ cho phép lập Hội Phật học ngày 26-8-1931 quy định rất ngặt nghèo làm cho Hội không hoạt động được như:

* Sách kinh thỉnh để thêm vào Pháp bảo phường phải trình cho chính phủ biết, những kinh dịch ra chữ quốc ngữ phải trình cho chính phủ biết.

* Chương trình dạy Tăng đồ phải trình cho chính phủ xét, chính quyền có quyền hỏi cho biết những kinh sách để dạy, và những bài học có phép đề tài thỉnh hội đường để kiểm duyệt sách, thi hành chương trình phải cho chính phủ biết, những giáo sư dạy tại Thích học đường và sự dời đổi xảy ra trong Ban giáo sư.

* Điều 15, số tiền cúng vào hội 15 đồng thì phải có quan Thống đốc cho phép mới được nhận. Hội chỉ được phép có gia sản đủ dùng trong sự hành động mà thôi, chẳng cho có dư.

* Điều 16 thủ quỹ chỉ giữ 100 đồng bạc mà thôi, còn dư phải gửi nhà băng của Pháp.

Những điều của thực dân Pháp quy định như trên của điều lệ chúng cho phép đủ thấy sự ràng buộc gắt gao như thế nào.

Đến Đại hội kỳ hai, tháng 1-1932, họp để bầu lại các chức vụ mới của Ban Trị sự, ông Trần Nguyên Chấn tuyên bố chức Phó nhì Hội trưởng của ông vĩnh viễn chẳng được ai thay đổi và buộc hội phải chấp nhận. Trong kỳ đại hội này, bảo thủ quỹ phải xuất tiền mua rượu Tây cho ông Chấn đãi các quan Tây do ông ta mời tham dự, ai chỉ trích ông hăm dọa bỏ tù, nên từ đây hội tê liệt tan rã dần.

Ngày 1-2-1933, Từ Bi Âm số 45, ngài Khánh Hòa từ chức, chẳng còn ở hội Nam Kỳ Phật học Linh Sơn.

Năm 1931, HT Huệ Đăng thành lập Thiên Thai Thiền giáo Quán tông Thiên hữu hội, trụ sở đặt tại chùa Thiên Thai, Dinh Cố, Long Đất, Bà Rịa, Đồng Nai, và cho xuất bản tờ Bát Nhã âm để truyền bá giáo lý trong toàn quốc. Phái Thiên Thai Thiền giáo tông có nhiều đệ tử tài đức nổi tiếng trở thành những Thiền sư yêu nước như HT Minh Tâm, viện chủ chùa Thiên Quang, Hóc Môn; HT Pháp Long, chùa Thiên Minh, Chợ Cầu - Gia Định; HT Pháp Vân, chùa Long Khánh, Vĩnh Long; HT Pháp Thân, chùa Hội Linh, Cần Thơ; HT Pháp Tràng còn gọi HT Đông Dương, chùa Khánh Quới, Mỹ Tho; HT Minh Nguyệt, trụ trì chùa Bửu Long, Mỹ Tho; HT Minh Đức, viện chủ chùa Thiên Tôn, quận 5; HT Pháp Nhạc, trụ trì chùa Long An, quận nhì Sài Gòn; HT Minh Tịnh, hoạt động Thanh niên cứu quốc Nam bộ; HT Thiện Hào, viện chủ chùa Thiên Vân, Hóc Môn; đều là những vị tích cực tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ cứu nước.

Năm 1930-1931, phong trào chấn hưng PG lại được tiếp nhận luồng sinh khí mới là phong trào cách mạng vô sản, làm trong giới Tăng chúng tín đồ PG phân hóa sâu sắc, bởi nó có mối quan hệ đến quyền lợi thiết thân, tín ngưỡng, sưu cao, thuế nặng, ruộng đất nhà chùa bị thực dân Pháp và thân Pháp dùng quyền lực chiếm đoạt.

Do đó mà Tăng chúng nhiều chùa đứng về phía cách mạng, ra sức ủng hộ, giúp đỡ nuôi chứa cán bộ, để chùa làm trường học, cơ quan như: chùa Linh Thứu ở Xoài Hột, Thạnh Phú, Mỹ Tho; ngài Thủ tọa Điển tức HT Hoằng Không để chùa làm cơ quan cho cơ quan ấn loát của tỉnh ủy Mỹ Tho và bản thân Ngài còn làm giao liên cho xứ ủy. Sư Thiện Chiếu về đây hội họp với chư Tăng các tỉnh, HT Trí Thiền đưa chùa Tam Bảo, Rạch Giá, làm nơi sản xuất vũ khí đánh địch, HT Huệ Tâm-Trung Nghĩa huy động biểu tình...


 

Hội Phật học Nam Việt và chùa Xá Lợi

 

TỐNG HỒ CẦM

 

(Có sự tham khảo qua tư liệu báo Từ Quang của Hội Phật học Nam Việt và báo Giác Ngộ)

Trong công cuộc phục hưng Phật giáo (PG) tại miền Nam nước Việt Nam, kể từ gần 50 năm trở lại đây, tại thành phố này, Hội Phật học Nam Việt đã góp một phần quan trọng vào việc xây dựng một căn bản vững chắc, cổ động một phong trào tu học hoằng dương chánh pháp, Bi, Trí song nghiêm.

Hội Phật học Nam Việt đã xây cất được ngôi chùa Xá Lợi là một thắng tích cho thành phố Sài Gòn trước đây và hiện nay đã đóng một vai trò lịch sử trong việc bảo vệ PG năm 1963, cùng với Ủy ban Liên phái Bảo vệ PG chống chế độ độc tài kỳ thị tôn giáo của gia đình trị họ Ngô.

Thời gian trôi qua khiến nhiều việc chìm lẫn vào trong quên lãng, chúng tôi cố gắng ghi chép sau đây lịch sử và những hoạt động của Hội Phật học Nam Việt trong gần 50 năm qua, và những nét kiến trúc mỹ thuật của chùa Xá Lợi, để góp một phần nhỏ vào việc biên tập lịch sử PG Việt Nam.

* * *

Hội Phật học Nam Việt được thành lập ngày 19-9-1950 tại Sài Gòn, là đoàn thể nam nữ cư sĩ Phật học ở miền Nam Việt Nam tổ chức có hệ thống rõ ràng, có điều lệ nội quy được chính quyền lúc bấy giờ công nhận về mặt pháp lý để hoạt động và kết hợp bước đầu một số Phật tử cả xuất gia lẫn tại gia nam nữ. Từ lâu về trước, ở miền Nam chỉ có những ngôi chùa riêng rẽ của tư nhân hay làng xã, có vài vị sư trông coi đèn nhang thờ tự, chưa có hệ thống tổ chức chặt chẽ. Năm 1930, nương theo phong trào chấn hưng PG ở Trung Hoa của Thái Hư Đại sư, một số vị cao tăng thạc đức Việt Nam cũng đề xướng phong trào chấn hưng PG Việt Nam, lập Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học ở Sài Gòn, kế đến là Lưỡng Xuyên Phật học Hội ở Trà Vinh, hô hào dịch kinh in sách, đào tạo Tăng tài, thuyết pháp khuyên mọi người tu học, ra tạp chí Từ Bi ÂmDuy Tâm, để phổ biến đạo Phật trong các tầng lớp dân chúng. Nhưng cơ duyên chưa đủ nên hai Hội chỉ hoạt động được vài năm rồi tan rã, dù sao cũng gây được tiếng vang, đặt được nền móng và đào tạo được một số Tăng sĩ làm rường cột cho PG ngày nay.

Đến đầu năm 1951, Hội Phật học Nam Việt mới chính thức hoạt động với mục đích đoàn kết các Phật tử xuất gia và tại gia, dùng mọi phương tiện để truyền bá và thực hành Phật pháp luôn về hai mặt giáo lý và từ thiện ; vị Hội trưởng đầu tiên là Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, có sự cộng tác đắc lực của các quý vị danh tăng : Quảng Minh, Quảng Liên, Thiện Hòa, Huyền Dung, cùng cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền và một số cư sĩ có kiến thức Phật học và đạo tâm khác. Hội tổ chức nhiều buổi diễn giảng Phật pháp được hàng Phật tử hoan nghênh và ghi tên nhập Hội rất đông. Đến ngày mùng 6 tháng 5 năm 1951, một Đại hội PG toàn quốc được triệu tập tại Huế để thống nhất PG và thành lập một Hội lớn liên hiệp, gọi là Tổng hội PG Việt Nam gồm có 6 tập đoàn : Giáo hội Tăng già Bắc Việt, Hội Việt Nam PG Bắc Việt (cư sĩ), Giáo hội Tăng già Trung Việt, Hội Việt Nam Phật học Trung Việt (cư sĩ), Giáo hội Tăng già Nam Việt và Hội Phật học Nam Việt (cư sĩ). Thực ra thì ở Nam Việt lúc bấy giờ khởi sự chỉ có một tổ chức Phật giáo là Hội Phật học Nam Việt công khai đại diện cho cả hai phái xuất gia và tại gia, nhưng vì Bắc Việt và Trung Việt đều có hai phái đoàn: một xuất gia và một tại gia, nên các vị Tăng sĩ ở Nam Việt phải tách ra thành lập Giáo hội Tăng già Nam Việt để tham gia Đại hội PG toàn quốc lúc đó, vì vậy Hội Phật học Nam Việt từ đó chỉ gồm có các Phật tử cư sĩ tại gia mà thôi.

Lúc đầu, Hội Phật học Nam Việt đặt trụ sở tạm ở một ngôi chùa mượn ở khu Hòa Hưng tên là chùa Khánh Hưng, sau dời thiệt thọ về chùa Phước Hòa, khu Bàn Cờ ở Sài Gòn. Đến năm 1958, Hội xây cất được chùa Xá Lợi để làm trụ sở và nhượng chùa Phước Hòa lại cho Hội Việt Nam PG Bắc Việt (cư sĩ) di cư vào Nam. Hội Phật học Nam Việt đã phát triển đều đều, trước ngày giải phóng đất nước, có hơn 40 Tỉnh hội và Chi hội, riêng hội sở Trung ương ở Sài Gòn có hơn 6.000 hội viên thực hành có ghi tên gia nhập, ngoài ra còn có một số công đức hội viên cùng một số đông cảm tình viên và thí chủ hết lòng tán trợ và ủng hộ, kể cả hơn 10.000 người.

Với chủ trương đạo và đời phải đi song song, phái xuất gia và tại gia đều là con Phật nên phải đoàn kết với nhau, Hội Phật học Nam Việt có cung thỉnh một Ban Chứng minh Đạo sư là chư tôn đức Tăng già tiêu biểu cho tinh thần tu hành và uyên thâm giáo lý của đạo Phật. Trong Hội, thành viên của Ban này phải được suy tôn trong hàng Hòa thượng (HT), Thượng tọa (TT) lão thành, đạo cao đức cả, giới luật nghiêm trì, tinh thông kinh điển. Nhiệm vụ của Ban Chứng minh Đạo sư là chỉ đạo về tinh thần đạo giáo cho Ban Quản trị và chủ trì các ngày đại lễ. Để làm tròn nhiệm vụ của phái tại gia cư sĩ đối với phái xuất gia, Hội đã lập một Tiểu ban Hộ pháp, cúng dường chư Tăng trong Ban Hoằng pháp, góp phần vật chất giúp chư Tăng chuyên tâm tu hành, đào tạo Tăng tài, dịch sách, in kinh. Các vị xuất gia chủ yếu chuyên trách về phần tinh thần, phát huy đạo pháp, đóng vai trò Như Lai sứ giả.

Với mục đích là tu học và thực hành đạo đức từ bi của đạo Phật, Hội đã tổ chức những buổi diễn giảng giáo lý với những đề tài Phật học phổ thông vào mỗi buổi sáng Chủ nhật sau buổi lễ Phật Tịnh độ công cộng, hợp với trình độ đại chúng. Đối với hàng trí thức thì Hội có những buổi luận đạo tối thứ Năm, học kinh Pháp Bảo Đàn là bộ kinh quý báu về Thiền tông cùng những bộ kinh Đại thừa như Diệu Pháp Liên Hoa, Địa Tạng, Vô Lượng Thọ, Bát Nhã Tâm Kinh... Mọi giới đều tùy căn cơ mà thọ lãnh và đều được thỏa thích. Ban diễn giảng lúc đầu gồm có quý Thầy Quảng Minh, Quảng Liên, Thiện Hòa, Huyền Dung, Thiện Hoa, sau này có quý đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền, Võ Đình Dần, Nhuận Chưởng, Tống Hồ Cầm..., mà đạo hữu Chánh Trí là người thường xuyên diễn giảng nhất.

Mỗi sáng Chủ nhật đều có khóa lễ Phật Tịnh độ công cộng, theo nghi thức tụng niệm tiếng Việt, số người đến dự buổi đầu lên đến ba, bốn trăm, bái đường tuy rộng rãi mà có khi không đủ chỗ. Hội tổ chức những khóa lễ tụng niệm cầu an, cầu siêu, biên tập và phát hành tạp chí Từ Quang để các Phật tử có phương tiện nghiên cứu đạo Phật. Tờ Từ Quang là tạp chí truyền bá đạo Phật tại Sài Gòn sống lâu nhất tại miền Nam, đến năm 1975 đã bước sang năm thứ 30; lúc sinh tiền, đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút, có sự cộng tác của Ban Biên tập gồm đủ cả Tăng, Ni và cư sĩ. Sau khi đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền mất năm 1973, thì việc chủ biên báo Từ Quang do hai đạo hữu Minh Lạc Vũ Văn Phường và Tống Anh Nghị (Tống Hồ Cầm) chuyên trách, mãi đến 30-4-1975 vì hoàn cảnh khách quan mới ngưng xuất bản.

Hội còn cho thành lập các tiểu ban phụ trách về công tác từ thiện giúp các sản phụ và cô nhi, tại các bệnh viện, phát chẩn giúp đồng bào nghèo khó, trợ giúp nạn nhân chiến tranh hoặc hỏa hoạn, bão lụt; Tiểu ban Tương trợ giúp các hội viên khi hữu sự; Tiểu ban Học bổng giúp các học sinh con em hội viên thiếu kém tài chánh; Tiểu ban Hộ niệm tới tận nhà hội viên quá cố để cầu siêu; Tiểu ban Dược Sư mỗi tháng hai lần tụng kinh Dược Sư cầu cho quốc thái dân an. Năm 1953, Hội còn thành lập một Ban Hướng dẫn con em Phật tử gọi là Gia đình Phật tử (GĐPT), lúc đầu lấy tên là Gia đình Chánh Tâm, Chánh Tín, sau đó có sự chỉnh đốn của đạo hữu Tống Hồ Cầm là Trưởng ban Hướng dẫn TƯ, đổi tên chính thức là Gia đình Chánh Đạo, tập hợp những thanh thiếu niên nam nữ vào trong một tổ chức tuổi trẻ chuyên học giáo lý Phật Đà, tu tập lễ bái theo nghi thức tụng niệm riêng bằng chữ Việt, có chương trình sinh hoạt vận động thể lực, thi đua trí khôn, vui chơi ca nhạc. Mỗi Chủ nhật, các em đến chùa lễ Phật, học tập, có các anh chị trưởng giáo hóa rồi cùng nhau vui đùa trong khung cảnh thân thương hòa thuận của anh em đồng đạo. Mục đích của GĐPT Chánh Đạo tại T.Ư cũng như tại các Tỉnh hội, Chi hội Phật học là tạo tình đoàn kết giữa các thanh thiếu niên nam nữ, khuyến khích các em phát triển trí dục và thể dục, hướng dẫn các em học hỏi và tuân theo chánh pháp để trở nên những Phật tử thuần thành, chân chính và những công dân tốt trong xã hội. Đến năm 1964, theo trào lưu thống nhất PG, GĐPT Chánh Đạo và các GĐPT khác thuộc hệ thống tổ chức của Hội Phật học Nam Việt sát nhập vào hệ thống tổ chức GĐPT trong Tổng vụ Thanh niên của Giáo hội PG Việt Nam Thống nhất.

Hội luôn luôn nhớ tới công ơn của quý vị Tăng già tôn túc trong Ban Chứng minh và Ban Hoằng pháp, nên mỗi năm vào các dịp Tết Nguyên đán, lễ Phật Đản, lễ Vu Lan..., Hội đều cử phái đoàn đi dâng lễ cúng dường chư Tăng tại một số chùa trong thành phố, và mỗi khi quý Thầy có Phật sự như cất chùa, đắp tượng, đúc chuông, in kinh sách, Hội đều quyên góp những số tiền quan trọng.

