Phần 04
Bản Dịch Của Trưởng Giả
Tâm Minh Lê Đình Thám
---o0o---
Bản dịch này tôi đã nói đến trong
lời nói đầu. Bản dịch rất sát với chính văn của Lương dịch,
cần phụ lục ra đây để tiện cho người muốn đối chiếu. TQ
- Luận Đại Thừa Khởi Tín
- Ngài Mã minh Bồ tát tạo.
- Đời Lương, ngài Tam tạng pháp sư, hiệu là
Chân đế, dịch ra Hán văn.
- Quy mạng cùng tột cả mười phương
- Với các đức Đại bi cứu đời,
- Có nghiệp tối thắng, trí cùng khắp,
- Sắc và vô ngại đều tự tại.
- Và với thể tướng của thân kia,
- Là pháp tính chân như như bể,
- Là kho tàng vô lượng công đức,
- Cùng các vị như thật tu hành.
- Vì muốn khiến tất cả chúng sinh
- Trừ nghi hoặc, chán bỏ tà chấp,
- Phát khởi lòng chính tín Đại thừa,
- Cho Phật chủng liên tục không dứt.
Luận rằng: Có cái pháp phát khởi được tín căn
Đại thừa, nên cần phải nói.
Nói có năm phần. Thế nào là năm ? Một là phần
nhân duyên, hai là phần lập nghĩa, ba là phần giải thích, bốn là
phần tu hành tín tâm, năm là phần tỏ bày lợi ích, khuyến khích tu
hành.
Trước hết nói phần nhân duyên.
Hỏi : Do nhân duyên gì mà tạo luận này?
Đáp : Nhân duyên ấy có tám thứ. Thế nào là tám?
Một là nhân duyên tổng tướng, nghĩa là vì cớ khiến cho chúng sinh
rời tất cả khổ, được cái vui rốt ráo, chứ không phải để
cầu những danh lợi cung kính thế gian. Hai là vì muốn giải thích nghĩa
lý căn bản của Như lai để cho chúng sinh nhận hiểu đúng đắn
không lầm. Ba là vì cớ khiến cho những chúng sinh có thiện căn
thành thục đủ sức gánh vác pháp Đại thừa, không lui mất lòng
tin. Bốn là vì cớ khiến cho những chúng sinh thiện căn kém cỏi tu
tập lòng tin. Năm là vì cớ chỉ bày phương tiện tiêu trừ nghiệp
chướng dữ, khéo giữ gìn cái tâm, xa rời lòng si mạn, ra khỏi
lưới tà ma. Sáu là vì cớ chỉ lối tu tập chỉ quán đối trị
những lỗi lầm của phàm phu và Nhị thừa. Bảy là vì cớ chỉ bày
phương tiện chuyên tâm niệm Phật để được vãng sinh bên Phật,
quyết chắc không lui mất lòng tin. Tám là vì cớ chỉ bày lợi ích,
khuyến khích tu hành.
Do có những nhân duyên như thế nên tạo ra luận này.
Hỏi: Trong các khế kinh, đã có đủ pháp ấy rồi,
cần gì phải nói lại nữa?
Đáp: Trong các khế kinh, tuy có pháp ấy, nhưng do chúng
sinh căn hành không đồng nên nhân duyên nhận hiểu có khác. Nghĩa
là lúc đức Như lai còn tại thế, chúng sinh có lợi căn, Ngài
thuyết pháp có nghiệp sắc tâm thù thắng, viên âm một thời diễn
bày, các loài khác nhau đều nhận hiểu được cả nên không cần
phải tạo luận. Sau khi đức Như lai diệt độ rồi, hoặc có chúng sinh
do tự lực nghe rộng mà nhận hiểu, hoặc có chúng sinh cũng do tự
lực nghe ít mà hiểu nhiều, hoặc có chúng sinh không đủ tự lực,
nhờ các bộ luận nói rộng mà nhận hiểu được; lại có chúng
sinh cho những bộ luận nói rộng là văn nhiều, phiền phức, tâm
thích thụ trì những bộ luận văn ít mà bao gồm nhiều nghĩa để có
thể nhận hiểu. Luận này là như thế; vì muốn tổng quát bao gồm
nghĩa lý vô biên của pháp sâu xa rộng lớn của Như lai nên tạo
luận này.
Đã nói phần nhân duyên, thứ nữa nói phần lập
nghĩa.
Đại thừa ấy tổng quát nói có hai thứ. Thế nào
là hai? Một là pháp, hai là nghĩa. Gọi là pháp, tức là cái tâm
chúng sinh. Tâm ấy thì gồm tất cả các pháp thế gian và xuất thế
gian, nên nương với tâm ấy mà tỏ bày nghĩa Đại thừa. Vì cớ
sao? Vì tướng chân như của tâm ấy thì chỉ cho cái thể Đại thừa,
vì tướng nhân duyên sinh diệt của tâm ấy chỉ cho tướng dụng tự
thể Đại thừa vậy.
Gọi là nghĩa thì có ba thứ. Thế nào là ba? Một là
thể đại, nghĩa là tất cả các pháp đều là chân như bình đẳng,
không thêm không bớt vậy. Hai là tướng đại, nghĩa là Như lai
tạng đầy đủ vô lượng tính công đức vậy. Ba là dụng đại, có
thể sinh được tất cả nhân quả thiện xuất thế gian và thế gian
vậy.
Tất cả chư Phật vốn đã vận dụng pháp ấy; tất cả
chư Bồ tát đều vận dụng pháp ấy để đi đến bậc Như lai vậy.
Đã nói phần lập nghĩa, thứ nữa nói phần giải
thích.
Giải thích có ba điều. Thế nào là ba? Một là tỏ
bày chính nghĩa, hai là đối trị tà chấp, ba là phân biệt những
tướng phát tâm tu tiến chính đạo.
Tỏ bày chính nghĩa là nương với pháp nhất tâm thì
có hai môn. Thế nào là hai? Một là tâm chân như môn, hai là tâm
sinh diệt môn. Cả hai môn ấy đều tóm thu tất cả các pháp. Nghĩa
đó thế nào? Do hai môn ấy không rời nhau vậy.
Tâm chân như tức là cái thể pháp môn đại tổng
tướng nhất pháp giới, nghĩa là tâm tính không sinh không diệt.
Tất cả các pháp chỉ nương với vọng niệm mà có sai khác, nếu
rời tâm niệm thì không có tất cả các tướng cảnh giới. Vậy
nên tất cả các pháp bản lai rời tướng nói năng, rời tướng
danh tự, rời tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng, không có biến
khác, không thể phá hoại, chỉ là nhất tâm nên gọi là chân như;
do tất cả lời nói đều là giả danh không thật, chỉ theo vọng niệm,
không thể nhận được gì vậy.
Gọi là chân như, cũng không có tướng, nghĩa là
cái rốt tột của ngôn thuyết là nhân lời nói mà khiến bỏ lời
nói, còn cái thể chân như ấy thì không có gì có thể khiến bỏ,
do tất cả các pháp đều là chân vậy, cũng không có gì có thể
thành lập, do tất cả các pháp đều đồng là như vậy. Nên biết do
tất cả các pháp không thể nói được, không thể niệm được,
nên gọi chân như.
Hỏi: Nếu cái nghĩa như thế thì các chúng sinh tùy
thuận cách nào mà nhập vào được?
Đáp: Nếu biết tất cả các pháp tuy nói mà không
có năng thuyết khả thuyết, tuy niệm mà không có năng niệm khả
niệm, thì gọi là tùy thuận; nếu ly được ngôn thuyết và tâm
niệm thì gọi là được nhập.
Lại nữa, chân như ấy nương theo lời nói phân biệt
thì có hai nghĩa. Thế nào là hai? Một là rỗng không như thật, vì
có thể rốt ráo bày tỏ chân thật vậy; hai là bất không như thật,
vì có cái tự thể đầy đủ các tính công đức vô lậu vậy.
Gọi là không, vì bản lai không tương ưng với tất
cả các pháp nhiễm, nghĩa là rời những tướng sai khác của tất
cả các pháp, do không có tâm niệm hư vọng vậy. Nên biết tự tính
chân như không có tướng có, không có tướng không, không có
tướng không có không không, không có tướng cũng có cũng không,
không có tướng một, không có tướng khác, không có tướng
không một không khác, không có tướng cũng một cũng khác; nói
tóm lại cho đến những niệm phân biệt có ra do vọng tâm của tất
cả chúng sinh, đều không tương ưng; vậy nên gọi là rỗng không.
Nếu rời vọng tâm, thật không có gì phải rỗng không vậy.
Gọi là bất không, vì khi đã tỏ bày thể tính các
pháp là rỗng không, không có hư vọng, thì đó tức là chân tâm
thường hằng không thay đổi, đầy đủ các pháp thanh tịnh nên gọi
là bất không; cũng không có tướng có thể nhận được, do cảnh
giới ly niệm chỉ có thật chứng mới tương ưng vậy.
Tâm sinh diệt là nương với Như lai tạng nên có tâm
sinh diệt, nghĩa là bất sinh bất diệt hòa hợp với sinh diệt, không
một không khác, thì gọi là a lại gia thức. Thức đó có hai nghĩa,
bao gồm tất cả các pháp và phát sinh tất cả các pháp. Thế nào
là hai? Một là nghĩa giác, hai là nghĩa bất giác.
Gọi là nghĩa giác, tức là cái ly niệm tướng của
tâm thể. Cái ly niệm tướng ấy bằng cõi hư không, không chỗ nào
không cùng khắp; pháp giới một tướng tức là bình đẳng pháp
thân của Như lai. Nương với pháp thân đó, mà gọi tên là bản
giác. Vì cớ sao? Cái nghĩa bản giác là đối với thủy giác mà
nói, do thủy giác tức là đồng với bản giác.