Để thực hành hạnh Dược Sư và từ bi, Hội có một phòng phát thuốc miễn phí, có bác sĩ hội viên khám bệnh, cho toa, chích thuốc mỗi ngày giúp được gần cả trăm bệnh nhân do Tiểu ban Y tế đã quyên được một số lượng Âu dược quan trọng để cấp phát cho đồng bào đau yếu. Ngoài ra, Hội còn lập một nghĩa trang ở gần Bà Quẹo, mỗi hội viên vợ chồng con cái khi có tang sự được cấp huyệt mả miễn phí. Hội đã lập được một thư viện gồm có trên 5.000 đầu sách chữ Việt, Pháp, Hoa, Anh, Nhật, có đủ Tam tạng kinh điển, các sách về văn hóa nghệ thuật và về tôn giáo khác, để mọi người có dịp học hỏi và nghiên cứu, hiện nay vẫn còn hoạt động.

Hội luôn luôn giữ tình giao hảo tốt đẹp với các tôn giáo khác, ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Đạo hữu Hội trưởng Chánh Trí đã tham dự Hội nghị văn hóa PG tại New Delhi (Ấn Độ) hồi tháng 11 năm 1956, dự Hội nghị văn hóa Tokyo (Nhật Bản) năm 1958, dự Hội nghị PG Thế giới lần thứ 6 tại Phnom Penh năm 1962 và được bầu làm Phó Chủ tịch, dự Hội nghị PG Thế giới lần thứ 7 tại Bénares (Ấn Độ) năm 1964 và đã đi Hoa Kỳ với tư cách là danh khách vào năm 1962. Nhờ những cuộc du hành hữu ích của đạo hữu Hội trưởng Chánh Trí mà tên tuổi của Hội Phật học Nam Việt và chùa Xá Lợi được nhiều người trên thế giới biết đến và trọng thị.

Về xây cất thì Hội Phật học Nam Việt đã kiến tạo được ngôi chùa Xá Lợi nguy nga và đẹp đẽ, một công trình kiến trúc mới mẻ và thích hợp với phong trào canh tân PG. Chính ngôi chùa này đã được chọn làm trụ sở cho cuộc tranh đấu của PG đồ vào năm 1963 của Ủy ban Liên phái Bảo vệ PG chống chế độ Ngô Đình Diệm độc tài kỳ thị tôn giáo, và nghiễm nhiên trở thành ngôi chùa lịch sử.

Sau đây là nguyên nhân và lịch sử xây cất chùa Xá Lợi.

Không biết phải vì biết tin hâm mộ di tích Phật của tín đồ PG Việt Nam hay không, mà năm 1953, Đại đức (ĐĐ) Narada, tọa chủ chùa Vajirarama ở Sri Lanka sang thăm Việt Nam, phụng thỉnh theo 3 viên xá lợi của đức Phật và 3 cây bồ đề con trồng trong 3 lon sữa bò, định cúng cho 3 nơi : PG Nguyên thủy (Kỳ Viên tự), PG Đại thừa và PG Campuchia (theo lời tuyên bố của ĐĐ lúc đến phi trường Tân Sơn Nhất).

Được ủy nhiệm, đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền cầm đầu một phái đoàn hợp cùng phái đoàn của Ban cung nghinh do PG Nguyên thủy tổ chức, lên tận phi trường nghinh tiếp ĐĐ và các bảo vật. Về đến chùa Kỳ Viên, ĐĐ lặp lại lời tuyên bố ban đầu và nói thêm là sáng hôm sau, ĐĐ sẽ trao cho đạo hữu Chánh Trí phần xá lợi và cây bồ đề dành cho PG Đại thừa.

Đến năm 1956, Hội Phật học Nam Việt quyết định xây chùa mới tại một vị trí khác, để có nơi xứng đáng phụng thờ di bảo của đức Thế Tôn và đủ chỗ cho thiện tín đến lễ bái. Một năm rưỡi sau, nghĩa là đến năm 1958, chùa mới hoàn thành. Hội Phật học Nam Việt có kính nhờ HT Khánh Anh, lúc ấy là Pháp chủ của Giáo hội Tăng già Nam Việt, đồng thời là Chứng minh Đại đạo sư của Hội Phật học Nam Việt, đặt tên cho chùa. HT dạy: “Còn đặt tên gì nữa, công chúng đã gọi là chùa Xá Lợi thì lấy tên ấy cho hợp lòng người”.

Thật vậy, trong lúc xây cất, Hội có cho cắm một tấm bảng cổ động tại công trường về việc xây cất chùa thờ xá lợi. Thiện tín sau đó đã gọi tắt là chùa Xá Lợi, rồi thành danh. Trải qua nhiều biến cố, nhất là tai ách tháng 8 năm 1963 của mùa pháp nạn, viên ngọc xá lợi vẫn uy nghiêm tồn tại như muốn nói lên cái bản chất thường tồn bất biến của chân lý, dù dòng đời có trôi chảy, sự vật có vô thường, Pháp Tinh vẫn Như Thị.

Chùa Xá Lợi được xây cất trên một thửa đất thuê của đô thành Sài Gòn, diện tích hơn 2.500 mét vuông, tọa lạc ở góc đường Bà Huyện Thanh Quan và Lê Văn Thạnh (nay là đường Sư Thiện Chiếu). Theo Nghị định số 216-HCSV/P2 ngày 19-1-1956 của Chính phủ tại Nam Việt, Hội Phật học Nam Việt được phép lạc quyên khắp 21 tỉnh có Tỉnh hội và Chi hội thuộc hệ thống tổ chức của Hội Phật học Nam Việt, lấy tiền xây chùa. Nhờ Phật gia hộ và nhờ sự sốt sắng đóng góp của các Phật tử hội viên cũng như của khách thập phương, Hội đã thu được đủ tiền bạc để bắt tay vào việc khởi công đào móng vào ngày 05-8-1956, công trường được đặt dưới sự đôn đốc của hai kỹ sư Dư Ngọc Ánh và Hà Tố Thuận. Một pho tượng Phật bằng xi-măng và thạch cao được Giáo sư Trương Đình Ý đắp rất đẹp, nhưng tiếc thay quá lớn, không thể đem lên chánh điện trên lầu được, nên phải nhường cho một chùa khác và nhờ trường Mỹ nghệ Biên Hòa đắp pho tượng khác bằng bột đá màu hồng, giá lúc bấy giờ là 180.000 đồng, làm khuôn ngày 12-2-1958, tức là ngày 24 tháng Chạp năm Đinh Dậu.

Lễ khánh thành chùa Xá Lợi được cử hành tưng bừng trong 3 ngày 2, 3, 4 tháng 5 năm 1958, tức là 14, 15, 16 tháng 3 năm Mậu Tuất, trong niềm hoan hỷ của mọi người. Những bộ y vàng rực rỡ chen lẫn với áo tràng màu lam hoặc áo dài khăn đóng bên cạnh những bộ Âu phục và những tà áo màu, những tiếng chuông mõ xen lẫn tiếng tụng kinh bằng tiếng Việt, tiếng Hoa, tiếng Pàli... đã nói lên sự hòa hợp của mọi giới trong niềm hoan lạc trước thành quả lớn lao của Hội Phật học Nam Việt nói riêng, của Phật giáo Việt Nam nói chung.

Chùa Xá Lợi có một cổng tam quan chính trông ra đường Bà Huyện Thanh Quan, một cổng tam quan phụ trông ra đường Lê Văn Thạnh (nay là đường Sư Thiện Chiếu) và một cổng phụ để xe cộ ra vào. Cổng tam quan chính có một tầng mái, có gắn chữ “Chùa Xá Lợi, Hội Phật học Nam Việt”, còn cổng tam quan phụ xây cất sau thì lớn hơn, có mái trùng thiềm, có những hàng “công sơn” chồng đấu, có đắp bốn chữ triện “Pháp luân thường chuyển”, ở trên mái cổng có gắn hình bánh xe pháp tượng trưng cho giáo lý nhà Phật đưa chúng sinh từ chỗ luân hồi đau khổ đến Niết bàn an lạc. Hai cổng tam quan đều có những cánh cửa bằng sắt hoa uốn theo hình hoa sen, cành lá cuốn quanh một bánh xe pháp.

Chùa Xá Lợi chỉ thờ có một tượng Phật Thích Ca Mâu Ni lớn, chứ không thờ nhiều Phật như các chùa xưa. Theo quan niệm của Hội Phật học Nam Việt thì khi lễ Phật cần phải nhất tâm hướng về Phật, chí tâm chí thành trụ vào một nơi, đó là đức Phật với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, nét mặt từ bi, dáng ngồi ngay thẳng, lộ vẻ nghiêm trang đại hùng đại lực ; các Phật tử lễ Phật, niệm Phật phải đặt hết tâm trí vào một chỗ thì mới phát huy được cái diệu dụng của tâm, có thành tâm mới có cảm ứng. Thờ một tượng Phật thì dễ được nhất tâm bất loạn. Theo thiển ý, đây là một quan niệm rất hay, giúp chúng ta dễ dàng định tâm, không lao chao vọng động, tâm được tịnh thì trí tuệ mới phát sinh, có chánh kiến để biết đường phải mà theo, đường trái mà tránh, tu tâm sửa tánh là nhờ ở trí tuệ sáng suốt, đưa đến giác ngộ và giải thoát.

Tượng Phật ở chùa Xá Lợi là tượng đức Thích Ca Mâu Ni ngồi kiết già trên tòa sen, mắt hé mở, miệng hơi mỉm cười, nét mặt hoan hỷ mà oai nghiêm, vừa từ bi vừa hùng lực, dáng ngồi ngay thẳng, thân hình khỏe mạnh như hiện thân của Chân-Thiện-Mỹ, biểu tượng của Pháp thân bất diệt. Pho tượng Phật ở chùa Xá Lợi là một kiệt tác mỹ thuật, làm khuôn mẫu cho nhiều tượng Phật các chùa sau này.

Tường bao quanh bái đường được trang trí bên trên bằng những bức tranh mô tả đời sống đức Phật Thích Ca từ khi Đản sanh, Xuất gia, Thành đạo, Thuyết pháp đến lúc nhập Niết bàn, do Giáo sư Nguyễn Văn Long thực hiện, tranh vẽ rất linh động trông như phù điêu đắp nổi.

Sau chánh điện là nơi thờ Tổ, bàn chính giữa thờ di ảnh của 4 vị cao tăng: Huệ Quang, Tuyên Linh Lê Khánh Hòa, Khánh Anh và Quảng Đức. HT Huệ Quang là Phó Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam, Chứng minh Đại đạo sư Hội Phật học Nam Việt, đã góp phần rất lớn trong việc xây dựng và phục hưng PG Việt Nam. Năm 1956, ngài đi dự Hội nghị PG Liên hữu Thế giới nhóm họp ở Nepal và đã viên tịch ở Ấn Độ. HT Tuyên Linh Lê Khánh Hòa là một trong những vị sáng lập Lưỡng Xuyên Phật học Hội, đề xướng phong trào tu học Phật pháp, xương minh giáo lý Phật Đà. HT Khánh Anh là Pháp chủ Giáo hội Tăng già Nam Việt, có công lớn trong việc đào tạo Tăng tài, in kinh dịch sách, để truyền bá đạo Phật tại miền Nam. HT Quảng Đức là người đầu tiên đã vị pháp thiêu thân ngày 20 tháng 4 nhuận âm lịch năm Quý Mão, tức là 11-6-1963 tại Sài Gòn, nguyện biến nhục thể thành ngọn đuốc soi đường cho nhà cầm quyền độc tài gia đình trị họ Ngô thời bấy giờ hãy tỉnh ngộ, sáng suốt tránh việc chia rẽ tôn giáo, đàn áp PG. HT có lúc là trụ trì chùa Phước Hòa, trụ sở trước kia của Hội Phật học Nam Việt. Bốn vị cao tăng này được Hội suy tôn là Tổ sư, mỗi năm đều làm lễ giỗ kỷ niệm long trọng. Gần đây có thờ thêm di ảnh của HT Thích Thiện Hào là viện chủ, do Ban Quản trị cung thỉnh về trụ xứ cùng Tăng chúng chùa Xá Lợi.

Tháp chuông xây ngay gần hàng rào cạnh cổng tam quan chính cách xa chánh điện, làm trang trí cho ngôi chùa. Tháp chuông được khánh thành ngày 23-12-1961, có 7 tầng, mỗi tầng thờ một vị Phật, có 4 mặt phẳng lớn và 4 mặt góc nhỏ, tạo thành một hình bát giác, có mái che cong cong bước lên hình đầu đao, đó là nét kiến trúc đặc biệt của mỹ thuật PG Việt Nam. Các dãy nhà của chùa kiến trúc theo chiều ngang rộng, cho ta cảm giác vững vàng yên ổn trong một khung cảnh yên tịnh thư thái, thì cây tháp lại vọt cao để điều hòa bằng luật tương phản, cây tháp cũng tự điều hòa chiều cao của mình bằng nhiều tầng mái ; hình dáng cao vọt của tháp vượt khỏi vòm cây lên nền trời xanh tiêu biểu cho một mục đích cao xa, một ý chí vươn lên, một tư tưởng siêu trần, một chủ nghĩa thoát tục.

Chánh điện có nhiều cửa sổ cho thoáng khí, mỗi cửa sổ được gắn những kiếng màu xếp đặt thành màu cờ PG.

Ở tầng trệt, từ cổng tam quan chính đi thẳng vào là giảng đường, ngay đằng trước có treo một bức hoành phi cổ, trên viết bốn chữ Nho “Đông thùy pháp vũ”, là thủ bút của Từ Hy Thái hậu. Bức hoành phi cổ này vừa được thay thế bằng một tấm bảng có ghi chữ “Giảng đường Chánh Trí”, để tưởng niệm công đức của cụ Chánh Trí, cố Hội trưởng khai sáng Hội Phật học Nam Việt, đã suốt 21 năm nhất tâm hướng dẫn hàng hội hữu trên đường tu học; cụ quy tịch ngày Rằm tháng Ba năm Quý Sửu (17-4-1973). Ban Quản trị Trung ương Hội Phật học Nam Việt đã quyết định đặt tên giảng đường chùa Xá Lợi là Giảng đường Chánh Trí. Ngày 01-7-1973, lễ khai môn được cử hành hết sức trang nghiêm do ĐĐ Narada và quý Tăng chúng trong Ban Trụ trì chùa Xá Lợi.

Giảng đường rộng rãi, chứa được 400 chỗ ngồi ; trước đây vào mỗi sáng Chủ nhật, sau khóa lễ Tịnh độ đều có buổi thuyết pháp thường xuyên do cụ Chánh Trí Mai Thọå Truyền phụ trách. Giảng đường này đã hân hạnh đón tiếp nhiều giảng sư quốc tế nổi danh như Quốc sư Diễn Bồi, ĐĐ Narada, Giáo sư Khantipalo... cũng như những giảng sư có biệt tài trong nước thuộc Ban Hoằng pháp Giáo hội Tăng già Nam Việt và Phật học đường Ấn Quang. Nhiều bộ kinh Phật quý báu đã được giảng giải rành rẽ, sự lý viên dung, nhiều mật nghĩa được làm cho sáng tỏ và dễ hiểu, hợp với trình độ hiểu biết cao siêu của hàng Phật tử trí thức. Có thể nói, giảng đường là trọng tâm hoạt động của Hội Phật học Nam Việt, là trái tim của chùa Xá Lợi, là nơi truyền bá chánh pháp của Như Lai. Mục đích của Hội Phật học Nam Việt là tu và học, từ bi và trí tuệ đi đôi, phước huệ song nghiêm, nên vị trí của giảng đường được đặt vào chỗ quan trọng, ngay thẳng cổng vào.

Về mặt kiến trúc, thì chùa Xá Lợi là một kiến trúc theo lối mới, dùng những vật liệu nặng như bê-tông, sắt, đá, gạch, ngói..., những nhà kiến trúc khéo léo đã cố gắng tô điểm bằng những mái cong đầu đao, những “công sơn” chồng đấu, những bánh xe pháp... khiến chùa vẫn còn vẻ thuần túy Á Đông, những đề tài trang trí là những hình hoa sen có dây leo lá cuốn uốn éo vòng đi vòng lại có vẻ sinh động, đẹp đẽ và mềm mại.