Cái nghĩa thủy giác là nương với bản giác mà có
bất giác, nương với bất giác mà nói có thủy giác. Lại do giác
tột tâm nguyên nên gọi là cứu kính giác, do không giác tột tâm
nguyên nên gọi là phi cứu kính giác.
Nghĩa đó thế nào? Như người phàm phu giác biết
niệm trước đã khởi là ác nên ngăn được niệm sau, không cho
khởi lên, tuy cũng gọi là giác, nhưng vẫn là bất giác vậy. Như
quán trí Nhị thừa và các vị sơ phát ý Bồ tát, vân vân, giác
ngộ nơi cái niệm có khác thì niệm không có tướng khác; do rời
bỏ được tướng phân biệt chấp trược thô phù nên gọi là
tương tợ giác. Như Pháp thân Bồ tát, vân vân, giác ngộ nơi cái
niệm có trụ thì niệm không có tướng trụ, do rời bỏ được
tướng thô phân biệt nên gọi là tùy phận giác. Như các vị Bồ
tát bậc cùng tột, đầy đủ phương tiện, thì giác tâm tương ưng
với nhất niệm mới khởi lên, tâm không có sơ tướng, do rời xa
được niệm vi tế, nên thấy được tâm tính, tâm liền thường
trụ, thế gọi là cứu kính giác. Vậy nên Khế kinh dạy rằng:
"Nếu có chúng sinh biết quán vô niệm, tức là hướng về Phật
địa vậy".
Lại tâm khởi lên không có sơ tướng có thể biết
được, mà bảo là biết sơ tướng, tức là bảo vô niệm. Vậy
nên tất cả chúng sinh không gọi là giác, do từ bản lai, niệm niệm
nối nhau, chưa hề ly niệm, nên gọi là vô thủy vô minh. Nếu được
vô niệm thì biết được các tâm tướng sinh, trụ, dị, diệt, do vô
niệm là bình đẳng vậy; mà thật cũng không có những thủy giác
khác nhau, do đồng thời cùng có với bốn tướng và đều không
thể tự lập, do bản lai là bình đẳng, đồng một giác vậy.
Lại nữa, bản giác theo nhiễm phân biệt, sinh ra hai
tướng, cùng với bản giác kia không rời bỏ nhau. Thế nào là hai?
Một là trí tịnh tướng, hai là bất tư nghì nghiệp tướng.
Trí tịnh tướng là nương với sức huân tập của
chính pháp, như thật tu hành, đầy đủ phương tiện nên phá được
tướng hòa hợp thức, diệt được tướng tâm tương tục, tỏ
hiện pháp thân, trí thuần tịnh vậy. Nghĩa đó thế nào? Do tất cả
những tướng tâm thức đều là vô minh, cái tướng vô minh không
rời giác tính, không phải là có thể hoại, cũng không phải là
không thể hoại. Như nước biển lớn, nhân gió mà sóng động lên,
tướng nước tướng gió không rời bỏ nhau mà nước không có
tính động, nếu gió ngừng diệt thì tướng động liền diệt, còn
tính ướt thì không hư hoại; tự tính thanh tịnh tâm của chúng sinh
cũng như thế, nhân gió vô minh mà động, tâm cùng vô minh đều
không có hình tướng, không rời bỏ nhau, nhưng tâm không có tính
động, nếu vô minh diệt thì tương tục diệt, còn tính trí thì không
hư hoại vậy.
Bất tư nghì nghiệp tướng là nương với trí thanh
tịnh, có thể làm ra tất cả cảnh giới thắng diệu, nghĩa là cái
tướng vô lượng công đức, thường không dứt đoạn, theo căn
chúng sinh, tự nhiên khế hợp, hiện ra nhiều thứ, làm cho được
lợi ích vậy.
Lại nữa, thể tướng bản giác có bốn nghĩa lớn
bằng với hư không, giống như gương trong sạch. Thế nào là bốn?
Một là Như thật không kính, xa rời tất cả các tướng của tâm
và cảnh giới, không pháp nào có thể hiện, vì ra ngoài nghĩa giác
chiếu vậy. Hai là Nhân huân tập kính, nghĩa là Như thật bất không,
tất cả cảnh giới thế gian thảy đều hiện ra trong ấy, không ra
không vào, không lầm không hư, chỉ là thường trú nhất tâm, do
tất cả các pháp tức là tính chân thật vậy; lại do tất cả pháp
nhiễm không thể nhiễm được, trí thể không lay động, đầy đủ vô
lậu mà huân tập cho chúng sinh vậy. Ba là Pháp xuất ly kính, nghĩa
là pháp bất không, ra ngoài phiền não ngại, trí ngại, rời tướng
hòa hợp và thuần tịnh minh vậy. Bốn là Duyên huân tập kính, nghĩa
là nương với pháp xuất ly kính, soi khắp tâm chúng sinh, khiến tu
thiện căn và theo niệm mà thị hiện vậy.
Gọi là bất giác, nghĩa là do không biết như thật
rằng pháp chân như là một, nên tâm bất giác khởi lên mà có
cái niệm. Niệm không có tự tướng, không rời bản giác. Cũng
như người mê nương với phương hướng nên có mê, nếu rời
phương hướng thì không có mê; chúng sinh cũng vậy, nương với
giác tính nên có mê, nếu rời giác tính thì không có bất giác. Do
có cái tâm vọng tưởng bất giác biết được danh nghĩa, nên vì
nó mà nói về chân giác; nếu rời tâm bất giác thì cũng không
có tự tướng chân giác có thể nói được.
Lại nữa, nương với bất giác nên sinh ra ba tướng,
kết đồng không rời với bất giác kia. Thế nào là ba? Một là vô
minh nghiệp tướng, do nương với bất giác nên tâm động mà gọi
là nghiệp, giác thì chẳng động, động thì có khổ, quả không rời
nhân vậy. Hai là năng kiến tướng, do nương với động nên có
năng kiến, không động thì không có kiến. Ba là cảnh giới tướng,
do nương với năng kiến nên cảnh giới giả dối hiện ra, rời năng
kiến thì không có cảnh giới.
Do có cái duyên của cảnh giới nên lại sinh ra sáu
tướng. Thế nào là sáu? Một là trí tướng, nương với cảnh
giới, tâm khởi ra phân biệt, có ưa và không ưa vậy. Hai là tương
tục tướng, nương với trí tướng nên sinh ra cảm giác khổ vui, tâm
khởi ra niệm, kết đồng không gián đoạn vậy. Ba là chấp thủ
tướng, nương với cảnh giới duyên niệm của tương tục tướng, duy
trì những sự khổ vui, tâm khởi ra chấp trược vậy. Bốn là kế
danh tự tướng, nương với vọng chấp mà phân biệt những tướng
danh ngôn giả dối vậy. Năm là khởi nghiệp tướng, là nương với
danh ngôn, chấp trược theo danh ngôn mà gây ra các thứ nghiệp vậy.
Sáu là nghiệp hệ khổ tướng, là nương với nghiệp mà chịu quả
báo, không được tự tại vậy.
Nên biết vô minh sinh được tất cả pháp nhiễm, do
tất cả pháp nhiễm đều là tướng bất giác vậy.
Lại nữa, giác với bất giác có hai cái tướng.
Thế nào là hai? Một là tướng đồng, hai là tướng khác. Gọi là
tướng đồng thì ví như các thứ đồ gốm, đều đồng là tướng
của tính vi trần, các thứ nghiệp huyễn của vô lậu và vô minh
đều đồng là tướng của tính chân như. Vậy nên khế kinh nương theo
nghĩa ấy mà nói rằng: Tất cả chúng sinh bản lai là thường trụ,
nhập với pháp niết bàn bồ đề, không phải là tướng tu được,
không phải là tướng làm được, rốt ráo không được gì, lại
cũng không có sắc tướng có thể thấy được, nhưng có thấy
được sắc tướng là chỉ do nghiệp huyễn theo nhiễm làm ra, chứ
không phải là tính bất không của trí sắc, do trí tướng không thể
thấy được vậy.
Gọi là tướng khác thì ví như các thứ đồ gốm,
mỗi mỗi không đồng nhau, vô lậu và vô minh cũng theo nhiễm huyễn
mà khác nhau như thế, do tính nhiễm huyễn là khác nhau vậy.
Lại nữa, nhân duyên của sinh diệt, nghĩa là chúng
sinh nương với tâm, ý, ý thức, chuyển khởi vậy. Nghĩa đó thế
nào? Do nương với thức a lại gia mà nói vô minh, không giác mà
khởi lên, thấy được, hiện được, chấp được cảnh giới,
khởi niệm liên tục nên gọi là ý.
Ý đó lại có năm cái tên. Thế nào là năm? Một
là nghiệp thức, nghĩa là do sức vô minh không giác mà tâm động
vậy. Hai là chuyển thức, nghĩa là nương với cái tâm động mà có
tướng năng kiến vậy. Ba là hiện thức, nghĩa là hiện được tất
cả cảnh giới ; ví như gương sáng hiện ra các bóng, hiện thức
cũng vậy, theo năm trần đối đến thì liền hiện, không có trước
sau, do trong tất cả thời đều máy móc khởi lên, thường hiện
tiền vậy. Bốn là trí thức, nghĩa là phân biệt các pháp nhiễm
tịnh vậy. Năm là tương tục thức, do niệm niệm kết đồng không
gián đoạn vậy, mà nắm giữ những nghiệp thiện ác trong vô
lượng đời quá khứ khiến cho không mất, lại có thể thành tựu
quả báo khổ vui hiện tại và vị lai không có sai trái, và có thể
làm cho những sự đã trải qua, hiện nay bỗng nhiên nhớ lại và
những sự vị lai, không giác mà giả dối suy lường.