Thời thế mới nên chùa cũng phải đổi mới, ở trung tâm thành phố nhộn nhịp, địa thế lại nhỏ bé, không có sông núi làm điểm tựa, không thể tạo một cảnh chùa u nhàn thanh tịnh được, nên Hội Phật học Nam Việt trước đây đã đành chấp nhận một ngôi chùa kiểu mới để có chỗ lễ bái, tụng kinh, nghe pháp, tiện bề quy hướng, thính đạo cho mọi người sinh sống ở thị thành. Giữa chốn phồn hoa đô hội mà giữ được lòng không dao động thì mới là quý, tâm tịnh thì thế giới tịnh.

Chúng tôi xin nói thêm về vai trò của Hội Phật học Nam Việt đã đóng góp vào thống nhất PG và cuộc đấu tranh lịch sử của PG chống chính phủ độc tài Ngô Đình Diệm để bảo vệ chánh pháp năm 1963.

Như trên đã nói, ngày mùng 6 tháng 5 năm 1951, một Đại hội PG toàn quốc được triệu tập tại Huế để thống nhất PG và lập thành một Hội gọi là Tổng hội PG Việt Nam, gồm có 6 tập đoàn do HT Thích Tịnh Khiết làm Hội chủ, nhưng điều lệ của Hội này không được chính phủ lúc bấy giờ chấp nhận, Ban Quản trị Trung ương lâm thời phải kéo dài nhiệm kỳ từ 1951 đến 1956 để giải quyết mọi trở ngại khó khăn và nắm giữ cái tinh thần thống nhất. Trong Ban Quản trị nhiệm kỳ đầu tiên này, đại diện Hội Phật học Nam Việt là đạo hữu Phạm Văn Vi giữ chức Ủy viên Cứu tế xã hội và đạo hữu Nguyễn Hữu Huỳnh giữ chức Ủy viên dự khuyết.

Đến năm 1956, khi bản điều lệ đã được chính quyền duyệt y, một Đại hội thống nhất kỳ II đã được triệu tập tại chùa Ấn Quang (Sài Gòn) vào ngày 1-4-1956 để bầu Ban Quản trị Trung ương chính thức, trong đó đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền giữ chức Tổng Thư ký; đạo hữu Tống Hồ Cầm, vốn là Phó Tổng Thư ký trong Ban Quản trị lâm thời Trung ương từ năm 1951, nay tiếp tục và chính thức giữ chức Phó Tổng Thư ký; đạo hữu Võ Đình Dần giữ chức Kiểm lý Ngân sách; đạo hữu Lê Văn Cầm giữ chức Ủy viên Từ thiện, và đạo hữu Cao Văn Trí giữ chức Kiểm soát.

Đến năm 1959, một Đại hội thống nhất kỳ III được tổ chức long trọng tại chùa Xá Lợi từ ngày 4 đến ngày 8-9-1959. Chúng tôi xin ghi dưới đây lời HT Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam Thích Tịnh Khiết tuyên bố trong kỳ Đại hội này: “Tổng hội PG Việt Nam thành lập tới nay đã vừa 9 năm, nhưng ở trong hoàn cảnh khó khăn và lại thiếu sự thuận tiện, những cố gắng và hoạt động chưa đem lại hiệu quả nào đáng kể. Giờ đây, tôi hy vọng quý vị trong Ban Quản trị Trung ương cũng như các tập đoàn và Phật tử toàn quốc hãy cùng nhau đoàn kết, tận lực phụng sự chánh pháp, đem lại sự huy hoàng cho PG và dân tộc”.

Như vậy thì thấy sự thống nhất PG chỉ mới có trên hình thức và giấy tờ, các tập đoàn PG vẫn hoạt động riêng rẽ tại ba miền. Để tiến tới sự thống nhất thật sự, một Đại hội kỳ III cần được tổ chức để quy tụ 6 tập đoàn trong một tổ chức duy nhất là Tổng hội PG Việt Nam (Confédération). Hội nghị chấp nhận ý kiến tăng cường Ban Quản trị Trung ương bằng những phương pháp sau đây:

1)- Tuyển trạch những vị có khả năng, đức độ, thành tâm thiện chí với công cuộc phục vụ đạo pháp và sự thống nhất, để sung cử vào Ban Quản trị Trung ương Tổng hội PG Việt Nam.

2)- Ủng hộ Ban Quản trị Trung ương trên mọi phương diện tinh thần, vật chất...

3)- Các tập đoàn phải cam kết triệt để tuân hành theo thông tư và chỉ thị của Ban Quản trị Trung ương, để Ban này có đầy đủ uy tín và phương tiện thi hành Phật sự.

Mấy điểm trên đây là nghị quyết lịch sử đối với nền thống nhất PG. Các tập kỷ yếu qua các kỳ Đại hội của Tổng hội PG Việt Nam hiện còn lưu trữ tại thư viện chùa Phật học Xá Lợi.

Trong Ban Quản trị Trung ương nhiệm kỳ mới này (1959-1962), Ban Thường vụ gồm những ban viên đều ở Sài Gòn và HT Hội chủ cũng vào ở Sài Gòn một thời gian lâu dài để tránh sự chậm trễ trong các Phật sự do thư từ đi lại lâu lắc giữa các ban viên ở xa nhau, mà các nhiệm kỳ trước của Ban Quản trị đã mắc phải. Hội Phật học Nam Việt đã can đảm nhận lãnh những chức vụ quan trọng trong Ban Quản trị Trung ương nhiệm kỳ này: đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền giữ chức Phó Hội chủ; đạo hữu Võ Đình Dần, Tổng Thư ký; đạo hữu Tống Hồ Cầm, Phó Tổng Thư ký I; đạo hữu Lê Ngọc Diệp, Phó Tổng Thư ký II; đạo hữu Nguyễn Văn Hoanh, Chưởng quỹ. Với thành phần Ban Quản trị Trung ương gồm các bậc Tăng già và cư sĩ hữu học, thành tâm thiện chí, Tổng hội PG Việt Nam đã tiến mạnh trên đường thống nhất hiệu quả hơn. Phái đoàn tham dự Hội nghị PG Thế giới kỳ 6 tại Phnom Penh năm 1962 đã được sự kính nể của các phái đoàn khác, và đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền đã được bầu làm Phó Chủ tịch; khi tranh đấu chống phim Sakya đã xuyên tạc lịch sử đức Phật, tiếng nói của Ủy ban Liên phái cũng được nhà cầm quyền nghe theo. Nghi thức tụng niệm, y phục, tổ chức, giáo dục, hoằng pháp... đều hướng về ý niệm thống nhất, đặc biệt là lễ Phật Đản ở nước ta được cử hành vào ngày Rằm tháng Tư âm lịch (ngày trăng tròn) thay vì mùng Tám tháng Tư như lệ cũ trước đây.

Một biến cố quan trọng có thể nói là một tai ách đã xảy ra trong năm 1963 để thử thách, để trắc nghiệm sự thống nhất của PG Việt Nam. Trong dịp lễ Phật Đản năm 1963 (Rằm tháng Tư năm Quý Mão), chính phủ Ngô Đình Diệm ra lệnh cấm treo cờ PG tại các tư gia và có nhiều hành động chia rẽ và kỳ thị PG, mọi người đều căm phẫn và cơn bão tố chờ dịp bùng nổ. Tại Huế là nơi căn cứ của PG, một cuộc diễn hành của Phật tử bị nhà cầm quyền giải tán, vài tiếng súng nổ, vài người ngã gục, thế là phong trào nổi lên với mục đích bảo vệ đạo pháp, đòi nhà cầm quyền phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo, dân chúng được treo cờ PG trước tư gia trong những ngày đại lễ và chính phủ phải bồi thường cho các nạn nhân bị bắn chết hay bị đánh đập mang thương tích. Trước sự làm ngơ của chính quyền, các vị lãnh đạo PG hội họp các đoàn thể PG toàn quốc và lập Ủy ban Liên phái Bảo vệ PG... đặt trụ sở tại chùa Xá Lợi với sự đồng ý của Hội Phật học Nam Việt.

Tạm thời, khuôn mặt tu hành thanh tịnh của ngôi chùa lớn nhất Sài Gòn lúc bấy giờ bị che khuất bởi những biểu ngữ chống đối nhà cầm quyền, tiếng tụng kinh xen lẫn tiếng máy phóng thanh kêu gọi Tăng Ni Phật tử đoàn kết vì đạo pháp giành thắng lợi, và nói chuyện giải thích rõ về thời sự. Các giới đồng bào kéo đến rất đông, lễ bái tụng niệm thì ít, ủng hộ tranh đấu thì nhiều, không sợ hãi sự đe dọa của chính quyền độc tài gian ác, chư Tăng ở khắp nơi trong nước đều kéo về tụ tập ở chùa Xá Lợi để tuân theo chỉ thị của Ủy ban Liên phái. Đây là lần đầu tiên ở Việt Nam có cuộc liên kết PG đồ, không phân biệt Bắc tông hay Nam tông, không phân biệt Tăng già hay cư sĩ, không phân biệt Việt Nam, người Hoa hay Khơmer, không phân biệt nam nữ già trẻ, tất cả đều đồng một lòng đoàn kết ủng hộ Ủy ban Liên phái Bảo vệ PG. Hàng ngày, chùa Xá Lợi đều tấp nập, đông đảo, tiếng chuông mõ xen lẫn tiếng góp ý, góp sức vì chính đạo và chính nghĩa, tạo ra khung cảnh quyết liệt, thành khẩn ; y vàng, y nâu, y lam của Tăng Ni sát cánh bên những phục sức quần áo đủ màu của nam nữ Phật tử.

Trước những đòi hỏi căn bản và những nguyện vọng chân chính của PG, chính quyền cứ làm ngơ và tìm cách chia rẽ PG, bắt bớ giam cầm nhiều người, tình hình mỗi ngày một căng thẳng. Ngày 11-6-1963, HT Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng, nguyện lấy thân làm đuốc soi sáng chính quyền, dùng lửa từ bi để đốt sạch mọi chướng ngại si mê, mong chính quyền chấp thuận những nguyện vọng chính đáng của Phật giáo. Nhục thể của HT được rước về chùa Xá Lợi để làm lễ cầu siêu trong một tuần rồi mới di chuyển xuống An dưỡng địa tại Phú Lâm để hỏa táng. Tất cả những xương thịt của Ngài đều thành tro bụi, riêng trái tim còn nguyên vẹn, được rước về chùa Xá Lợi ngâm vào formol và bày lên bàn thờ cho dân chúng đến chiêm bái, mọi người cung kính đến quỳ lạy và cho là chuyện lạ.

Toàn dân đều cảm động trước sự hy sinh cao cả của HT Quảng Đức, nhưng chính phủ Ngô Đình Diệm không chịu nghe theo lẽ phải mà còn phản ứng mạnh mẽ bằng cách chiếm đóng tất cả các chùa có tham gia phong trào bảo vệ PG, giam cầm một số lớn Tăng Ni và Phật tử vào đêm 20-8-1963.

Vì thế, chùa Xá Lợi dĩ nhiên được đánh phá tận tình, nhà cầm quyền bắt giữ tất cả mọi người có mặt trong chùa: HT Hội chủ, chư vị TT, ĐĐ, các Tăng Ni và Phật tử; đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền, Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt, cũng bị bắt và bị giam giữ cùng một lúc với các vị lãnh đạo Ủy ban Liên phái Bảo vệ PG, và sau đó các ban viên tích cực khác của Ban Quản trị: đạo hữu Huệ Đức Lê Ngọc Diệp, Tổng Thư ký; đạo hữu Tống Hồ Cầm, Ủy viên Kiểm soát của Hội cũng bị bắt vài ngày sau đó. Chùa Xá Lợi bị phong tỏa không cho ai ra vào, chuông mõ im lìm, đèn nhang lạnh lẽo, một bức màn sầu thảm phủ lên cả thành phố Sài Gòn, bao trùm mọi giới đồng bào. Sức mạnh của vũ khí không chinh phục được tấm lòng sắt son vì đạo của đồng bào, cho nên cuộc chống đối lại tiếp tục, học sinh và sinh viên bãi khóa liên miên, 6 vị Tăng Ni lần lượt tự thiêu, nhiều Phật tử hy sinh mạng sống vì tự do cho đạo pháp, kéo theo đình công, bãi thị, bãi khóa, biểu tình... khắp nơi đều chấn động, tức nước vỡ bờ, việc gì phải đến đã đến.

Ngày 1-11-1963, Ngô Đình Diệm bị giết. Cơn ác mộng đang đè nặng trĩu tâm hồn người con Phật suốt trong thời gian qua bị phá tan. Chư Tăng Ni và Phật tử được tự do, chùa chiền được giải tỏa, mọi người lại đổ xô về chùa Xá Lợi để vấn an chư vị lãnh đạo Ủy ban Liên phái và mừng cho đạo pháp đã qua cơn thử thách. Đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền bị bắt giam cùng lúc với chư Tăng, nay lại được tự do cùng một ngày, đồng lao cộng khổ, thật xứng đáng đại diện cho giới cư sĩ bên cạnh giới xuất gia.

Sau đó, chùa Xá Lợi lại được chọn làm nơi hội họp của các phái đoàn đại diện PG toàn miền Nam vào đầu năm 1964, soạn thảo Hiến chương và thành lập Giáo hội PG Việt Nam Thống nhất. Đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền được hân hạnh đắc cử chức Chủ tịch Ủy ban Soạn thảo Hiến chương và được bầu làm Phó Viện trưởng Viện Hóa đạo. Khi mọi việc đã hoàn tất, trụ sở Giáo hội được chuyển về chùa Ấn Quang, trả lại cho chùa Xá Lợi vẻ mặt thanh tịnh tu hành và sinh hoạt bình thường như thuở ban đầu.

Bánh xe lịch sử quay đều, một trang sử đã được lật qua, mọi thành công hay thất bại đã chìm vào quên lãng, nhưng chùa Xá Lợi vẫn uy nghi tồn tại. Hội Phật học Nam Việt vẫn từ tốn khép mình vào nền tu học thuần túy, mặc ai tranh bá đồ vương, mưu cầu danh lợi. Những cây tùng bút vẫn xanh tươi, những khóm trúc vàng vẫn đẹp đẽ, một số tín hữu vẫn lui tới lễ Phật, tụng kinh, nghe pháp, tượng Phật mới được thếp vàng làm tăng phần oai nghiêm hùng lực, ngọn bảo tháp vẫn đứng cao chót vót như thi gan cùng tuế nguyệt và tiếng chuông đại hùng trên đỉnh tháp vẫn ngân nga theo gió sớm sương chiều, đưa hồn người lâng lâng thoát tục.

Chùa Xá Lợi, một kiến trúc dung hòa mới cũ, tiêu biểu cho nền mỹ thuật PG chuyển mình cho kịp thời thế đổi thay, đã trở thành bất diệt với câu thơ xưa, nay xin phỏng lại:

Gió đưa cành trúc la đà

Tiếng chuông Xá Lợi, canh gà Thủ Thiêm

Mãi đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước hoàn toàn thống nhất, PG ba miền Bắc, Trung, Nam mới thực hiện được ước mơ thống nhất trọn vẹn. Hưởng ứng sự kêu gọi của Ban Vận động Thống nhất PG cả nước, do các bậc cao tăng và cư sĩ tiêu biểu nhất, Hội Phật học Nam Việt là tổ chức PG của hàng cư sĩ Phật học tại miền Nam, là một trong 9 tập đoàn tiêu biểu chính thức gia nhập Giáo hội PG Việt Nam ngày nay.