Vậy nên ba cõi là giả dối, duy tâm làm ra: rời cái
tâm thì không có cảnh giới lục trần. Nghĩa đó thế nào? Vì tất
cả các pháp đều do tâm khởi ra vọng niệm mà sinh, nên tất cả
sự phân biệt tức là phân biệt tự tâm. Song tâm không thấy
được tâm, không có tướng gì có thể nhận được ; vậy thì
biết tất cả cảnh giới thế gian đều nương với vọng tâm vô minh
của chúng sinh mà có chân đứng. Thế nên tất cả các pháp như
bóng trong gương, không có tự thể có thể nhận được, chỉ là
những hư vọng nơi tâm, do tâm sinh thì các thứ pháp sinh, tâm diệt
thì các thứ pháp diệt vậy.
Lại nữa, gọi là ý thức, tức là tương tục
thức, nhưng với sự chấp trược thâm sâu của hàng phàm phu, chấp
ngã, ngã sở và vọng chấp nhiều thứ, theo sự mà phan duyên, phân
biệt sáu trần, nên gọi là ý thức, cũng gọi là phân ly thức,
lại cũng gọi là phân biệt sự thức. Thức đó có cái nghĩa
nương với kiến ái phiền não mà tăng trưởng vậy.
Nương với sự huân tập của vô minh mà khởi ra
thức, nghĩa đó không phải phàm phu biết được, cũng không phải
trí tuệ Nhị thừa ngộ được; nghĩa là phải nương với thừa bồ
tát, phát tâm quán sát từ khi bắt đầu được chính tín, nếu
chứng được pháp thân thì biết được phần ít, nhưng cho đến
cứu kính địa của Bồ tát cũng không biết được, duy có Phật
mới biết rõ cùng tột. Vì cớ sao ? Vì tâm ấy tự tính bản lai
thanh tịnh mà có vô minh, bị vô minh làm nhiễm mà có tâm nhiễm, tuy
có tâm nhiễm mà thường xuyên không biến đổi; vậy nên nghĩa đó
duy có Phật mới biết được.
Nghĩa đó là tâm tính thường không có niệm nên
gọi là bất biến; do không thông suốt nhất pháp giới, tâm không
kết đồng, bỗng nhiên niệm khởi lên nên gọi là vô minh.
Tâm nhiễm có sáu thứ. Thế nào là sáu? Một là
chấp tương ưng nhiễm, nương với đạo giải thoát của Nhị thừa và
tín tương ưng địa thì xa rời được vậy. Hai là bất đoạn tương
ưng nhiễm, nương với tín tương ưng địa, tu học phương tiện, lần
lần rời bỏ, đến khi được tịnh tâm địa thì rốt ráo rời
được vậy. Ba là phân biệt trí tương ưng nhiễm, nương với cụ
giới địa lần lần rời bỏ, đến vô tướng phương tiện địa thì
rốt ráo rời hết vậy. Bốn là hiện sắc bất ương ưng nhiễm, nương
với sắc tự tại địa thì rời được vậy. Năm là năng kiến tâm
bất tương ưng nhiễm, nương với tâm tự tại địa thì rời được
vậy. Sáu là căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm, nương với tột
bậc Bồ tát, vào được Như lai địa, thì rời được vậy.
Về nghĩa không rõ nhất pháp giới thì từ tín tương
ưng địa quán sát tu học mà đoạn, vào tịnh tâm địa thì theo phận
được rời bỏ, đến Như lai địa thì mới rốt ráo rời hết vậy.
Gọi là nghĩa tương ưng, nghĩa là tâm phẩm và niệm
pháp khác nhau, nhưng nương với nhiễm tịnh sai khác mà tướng biết
tướng duyên đồng nhau vậy. Gọi là nghĩa bất tương ưng, nghĩa là
tức là tâm mà không giác được thường riêng khác, nên tướng
biết tướng duyên không đồng nhau vậy.
Lại cái nghĩa tâm nhiễm, gọi là phiền não ngại, có
thể ngăn che chân như căn bản trí vậy; cái nghĩa vô minh, gọi là
trí ngại, có thể ngăn che thế gian tự nhiên nghiệp trí vậy. Nghĩa
đó thế nào? Do nương với tâm nhiễm thấy được, hiện được,
vọng chấp cảnh giới, trái với tính bình đẳng vậy; do tất cả các
pháp thường yên lặng, không có tướng sinh khởi, nhưng vô minh
không giác, giả dối trái với pháp nên không thể tùy thuận
được mọi sự, rõ biết tất cả cảnh giới thế gian vậy.
Lại nữa, phân biệt những tướng sinh diệt thì có
hai thứ. Thế nào là hai? Một là thô, tương ưng với tâm vậy; hai
là tế, không tương ưng với tâm vậy. Lại cái thô trong thô là
cảnh giới phàm phu, cái tế trong thô và cái thô trong tế là cảnh
giới Bồ tát, cái tế trong tế là cảnh giới Phật.
Hai thứ sinh diệt ấy nương với sự huân tập của
vô minh mà có, nghĩa là nương nhân và nương duyên. Nương nhân là
cái nghĩa bất giác, nương duyên là cái nghĩa cảnh giới giả dối
làm ra vậy. Nếu nhân diệt thì duyên diệt; nhân diệt nên tâm bất
tương ưng diệt, duyên diệt nên tâm tương ưng diệt.
Hỏi: Nếu tâm diệt thì sao lại tương tục; nếu tương
tục thì sao lại là rốt ráo diệt?
Đáp : Gọi là diệt là chỉ tâm tướng diệt, chứ
không phải tâm thể diệt. Như gió nương với nước mà có tướng
động, nếu nước sóng diệt thì gió dứt mất, không chỗ nương
đứng; do nước không diệt nên tướng gió tương tục. Chỉ cái gió
diệt nên tướng động theo đó mà diệt, chứ không phải nước
diệt. Vô minh cũng vậy, nương với tâm thể mà động, nếu tâm thể
diệt thì chúng sinh dứt mất, không chỗ nương đứng; do cái thể
không diệt nên tâm được tương tục. Chỉ cái si mê diệt nên tâm
tướng theo đó mà diệt, chứ không phải tâm trí diệt.
Lại nữa, do có cái nghĩa bốn pháp huân tập nên
những pháp nhiễm pháp tịnh khởi lên không dứt. Thế nào là bốn?
Một là pháp tịnh gọi là chân như, hai là cái nhân của tất cả
pháp nhiễm gọi là vô minh, ba là vọng tâm gọi là nghiệp thức,
bốn là vọng cảnh giới tức là lục trần.
Nghĩa huân tập cũng như áo mặc thế gian, thật không
có mùi thơm, nhưng nếu người ta dùng hương mà ướp thì có mùi
thơm. Nghĩa đó cũng như thế; pháp tịnh chân như thật không có
nhiễm, nhưng dùng vô minh mà huân tập thì có tướng nhiễm. Pháp
nhiễm vô minh thật không có nghiệp tịnh, nhưng dùng chân như mà
huân tập thì có dụng tịnh.
Thế nào là huân tập khởi ra pháp nhiễm không dứt?
Nghĩa là do nương với pháp chân như nên có vô minh; do có vô minh
là cái nhân của pháp nhiễm nên liền huân tập chân như. Do sự
huân tập ấy nên có vọng tâm. Do có vọng tâm nên liền huân tập
vô minh và do đó không rõ pháp chân như nên niệm bất giác khởi
lên, hiện ra vọng cảnh giới. Do có cái duyên của pháp nhiễm vọng
cảnh giới nên liền huân tập vọng tâm, khiến cho khởi niêểm
chấp trược gây các thứ nghiệp và chịu tất cả các thứ khổ nơi
thân tâm.
Huân tập của vọng cảnh giới có hai nghĩa. Thế nào
là hai? Một là huân tập tăng trưởng các niệm; hai là huân tập
tăng trưởng chấp thủ. Huân tập của vọng tâm có hai nghĩa. Thế
nào là hai? Một là huân tập căn bản nghiệp thức, phải chịu cái
khổ sinh diệt của các vị A la hán, Bích chi phật và tất cả Bồ tát;
hai là huân tập tăng trưởng phân biệt sự thức, phải chịu nghiệp
hệ khổ của phàm phu. Huân tập của vô minh có hai nghĩa. Thế nào
là hai? Một là huân tập căn bản, thành tựu được nghiệp thức;
hai là huân tập khởi ra kiến ái, thành tựu được phân biệt sự
thức.
Thế nào là huân tập khởi ra pháp tịnh không dứt?
Nghĩa là do có pháp chân như nên huân tập được vô minh. Do sức
nhân duyên huân tập ấy nên khiến vọng tâm chán cái khổ sinh tử,
ưa cầu niết bàn. Do nhân duyên chán khổ cầu vui của vọng tâm ấy
nên liền huân tập chân như, tự tin bản tính, biết tâm vọng động,
chứ không có cảnh giới tiền trần, và tu pháp viễn ly. Do như thật
biết không có cảnh giới tiền trần nên dùng nhiều thứ phương
tiện, khởi ra sự tu hành tùy thuận, không chấp, không niệm, đi
đến nhờ sức huân tập lâu ngày mà vô minh liền diệt. Do vô minh
diệt nên tâm không khởi lên; do tâm không khởi lên nên cảnh
giới theo đó mà diệt; do nhân duyên đều diệt nên tâm tướng
đều hết sạch, gọi là được niết bàn, thành tựu tự nhiên
nghiệp.
Huân tập của vọng tâm có hai nghĩa. Thế nào là hai?
Một là huân tập của phân biệt sự thức, nương với các phàm phu
và Nhị thừa, vân vân, chán cái khổ sinh tử nên theo sức khả
năng mà lần hồi tu tiến về đạo vô thượng; hai là huân tập của
ý, nghĩa là các vị Bồ tát phát tâm dũng mãnh, mau chóng đi đến
niết bàn vậy.
Huân tập của chân như có hai nghĩa. Thế nào là hai?
Một là huân tập của tự thể tướng, hai là huân tập của dụng.
Huân tập của tự thể tướng là từ vô thủy đến nay đầy đủ
các pháp vô lậu. Huân tập của dụng là sẵn đủ cái tính làm ra
cảnh giới của bất tư nghì nghiệp. Nương với sự huân tập
thường xuyên của hai nghĩa ấy và do có sức huân tập đó, nên
khiến cho chúng sinh chán cái khổ sinh tử, ưa cầu niết bàn, tự tin
thân mình có pháp chân như mà phát tâm tu hành.
Hỏi: Nếu cái nghĩa như thế thì tất cả chúng sinh
thảy đều được chân như bình đẳng huân tập, làm sao lại có
người tin, người không tin, có vô lượng những sự trước sau
khác nhau? Lẽ ra thì tất cả đều phải đồng một thời tự biết có
pháp chân như, siêng năng tu các phương tiện và bình đẳng vào
niết bàn.
Đáp : Chân như vốn là một, nhưng có vô lượng vô
biên vô minh bản lai tự tính khác nhau, dày mỏng không đồng; lại
có những phiền não sâu nặng khác nhau, nương với vô minh mà
khởi lên quá số cát sông Hằng; lại có những phiền não ngã
kiến ái nhiễm khác nhau, nương với vô minh mà khởi lên; tất cả
những phiền não nương với vô minh mà khởi lên; có trước có
sau, có không lường sự khác nhau như thế, chỉ có đức Như lai
mới biết hết được.
Lại pháp của chư Phật có nhân, có duyên; nhân
duyên đầy đủ mới thành tựu được. Như tính lửa trong cây là
chính nhân của lửa, nhưng nếu người ta không biết, không nhờ
phương tiện mà tự đốt được cái cây thì không có lẽ nào như
vậy. Chúng sinh cũng thế, tuy có sức huân tập của chính nhân, nhưng
nếu không gặp chư Phật Bồ tát và thiện tri thức, vân vân, để
làm cái duyên, mà tự đoạn được phiền não, vào được niết
bàn thì không có lẽ nào như vậy.
Nếu tuy có sức ngoại duyên mà pháp tịnh bên trong
chưa có sức huân tập, thì cũng không thể rốt ráo chán cái khổ
sống chết, mong cầu niết bàn. Nếu nhân duyên đầy đủ, nghĩa là
tự mình có sức huân tập, lại được nguyện từ bi của chư Phật
Bồ tát hộ trì, thì có thể khởi cái tâm chán khổ, tin có niết
bàn và tu tập thiện căn. Do tu tập thiện căn đã thành tựu nên
khi gặp chư Phật Bồ tát chỉ dạy đường tu lợi lạc, thì có thể tu
tiến hướng về đạo niết bàn.
Huân tập của dụng tức là cái sức ngoại duyên
đối với chúng sinh. Ngoại duyên như thế có vô lượng nghĩa, nói
lược thì có hai thứ; thế nào là hai? Một là sai biệt duyên, hai
là bình đẳng duyên.
Sai biệt duyên là người đó nương với chư Phật Bồ
tát, vân vân, từ khi phát ý cầu đạo cho đến khi thành Phật,
chặng giữa hoặc thấy, hoặc niệm, hoặc làm quyến thuộc cha mẹ bà
con, hoặc làm người cấp sử, hoặc làm bạn quen biết, hoặc làm kẻ
thù, hoặc khởi tứ nhiếp pháp, cho đến làm tất cả vô lượng
hành duyên để phát khởi sức đại bi huân tập, khiến cho chúng
sinh tăng trưởng thiện căn, hoặc thấy, hoặc nghe, đều được lợi
ích vậy. Cái duyên đó có hai thứ ; thế nào là hai? Một là duyên
gần, mau được độ vậy; hai là duyên xa, lâu ngày mới được độ
vậy. Hai cái duyên xa gần đó, phân tích lại có hai thứ; thế nào
là hai? Một là cái duyên tăng trưởng các hành, hai là cái duyên
thụ đạo.
Bình đẳng duyên là tất cả chư Phật Bồ tát đều
nguyện độ thoát tất cả chúng sinh, tự nhiên thường xuyên huân
tập không rời bỏ, dùng cái sức trí đồng thể, theo chúng sinh nên
thấy nên nghe thế nào mà hiện ra các việc làm, nghĩa là chúng sinh
nương với tam muôểi thì được bình đẳng thấy chư Phật vậy.
Phân biệt những huân tập ấy của thể của dụng thì
lại có hai thứ. Thế nào là hai ? Một là chưa tương ưng, nghĩa là
các hàng phàm phu, Nhị thừa, sơ phát ý Bồ tát, vân vân, dùng ý,
ý thức mà huân tập, nương với sức chính tín mà tu hành, chưa
được tâm vô phân biệt tương ưng với thể và chưa được tu
hành tự tại nghiệp tương ưng với dụng chân như vậy. Hai là đã
tương ưng, nghĩa là các vị pháp thân Bồ tát đã được tâm vô
phân biệt tương ưng với trí dụng chư Phật, thì chỉ nương với pháp
lực, tự nhiên tu hành, huân tập chân như, diệt vô minh vậy.
Lại nữa, pháp nhiễm từ vô thủy đến nay huân tập
không ngừng, nhưng sau khi thành Phật rồi thì có dứt. Pháp tịnh
huân tập thì tột đời vị lai không có dứt. Nghĩa đó thế nào? Do
pháp chân như thường huân tập nên vọng tâm liền diệt, pháp thân
tỏ hiện, khởi ra cái huân tập của dụng nên không có dứt.
Lại nữa, về tự thể tướng chân như thì nơi tất
cả phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và chư Phật, không có
thêm bớt, không phải thời trước sinh, không phải thời sau diệt,
rốt ráo thường xuyên; bản lai tính tự viên mãn, đầy đủ tất
cả công đức; nghĩa là tự thể có nghĩa đại trí tuệ quang minh,
có nghĩa soi khắp pháp giới, có nghĩa nhận biết chân thật, có
nghĩa tự tính thanh tịnh tâm, có nghĩa thường lạc ngã tịnh, có
nghĩa tự tại trong lành, không biến đổi, có nghĩa đầy đủ những
Phật pháp, không ly, không đoạn, không khác, không nghĩ bàn như thế
quá số cát sông Hằng, cho đến đầy đủ tất cả, không có thiếu
sót nên gọi là Như lai tạng, cũng gọi là Như lai pháp thân.
Hỏi: Trên kia nói cái thể chân như bình đẳng, rời
tất cả tướng, làm sao nay lại nói rằng thể ấy có nhiều thứ
công đức như thế?
Đáp : Tuy thật có những công đức ấy mà không có
tướng khác nhau, bình đẳng đồng một vị, chỉ một chân như. Nghĩa
đó thế nào? Do vô phân biệt rời các tướng phân biệt nên
không có hai. Lại do nghĩa gì mà nói được là khác nhau? Do nương
với tướng sinh diệt nơi nghiệp thức mà tỏ bày. Tỏ bày thế
nào? Do tất cả pháp bản lai là duy tâm, thật không có gì để
niệm, mà có vọng tâm bất giác khởi ra niệm, thấy các cảnh giới
nên gọi là vô minh; tâm tính không khởi, tức là cái nghĩa đại
trí tuệ quang minh vậy. Nếu tâm khởi ra kiến thì liền có tướng
bất kiến; tâm tính ly được kiến, tức là cái nghĩa soi khắp pháp
giới vậy. Nếu tâm có động thì không nhận biết chân thật, không
có tự tính, không phải thường, không phải lạc, không phải ngã,
không phải tịnh, nhiệt não suy biến và không tự tại, cho đến có
đủ các vọng nhiễm quá số cát sông Hằng; đối với nghĩa ấy nên
tâm tính không động thì có các tướng tịnh công đức quá số
cát sông Hằng tỏ hiện ra. Nếu tâm có khởi lên, thấy có pháp
tiền cảnh có thể niệm thì có chỗ thiếu; còn những pháp tịnh vô
lượng công đức như thế, tức là nhất tâm, không có sở niệm
nên được đầy đủ và được gọi là pháp thân Như lai tạng.
Lại nữa, cái dụng chân như, nghĩa là chư Phật Như
lai, trong nhân địa, phát lòng đại từ bi, tu các pháp ba la mật,
nhiếp thụ giáo hóa chúng sinh, lập thệ nguyện lớn muốn độ thoát
hết toàn thể giới chúng sinh, không hạn kiếp số, tột đời vị lai,
do nhận tất cả chúng sinh như thân mình vậy, nhưng cũng không nhận
tướng chúng sinh; vì lẽ gì? vì như thật biết tất cả chúng sinh
cùng với thân mình đều chân như bình đẳng, không có riêng khác.