Giáo hội PG Việt Nam trong nước Việt Nam độc lập, tự do và hoàn toàn thống nhất, cho nên kể từ ngày 29-12-1981 là tổ chức PG duy nhất đại diện cho PG Việt Nam về mọi mặt quan hệ ở trong nước và nước ngoài, có Hiến chương riêng và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ban Quản trị nhất tâm cung thỉnh HT Thích Thiện Hào về trụ xứ tại chùa Phật học Xá Lợi với chức vụ viện chủ, cùng hội hữu đông đảo gắn bó với tinh thần tu học và thực hiện Phật sự liên tục của chùa Hội. Các cư sĩ Tống Hồ Cầm, Tăng Quang, Trần Văn Phát cũng như các đạo hữu kỳ cựu và lớp hậu tấn mới trưởng thành đều nhất tâm chung lo bảo quản cơ sở đạo tràng này ngày thêm tốt hơn. HT trụ trì Thích Hiển Tu và Tăng chúng vẫn thủy chung bảo trì nếp sống thanh quy tại chùa, góp phần trang nghiêm cho ngôi phạm vũ mà chư tôn giáo phẩm hằng ân cần vãng lai hoằng hóa, phổ độ thiện nam tín nữ quy tập về đây.«


 

Phật giáo Gia Định-sài Gòn- TP. Hồ Chí Minh

300 năm cùng nhân dân mở đất, bảo vệ Tổ quốc,

xây dựng chủ nghĩa xã hội

 

Tiến sĩ PHAN LẠC TUYÊN (*)

“Những gì chúng tôi làm cho Đạo pháp nghĩa là làm cho Dân tộc, những gì chúng tôi làm cho Dân tộc là làm cho Đạo pháp”

Lời của Hòa thượng Thích Trí Thủ

Ngay từ khi mở mang đất nước về phương Nam, các vị sư Phật giáo (PG) cũng theo các đoàn dân di cư từ các nơi đến Đàng Trong, ngược lại đã cùng với đám lưu dân từ các tỉnh khác của Nam Kỳ ngược về sinh sống ở vùng Sài Côn-Gia Định, nơi mà chính quyền Việt Nam đã được tổ chức vững chắc. Kể từ năm 1698 mà sự buôn bán nhờ dân Minh Hương (người Hoa) đã định cư ở đó từ trước, và qua người Minh Hương, tàu bè nước ngoài tới lui buôn bán sản xuất. Lúc đó, ở chùa Đại Giác tại Đại Phố, Đồng Nai, thuộc dinh Trấn Biên (nay là cù lao Phố, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa), có Hòa thượng (HT) Thành Đẳng trụ trì. Năm 1744, khi chúa Nguyễn mở mang vùng Sài Côn-Gia Định thì nhiều người từ Đồng Nai về Sài Côn-Gia Định làm ăn. HT Thành Đẳng thấy rõ việc phát triển làm ăn vùng đất mới có nhiều dân trụ ở đó làm ăn nên cử Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc đi cùng dân lưu cư về vùng Sài Côn mở mang Phật pháp. Dọc đường, nhà sư đã gặp một Tăng lữ cùng lứa tuổi (chưa tìm được thế danh và pháp danh), hai người rất mến nhau, họ cùng đến thôn Tân Lộc (chợ Đũi, quận 3 ngày nay) khai hoang mở ruộng, trồng rau, vào rừng đốn củi, hái trái cây. Một tháng chia hai, nửa tháng làm ruộng, trồng trọt, tích lũy thức ăn, nửa tháng tụng kinh niệm Phật. Họ dựng một am tranh làm nơi tu hành. Dần dần, dân ở đó cảm thấy đức độ tu hành và lao động của hai vị Thiền sư nên ngày Rằm và mùng Một, họ đến am tranh nghe thuyết pháp và tụng kinh. Sau hơn mười năm tu hành, hai Thiền sư với sự giúp đỡ cúng dường của bà con trong vùng, đã dựng được một ngôi chùa gạch lợp ngói với tên là chùa Từ Ân. Gần đó cũng có một ngôi chùa mới lập được đặt tên là Khải Tường. Chùa Từ Ân ở vào khoảng chợ Đũi và chùa Khải Tường ở góc đường Lê Quý Đôn-Võ Văn Tần ngày nay.

Trong những biến động lịch sử ở cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, hai chùa này đã trở thành chứng tích lịch sử. Trong cuộc chiến tranh giữa Nguyễn Ánh và triều đại Tây Sơn, thời gian từ 1788-1801, trong khi bôn ba, Nguyễn Ánh với các tướng sĩ đóng quân ở chùa Từ Ân, còn gia đình Nguyễn Ánh ngụ tại chùa Khải Tường; và khoảng năm 1791, Hoàng tử Đảm (sau này là Minh Mạng) do bà thứ phi họ Trần sinh ra ở đây. Sau khi lên ngôi, Gia Long phong sắc cho hai chùa này, cấp tiền và mọi chi phí cho các vị tu hành ở đó. Do đấy nhân dân gọi là “chùa Quan”.

Khi thực dân Pháp vào xâm lược Việt Nam, đánh chiếm Sài Gòn-Gia Định (1859-1861), chúng đã đốt phá chùa Từ Ân. Chùa Khải Tường thì bị chiếm đóng làm đồn binh do tên quan ba Barbé làm trưởng đồn, nên sau này người Pháp gọi là pagode Barbé (chùa Barbé). Thật mỉa mai và láo xược thay ! Thực dân Pháp cũng đem pho tượng Phật Di Đà tạc bằng gỗ do vua Minh Mạng cúng dường về trưng bày tại Viện Bảo tàng Sài Gòn mà cho tới nay chúng ta còn thấy trong đó.

Về mặt quan hệ truyền bá PG của Sài Gòn-TP. Hồ Chí Minh với các địa phương trong nước, phái Lâm Tế của Đại thừa (Mahayana) đã từ Phú Xuân và Bình Định là chủ yếu. Và các vị HT như Tổ sư Nguyên Thiều-Siêu Bạch (gốc người Trung Quốc) và các đệ tử là: Phật Ý-Linh Nhạc lập chùa Từ Ân và Khải Tường ở Gia Định và những đệ tử trụ trì ở nhiều ngôi chùa nổi tiếng ở Sài Gòn-Gia Định như chùa Giác Lâm, Long Thạnh. Trong số học trò này còn có Sư Phật Chiếu-Linh Quang lập chùa Phước Tường (Thủ Đức), Sư Thiệt Thoại-Tánh Tường lập chùa Huê Nghiêm (Thủ Đức); việc xây dựng những chùa chiền ở vùng cư dân mới tại Sài Gòn-Gia Định có ảnh hưởng đến phong tục tập quán, tín ngưỡng và cuộc sống nơi đây. Vào năm Canh Dần (1770), khoảng tháng Giêng âm lịch có cọp về hại người và súc vật ở khu chợ Tân Kiểng (lúc đó thuộc trấn Phiên An, Sài Gòn), mọi người hoảng sợ, lo lắng. Có hai nhà sư ở đó biết chuyện đã đến đánh nhau với cọp, giết được nó nhưng cũng bị nó cắn làm trọng thương, sau đó thì chết. Nhân dân cảm động và biết ơn nên đã phụng thờ làm Phụ Thần Hoàng ở đình Tân Kiểng (nay thuộc quận 5, TP Hồ Chí Minh).

Nhìn chung, từ khi chúa Nguyễn Hoàng vào đất Thuận Hóa để nương thân, tránh việc có thể bị Trịnh Kiểm giết thì những đời chúa Nguyễn kế tiếp thường dựa vào giới PG, và những khi trốn tránh sự truy nã của quân Tây Sơn đều ẩn náu tại các chùa chiền. Tháng 11 năm 1776, trong lúc lưu vong, tướng sĩ nhà Nguyễn đã họp ở chùa Kim Chương để tôn Nguyễn Phước Thuần làm Thái thượng vương và lập Nguyễn Phước Dương làm Tân chính vương, để chống lại quân Tây Sơn. Sau này, chùa Kim Chương được nhà Nguyễn phong “Sắc tứ Phổ Quang tự”. Trớ trêu thay, vào tháng 3-1777, quân Tây Sơn vào đánh Gia Định, Thái thượng vương Nguyễn Phước Thuần bị bắt tại Long Xuyên và bị quân Tây Sơn đem về giết tại chùa Kim Chương, nơi mà mười tháng trước đó, ông đã được các tướng sĩ tôn phong! Vấn đề chính trị cũng tác động mạnh đến tôn giáo, sau khi thực dân Pháp đã đặt ách thống trị tại Việt Nam, ban hành luật bắt mọi nhà, kể cả chùa chiền, miếu mạo, đền tự đều phải chứng minh chủ quyền đất đai đang ở, nếu không có cơ sở, giấy tờ thì phải tự xuất tiền mua đóng cho nhà cai trị hành chính lúc đó. Do đó, không ít chùa chiền phải nộp tiền mua đất tại chính nơi mình đã có công khai phá và dựng chùa một cách hết sức nực cười, trong số chùa đó có Phụng Sơn tự, một chùa được lập ra từ lâu đời.

Năm Ất Dậu 1885, cuộc khởi nghĩa của nhân dân Hóc Môn chống thực dân Pháp bùng nổ, có sự tham dự của một số đông tín đồ PG và một số nhà sư. Theo một số nhà nghiên cứu thì cuộc khởi nghĩa này do tông phái Minh sư Phật đường khởi xướng và Phan Công Hớn lãnh đạo cùng với Thiền sư Minh Hòa-Hoan Hỷ. Vị Thiền sư này tu tại chùa Long Thạnh (Bà Hom) cùng thầy là Hòa thượng Tiên Cần-Từ Nhượng.

Mối quan hệ giữa PG ở Sài Gòn-Gia Định lúc đó, rất có thể thông qua người Minh Hương đã ở đây từ lâu nên khá chặt chẽ. Năm Nhâm Thìn (1892), một nhà sư là Lão sư Lưu Đạo Nguyên đã từ Trung Quốc tới Đàng Trong, ở Qui Nhơn một thời gian rồi vào Sài Gòn giảng kinh kệ của phái Minh sư Phật đường với đường lối chính trị là “phản Thanh, phục Minh”. Tông phái này xây điện Ngọc Hoàng ở Đa Kao để làm nơi trụ trì và giảng đạo. Sau đó, phái Minh sư Phật đường xây thêm chùa Phổ Tế Phật đường ở vùng Chợ Đệm và từ đó phát triển rộng rãi ra các vùng Chợ Lớn, Tân An, Gò Công và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tuy chưa có thể khẳng định được vì còn thiếu những tài liệu gốc, nhưng những ảnh hưởng của phái Minh sư Phật đường đã chứng tỏ ảnh hưởng giao lưu của phái này đối với một số đạo giáo ở đồng bằng sông Cửu Long như Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo... Đồng thời, Minh sư Phật đường có tham gia tích cực vào phong trào Duy Tân và Đông Du.

Qua những sự kiện này, thực dân Pháp có luật lệ cứng rắn đối với PG. Năm 1898, Toàn quyền Đông Dương là Paul Doumer ra nghị định, những người tu hành ở chùa phải có giấy chứng nhận và mỗi khi làm đàn chay cúng kiến phải xin phép.

Một vấn đề khác có tác động đến sự liên hệ giữa PG và bọn thực dân Pháp là nhà cầm quyền cai trị lúc đó thông qua cơ quan ngôn luận Lục tỉnh tân văn đả kích đạo Phật và tín ngưỡng dân gian. Tờ báo này, trong một số ấn hành khoảng tháng 11-1907, có bài nói về phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo có câu viết: “Trả PG cho Chà Và (Ấn Độ) và Quan Công cho Chệt (Trung Quốc)”.

Vào năm 1922, một số binh lính người Việt trong quân đội thuộc địa Pháp đóng tại Sài Gòn có hùn hạp tiền bạc làm công quả xây một ngôi chùa có tên là Quán Thế Âm tại vùng Phú Nhuận mà giới bình dân gọi là chùa Mạch Lô (matelot: lính thủy).

Nhà cầm quyền thực dân Pháp ở Sài Gòn-Gia Định bắt đầu trực tiếp cho tay chân can thiệp vào PG thông qua ông Cò-mi Chấn (Commis) là chức Tham tá làm việc ở bộ máy cai trị của Thống đốc Nam Kỳ. Ông này được Thống đốc Nam Kỳ là Kautreimer cho phép lập Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học và ấn hành nguyệt san Từ Bi Âm. Thống đốc Nam Kỳ được mời làm Hội trưởng danh dự cùng một số công chức cao cấp người Pháp và Việt là hội viên danh dự. Tháng 9 năm 1933, Cò-mi Chấn tố giác với bọn mật thám thực dân Pháp là một số nhà sư hoạt động cộng sản đã khiến cho một số vị tu hành bị mời lên Sở Mật thám điều tra. Chùa Sắc tứ Linh Thứu bị lục soát, kinh sách bị tịch thu và HT Huệ Tâm bị bắt cầm tù tại trại giam Côn Đảo.

Mối quan hệ giữa PG ở Sài Gòn-Gia Định đối với một số quốc gia có tín đồ PG đông đảo như Campuchia và Lào được dần dần chặt chẽ. Năm 1936, Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học (trụ sở tại Sài Gòn) có cử một đoàn do HT Huệ Pháp làm trưởng đoàn, mang kinh sách sang tặng cho Hội PG Campuchia và Lào, đoàn đã được đón tiếp nồng hậu. Vào khoảng tháng 6 năm 1936, có HT Karlis Feunisons và Tăng sĩ Frédéric N.Lustig sang thăm các chùa ở Sài Gòn. Ngoài ra, khoảng năm 1935, một vị sư là Minh Tinh từ Sài Gòn đã hành hương sang Ấn Độ và có thỉnh được xá lợi ngọc đem về khiến giới Phật tử phấn khởi, vui mừng.

Do ở gần nhau nên PG Tiểu thừa ở Campuchia và PG Đại thừa ở Việt Nam, nhất là ở Sài Gòn, thường có những giao lưu liên lạc với nhau, đặc biệt ở Nam Kỳ, số người Việt gốc Khmer rất đông, chùa chiền sư sãi nhiều, ngay cả tại Sài Gòn-Gia Định, chùa chiền, sư sãi, tín đồ PG Tiểu thừa không ít. Năm Canh Thìn (1940), ông Nguyễn Văn Hiếu đại diện một số đông cư sĩ PG tại Sài Gòn lên Phnom Penh thỉnh Sư Hộ Tông đã theo học đạo tại Phnom Penh về lập chùa Bửu Quang ở Gò Dưa, Thủ Đức. Cũng bắt đầu từ đây, Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam được thành lập và chùa Bửu Quang là ngôi chùa đầu tiên của PG Nguyên thủy ở Việt Nam.

Chúng ta cũng không thể bỏ qua được một sự kiện lịch sử quan trọng có liên hệ với PG, hoặc vì hoàn toàn đặt sự kiện đó trong lịch sử cách mạng ở Nam Bộ. Ở đây không khai thác khía cạnh thuộc phạm trù lịch sử cách mạng mà chỉ muốn nêu rõ trong quá trình PG tồn tại trong xã hội, trong nhân dân Việt Nam ở Nam Bộ, những quan hệ, tác động qua lại không phải chỉ đơn thuần là tín ngưỡng, là đạo pháp, tôn giáo, mà những tác động dội lại của xã hội, lịch sử, chính trị đã xuất hiện những cái nhìn mới mẻ và rộng rãi hơn. Nếu thường tình, người tín đồ PG hay nói: “Đạo cứu Đời” thì tác động của Đời sẽ làm Đạo đẹp hơn. Do đó, khi cuộc Nam Kỳ khởi nghĩa nổ ra ngày 23-11-1940 do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hàng vạn nông dân và những người yêu nước ở khắp Nam Bộ, đặc biệt là Hóc Môn, Bà Điểm và vùng Cai Lậy, Chợ Bưng, Tam Bình đã nổi dậy dưới lá cờ đỏ búa liềm để giành chính quyền. Sau một thời gian cướp chính quyền ở nhiều nơi, cuộc khởi nghĩa bị bọn thực dân Pháp và tay sai đàn áp tàn khốc dã man bằng súng đạn, đốt phá, chém giết, tù đày. Trong số những chiến sĩ cách mạng, có nhiều tín đồ và nhà tu hành PG bị chém giết, bị bắt bớ tra tấn tù đày mà ta còn nhớ được như HT Đạt Thanh (chùa Long Quang ở Hóc Môn), Yết ma Pháp Long (chùa Thiên Quang ở Hóc Môn), Lão sư Đinh Đạo Ninh (Khánh Nam Phật đường), Sư Phước Trí (chùa Thiền Lâm, Hóc Môn). Đây chỉ là nói ở vùng Hóc Môn mà thôi.