Do có trí đại phương tiện như thế, trừ diệt vô minh, thấy pháp
thân bản lai, tự nhiên mà có các dụng của bất tư nghì nghiệp,
cùng với chân như bình đẳng cùng khắp mọi nơi. Lại cũng không
có cái tướng dụng có thể nhận được; vì cớ sao? vì chư Phật
Như lai chỉ là pháp thân, là trí tướng thân, vì đệ nhất nghĩa
đế không có cảnh giới thế đế, rời các thi vi tạo tác, chỉ theo
chúng sinh thấy nghe thế nào mà được ích nên gọi là dụng.
Dụng ấy có hai thứ. Thế nào là hai? Một là nương
với phân biệt sự thức, là chỗ mà tâm phàm phu và Nhị thừa
thấy được, gọi là ứng thân; vì họ không biết do chuyển thức
hiện ra, thấy từ ngoài đến, nhận những phần loại của sắc
tướng nên không biết hết được vậy. Hai là nương với nghiệp
thức, nghĩa là chỗ thấy của tâm các vị Bồ tát, từ khi mới
phát tâm cho đến địa vị rốt ráo, gọi là báo thân. Thân ấy có
vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng
tốt đẹp, chỗ ở y báo cũng có vô lượng trang nghiêm, theo sự
thị hiện, không có bờ bến, không có cùng tột, rời tướng phần
loại, theo chỗ sở ưng, thường được trú trì không hư không mất,
những công đức như thế đều nhân sự huân tập của các hạnh
vô lậu ba la mật vân vân và sự huân tập bất tư nghì mà thành
tựu, đầy đủ vô lượng tướng vui nên gọi là báo.
Lại chỗ thấy của phàm phu là cái sắc thô, tùy trong
lục đạo mỗi mỗi thấy không đồng nhau, có nhiều thứ dị loại,
không phải là tướng thụ lạc nên gọi là ứng.
Lại nữa, chỗ các vị sơ phát ý Bồ tát thấy
được là do tin chắc pháp chân như nên thấy được phần ít, biết
những sự sắc tướng trang nghiêm kia không khứ không lai, rời các
phần loại, chỉ nương với tâm mà hiện ra, không rời chân như; song
các vị Bồ tát đó còn tự phân biẹẤt, do chưa vào được vị
pháp thân vậy. Nếu đã được tịnh tâm thì chỗ thấy vi diệu, cái
dụng chuyển thành thù thắng hơn; cho đến tột bậc Bồ tát thì thấy
được rốt ráo. Nếu rời nghiệp thức thì không có kiến tướng,
do pháp thân chư Phật không có những sắc tướng bỉ thử cùng
thấy nhau vậy.
Hỏi : Nếu pháp thân chư Phật rời các sắc tướng,
thì sao lại hiện được sắc tướng ?
Đáp : Tức cái pháp thân đó là cái thể của sắc
nên hiện được sắc tướng, nghĩa là sắc và tâm bản lai không
hai; do cái tính của sắc tức là trí nên sắc thể không hình gọi
là trí thân; do cái tính của trí tức là sắc nên gọi là pháp
thân cùng khắp tất cả mọi nơi; các sắc hiện ra không có phần
loại, tùy tâm mà thị hiện thập phương thế giới, vô lượng Bồ
tát, vô lượng báo thân, vô lượng trang nghiêm, mỗi mỗi khác
nhau, nhưng đều không phân loại, không ngăn ngại nhau. Điều đó
không phải tâm thức phân biệt biết được, vì là cái nghĩa tự
tại dụng của chân như vậy.
Lại chỉ tỏ thêm từ sinh diệt môn liền vào chân như
môn, nghĩa là xét cầu nơi ngũ ấm, sắc cùng với tâm và cảnh
giới lục trần đều rốt ráo không có niệm, do tâm không có hình
tướng nên tìm cầu khắp mười phương, rốt ráo không thể được.
Như người mê lầm bảo phương đông là phương tây, nhưng sự thật
phương hướng không chuyển đổi; chúng sinh cũng vậy, do vô minh mê
lầm bảo tâm là niệm, nhưng sự thật tâm không động. Nếu có khả
năng quán sát biết tâm không khởi lên thì liền được tùy thuận
vào chân như môn vậy.
Đối trị tà chấp là tất cả tà chấp đều nương
với ngã kiến, nếu rời cái ngã thì không có tà chấp. Ngã kiến
ấy có hai thứ. Thế nào là hai? Một là nhân ngã kiến, hai là
pháp ngã kiến.
Nhân ngã kiến, nương với tâm các phàm phu, thì nói
có 5 thứ. Thế nào là năm ?
Một là nghe khế kinh nói: Pháp thân Như lai rốt ráo
vắng lặng, giống như hư không. Do không biết là để phá chấp nên
liền bảo rằng hư không là tính của Như lai. Làm thế nào để đối
trị? Cần chỉ tỏ tướng hư không là pháp giả dối, tự thể rỗng
không không thật, do đối với sắc tướng mà có cái tướng có
thể thấy được ấy, khiến cho tâm sinh diệt. Do tất cả các pháp
bản lai là tâm, thật không có ngoại sắc và nếu không có sắc thì
cũng không có tướng hư không, nghĩa là tất cả cảnh giới đều
duy tâm vọng khởi lên mới có, nên nếu tâm rời được vọng
động thì tất cả cảnh giới đều diệt, chỉ một chân tâm, không
chỗ nào không cùng khắp; thế gọi là cái nghĩa rốt ráo của tâm
trí rộng lớn các đức Như lai, chứ không phải như tướng hư
không.
Hai là nghe khế kinh nói: Cái thể của các pháp thế
gian rốt ráo là rỗng không, cho đến các pháp chân như niết bàn
cũng rốt ráo là rỗng không, bản lai tự là rỗng không, rời tất
cả tướng. Do không biết là để phá chấp, liền bảo rằng cái tính
của chân như niết bàn chỉ là rỗng không. Làm thế nào để đối
trị? Cần chỉ tỏ sự thể pháp thân chân như là bất không, do đầy
đủ vô lượng tính công đức vậy.
Ba là nghe khế kinh nói: Như lai tạng không có thêm
bớt, tự thể đầy đủ tất cả các pháp công đức. Do không hiểu
thấu, liền bảo rằng Như lai tạng có những sắc pháp và tâm pháp,
tự tướng khác nhau. Làm thế nào để đối trị? Cần chỉ tỏ do
nương với nghĩa chân như mà nói như thế và do nương với nghĩa
pháp nghiễm sinh diệt tỏ hiện mà nói là khác nhau vậy.
Bốn là nghe khế kinh nói: Tất cả pháp nhiễm sinh tử
thế gian đều nương với Như lai tạng mà có, tất cả các pháp
không rời chân như. Do không hiểu thấu nên bảo rằng tự thể Như
lai tạng có đủ tất cả các pháp sinh tử thế gian. Làm thế nào
để đối trị? Cần lấy cái nghĩa Như lai tạng bản lai chỉ có các
tịnh công đức quá số cát sông Hằng, không rời, không dứt,
không khác chân như; do những pháp nhiễm phiền não quá số cát
sông Hằng, chỉ là giả có, tính vốn tự rỗng không, bản lai chưa
hề kết đồng với Như lai tạng vậy. Nếu Như lai tạng tự thể có
các pháp giả dối mà khi chứng ngộ được, lại diệt hẳn các
điều hư vọng thì không có lẽ nào như vậy.
Năm là nghe khế kinh nói: Nương với Như lai tạng nên
có sinh tử, nương với Như lai tạng nên được niết bàn. Do không
hiểu thấu nên lại bảo rằng chúng sinh có cái bắt đầu; do thấy
có cái bắt đầu nên lại bảo rằng niết bàn, mà Như lai đã
chứng được, cũng có cái cuối cùng phải hết và Như lai sẽ trở
lại làm chúng sinh. Làm thế nào để đối trị? Cần lấy chỗ Như lai
tạng không có thời trước và cái tướng vô minh cũng không có
cái bắt đầu. Nếu nói ngoài tam giới, còn có chúng sinh bắt đầu
phát khởi, thì tức là nói theo ngoại đạo. Lại Như lai tạng không
có thời sau nên niết bàn mà chư Phật đã chứng, kết đồng với
Như lai tạng, cũng không có thời sau vậy.
Pháp ngã kiến là nương với độn căn Nhị thừa nên
đức Như lai vì họ mà chỉ nói pháp nhân vô ngã; do nói không rốt
ráo nên họ thấy có pháp ngũ ấm sinh diệt, sợ hãi sinh tử, vọng
nhận niết bàn. Làm thế nào để đối trị? Cần lấy chỗ pháp ngũ
ấm tự tính không sinh nên không có diệt, bản lai là niết bàn
vậy.
Lại nữa, rốt ráo rời được vọng chấp thì nên
biết pháp nhiễm pháp tịnh thảy đều đối đãi với nhau, không có
tự tướng có thể nói; vậy nên tất cả các pháp bản lai không
phải sắc, không phải tâm, không phải trí, không phải thức, không
phải có, không phải không, cái tướng rốt ráo không thể nói
được; mà có lời nói thì nên biết đó là phương tiện thiện
xảo của Như lai, mượn lời nói để dắt dìu chúng sinh; song cái chỉ
thú đều là ly niệm, qui về chân như; do đã niệm tất cả các pháp
thì khiến cho tâm sinh diệt, không vào được thật trí vậy.
Phân biệt những tướng phát tâm tu tiến hướng về
Phật đạo, nghĩa là tất cả các vị Bồ tát đều phát tâm tu hành
hướng về cái đạo mà tất cả chư Phật đã chứng. Nói lược
về phát tâm thì có ba thứ. Thế nào là ba? Một là thành tựu
chính tín mà phát tâm, hai là giải hành mà phát tâm, ba là chứng
mà phát tâm.
Thành tựu chính tín mà phát tâm thì nương với hạng
người nào, tu những hạnh gì mà thành tựu được chính tín và
có khả năng phát tâm, nghĩa là nương với chúng sinh trong bất định
tụ có sức thiện căn huân tập, biết tin nghiệp báo, phát khởi
thập thiện, chán cái khổ sinh tử, mong cầu vô thượng bồ đề,
được gặp chư Phật, thân thừa cúng dàng, tu hành tín tâm trải qua
một vạn kiếp nên tín tâm được thành tựu và được chư Phật
Bồ tát dạy cho phát tâm, hoặc do lòng đại bi mà tự phát tâm,
hoặc nhân chính pháp muốn diệt, do nhân duyên hộ pháp mà tự phát
tâm được. Những người thành tựu chính tín mà phát tâm như
thế thì vào chính định tụ, rốt ráo không lui sút, gọi là an trụ
trong giống Như lai, tương ưng với chính nhân.
Nếu có chúng sinh thiện căn ít ỏi, từ lâu xa đến
nay phiền não sâu dày, thì tuy được gặp Phật, cũng được cúng
dàng, song chỉ phát khởi những chủng tử nhân thiên, hoặc chủng
tử Nhị thừa; giả sử có cầu pháp Đại thừa thì căn cũng không
quyết định, khi tới khi lui.
Hoặc có người cúng dàng chư Phật chưa trải qua một
vạn kiếp, trong đó gặp duyên cũng có phát tâm, nghĩa là hoặc
thấy sắc tướng của Phật mà phát tâm, hoặc cúng dàng chư Tăng
mà phát tâm, hoặc nhân hàng Nhị thừa dạy bảo khiến cho phát tâm,
hoặc học theo người khác mà phát tâm; những người phát tâm như
thế thảy đều không quyết định, gặp nhân duyên xấu, hoặc khi lại
lui sút, sa vào hàng Nhị thừa.
Lại nữa, thành tựu chính tín mà phát tâm là phát
những tâm gì? Nói lược có ba thứ. Thế nào là ba? Một là trực
tâm, chân chính niệm pháp chân như vậy; hai là thâm tâm, ưa muốn
tất cả các thiện hạnh vậy; ba là đại bi tâm, muốn trừ cái khổ
cho tất cả chúng sinh vậy.
Hỏi: Ở trên đã nói pháp giới chỉ nhất tướng,
thật thể không có hai, vì cớ sao lại không chỉ niệm chân như mà
còn cần nhờ đến sự cầu học các thiện hạnh?
Đáp: Ví như hạt châu báu đại ma ni, thể tính trong
sáng mà có cái nhớp của các quặng; nếu người ta chỉ niệm chân
như châu báu mà không dùng phương tiện dồi mài nhiều cách thì
rốt cuộc cũng không được hạt châu trong sạch. Pháp chân như của
chúng sinh cũng như thế, thể tính rỗng không trong sạch mà có vô
lượng cấu nhiễm phiền não, nếu người ta chỉ niệm chân như, không
dùng phương tiện tu tập nhiều cách, thì cũng không được sự trong
sạch; do cấu nhiễm vô lượng cùng khắp tất cả pháp nên cần tu
tất cả thiện hạnh để mà đối trị; nếu người ta tu hành tất cả
thiện pháp thì tự nhiên quay về thuận theo pháp chân như vậy.
Lược nói về phương tiện thì có bốn thứ. Thế nào
là bốn? Một là phương tiện tu hành căn bản, nghĩa là quán tất
cả các pháp tự tính không sinh, rời các vọng kiến, không trụ nơi
sinh tử; quán tất cả các pháp nhân duyên hòa hợp thì nghiệp quả
không mất; khởi lòng đại bi, tu các phúc đức nhiếp hóa chúng
sinh, không trụ nơi niết bàn, do thuận theo pháp tính, không có trụ
vậy.
Hai là phương tiện năng chỉ, nghĩa là xấu hổ hối
lỗi, có thể ngăn chận tất cả ác pháp, không cho tăng trưởng, do
thuận theo pháp tính rời các lỗi lầm vậy.
Ba là phương tiện phát khởi và tăng trưởng thiện
căn, nghĩa là ân cần cúng dàng lễ bái Tam bảo, tán thán, tùy
hỷ, khuyến thỉnh chư Phật. Do cái tâm thuần hậu yêu kính Tam bảo
ấy, nên tín tâm được tăng trưởng và có khả năng quyết chí
cầu đạo Vô thượng. Lại nhân được sức của Phật Pháp Tăng
hộ trì, nên tiêu được nghiệp chướng, thiện căn không lui sút, do
thuận theo pháp tính, rời các si chướng vậy.
Bốn là phương tiện đại nguyện bình đẳng, nghĩa là
phát nguyện hóa độ tất cả chúng sinh tột đời vị lai, không có
bỏ sót và khiến cho đều rốt ráo được vô dư niết bàn ; do
thuận theo pháp tính, không đoạn tuyệt vậy. Pháp tính rộng lớn
cùng khắp tất cả chúng sinh, bình đẳng không hai, không phân biệt
bỉ thử và rốt ráo tịch diệt vậy. Bồ tát phát được tâm ấy
thì thấy được phần ít pháp thân ; do thấy được pháp thân nên
theo nguyện lực, có thể hiện ra tám tướng làm lợi ích cho chúng
sinh, nghĩa là từ cõi trời Đâu suất xuống, vào thai, ở trong thai,
ra khỏi thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, vào niết bàn.
Song vị Bồ tát đó chưa gọi là pháp thân, do những nghiệp hữu
lậu, từ vô lượng đời quá khứ đến nay, chưa dứt hẳn và theo
chỗ sở sinh, còn tương ưng với một ít khổ, nhưng không phải vì bị
nghiệp ràng buộc, vì có sức tự tại của đại nguyện vậy.
Trong các khế kinh hoặc khi nói có lui sút, sa vào ác
thú, nhưng không phải thật có lui sút; chỉ vì các vị sơ học Bồ
tát chưa vào chính vị, lại giải đải, mà nói như thế để làm cho e
sợ và khiến cho dũng mãnh vậy.
Lại vị Bồ tát đó, một khi đã phát tâm rồi, thì xa
rời khiếp nhược, rốt ráo không sợ sa vào hàng Nhị thừa, dầu
nghe phải tu hành siêng năng khó nhọc trong vô lượng vô biên a
tăng kỳ kiếp mới được niết bàn, cũng không khiếp sợ, do đã
tin biết tất cả các pháp bản lai tự niết bàn vậy.
Giải hành mà phát tâm thì nên biết đã chuyển hơn
trước, do vị Bồ tát đó, từ khi bắt đầu được chính tín đến
nay, khi a tăng kỳ kiếp thứ nhất gần muốn đầy đủ, đối với
pháp chân như, sự nhận hiểu sâu sắc đã hiện tiền và chỗ tu
đều là ly tướng. Do biết pháp tính, thể không xan tham nên tùy
thuận tu hành đàn ba la mật; do biết pháp tính không nhiễm, rời cái
lỗi ngũ dục nên tùy thuận tu hành thi ba la mật; do biết pháp tính
không khổ, rời các sân não, nên tùy thuận tu hành sằng đề ba la
mật; do biết pháp tính không có tướng thân tâm, rời lòng mạn
và giải đải, nên tùy thuận tu hành tỳ lê gia ba la mật; do biết
pháp tính thường định, thể không tán loạn nên tùy thuận tu hành
thiền ba la mật; do biết pháp tính, tự thể sáng suốt, rời các vô
minh, nên tùy thuận tu hành bát nhã ba la mật.
Chứng mà phát tâm thì các vị Bồ tát, từ tịnh tâm
địa cho đến cứu kính địa, chứng cảnh giới gì? Đó là chân như.
Do nương theo chuyển thức mà gọi là cảnh giới, chứ chỗ chứng
ấy không có cảnh giới, chỉ cái trí chân như gọi là pháp thân.
Vị Bồ tát ấy, trong khoảng một niệm, có thể đến khắp thập phương
thế giới, không có thiếu sót, cúng dàng chư Phật, xin chuyển pháp
luân, chỉ vì để khai thị dắt dìu làm lợi ích cho chúng sinh, chứ
không nương với văn tự; hoặc khi vì các chúng sinh khiếp nhược,
thị hiện vượt bậc, chóng thành chính giác; hoặc khi vì những chúng
sinh giải đãi, ngã mạn, mà nói rằng vô lượng a tăng kỳ kiếp
về sau, tôi mới thành Phật đạo; lại có thể thị hiện vô số
phương tiện như thế không thể nghĩ bàn, nhưng sự thật thì các vị
Bồ tát, chủng tính và căn đều bình đẳng, phát tâm cũng bình
đẳng, chỗ chứng cũng bình đẳng, không có cái pháp vượt bậc, do
tất cả Bồ tát đều trải qua ba a tăng kỳ kiếp vậy; chỉ do theo
chúng sinh thế gian không đồng, chỗ thấy chỗ nghe, căn cơ dục vọng
khác nhau nên Bồ tát thị hiện việc làm cũng có khác nhau.
Lại cái tướng phát tâm của các vị Bồ tát ấy có
ba thứ tâm tướng vi tế. Thế nào là ba? Một là chân tâm, không
phân biệt vậy; hai là phương tiện tâm, tự nhiên làm lợi ích
khắp cho chúng sinh vậy; ba là nghiệp thức tâm, còn những khởi
diệt vi tế vậy.