Tiếp tục những liên lạc với cách mạng, ngay từ năm 1943, chùa Giác Hoàng ở Bà Điểm đã là nơi hội họp của những nhà sư yêu nước và những cán bộ cách mạng. Đồng thời, chùa này cũng là một trong những cơ sở hậu cứ của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tại vùng Sài Gòn-Gia Định.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công và ngày 2-9-1945 Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn Độc lập của Tổ quốc Việt Nam, trong cuộc mít-tinh tại trụ sở Ủy ban Khởi nghĩa (nay là Ủy ban Nhân dân thành phố), hàng ngàn tín đồ PG và các nhà tu hành dưới sự hướng dẫn của các HT Hồng Từ (chùa Giác Lâm), HT Hồng Kề (chùa Sùng Đức), HT Thiện Tòng (chùa Trường Thạnh) đã tới tham dự và trưng nhiều biểu ngữ hoan hô cách mạng thắng lợi và đề nghị PG được gia nhập Mặt trận Việt Minh.

Từ đây trở đi, trong vận hội mới của Tổ quốc Việt Nam - thời đại Hồ Chí Minh, ánh sáng vàng của PG Việt Nam lại càng thêm phần rực rỡ.

Từ năm 1954 đến 1963, Diệm-Nhu đã đàn áp PG dữ dội, hàng vạn Tăng Ni bị khủng bố ở Sài Gòn như vụå thủ tiêu Sư Thành Đạo chùa Phật Ấn; Yết ma Thiền Nghi ở chùa Đức Lâm, bắt đày ra nhà tù Côn Đảo; Sư Minh Giác ở chùa Long Vân; Sư Huệ Chi ở Phật học đường Chợ Lớn. Năm 1963, vào ngày Phật Đản ở Huế, Diệm-Nhu đã cho binh lính, xe thiết giáp đàn áp Phật tử khiến nhiều người chết và bị thương. Tăng Ni, Phật tử ở Huế đã vào Sài Gòn để tổ chức phối hợp đấu tranh. Trong khi đó, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (MTDTGPMNVN) ra tuyên bố ủng hộ năm điểm đấu tranh của Tăng Ni, Phật tử tại Sài Gòn và các tỉnh. HT Thích Thiện Hào, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTDTGPMNVN, đã tố cáo với thế giới tội ác của bọn Diệm-Nhu đối với PG và gửi điện cho Ban Thư ký thường trực Hội PG Thế giới tố cáo tội ác của bọn chúng. Ngày 11-6-1963, HT Thích Quảng Đức đã tự thiêu ở ngã tư Phan Đình Phùng-Lê Văn Duyệt (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu-Cách Mạng Tháng Tam). Ngay sau đó, hơn hai chục ngàn sư sãi ở Phnom Penh xuống đường biểu tình phản đối trước các cơ quan đại diện của Ngô Đình Diệm. Tại một số các nước như Sri Lanka, Lào, Ấn Độ, Miến Điện (Myanmar), Nhật Bản, Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên... đã nổ ra những cuộc biểu tình rầm rộ phản đối sự kỳ thị tôn giáo và tội ác của Diệm-Nhu. Tại khu giải phóng miền Nam Việt Nam đã có buổi truy điệu HT Thích Quảng Đức do Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ và các vị trong Chủ tịch đoàn tổ chức long trọng. Đêm 20-8-1963, Diệm-Nhu lại tiến hành đàn áp đẫm máu tại nhiều chùa ở Sài Gòn như chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Giác Minh, Từ Quang...

Nhân dân ta vô cùng căm phẫn. Ngày 25-8-1963, khoảng 50.000 đồng bào ta tại thủ đô Hà Nội đã xuống đường biểu tình phản đối tội ác đàn áp đẫm máu sư sãi và Phật tử ở Sài Gòn, Huế và các tỉnh. Ngày 28-8-1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân danh cả nước, đã phát biểu lời tuyên bố: “Gần đây, ở miền Nam Việt Nam lại xảy thêm một tình trạng cực kỳ nghiêm trọng và đau thương. Bọn Ngô Đình Diệm đốt phá chùa chiền, khủng bố sư sãi và đồng bào theo đạo Phật... Tội ác dã man của chúng, trời đất không thể dung. Hành động hung tàn của chúng, nhân dân ta đều căm giận. Cả thế giới đều lên tiếng phản đối, nhân dân tiến bộ Mỹ cũng tỏ lòng bất bình” (1).

Dù có bày vẽ những kịch bản hòng che giấu tội ác, Diệm-Nhu và tay sai cuối cùng cũng bị lột trần bộ mặt hung ác, tàn bạo của chúng là xâm phạm tự do tín ngưỡng đối với sư sãi Tăng Ni và Phật tử ở Sài Gòn, Huế và các tỉnh ở miền Nam Việt Nam.

Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, sự tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được thực hiện nghiêm túc như Hiến pháp Việt Nam ghi rõ : Tôn trọng tự do tín ngưỡng, luật pháp bảo vệ những cơ sở tôn giáo hợp pháp.

Ngày 7-8-1975, để thống nhất những việc hoằng pháp của các Tăng Ni, các vị tu hành và các tín đồ trong tình hình đất nước đã thống nhất, để tích cực đóng góp vào công việc xây dựng đất nước, Ban Liên lạc PG Yêu nước TP. Hồ Chí Minh được thành lập; HT Thích Minh Nguyệt, một nhà tu yêu nước, đã được bầu làm Chủ tịch, trụ sở đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm.

Trong mối giao lưu với các tôn giáo khác ở ngoài nước, PG đã có những hành động thân hữu. Ngày 8-5-1977, một phái đoàn Giáo hội Ky-tô thế giới được HT Thích Minh Nguyệt tiếp tại chùa Vĩnh Nghiêm. Sau đó đã có những tiếp xúc giữa Ban Liên lạc PG Yêu nước TP. Hồ Chí Minh với phái đoàn vô tuyến truyền hình Mỹ NBC ngày 13-2-1977; phái đoàn truyền hình Pháp đến thăm một vài ngôi chùa trong thành phố ngày 2-5-1977, phái đoàn PG Nhật Bản đến thăm Ban Liên lạc PG Yêu nước TP.Hồ Chí Minh và một số phái đoàn PG ở các nước lần lượt tới thăm thành phố và tiếp xúc với Ban Liên lạc PG Yêu nước TP. Hồ Chí Minh.

Chức sắc giới PG thuộc Ban Liên lạc PG Yêu nước cũng như sau này của Giáo hội PG Việt Nam đã được chính quyền tạo điều kiện đi thăm viếng giao lưu với PG quốc tế như đoàn của HT Bửu Chơn thăm hữu nghị Phnom Penh (Campuchia) và dự lễ Đôn-ta ở đó; ngày 17-9-1978, đoàn của HT Thích Minh Châu tham dự Hội nghị PG ở Anh quốc ngày 19-9-1978 và sau đó sang thăm chùa Trúc Lâm được xây dựng ở ngoại ô Paris do HT Thích Thiện Châu trụ trì, đoàn của HT Thích Trí Thủ sang Moskva dự Hội nghị các nhà hoạt động tôn giáo chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân từ 10-5 đến 14-5-1982; đoàn của HT Thích Minh Châu tham dự Hội nghị lần thứ V thuộc Tổ chức Tôn giáo và Hòa bình thế giới họp tại Úc tháng 1-1989 và tại một số nước khác.

Về các hoạt động giao lưu đóng góp với công việc xây dựng đất nước, giới tu hành PG đã được phép ra tờ báo Giác Ngộ (1-1-1976), lập các trường cơ bản Phật học và cao cấp Phật học cơ sở II, tới năm 1997 thì đổi là Học viện PG Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. Khóa học khai giảng năm 1997 là khóa thứ IV của chương trình đào tạo theo chủ trương “Đạo pháp-Dân tộc-Chủ nghĩa xã hội” của Giáo hội PG Việt Nam. Một điểm đáng chú ý nữa là không ít các bậc cao tăng, Đại lão HT, Thượng tọa (TT) , các vị tu hành và tín đồ PG ở thành phố Hồ Chí Minh đã tích cực tham gia cách mạng dưới nhiều hình thức tại thành phố Sài Gòn (trước 30-4-1975) và tại các địa phương các tỉnh như các HT Thích Minh Nguyệt, HT Thích Trí Thủ, HT Thích Thiện Hào, HT Thích Minh Châu, HT Thích Trí Quảng, TT  Thích Giác Toàn, Ni trưởng Huỳnh Liên... Khá nhiều người khác đã hy sinh và bị tù đày trong các trại giam của ngụy quyền Sài Gòn. Sự quan hệ mật thiết không chỉ hạn định trong việc quan hệ giới tu hành PG với xã hội, cuộc đời, giữa thành phố Hồ Chí Minh với các địa phương và nước ngoài mà còn có một nội dung khác rất đáng chú ý. Đó là ngay trong các lớp Phật học, đặc biệt là tại Trường Cao cấp Phật học trước đây hay Học viện PG Việt Nam hiện nay (kể từ 1997), trong giáo trình bốn năm học đã có hai phần : nội điển (kinh, luật, luận của giáo lý PG) và ngoại điển (triết học Mác - Lê-nin và những kiến thức cơ bản về tổ chức Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân tộc học, tôn giáo học, văn học Việt Nam, mỹ học, lịch sử Việt Nam, văn minh Việt Nam...). HT Tiến sĩ Thích Minh Châu vừa là Viện trưởng Học viện PG Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, vừa là đại biểu Quốc hội nhiều nhiệm kỳ cho tới Quốc hội khóa này. Tăng Ni sinh của Học viện đều đã học các lớp Phật học cơ bản, trung cấp và bắt buộc phải có bằng tốt nghiệp lớp 12 trung học. Học viện ở thành phố Hồ Chí Minh chiêu sinh đều phải thi tuyển. Sau khi tốt nghiệp Trường Cao cấp Phật học, một số Tăng Ni đã được phép của Giáo hội và Nhà nước, đi du học ở Ấn Độ và một vài nước khác.

Như vậy, những người tu hành còn được đào tạo để hiểu biết trách nhiệm đối với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đối với xã hội, dân tộc, đồng bào mà trong giáo lý PG đã nói tới: Ân đối với quê hương đất nước, ân đối với tổ tiên cha mẹ, ân đối với Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng). Tóm lại, thời đại Hồ Chí Minh, trong sự phát triển của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, PG tại thành phố Hồ Chí Minh cũng như trong cả nước đã có sự chấn hưng rõ rệt, không những chỉ trong phạm vi công tác xã hội hay nghĩa vụ công dân, mà còn được mở rộng ra cả trong phần nhận thức luận về nội dung giáo lý tu hành và hoằng pháp trong một thời đại mới.

1998

 

* Hiện đang công tác tại Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn TP HCM, Giáo sư thỉnh giảng của Học viện PG Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh và TP Huế.

(1) Trần Văn Giàu, Miền Nam giữ vững thành đồng, Hà Nội, 1966, tập II, tr. 354.


 

Phật giáo với nhân dân Gia Định-Sài Gòn và TP Hồ Chí Minh

 

Hòa thượng THÍCH NHƯ NIỆM

Gia Định - Sài Gòn xưa và TP. Hồ Chí Minh ngày nay là một địa danh vinh quang đã đi vào lịch sử dân tộc. Ngược dòng thời gian, thì vào năm 1698, khi lập ra phủ Gia Định, chỉ có hai huyện Tân Bình và Phước Long. Ước tính lúc đó số dân chỉ có vài chục vạn người, chủ yếu là dân di cư từ miền Thuận-Quảng. Vì cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn nên họ lâm vào cảnh đói rét, chết chóc, buộc phải đi “tha phương cầu thực”. Với việc sắp đặt thành lập địa giới thì đình chùa cũng được dựng lên. Đình ở đây là biểu tượng của đời sống thế tục, chùa là biểu tượng của đời sống tinh thần, thiêng liêng - thiêng liêng nhưng không xa cách, không có sai biệt, cũng như linh thể và tục thể không đối lập mà thống nhất đồng quy về một mục đích, đạt tới chân lý con người. Hiện nay đình làng Phú Nhuận (Phú Long), chùa Từ Ân, chùa Khải Tường, Giác Lâm, Giác Viên... và biết bao nhiêu đình, chùa khác nữa không phải là một bằng chứng lịch sử Phật giáo (PG) có mặt sớm từ buổi đầu hình thành Gia Định - Sài Gòn đó sao?

Tôi không dám bàn sâu về mối quan hệ PG với cộng đồng dân cư đã và đang sống trên mảnh đất Gia Định-Sài Gòn này, nhưng có một số điều rõ nét xin đưa ra:

- Ở đình, ngoài sự ảnh hưởng của PG trong lễ tống ôn, tống khách, các lễ nghi liên quan đến vong hồn cô độc, còn thâm nhập nghi thức tụng kinh cầu an. Cầu an như là một nghi thức đầu tiên nhằm mục đích cầu xin sự an lành cho dân làng, cho một cộng đồng dân cư địa phương. Người đứng lễ không ai khác chính là nhà sư hoặc thầy cúng, tụng kinh Phổ Môn, đọc sớ... Bàn thờ cúng, thờ ảnh Phật Quan Âm. Gặp hoàn cảnh khó khăn nhất, ngặt nghèo nhất, tiếng phát ra đầu tiên ở miệng người ta là: “Nam mô A Di Đà Phật”, “cầu Trời, khẩn Phật”, “lạy Phật”. Ở đất Gia Định - Sài Gòn này từ xưa đến nay đại bộ phận tín đồ theo đạo Phật, và những gia đình mới hiểu ít về đạo Phật họ đều thờ ảnh Phật. Thờ Phật như là một nhu cầu tâm linh không thể thiếu được, vì họ tin Phật, muốn gởi gắm nơi đức Phật một ngưỡng vọng, cầu sự yên ổn, tốt lành, hạnh phúc. Tất nhiên đâu phải người nào cũng hiểu ý niệm về cái Bi, cái Trí, cái Dũng, về Vô thường, Vô ngã... của đạo Phật.

Song song với sự phát triển kinh tế, chính trị thì chùa, thiền viện cũng được xây dựng khắp nơi. Ở đâu có dân sinh sống ở đó có chùa, có thầy. Như đã nêu ở trên, con người ta ngoài nhu cầu ăn mặc, còn phải tĩnh lặng chiêm nghiệm cuộc đời, gỡ rối khó khăn bằng tâm linh, thường họ đến chùa. Xin đưa ra một vài con số để minh chứng. Chùa, Tăng sĩ, tín đồ ngày một phát triển: - Năm 1899: Ở Gia Định có 305 ngôi chùa; Tăng sĩ: 82; Sư cô: 49 và 211.057 Phật tử. Năm 1963: Ở Gia Định có 246 chùa, ở đô thành Sài Gòn: 180 chùa. Năm 1994: TP Hồ Chí Minh có 921 chùa và hàng triệu tín đồ. (Theo tài liệu của Trung tâm Lưu trữ quốc gia II và Thành hội PG TP. Hồ Chí Minh).

Một đặc điểm bao trùm, đậm nét nhất là PG Việt Nam bao giờ cũng gắn liền với dân tộc; thịnh suy, vui buồn cùng tồn tại bên nhau. Trong công cuộc chống ngoại xâm để bảo vệ đất nước, chùa chiền, tu sĩ, tín đồ theo đạo Phật ở Gia Định-Sài Gòn không tách ra khỏi vòng xoáy đó. Nhiều chùa đã trở thành cơ sở cách mạng, nuôi giấu cán bộ, làm nơi hội họp như chùa Long Thạnh, Giác Lâm, Pháp Hoa, Từ Vân, Phổ Quang... nhiều Tăng sĩ Phật giáo tùy hoàn cảnh hoặc “cởi áo cà sa, khoác chiến bào” hoặc ẩn mình dưới “mái chùa che chở hồn dân tộc”, như Hòa thượng (HT) Minh Nguyệt, sư Thiện Chiếu và hình ảnh Ni sư Huỳnh Liên cùng đoàn Ni giới PG xuống đường biểu tình chống Thiệu, đòi hòa bình.

Ngọn đuốc thiêng của HT Thích Quảng Đức và nhiều Tăng Ni ẩn tích vô danh khác là bản anh hùng ca bất tử. Khi thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định-Sài Gòn, chúng đã tuyên bố: “PG còn thì dân tộc Việt Nam còn”, nên chùa chiền, Tăng sĩ là đối tượng triệt hạ của chúng. Theo sử sách còn ghi lại, thực dân Pháp tìm cách xóa bỏ những chùa lớn, mặt đường, chỉ để lại ít chùa nhỏ trong hẻm. Mục đích của chúng là làm thay đổi đức tin. Như chùa Kim Chương, chùa Phật lớn (đường Nguyễn Trãi ngày nay), chùa Hải Tường, chùa Pháp Võ (bệnh viện Chợ Rẫy), chùa Chúc Thọ (xóm thuốc, Gò Vấp)...