Lại vị Bồ tát ấy công đức viên thành, ở cõi
trời Sắc cứu kính, thị hiện cái thân cao lớn nhất trong tất cả
thế gian, nghĩa là do cái tuệ tương ưng với nhất niệm, vô minh liền
hết, thì gọi là nhất thiết chủng trí, tự nhiên mà có bất tư
nghì nghiệp có thể hiện khắp mười phương làm lợi ích cho chúng
sinh.
Hỏi : Hư không vô biên nên thế giới vô biên, thế
giới vô biên nên chúng sinh vô biên, chúng sinh vô biên nên tâm
hành sai khác cũng lại vô biên; những cảnh giới như thế không
thể phân loại, khó biết khó hiểu; nếu đã đoạn vô minh, không
có tâm tưởng, thì làm sao rõ được mà gọi là nhất thiết chủng
trí ?
Đáp : Tất cả cảnh giới bản lai là nhất tâm, rời
các tưởng niệm; do chúng sinh vọng thấy cảnh giới, nên tâm có
phân loại; do vọng khởi ra tưởng niệm, không cân xứng với pháp
tính, nên không thể rõ biết. Chư Phật Như lai rời cái thấy cái
tưởng, không chỗ nào không cùng khắp; cái tâm chân thật tức
là cái tính của các pháp, tự thể soi tỏ tất cả vọng pháp, có
vô lượng phương tiện của cái dụng đại trí, theo các chúng sinh
cần thế nào mới hiểu được, thì đều có thể khai thị các thứ
pháp nghĩa, vậy nên được gọi là nhất thế chủng trí.
Hỏi : Nếu chư Phật có tự nhiên nghiệp, hiện ra
được ở tất cả mọi nơi làm lợi ích cho chúng sinh; lại tất cả
chúng sinh nếu thấy được Phật, xem được thần thông biến hóa
của Phật, hoặc được nghe lời Phật dạy thì không ai là không
được lợi ích; vậy thì sao trong thế gian phần nhiều lại không thấy
được Phật?
Đáp: Pháp thân chư Phật Như lai bình đẳng cùng khắp
tất cả mọi nơi, không có tác ý nên gọi là tự nhiên, chỉ nương
với tâm chúng sinh mà thị hiện. Tâm chúng sinh cũng như cái gương,
nếu cái gương có nhơ bẩn thì các bóng không hiện được; tâm
chúng sinh cũng như thế, nếu có cấu nhiễm thì pháp thân không hiện
ra vậy.
Đã nói xong phần giải thích, thứ nữa nói phần tu
hành tín tâm; trong đó nương với chúng sinh chưa vào chính định tụ
mà nói tu hành tín tâm.
Tín tâm thế nào và tu hành thế nào?
Nói lược, tín tâm có bốn thứ. Thế nào là bốn?
Một là tin căn bản, nghĩa là thích niệm pháp chân như vậy. Hai là
tin Phật có vô lượng công đức, thường nghĩ việc thân cận,
cúng dàng cung kính, để phát khởi thiện căn, mong cầu nhất thiết
trí vậy. Ba là tin Pháp có lợi ích lớn và thường nghĩ việc tu
hành các pháp ba la mật vậy. Bốn là tin Tăng, chân chính tu hành
được pháp tự lợi lợi tha và thường thích thân cận các chúng
Bồ tát, cầu học những hạnh như thật vậy.
Có năm môn tu hành thành tựu được tín tâm ấy.
Thế nào là năm? Một là bố thí, hai là trì giới, ba là nhẫn
nhục, bốn là tinh tiến, năm là chỉ quán.
Tu hành pháp môn bố thí như thế nào? Nếu thấy tất
cả người đến cầu xin, thì theo sức mà bố thí những của cải
mình có để tự mình bỏ lòng xan tham và khiến cho người kia vui vẻ.
Nếu thấy người bị ách nạn, khủng bố, nguy khốn, thì tùy khả năng
của mình, bố thí sự vô úy. Nếu có chúng sinh đến cầu pháp, thì
tùy chỗ hiểu được của mình, phương tiện vì họ mà nói, không
nên tham cầu danh lợi cung kính, chỉ nghĩ về tự lợi lợi tha để
hồi hướng đạo bồ đề vậy.
Tu hành pháp môn trì giới như thế nào? Nghĩa là
không sát, không đạo, không dâm, không lưỡng thiệt, không ác
khẩu, không vọng ngôn, không ỷ ngữ, xa rời những niệm tham, ganh,
lừa dối, dua nịnh, giận hờn, tà kiến. Nếu là người xuất gia thì
còn vì chiết phục phiền não mà nên xa rời sự ồn ào, thường
ở chỗ vắng lặng, tu tập những hạnh như hạnh đầu đà, thiểu dục
tri túc, cho đến mắc những tội nhỏ, tâm cũng sinh lòng e sợ, xấu
hổ hối cải; không được xem nhẹ những cấm giới của Như lai đã
chế và thường giữ gìn để tránh khỏi cơ hiềm, không làm cho
chúng sinh vọng khởi ra tội lỗi.
Tu hành pháp môn nhẫn nhục như thế nào? Nghĩa là
nên nhịn sự chọc tức của người khác, tâm không ôm lòng báo
oán và cũng nên nhịn đối với những điều lợi, suy, nói xấu,
nói tốt, khen, chê, khổ, vui, vân vân.
Tu hành pháp môn tinh tiến như thế nào? Nghĩa là đối
với các việc thiện, tâm không lười biếng lui sút, lập chí kiên
cường, xa rời khiếp nhược, nên nghĩ từ quá khứ lâu xa đến
nay, luống chịu tất cả những khổ lớn nơi thân tâm, khôngích lợi
gì ; vậy cần phải siêng năng tu tập các công đức tự lợi lợi
tha để chóng rời các khổ. Lại nữa, nếu có người, tuy tu hành
tín tâm, nhưng do từ đời trước có những nghiệp chướng, tội
ác nặngnề, hoặc bị các tà ma quỉ quái quấy phá, hoặc bị nhiều
thứ ràng buộc của công việc thế gian, hoặc bị tật bịnh làm cho
rối loạn, tóm lại có rất nhiều sự chướng ngại như thế thì nên
càng dũng mãnh tinh tiến, ngày đêm sáu buổi lễ bái chư Phật,
thành tâm sám hối, khuyến thỉnh tùy hỷ, hồi hướng đạo bồ đề,
thường xuyên không dừng nghỉ, để được khỏi các chướng và
tăng trưởng thiện căn.
Tu hành pháp môn chỉ quán như thế nào? Gọi là chỉ,
nghĩa là dừng bỏ tất cả các tướng cảnh giới, thuận theo ý
nghĩa quán xa ma tha. Gọi là quán, nghĩa là phân biệt những tướng
nhân duyên sinh diệt, thuận theo ý nghĩa quán tỳ bát xá na. Thuận
theo thế nào? Là dùng hai nghĩa ấy, lần lượt tu tập, không rời
bỏ nhau để cả hai đều song song hiện tiền vậy.
Nếu tu pháp chỉ thì ở chỗ yên lặng, ngồi ngay ngắn,
ý đúng đắn, không nương hơi thở, không nương hình sắc, không
nương rỗng không, không nương với địa, thủy, hỏa, phong, cho đến
không nương với thấy nghe hay biết, theo niệm mà trừ hết tất cả
các tưởng và cũng khiến bỏ cái tưởng đoạn trừ, do tất cả
các pháp bản lai không có tướng, niệm niệm không sinh, niệm niệm
không diệt, cũng không được tùy tâm mà niệm cảnh giới bên
ngoài, rồi về sau dùng tâm mà trừ tâm. Nếu tâm buông lung tán
loạn, thì nên thu nhiếp lại, án trụ nơi chính niệm. Chính niệm đó
nên biết là duy tâm, không có cảnh giới bên ngoài; lại tức cái
tâm ấy cũng không có tự tướng, niệm niệm không thể nhận
được. Nếu từ chỗ ngồi đứng dậy, đi lại lui tới, hoặc làm
việc gì, thì trong tất cả thời thường nhớ đến phương tiện thuận
theo mà quán sát. Tập lâu thuần thục thì tâm được an trụ; do tâm
an trụ nên lần lần mạnh mẽ sắc bén, thuận theo vào được chân
như tam muội, dẹp sâu phiền não, tín tâm tăng trưởng, chóng thành
bất thoái. Chỉ trừ những hạng người nghi hoặc, không tín, phỉ
báng, ngã mạn, giải đãi, hoặc bị những nghiệp chướng tội nặng,
thì không thể vào được.
Lại nữa, nương với pháp tam muội ấy thì biết pháp
giới là nhất tướng, nghĩa là pháp thân tất cả chư Phật cùng
thân chúng sinh bình đẳng không hai; thế gọi là nhất hành tam muội.
Nên biết chân như là cội gốc tam muội, nếu tu hành chân như thì
lần lần sinh được vô lượng tam muội.
Hoặc có chúng sinh không có sức thiện căn, thì bị
các tà ma, ngoại đạo, quỉ thần, mê hoặc phá rối. Như trong lúc
tọa thiền, chúng hiện hình làm cho sợ hãi, hoặc hiện ra những
tướng nam nữ cân xứng xinh đẹp, thì nên niệm cảnh giới duy tâm
để diệt trừ, làm cho rốt cuộc không khuấy phá được. Hoặc
chúng hiện ra hình dáng chư thiên, hình dáng Bồ tát hoặc cả hình
dáng Như lai, tướng tốt đầy đủ; hoặc chúng nói thần chú, nói
bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ; hoặc
nói bình đẳng rỗng không, không tướng, không nguyện, không oán,
không thân, không nhân không quả, nói rốt ráo rỗng không vắng
lặng là niết bàn chân thật. Hoặc chúng làm cho người ta biết
những việc túc mạng quá khứ cùng những việc vị lai, được tha
tâm thông, được biện tài vô ngại có thể khiến cho chúng sinh tham
trược những sự danh lợi thế gian. Hoặc chúng làm cho người ta khi
giận khi vui, tính tình bất thường, làm cho có nhiều lòng từ ái,
ngủ nhiều, bịnh nhiều; hoặc làm cho cái tâm giải đãi hay là bỗng
khởi ra tinh tiến, về sau lại nghỉ bỏ, sinh lòng bất tín, nghi nhiều,
lo nhiều. Hoặc chúng làm cho bỏ lối tu hành thù thắng cũ, lại tu
các tạp nghiệp, hay là mắc vào nhiều thứ ràng buộc về thế sự.