Tổ chức từ thiện - xã hội là bản chất vốn dĩ của Phật. Đạo Phật sớm đi vào nhân dân Gia Định-Sài Gòn và TP. Hồ Chí Minh từ buổi đầu. Chủ trương là khuyến thiện, cổ động hành vi công ích cứu tế, giúp người neo đơn, tàn tật, trẻ mồ côi, cho thuốc chữa bệnh, đã thu hút cảm tình và niềm tin tôn trọng của mọi người.

“Dù xây chín bậc phù đồ,

Không bằng làm phước cứu cho một người”

Từ trước, hầu hết các chùa đều có phòng thuốc Nam từ thiện giúp đỡ cho đồng bào. Chỉ tính vào những năm chống Mỹ, nhiều tổ chức từ thiện PG ra đời, nhà cô nhi viện Quách Thị Trang, Lâm Tỳ Ni, Hội Từ thiện Việt-Hàn... ngoài yếu tố tích cực giúp đỡ vật chất cho người bất hạnh, còn nhiều chuyện phải bàn, phân tích sâu sắc hơn để hiểu rõ mục đích đa dụng của nó.

Tuệ Tĩnh đường, trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật, cô nhi viện, hoạt động cứu trợ đồng bào bị thiên tai lũ lụt, xóa đói giảm nghèo, xây nhà tình nghĩa, trường học... được diễn ra liên tục ở các chùa, tịnh thất, tịnh xá, niệm Phật đường, vòng hơn 20 năm qua thật sự có ý nghĩa, xuất phát lòng từ bi, cứu khổ, cứu nạn của đạo Phật. Đạo đức của PG đã có ảnh hưởng vô cùng to lớn trong môi trường sống hiện tại của TP. Hồ Chí Minh ngày nay; bởi vì đạo Phật là tiếng nói của một con người gởi tới những con người khác, để cùng giúp nhau vượt qua bể khổ cuộc đời. Vì vậy, đạo Phật mang tính xã hội và đạo đức rất cao. Đạo Phật đâu chỉ dừng lại công việc chia sẻ xã hội: hòa bình, thịnh vượng, công bằng; mà hướng người ta lấy điều thiện làm lẽ sống, làm phương tiện và mục đích thăng hoa cho con người - xã hội. Chỉ định luật nhân quả và nghiệp báo đủ lý giải hết bản chất của đạo Phật.

Từ phần trình bày có tính chất sơ lược ở trên, chúng ta có thể đi đến kết luận: Đạo Phật đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của người dân Gia Định-Sài Gòn và TP. Hồ Chí Minh từ ngày thành lập cho đến nay.«


 

Phật giáo Sài Gòn trong lịch sử 300 năm của TP Hồ Chí Minh

 

Cư sĩ Nguyễn Văn Hàm

Nguyên Ủy viên HĐTS GHPGVN

Nguyên Phó ban Tôn giáo TP

Nguyên Phó Chủ tịch UBND TP

Nguyên dân biểu đối lập

Nguyên Ủy viên Tổng vụ Cư sĩ GHPGVNTN

Cách đây 300 năm, năm 1698, chúa Nguyễn lập nên trấn Gia Định, cử Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh trấn nhậm, nên năm nay ta mới có kỷ niệm ba trăm năm Sài Gòn. Dưới mắt các nhà sử học được đào tạo chính quy, từng phải nghiên cứu phương pháp sử học, niên biểu học, quan chế học... thì cụm từ "ba trăm năm Sài Gòn" chưa chỉnh lắm, vì đất Gia Định hồi đó không chỉ gồm có Sài Gòn hiện nay mà cả đất Nam bộ, và sau đó, cho đến trước hiệp ước Nhâm Tuất (1862), Gia Định là một trong 6 tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường (miền Đông) và Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên (miền Tây). Sài Gòn nay là thành phố Hồ Chí Minh thực chất vẫn là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế của cả các tỉnh phía Nam, cho nên khi nói Phật giáo (PG) và 300 năm Sài Gòn thì hàm chứa ý nghĩa PG và 300 năm phát triển của cả Nam bộ, mang tính chất bất khả phân ly của một vùng đất mới khai phá rộng lớn, đồng bằng sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Ba trăm năm nay, PG đã đóng góp gì cho Sài Gòn (tên cũ là Sài Côn), cho đất Nam bộ, mà ông cha ta, trong cuộc Nam tiến cần mẫn, đầu thế kỷ mười lăm theo chân nàng công chúa quốc sắc thiên hương Huyền Trân “nước non ngàn dặm ra đi” vào đến hai châu Ô và Lý (Quảng Nam-Quảng Ngãi).Sau thời gian ổn định, năm 1558, tiên chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, đã mở mang bờ cõi cho ông bà các dòng họ chúng ta lại từ căn cứ Ngũ Quảng (Bình, Trị, Đức, Nam, Ngãi) mà chân cứng đá mềm tìm kiếm một cách không ngừng nghỉ một bình nguyên mới, đã vào đến đây, nói như lời thơ Huỳnh Văn Nghệ, lời thơ mà các bạn trẻ ở thành đoàn đã tặng tôi trong cánh thiếp chúc xuân 1975 (trước giải phóng).

Cho con núi rộng sông dài

Cho con lưỡi kiếm đã mài nghìn năm.

Ông cha chúng ta từ miền Bắc vào tới miền Trung, rồi lại từ miền Trung vào tới miền Nam. Ông cha ta đi đến đâu thì chùa chiền mọc lên đến đấy, mở mang ruộng rẫy, dạy cho cháu con làm lành tránh dữ.

“Thiền sư bất trảm thảo”, nhưng sư Hồng Ân ở Tân Kiểng bây giờ, ngày xưa từng đánh cọp dữ, bảo vệ dân làng. Đó là một nhà sư không phải chỉ của kinh sách mà còn của đời sống, tha thiết với mối an nguy của chúng sanh. Nông thiền là hình thức sản xuất lúa nước quen thuộc của nhà chùa: chùa Thiên Mụ xã Mỹ Lộc, trùng tên với ngôi đại cổ tự mà tiên chúa đã xây giữa thế kỷ XVII (1621) bên bờ sông Hương, có cả một vùng ruộng lớn từ ba trăm năm trước. Nay, còn dấu tích chỉ cách Sài Gòn non vài chục cây số. Nhưng không phải chỉ có PG làm cho Sài Gòn mà ngược lại, mối quan hệ tương tác chẳng khác nào các hạt cơ bản của nguyên tử trong vật lý lý thuyết, Sài Gòn, miền đất mới cũng mang lại cho PG Việt Nam một sắc thái vô cùng đặc biệt. Đó là PG 300 năm Sài Gòn, PG Nam bộ. Phật giáo đó có gì lạ?

Nếu PG miền Bắc, trải qua hàng ngàn năm phát triển cùng lúc với chế độ phong kiến trung ương tập quyền, thì dù xưa kia không mang tính thiệp thế, nó vẫn ít nhiều chịu ảnh hưởng cung đình, từ kiến trúc, cách thờ tự cho đến tôn ty trong tăng giới thì đạo Phật Sài Gòn ba trăm năm là một thứ đạo Phật rất bình dân với những ông đạo Ghe, đạo Dừa, đạo Chuối, ông sư Vãi bán khoai, ẩn tích vào trong cỏ nội hoa ngàn và sẵn sàng xuất hiện cứu dân độ thế như một thảo dã anh hùng rất Nam bộ. Hay  như ông Bụt của nàng Tấm trong cổ tích luôn hiện ra hỏi “vì sao con khóc?” để lúc nào cũng có cách cứu giúp, bố thí thật cụ thể và kịp thời. Đạo Phật Sài Gòn là thứ đạo Phật thật dân dã, nó diễn giảng giáo pháp của đức Thế Tôn một cách thực dung dị: “Có đạo, mới có gạo nấu”. Thiền tông Lâm Tế từ Trung Hoa truyền sang đây đã được Việt hóa cụ thể nhất bằng hình thức quấn chiếc y vàng Nam tông mà kinh kệ thì Bắc tông, lại diễn ra bằng những câu ca dao dễ hiểu, dễ nhớ mà ta có thể lấy phái khất sĩ của tổ sư Minh Đăng Quang làm một ví dụ. Cũng thật dễ hiểu khi phái đó cung cấp cho thời đại một vị nữ tu kiên quyết đi theo cách mạng, đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc trước đây: ni sư Thích nữ Huỳnh Liên. Nếu ta vận dụng Loi des tris états của Auguste Comte vào bối cảnh của ba trăm năm trước thì Sài Gòn bấy giờ đầy cá sấu, hùm, beo, rắn độc, phải có những nhà truyền giáo, đây là những nhà sư, nhân danh Trời Phật hướng đạo thì dân chúng mới đủ sức tin mà dấn thân vào chốn còn hoang vu, luôn bị đe dọa bởi bão lụt, dịch bệnh, sấm sét. Lịch sử đã chứng minh rằng, sự tuyên úy tinh thần đó thật là cần thiết trong bước sơ cơ của những người dân định cư của bất cứ dân tộc nào thời xưa. Ông đạo vừa sống đời, chặt cây làm chiếc am, sạ lúa để có cái ăn, vừa sống đạo, giảng giải đạo lý bằng những lời lẽ mộc mạc quê mùa. Trời Phật qua nhà sư, trở thành chốn nương tựa tinh thần của dân khẩn hoang để họ có thể an tâm cuốc cày, đoàn kết, chịu đựng sơn lam chướng khí, dần dà khắc phục những bất trắc của thời tiết, những thịnh nộ của thiên nhiên, thuần hóa đất đai, thích nghi với thủy tổ, tích trữ lương thực, sinh con đẻ cháu, dưới sự dìu dắt của những nhà sư, dĩ nhiên vị nào cũng có cái học Nho uyên thâm, từng bước chăm lo “thứ chi, phú chi, giáo chi”, quá trình tất yếu của các cuộc dinh điền. Có thể giả định là một thế chân vạc, một loại tam đầu chế không cần công cứ mà nảy sinh theo đúng yêu cầu của cuộc sống, bấy giờ đã hình thành.

Quan lại, binh lính triều đình các chúa Nguyễn giữ vững biên cương.

Các tiền và hậu hiền từng địa phương lãnh đạo, đốc thúc dòng họ mình tận lực gia công khẩn đất (Thiên hà ngôn tai nhi tứ thời hành yên, nam nữ cấu tinh nhi vạn vật hóa dục).

Và các nhà sư, trong các ngôi chùa lá ẩn khuất trong từng thôn xóm đóng hoàn hảo vai trò tuyên úy, dìu dắt tinh thần cho từng cộng đồng nông thôn.

Như thế, đến nay đã ba thế kỷ. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, PG có cái cách đóng góp riêng của mình, có lúc là hóa giải các dị biệt để dân tộc thống nhất mà chiến thắng xâm lăng như thiền sư Vạn Hạnh đã giúp Lý Thái Tổ, có lúc một vị về sau trở thành Sơ tổ Thiền tông nước ta, Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tông đích thân cầm quân đánh giặc. Cái chung nhất cho đạo Phật với dân tộc hơn hai ngàn năm nay, là luôn luôn hiếu hòa, tĩnh lặng, tan vào trong hồn dân tộc, như một cánh cò trắng trên cánh đồng, như một lời ca dao:

Dẫu xây chín đợt phù đồ

Không bằng làm phúc cứu cho một người.

Cho nên tôi chỉ xin nói đến đóng góp của PG Sài Gòn, không đến những ba trăm năm, mà chỉ một phần mười khoảng thời gian ấy thôi, PG Sài Gòn ba mươi năm: 1955-1985, mà tôi đích thân là chứng nhân trước bao tấm gương PG sáng chói, trong đấu tranh cho độc lập, trong phẩm cách cao quý cũng như trong lập ngôn để lại cho mai sau. Trước hết, những người PG Việt Nam trên khắp đất nước phải biết cảm ơn Sài Gòn. Vì chính tại đây, từ những năm 20, hạt giống đầu tiên của phong trào chấn hưng PG đã nảy mầm tại chùa Giác Hải của thiền sư Từ Phong. Và cũng chỉ có Sài Gòn mới có được một ngôi chùa như Ấn Quang, chẳng những là nơi tiến hành cuộc thống nhất đầu tiên(1) và là trung tâm chống Mỹ-ngụy suốt hai mươi năm (55 - 75) cũng như nòng cốt cho công cuộc vận động cho Giáo hội PG Việt Nam 75 - 81 sau này. Từ thập kỷ 20, chính Sài Gòn đã giúp cho các vị cao tăng như Khánh Hòa, Huệ Quang, Khánh Anh, Trí Thiền, Thiện Chiếu... một tầm nhìn xã hội và tôn giáo mình để dựng lên ngọn cờ đầu cho một phong trào rộng lớn khắp nước mà Trung kỳ rồi Bắc kỳ bắt chước làm theo: Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học cùng hai người em của nó, Lưỡng Xuyên và Kiêm Tế, đã tiên phong xuất hiện cho các hội Phật học An nam và Bắc kỳ ra đời sau đó. Chẳng những thế, sư Thiện Chiếu ở chùa Linh Sơn (149 đường Cô Giang, quận 1) có lẽ là nhà sư đầu tiên nghiên cứu chủ nghĩa Mác và gia nhập Đảng Cộng sản, Đảng đã thổi một luồng sinh khí mới vào lòng yêu nước vốn có của những người PG Việt Nam. Sài Gòn khai sáng cho tổ chức, Sài Gòn cung cấp nơi chốn và quần chúng cho tổ chức (quần chúng và chùa Ấn Quang), Sài Gòn của đất lành chim đậu, có thể biến quýt chua thành ngọt, làm xuất hiện những nhà lãnh đạo chơn tu vàâ yêu nước khiến Đạo có thể tròn nhiệm vụ của mình đối với Đời, chỉ nói trong khoảng ba mươi năm thôi đã có cơ man là những tấm gương sáng chói, ta chỉ có thể khái lược qua ba giai đoạn: một từ 1955 đến 1963, hai từ 63 đến 75 và ba, từ 75 đến 85. Hãy xem trong ba mươi năm ấy, thời gian gấp hai lần để nàng Kiều có thể qua bên kia sông Tiền đường, giã từ bao trôi nổi của số phận mà đạt một cuộc sống thanh thản tu hành, thanh bình của Tam Hợp đạo cô. Sở dĩ PG Sài Gòn có duyên đóng góp vào vận mạng của cả dân tộc trong thời gian cận đại, nét son trong lịch sử Sài Gòn ba trăm năm, vì bấy giờ, Sài Gòn là đầu não của ngụy quyền, các vị thiền sư và Phật tử Sài Gòn, do duyên nghiệp đã tụ lại đây trong một cuộc đối đầu trực diện với xâm lăng.

A/ Giai đoạn tiền thống nhất (1955-1963)

Ngay sau khi nhận lệnh Mỹ về Việt Nam, hất Bảo Đại, Ngô Đình Diệm quyết tâm tiêu diệt người yêu nước, đề ra “quốc sách tố Cộng”, lê máy chém đi khắp nơi, lập ấp chiến lược giam dân chúng mà đa phần là Phật tử trong vòng kềm kẹp. Nhưng những hành vi tàn ác đó không ngăn cản được những người con Phật. Cố Hòa thượng (HT) Thích Thiện Hào ra chiến khu, Thích Minh Nguyệt bị tù đày Côn Đảo, nữ đạo hữu Nguyễn thị Thanh Quyên luôn nhiều năm trong khám đường Sài Gòn, người con dâu của đ/c Võ Văn Tần đã xuất gia nhưng vẫn dùng chùa mình làm nơi giao liên, tiếp tế thuốc men vũ khí. Đồng thời ở Củ Chi, Bà Điểm, Hóc Môn, và cả Phú Thọ Hòa, sát hang ổ địch vẫn là căn cứ quần chúng, bí mật đào hầm, nuôi giấu cán bộ, đặc công, bộ đội kháng chiến. Chùa Thiên Tôn, đường Trần Hưng Đạo, quận 5, là nơi các đ/c lãnh đạo Thành ủy từng nhiều lần về hội họp chỉ đạo phong trào. Đồng thời, Diệm lợi dụng đạo Công giáo, gán chiêu bài và xúi giục người Công giáo chống Cộng. Bắt người lương và Phật tử phải theo đạo Thiên Chúa thì người PG Sài Gòn đã chống lại: không chịu vào đạo vì bị bắt ép, không nhận rửa tội để ra khỏi trại giam. hành động thất nhân tâm của Diệm đã bị phản tác dụng: để biểu thị thái độ chống Mỹ-Diệm, những người lương vào PG. Vào PG ở thời điểm đó là một hình thức của lòng yêu nước. Bị đe dọa, bắt bớ - mặc, các chiếc am tranh chùa lá Sài Gòn cứ mọc thêm lên như một thách thức, chống đối Diệm. Khởi đầu là đi lễ chùa, bị bắt bỏ tù. Ra: lại tham gia hội thảo, phát truyền đơn, tuyệt thực, biểu tình. Cuối cùng, liên lạc với cách mạng để hoạt động có tổ chức và bảo đảm thành công hơn. Đấy là con đường mà biết bao người con Sài Gòn đã đến với Đảng, thông qua PG. Tất cả áp bức, khủng bố, dồn nén đó lâu ngày uất tức, đến năm 1963, bùng nổ thành quả bom nguyên tử. Năm ấy, Vĩnh Hội, quận 4, có hỏa hoạn làm hàng ngàn gia đình nghèo khổ lâm cảnh màn trời chiếu đất. HT Hội chủ Thích Tịnh Khiết thông bạch cho các nơi tổ chức Phật Đản đơn giản để dành tiền cứu trợ. Ở Huế, việc treo cờ và loan báo chương trình bị chế độ Diệm ngăn cản, từ đó xảy ra cuộc tuần hành chiều 7-5-63 (14-4 âm) của Phật tử đến đài phát thanh, rồi súng, lựu đạn nổ, 8 người chết, 4 bị thương, có 3 em bé nát đầu. Sài Gòn lập tức cầu siêu. Ngày 21-5, hơn một ngàn tăng ni Sài Gòn từ chùa Ấn Quang rước vong các nạn nhân về chùa Xá Lợi, trong khi đó gần 400 tăng ni khác từ Xá Lợi diễu hành xuống Quốc hội ngang qua chợ Bến Thành. Cũng chỉ với sự trẻ trung và tính năng nổ của một Sài Gòn yêu nước, ngày 25-5, một Ủy ban liên phái PG ra đời, trực tiếp dàn trận đối đầu với Diệm bằng một bản tuyên ngôn mang chữ ký của hầu hết giáo lãnh các môn phái có mặt tại hòn ngọc Viễn Đông vào lúc ấy: Tịnh Khiết, Minh Trực, Thiện Hòa, Thanh Thái, Bửu Chơn, Lâm Em, Mai Thọ Truyền, Sơn Thái Nguyên, Nguyễn Văn Hiếu... hàng trăm chùa, hàng ngàn tăng ni ở Sài Gòn tổ chức tuyệt thực chống độc tài và đàn áp tôn giáo. Sài Gòn - trung tâm PG đã chuyển mình, thì bốn bề, các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam bộ và miền Trung cũng rừng rực lửa đấu tranh. Ngụy quyền ngăn chặn các cửa ngõ vào thành phố nhưng vô hiệu, bằng đường mòn ngõ tắt, nghe tiếng gọi của Sài Gòn, Phật tử các nơi vẫn đổ về hòa nhịp trái tim mình với nội đô. Rồi từ một ngôi chùa lá nhỏ ở Phú Nhuận, một nhà sư già, ốm đã đến chùa Xá Lợi, điềm tĩnh ra ngã tư Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng để tự mình biến thành bó đuốc sống cảnh tỉnh Ngô Đình Diệm và cả loài người vô minh. Đó là ngày 11-6-1963, cả thế giới bàng hoàng rúng động, biết đến Sài Gòn, biết đến Việt Nam. Ở thời đại của chúng ta, có ai trở thành Bồ Tát chưa? Nhưng thế giới đã tôn xưng Ngài là Bồ Tát, ngài đã hóa thân ở Sài Gòn, dù Sài Gòn chỉ mới có ba trăm năm.

Từ đó Sài Gòn lên cơn sốt, suốt một trăm ba chục ngày, ngày nào cũng có tuyệt thực biểu tình. “Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi”, đã có một bài hát như thế. Phải, nhất là Sài Gòn PG ba mươi năm đó. Những nữ sinh PG xinh đẹp, tươi thắm mộng đời, đã biết từ bỏ cái quý nhất là mạng sống của mình mà hy sinh cho dân tộc, tất cả đều rất trẻ: Nhất Chi Mai, Quách Thị Trang, Mai Tuyết An. Một bộ trưỏng ngoại giao của PG Sài Gòn cạo đầu, một nhà văn Phật tử Sài Gòn dùng độc dược quyên sinh, những người đó ở một nhãn quan chính trị khác có thể bị phê phán, nhưng hành động của các Phật tử đó đã có một thời đánh động đến lương tâm nhân loại và không phải là không có góp phần vào thắng lợi của nhân dân ta vào 30-4-1975.

Sau khi btát Thích Quảng Đức tự thiêu, đến 20-8-1963, Sài Gòn có bốn cuộc biểu tình lớn: 19-6 đưa Ngài vào An dưỡng địa Phú Lâm, 10 và 17-7 phẫn nộ kéo đến tư gia Đại sứ mỹ, 17-7 biểu tình ra chợ Bến Thành rồi về Xá Lợi, tuyệt thực, bị đánh đập, máu me nhuộm đỏ bê bết bao tấm cà sa, lia lên xe nhốt chó rồi mang ra Phú Lâm giam giữ. PG Sài Gòn là tấm gương để cả miền Nam noi theo trong đấu tranh chống Mỹ-Diệm bấy giờ: các tăng ni Nguyên Hương ở Phan Thiết, Thanh Tuệ và Tiêu Diêu ở Huế, Diệu Quang ở Ninh Hòa, tự thiêu. Càng đàn áp, phong trào càng lên mạnh, ngoan cố và điên cuồng, ngày 20-8-63, Diệm-Nhu tấn công tất cả các chùa chiền Sài Gòn và miền Nam, Phật tử gọi là ngày Pháp nạn, được ví với thời kỳ tam Võ nhất Chu bên Tàu, hàng vạn tăng ni và cư sĩ bị bắt giam. Năm hôm sau, học sinh, sinh viên các trường đại học, trung học, công và tư Sài Gòn nhất tề đứng dậy. Trong một đoàn biểu tình ra chợ Bến Thành hôm ấy, nữ sinh Quách Thị Trang bị bắn chết. Gần như tấm gương Thích Quảng Đức, sự hy sinh của Trang như một phát pháo lệnh làm bùng nổ những cuộc đấu tranh dữ dội của giới trẻ làm rung chuyển Sài Gòn, cả nước và thế giới Á-Phi, khiến Liên hiệp quốc phải cử một phái đoàn đến để điều tra tội ác của Diệm-Nhu. Cuối cùng, Sài Gòn mở đầu bằng ngọn lửa Quảng Đức, cũng khép lại trang khuyết sử bạo quyền bằng bó đuốc Quảng Hương. Hai vị sư, một già một trẻ, cũng từ vùng đất thiêng Sài Gòn thắp lên ánh sáng xua đuổi được đêm tối của vô minh. Tất cả đã dẫn tới việc sụp đổ hoàn toàn chế độ độc tài gia đình trị Ngô, góp phần vào việc phát triển các lực lượng giải phóng miền Nam của Mặt trận Dân tộc Giải phóng (MTDTGP). Đấy, chín năm của giới PG Sài Gòn đóng góp vào lịch sử 300 năm của thành phố (1954-1963).

B/ Mười hai năm PG Sài Gòn chống Thiệu (1963-1975)

Chín năm chống Diệm, PG Sài Gòn vừa nhằm tiêu diệt một chế độ độc tài, vừa mặc nhiên biết rằng mình gián tiếp tiếp sức với MTDTGP miền Nam làm lỏng chân Mỹ-ngụy. Những cuộc đấu tranh cũng mang lại cho PG Sài Gòn bài học về tinh thần đoàn kết. Riêng nội bộ Bắc tông, không thể giữ nguyên trạng sáu tập đoàn, một tăng già, một cư sĩ cho mỗi miền mà có thể làm bất cứ điều gì từ giữ gìn giáo luật, hoằng khai chánh đạo cho tới đào tạo tăng tài, lập trường học phổ cập đại chúng... huống chi là thống nhất với các môn phái khác như Nam tông, Nguyên thủy, Cổ sơn môn, Lục hòa tăng... Ủy ban liên phái ra đời trong thời gian ngắn ngủi tàn canh nhà Ngô có thể xem như một tiền diễn tập cho công cuộc thống nhất. Cho nên, sau khi nhà Ngô đổ, Sài Gòn cũng cầm đầu cho cả miền Nam bấy giờ thực hiện thống nhất PG. Lại một điểm son nữa cho 300 năm thành phố: tại chùa Xá Lợi, ngày 4-1-1964, 11 tập đoàn PG cùng ký tên vào một văn kiện khai sinh Giáo hội thống nhất. Giáo hội thống nhất đâu dè rằng, lịch sử của Sài Gòn đã trao vào tay mình một công cuộc cực kỳ khó khăn và gian khổ đến thế. Là suốt mười hai năm sau đó phải đối địch với những kẻ cầm đầu một cuộc chiến tranh quy ước ác liệt nhất thế kỷ, bằng những phương tiện giết người hiện đại nhất, xuất phát từ một quốc gia đệ nhất siêu cường: khi những tà áo nâu sồng, cuộc sống muối dưa đạm bạc qua bữa, những lời kinh từ hòa, và đám tín đồ nghèo khổ chất phác phải hứng chịu hàng triệu tấn bom, phải chết đói, phải làm bia đỡ đạn ngoài chiến trường...

1. Ngay sau khi Diệm bị giết, PG Sài Gòn đã sớm thấy rằng Mỹ chưa từ bỏ ý định xâm lược Việt Nam mà việc họ gật đầu cho các tướng lãnh làm đảo chánh chỉ là để thay ngựa giữa dòng, thiết lập một thứ ngụy quyền khác, một “chính phủ Diệm không có Diệm” theo thuật ngữ thời bấy giờ mà thôi. Cho nên PG chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi Nguyễn Khánh đã bày trò “chỉnh lý” vào ngày 30-1-1964 và kết tội Dương Văn Minh là trung lập. Suốt năm 1964, Ấn Quang phải chật vật đối phó với một là công cụ của quân phiệt tức Hiến chương Vũng Tàu của Nguyễn Khánh và hai là chính phủ chống cộng cứng rắn Trần Văn Hương. Ngày 16-6-1964, Khánh tuyên bố hiến chương quân phiệt thì cũng từ đó, Phật tử Sài Gòn bày tỏ ngay thái độ chống đối, biểu tình khắp nơi, tăng ni tuyệt thực. Ngày 25-8, học sinh sinh viên kéo nhau ra chợ Bến Thành kỷ niệm một năm ngày Quách Thị Trang hy sinh và đả đảo quân phiệt, độc tài, đông đảo đến nỗi Khánh cũng phải gờm và buộc lòng hoan hô Phật tử, đả đảo chính mình, xé hiến chương, cạo bộ râu cằm hài hước, hứa từ bỏ bớt quyền hành.

2. Chống chính phủ Trần Văn Hương : Lại mọc lên tại Sài Gòn một tập đoàn chống cộng, tự xưng là chuyên viên và có tính cách kỳ thị địa phương. Lên ngôi được chỉ 5 ngày, ngày 6-11-1964, học sinh, sinh viên Phật tử các trường Sài Gòn đã mít tinh hội thảo đả đảo Trần Văn Hương. Miền Nam lại sục sôi khí thế đấu tranh chống ngụy quyền. Ngày 22, học sinh trường Hồng Lạc, Chu Văn An dùng gạch đá đánh nhau với cảnh sát, chính quyền phải điều động lính nhảy dù đến đàn áp, ông Hương gọi các tăng ni chống đối là “những lưu manh cạo đầu bận áo cà sa toan nướng chả” và đòi đánh đòn các sinh viên học sinh Phật tử. Trong những trận xáp lá cà đó, hàng trăm người bị thương, học sinh Lê Văn  Ngọc bị chết, hơn 300 bị bắt, các trường học phải đóng cửa. Ngày 20-11, đức tăng thống và các thượng tọa (TT) Tâm Châu, Thiện Hoa, Trí Quang, Pháp Trí, Hộ Giác, Minh Châu... tuyệt thực phản đối chính phủ Hương đàn áp Phật giáo. Khắp nơi biểu tình bạo động, sinh viên Phật tử kéo tới tòa Đại sứ Mỹ đòi quyền dân tộc tự quyết, đốt thư viện Mỹ. Nhưng cũng phải chờ tới khi nữ Phật tử Đào Thị Yến Phi tự mình biến thành bó đuốc, trước Tết Ất Tỵ mấy hôm, Hương mới đổ.

3. Chống cái gọi là Ủy ban lãnh đạo Quốc gia của Thiệu và chính phủ Bắc tiến Nguyễn Cao Kỳ (1965-1966), Phật giáo chỉ có tấm lòng và bao giờ cũng đứng về phía nhân dân. Con người thể hiện trọn vẹn đường lối ấy là cố Hòa thượng (HT) Thích Thiện Hoa. Sinh thời, ông đã thuyết phục được các vị trong Giáo hội Thống nhất của ông luôn đứng trên lập trường dân tộc. Một phần tư thế kỷ sau ngày ngài viên tịch, hôm nay ta có thể bình tâm thấy rất rõ điều ấy. Ba năm xáo trộn đủ cho những người Mỹ hiếu chiến bấy giờ gây ra vụ tàu Madox mà lấy cớ ném bom miền Bắc rồi đưa quân vào Việt Nam, theo một tài liệu thì tới ngày 30-6-65 lên đến 2.563.861 người! Trước đó, ngày 19-6, Thiệu-Kỳ lên ngôi nguyên thủ và thủ tướng ngụy quyền. PG Sài Gòn, cụ thể là Giáo hội thống nhất ngày đó tự cho mình có cái trách nhiệm vì nhân dân cương quyết và cực lực chống xâm lăng và tay sai. Ròng rã trong mười năm liền (1965-1975), chùa Ấn Quang của Sài Gòn là trung tâm chống Mỹ-ngụy, bao che, nuôi giấu cán bộ, trao những chức vụ trong cơ cấu của mình (thành viên hội đồng Tổng vụ, vụ trưởng, tổng thư ký...) cho một số anh em hoạt động nội thành nắm để bí mật tổ mật tổ chức đoàn ngũ, tiến hành các cuộc đấu tranh chính trị có, võ trang có, theo ba phương châm chiến lược: nông thôn, thành thị và binh vận. Phải mấy ngàn trang tham luận mới kể hết những hoạt động của PG Sài Gòn suốt mười năm ngắn ngủi nhưng đầy hy sinh cao cả đó trong lịch sử 300 năm của thành phố. Viện trưởng viện Hóa đạo PG Thống nhất, thầy Thiện Hoa, đã nhiều lần mang chiếc bảng to trước ngực, đòi vào tù thay cho sinh viên để chống đôn quân bắt lính; thầy Trí Thủ, viện trưởng kế nhiệm và thầy Quảng Độ, Tổng thư ký, đòi người Mỹ không được tiếp tục can thiệp vào Việt Nam; thầy Thiện Minh bị CIA ám sát tới què chân và bị Thiệu xử tù hơn mười năm vì nuôi giấu nhiều cán bộ thành đoàn; thầy Trí Quang, “kẻ làm rúng động nước Mỹ”, như lời ghi chú trên tấm hình in trên bìa một số báo Times, đã có lần tuyệt thực gần chết chống Thiệu-Kỳ... Cho nên, ở đây ta chỉ có thể nhắc lại một vài sự kiện chính. Lãnh đạo Phật tử nổi dậy đòi dân sinh dân chủ ở Đà Nẵng, Huế, lôi kéo một số lớn hàng sư đoàn quân đội làm binh biến, chiếm chính quyền các cấp và đài phát thanh trong nhiều tháng trời. Ngày 31.3.66, nhân giỗ tổ Hùng Vương, biểu tình ở chợ Bến Thành với các khẩu hiệu: “down with obstruction. We want independence”. T.T Thiện Minh họp báo tuyên báo: “Chống Thiệu-Kỳ đến cùng dầu phải đổ máu”. Ra lệnh đóng cửa tất cả các trường học và đàn áp dã man ngày 10.5.1966 thì ngay hôm sau hàng trăm tăng ni tuyệt thực ở Viện Hóa đạo, giáo hội Thống nhất chủ trương không tổ chức đại lễ Phật đản Bính Ngọ. Thiệu-Kỳ cho nhảy dù, thủy quân lục chiến ra Đà Nẵng, Huế tấn công chùa chiền và Phật tử, hàng ngàn người chết. Giáo hội Thống nhất đã bằng lập trường đứng về phía nhân dân của mình khiến cho năm viên tướng ngụy (trung tướng Tôn Thất Đính, Nguyễn Chánh Thi, Huỳnh Văn Cao, Thiếu tướng Phan Xuân Nhuận, Nguyễn Văn Chuân) đã phải mềm lòng, sau đó bị phạt trọng cấm và có người bị sa thải. Trong trận đó, ngày 31.5, nữ sinh Nguyễn Thị Vân tự thiêu. Ngày 1.6, T.T Thiện Minh bị ám sát gần chết gần Viện Hóa đạo, sau này trở thành tàn tật suốt đời. Ngày 3.6, ni cô Bảo Luân tự thiêu ở Viện Hóa đạo; hôm sau, lại một học tăng tự thiêu. Tại trụ sở Thanh niên Phật tử vụ, 294 Công Lý, xuất hiện bandrol: “Đả đảo Mỹ và Thiệu-Kỳ mưu sát TT Thiện Minh”. TT Trí Quang tuyệt thực đến gần chết, đức Tăng thống phải ban giáo chỉ ra lệnh chấm dứát để cùng quí TT khác còn lo Phật sự lâu dài. Giữa hàng giáo phẩm Trung-Nam-Bắc kể trên, cả các tT Thiện Siêu, Trí Tịnh... có một sự đồng tâm nhất trí chặt chẽ, nhờ đó Phật tử Sài Gòn vững lòng tin bước tới. Biểu tình liên tục, đốt xe Mỹ liên miên, Sài Gòn mùa mưa 66 chìm trong nước ngập khói mù, những buổi chiều qua phố người dân không khỏi cám cảnh cho đất nuớc mình tang thương. Tất cả đã làm rung chuyển con tim mọi người và dần dần thôi thúc chính mình hành động mà lần đi theo con đường cách mạng. Nhiều bạn trẻ đã đến với Đảng như thế, bắt đầu là từ những chủ trương chống đối chính phủ tay sai Mỹ của giáo hội thống nhất.

Bàn thờ xuống đường,lại một nữ sinh bị bắn chết, 6 vị tT đến tòa Đô chính đòi vào tù. Thích Hạnh Tuệ, một tăng sinh trẻ đầy triển vọng, bị bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh tại đấy, cùng mấy ngàn Phật tử bị bắt từ Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và các nơi khác. Ngày 18.6, Đào Thị Tuyết tự thiêu ; ngày 29, ni cô Diệu Ngọc và hôm sau đó, nữ Phật tử Hồ Thị Châu, hàng vạn người tiễn đưa đến An dưỡng địa Phú Lâm. Đến nỗi nữ tiến sĩ người Đức - Barbara - cũng cầm lòng không đậu, bèn tuyệt thực theo, để cầu nguyện cho hòa bình ở Việt Nam. Để có được cái quốc hội dỏm ở miền Nam, b Sài Gòn năm 66 đã tốn đến ngần ấy máu xương và tâm huyết của bao tT, đại đức tăng ni.

Chống bầu cử gian lận: Không phải Giáo hội thống nhất không biết bản chất của hiếu chiến Mỹ và Thiệu-Kỳ là gian lận, nhưng Giáo hội thống nhất vẫn chống gian lận để tạo điều kiện cho các thế lực tiến bộ trong nước. 20.3.1967, PG đặt viên đá ở ngã tư  Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng xây tháp thờ Tăng ni tử đạo. 16.5 khai kinh cầu nguyện hòa bình cho Việt Nam tại chùa Ấn Quang, cũng là ngày Nhất Chi Mai tự thiêu, người con gái “chết mới nói được nên lời”. Thiện Hoa, Thiện Minh, Trí Quang, Pháp Tri, Thiện Hòa, Trí Tịnh, Minh Châu... cương quyết loại trừ kẻ theo Mỹ - Thích Tâm Châu - ra khỏi PG và Viện Hóa đạo chính thức dời về Ấn Quang. Ngày 24.9.1967, các TT Thiện Luật, Từ Quang, Huyền Quang, Pháp Tri chống Hiến chương phản động và phủ định việc bầu cử Tổng thống; Ủy ban Thanh niên đấu tranh đòi dân chủ có chỗ dựa, đã họp tại 4 Duy Tân hàng ngàn người đòi hủy bỏ kết quả và lên án Mỹ. Các tT trên cùng TT Quảng Long, Pháp Lan và hơn 100 tăng ni đến ngồi trước dinh Độc Lập và tòa Tỉnh trưởng Gia Định. Hai tuần sau, đức Tăng thống tới thăm. Các nơi khác ở miền Nam lại đình công, bãi thị hưởng ứng.Ngày 3.10, Ni cô Tri Túc tự thiêu ở Cần Thơ, TT Trí Quang công bố 100 đơn tình nguyện khác. Hội đồng đại diện sinh viên đại học Sài Gòn, Vạn Hạnh, Cần Thơ gởi kháng thư chống chính phủ bắt bớ sinh viên. 7.10, tăng sinh Thích Minh Trang cắt tay lấy máu viết thư gửi Tổng thư ký Liên hiệp quốc và Johnson ; hôm sau, ni cô Trí Châu tự thiêu; ngày 22.10, ni cô Huệ Lạc tự thiêu trước chùa Giác Viên. Đêm 31.10, đúng lúc Thiệu-Kỳ đang ăn mừng tựu chức bằng gian lận bầu cử, thì được nếm 4 quả đạn cối bắn vào vườn dinh Độc Lập, cả bọn chạy tán loạn.

4. Yểm trợ Tổng tấn công Mậu Thân không thể kể hết được số tên những ngôi chùa của Giáo hội Thống nhất trên toàn miền Nam đã giúp đỡ, băng bó, tiếp tế lương thực, dẫn đường cho bộ độ giải phóng miền Nam trong dịp Tổng tấn công Mậu Thân. Tại Quảng Ngãi là nơi rất căng thẳng, thiền sư Thích Hồng Ân trên ngôi chùa danh thắng miền Trung, chùa Thiên Ấn, đã nấu cơm thết đãi bộ đội giải phóng và khi quân cách mạng bị phản công, Sư đã ếm giấu bộ đội trong hậu liêu. Chùa Phổ Quang, gần Tân Sơn Nhất, cũng đã có một hành động dũng cảm tương tự. Cũng dịp này, những vị cao tăng như thiền sư Thích Đôn Hậu, nữ cư sĩ tuần Chi cũng đã thoát ly ra vùng kháng chiến. Ai biết được có biết bao sinh viên, học sinh Phật tử Sài Gòn đã lên chiến khu tết Mậu Thân cách đây đúng ba mươi năm trong lịch sử 300 năm Sài Gòn? Khiến cho các TT Trí Quang, Hộ Giác, đại đức Nhật Thường, Pháp Siêu, Liễu Minh... được Thiệu-Kỳ” ưu ái cho đi “bảo vệ an ninh” khá kỹ từ sau Tết mãi đến 30.6.1968.

5. Vụ án TT Thích Thiện Minh hoạt động cho cộng sản: Ngày 25.2.1969, Trang Sĩ Tấn họp báo công bố: “Đã tìm thấy tài liệu cộng sản và vũ khí trong nhà 294 Công Lý do TT Thiện Minh quản lý”, bắt TT và 66 sinh viên. Đoàn sinh viên Phật tử Sài Gòn gửi kháng thư chống đối. Mặc. Ngày 12.3 TT Thiện Minh, thế danh Đỗ xuân Hàng và 19 thanh niên bị đưa ra tòa án quân sự Mặt trận, TT tọa bị tuyên án 5 năm cấm cố và 10 năm khổ sai. Ngày niên cùng nguyệt tận năm này là vụ thảm sát Mỹ lai, tại Quảng Ngãi, quê tôi. Hạ bán thập kỷ 60, chùa Quán Thế Âm của thầy Thông Bửu đã cưu mang, nuôi giấu, tạo điều kiện cho nhiều cán bộ cách mạng hoạt động, một số anh em này trở thành những cán bộ cốt cán của Đảng được tin yêu như anh Bảy Việt (hiện là Trưởng ban Tôn giáo thành phố), anh Ba Sơn (Đại tá Công an), Ba Sơn (hiện ở ban Tôn giáo của chính phủ), anh Xuân Sơn...

6. Con đường hòa giải là đặc trưng của Giáo hội thống nhất trong lịch sử PG Sài Gòn năm Canh Tuất: Chỉ một ngày sau khi dân biểu Đào Văn Thụy và HT Minh Thành ký giấy giao Việt Nam Quốc tự lại cho Ấn Quang thì tối hôm đó, 5.5, Tâm Châu đem cả binh lính và võ sư nhu đạo tái chiếm và gây ra thảm sát nhiều tăng ni Phật tử chống Mỹ-ngụy, trong số có đại đức Thiên Ân. Chính con đường hòa giải và thông điệp Về Nguồn những năm 70 - 72, với các hoạt động chống đôn quân bắt lính, cầu nguyện hòa bình của Giáo hội thống nhất đã góp phần đấu tranh chính trị thúc ép Mỹ phải ký hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, tạo điều kiện cho các lực lượng nội thành có cơ sở pháp lý và mạnh dạn thêm trong công cuộc chống Mỹ-ngụy. Rất tiếc, chỉ vài hôm trước ngày ký Hiệp định Paris, HT Thích Thiện Hoa, vị lãnh tụ của Giáo hội, người cưu mang nhiều nhất đối với anh em cách mạng hoạt động nội thành đã viên tịch trong lòng vô cùng thương tiếc của tín đồ tăng ni khắp miền Nam.

7. Những hoạt động vũ bão, đưa ma chế độ cũ: Sau hiệp định Paris, Tăng ni Phật tử nhất tề vùng dậy, nhất là khi Thiệu tỏ rõ ngoan cố, không chịu ra đi. Phong trào PG cách mạng của TT Pháp Lan, Hội phụ nữ đòi quyền sống của ni sư Huỳnh Liên và chị Ngô Bá Thành, Tổ chức Nhân dân đòi thi hành thỏa hiệp Paris của luật sư Trần Ngọc Liễng, một Phật tử trường trai, Mặt trận Nhân dân Cứu đói của TT Hiển Pháp và dân biểu Nguyễn Văn Hàm, đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình cứu đói, Ký giả ăn mày... lần đầu tiên hàng vạn người ngay tại trung tâm Sài Gòn, các tỉnh miền Trung, Nam bộ và cao nguyên, xa luân chiến, đánh nhau với cảnh sát giữa lòng các đô thị, tay không đối đầu với vũ khí tối tân trang bị tận răng của đệ nhất siêu cường. Bao nhiêu người chết, bị tàn phế, 23 năm qua chúng ta chưa có dịp liệt kê đầy đủ. Nếu không có PG Sài Gòn, sẽ không có Giáo hội thống nhất thì chắc rằng, chúng tôi, những người trong cuộc bấy giờ cũng sẽ không bao giờ làm nổi. Kỳ tích đấu tranh chính trị chống Mỹ-ngụy ở nội thành Sài Gòn hồi xưa thuộc về PG Sài Gòn hai mươi năm đó, chỉ bằng một phần mười lăm trong lịch sử ba trăm năm của nó, nhưng có ý nghĩa thật lớn lao trong tràng kỳ lịch sử của dân tộc, nhất là trong chiến tranh vệ quốc ba mươi năm trước 75!

8. Miệng nói, tay làm, chống xâm lược suốt mươi năm nhưng vẫn không quên công cuộc xây dựng, Giáo hội thống nhất còn hoàn chỉnh Hiến chương, tổ chức bộ máy, thông tin hai chiều, nắm tình hình Phật tử bị áp bức khủng bố ở nơi nào cũng đều có can thiệp kịp thời mà cứu khổ. Cũng không quên công tác cứu trợ thiên tai bão lụt, nuôi các con em nhà nghèo, mồ côi, TT Minh Châu mở trường Đại học Vạn Hạnh, trung học Bồ Đề ở Sài Gòn và khắp các tỉnh; các TT Thiện Hòa, Trí Tịnh, Trí Thủ, Thiện Siêu, Trí Quang không ngừng phiên dịch, trước tác, ấn hành bộ Phật học phổ thông của Thiền sư Thích Thiện Hoa, kim chỉ nam cho những người sơ cơ học Phật. Các ngôi tổ đình Ấn Quang, Vĩnh Nghiêm, Pháp quang, Từ Đàm, Bảo Quốc, Thiên Ân, Thập Tháp, Linh Sơn... được tu tạo và tân tạo đem lại không khí thanh tịnh, trang nghiêm cho giáo hội, giúp người trưởng dưỡng đạo tâm, tạo tiền đề khá chu đáo cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam thật sự thống nhất khi nước nhà hoàn toàn độc lập sau này mà công tích lớn lao của nó chỉ trong vòng non vài chục năm nay (1981-1998) tôi không sao kể xiết ra đây vì phải nhường cho một bản tham luận khác, chỉ xin tóm tắt.

C/ PG Sài Gòn sau 1975

PG Sài Gòn vẫn là cái nôi của PG cả nước. Sau giải phóng, Ban liên lạc PG yêu nước ra đời, cũng tại Sài Gòn. Lại một kỳ công nữa của PG thành phố Hồ Chí Minh. Hầu hết các vị trong Giáo hội thống nhất cũ đã, trên cái nền vững chắc của Ban Liên Lạc Phật giáo Yêu nước thành phố Hồ Chí Minh mà vận động thống nhất, thực hiện giấc mơ của bao thế hệ Tăng ni và Phật tử Việt Nam trải qua hơn hai ngàn năm nay và cũng chính vị Viện trưởng Viện Hóa đạo Thống nhất Thích Trí Thủ, vị sư đúng mực và tài hoa, đã hoàn thành công cuộc thống nhất thực sự ấy vào năm 1981. Tất nhiên phải kể tới sự ủng hộ nhiệt thành về người, về của của Đảng, mặt trận và Chính phủ vào công tác đó. Hôm nay, sau gần một phần tư thế kỷ, nhiệm vụ của Giáo hội Thống nhất đã hoàn mãn 23 năm rồi.

Nói chung, quần chúng Phật tử rất cảm ơn cách mạng đã giải phóng họ khỏi cảnh kềm kẹp của chiến tranh xâm lược, khỏi đói và chết phi lý vì chiến tranh, cảm ơn cách mạng đã đổi đời cho họ.

 

---o0o---
 

Mục Lục | phần i | iI | iII | iV | v | vI | vII | vIII


---o0o---

Vi tính: Bảo Hiếu & trích thêm từ trang: www.chuyenphapluan.com
Trình bày: Jacinta & Anna
Cập nhật: 01-02-2005

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

Lễ Bầu Ông và tục thờ Bạch hổ ç¾ phật ChÃ Ã Æ cam mc xuân hẠu Linh bất linh tại ngã ơn Giữ tâm thanh thản GiẠhạt cơm này con xin dâng Quảng Trị Lễ giỗ tổ khai sơn tổ ÐÑÑ như Thức ăn nào giúp tạo cảm giác no Húy Phật ÄÆ chua long tuyen luan hoi phan 1 thuong va vo thuong lời dạy quý báu của hòa thượng trí tổ chức lô tô Tuổi ï¾ ï½ đệ di tim y nghia cua cuoc song qua su nghien cuu binh than voi sinh tu æ Chùa chữa hoa cua nguoi hang xom ngo troi phiem luan khon cung Món chay ngày Tết Nhiệt độ xuống thấp Viêm xoang gia Kho Bánh tụng niệm Xuân về trên phố mùi VÃƒÆ tâm biết đủ là người giàu nhất thiên Д ГІ tinh giac tap giua trà về Ð Ð³Ñ don Thần đèn Tư Lũy đã ra đi