Chúng cũng có thể khiến cho được những tam muội phần nào giống
như tam muội chân chính, nhưng đều là những tam muội của ngoại
đạo, chứ không phải tam muội chân chính. Hoặc chúng lại làm cho
người ta trong một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày, ở trong
định tự nhiên được những thức ăn uống thơm ngon, trong tâm vui
đẹp, không đói không khát, khiến cho ưa đắm ; hoặc chúng cũng
làm cho người ta ăn không chừng mực, khi nhiều khi ít, nhan sắc
biến đổi.
Do những nghĩa đó, người tu hành thường phải dùng
trí tuệ quán sát, chớ để tâm mình mắc vào tà võng, cần siêng
tu chính niệm, không chấp không trược thì mới xa rời được các
nghiệp chướng ấy.
Nên biết các thứ tam muội, mà ngoại đạo có thể
có, đều không tách rời lòng kiến ái ngã mạn, do còn tham trược
những danh lợi cung kính thế gian vậy. Chân như tam muội không trụ
nơi kiến, không trụ nơi đắc, cho đến khi xuất định cũng không giải
đãi, ngã mạn, nên các thứ phiền não, đã có từ trước, lần
lần được giảm bớt. Nếu hàng phàm phu không tu tập pháp tam muội
ấy mà vào được chủng tính Như lai, thì thật không có lẽ nào như
vậy. Do tu các thiền định tam muội thế gian, phần nhiều khởi ra say
đắm, lại nương theo ngã kiến, hệ thuộc với ba cõi, chung cùng với
ngoại đạo, nên nếu rời sự hộ trì của thiện tri thức thì sẽ
khởi ra những kiến chấp ngoại đạo vậy.
Lại nữa, người siêng năng chuyên tâm tu tập pháp
tam muội này, hiện tại sẽ được mười thứ lợi ích. Thế nào
là mười? Một là sẽ được chư Phật Bồ tát mười phương hộ
niệm; hai là không bị các tà ma ác quỉ khủng bố được; ba là
không bị 95 thứ quỉ thần ngoại đạo mê hoặc, phá rối; bốn là xa
rời sự phỉ báng pháp thậm thâm, nghiệp chướng tội nặng lần
lần giảm bớt; năm là diệt tất cả các điều nghi và các ý nghĩ
xấu; sáu là tăng trưởng lòng tin đối với cảnh giới Như lai;
bảy là xa rời sự lo buồn khổ não, ở trong sinh tử, dũng mãnh
không khiếp sợ; tám là cái tâm êm dịu hòa nhã, rời bỏ lòng
kiêu mạn, không bị kẻ khác chọc tức; chín là tuy chưa được
định, song trong tất cả thời, tất cả cảnh giới, vẫn giảm bớt
được phiền não, không ưa thế gian; mười là nếu được tam muội
thì không bị tất cả các thứ âm thanh bên ngoài làm cho kinh sợ lay
động.
Lại nữa, nếu người tu hành chỉ tu pháp chỉ, thì cái
tâm chìm lặng, hoặc khởi ra giải đãi, không thích các điều thiện
và xa rời đức đại bi, nên cần phải tu quán.
Người tu tập pháp quán nên quán tất cả các pháp
hữu vi thế gian không thể dừng lâu, trong giây lát đã biến đổi
hư mất, quán tất cả tâm hành đều niệm niệm sinh diệt, do đó nên
khổ. Cần quán tất cả các pháp quá khứ, có thể nhớ được,
đều mơ màng như chiêm bao; cần quán tất cả các pháp hiện tại,
có thể nghĩ được, đều như cái ánh sáng chớp; cần quán tất
cả các pháp vị lai, có thể suy được, đều như phù vân, bỗng
nhiên nổi lên. Cần quán tất cả các thân thế gian đều là bất
tịnh, có nhiều thứ nhơ nhớp, không một cái gì đáng ưa thích.
Rồi như vậy nên nghĩ đến tất cả chúng sinh từ vô
thủy đến nay đều nhân bị vô minh huân tập, làm cho tâm sinh diệt,
mà đã phải chịu những khổ to nơi thân tâm, hiện tại cũng có
những bức bách vô lượng và vị lai, cái khổ cũng không có
chừng mực. Chúng sinh như thế khó bỏ khó rời cái khổ mà không
giác ngộ, rất đáng thương xót. Suy nghĩ như vậy thì liền nên dũng
mãnh lập thệ nguyện lớn, nguyện cho tâm mình, do rời được phân
biệt, mà tu hành tất cả các thiện công đức cùng khắp mười
phương, tột đời vị lai, dùng vô lượng phương tiện cứu vớt tất
cả chúng sinh khổ não, khiến cho được cái vui đệ nhất nghĩa của
niết bàn.
Do phát khởi cái nguyện như thế nên trong tất cả
thời, tất cả nơi, có những điều thiện gì, thì tùy khả năng của
mình mà tu học không ngớt, tâm không giải đãi. Chỉ trừ lúc tọa
thiền thì chuyên tu pháp chỉ, còn trong tất cả các thời khác, đều
nên quán sát việc nên làm, việc không nên làm, lúc đi, lúc ở,
lúc nằm, lúc dậy, đều nên song song tu tập chỉ quán; nghĩa là suy
nghĩ các pháp tự tính không sinh, nhưng lại nghĩ do nhân duyên hòa
hợp mà những quả báo khổ vui vân vân của các nghiệp thiện ác,
không hư không mất, tuy nghĩ đến nhân duyên nghiệp báo thiện ác
mà cũng liền nghĩ tự tính của nó không thể nhận được.
Nếu tu pháp chỉ thì đối trị được việc phàm phu
chấp trược thế gian và rời bỏ được kiến chấp khiếp nhược
của Nhị thừa; nếu tu pháp quán thì đối trị được cái lỗi lầm
hẹp hòi của Nhị thừa không khởi được lòng đại bi và xa rời
được việc phàm phu không tu thiện căn. Do những nghĩa đó nên hai
pháp chỉ quán giúp nhau thành tựu, không rời bỏ nhau; nếu không
đủ cả chỉ quán thì không vào được đạo bồ đề.
Lại nữa, chúng sinh mới học pháp này, muốn cầu
được chính tín mà cái tâm khiếp nhược, do việc ở trong thế
giới Sa bà này, sợ không được thường gặp chư Phật, thân
thừa và cúng dàng, sợ tín tâm khó được thành tựu, ý muốn
rút lui, thì nên biết Như lai có phương tiện thắng diệu nhiếp thu hộ
trì lòng tin, nghĩa là nhờ nhân duyên chuyên tâm niệm Phật, thì theo
nguyện được sinh vào cõi Phật phương khác, thường được thấy
Phật, rời hẳn ác đạo. Như trong kinh nói: Nếu có người chuyên
niệm đức Phật A di đà ở tây phương Cực lạc thế giới, hồi
hướng thiện căn đã tu trì để cầu nguyện sinh về thế giới kia,
thì liền được vãng sinh và nhờ được thấy Phật, không hề lui
sút. Nếu quán được pháp thân chân như của đức Phật kia và
thường siêng năng tu tập, thì rốt ráo được vãng sinh và an trụ
nơi chính định.
Đã nói phần tu hành tín tâm, thứ nữa nói phần
lợi ích để khuyến khích tu hành.
Pháp Đại thừa như thế là bí tạng của chư Phật,
tôi đã tổng quát nói xong. Nếu có chúng sinh muốn sinh được chính
tín và xa rời phỉ báng đối với cảnh giới thậm thâm của Như lai
để vào được đạo Đại thừa, thì nên trì tụng Luận này, suy
nghĩ tu tập để có thể rốt ráo đến đạo vô thượng.
Nếu nghe pháp này rồi, không sinh lòng khiếp nhược,
thì nên biết người đó quyết định nối dòng giống Phật, chắc
chắn được chư Phật thụ ký.
Giả sử có người giáo hóa chúng sinh đầy khắp tam
thiên đại thiên thế giới, khiến cho tu hành thập thiện, thì cũng
không bằng người, ở trong khoảng một bữa ăn, chân chính suy nghĩ
pháp này. Công đức của người sau hơn công đức người trước
rất nhiều, không thể lấy gì mà ví dụ được.
Lại nữa, nếu có người tụng trì Luận này, quán
sát tu hành, dầu chỉ trong một ngày một đêm, thì công đức người
ấy đã được là vô lượng vô biên, không thể nói xiết. Dầu
cho tất cả chư Phật mười phương, mỗi mỗi đều khen ngợi công
đức ấy trong vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp cũng không hết
được; vì cớ sao? Vì công đức pháp tính không có hết, nên công
đức người ấy cũng lại như thế, không có bờ bến.
Nếu có chúng sinh, đối với Luận này, chê bai không
tin thì tội báo chuốc lấy là phải chịu khổ não lớn trong vô
lượng kiếp. Vậy nên chúng sinh chỉ nên tín ngưỡng, không nên phỉ
báng để tự hại mình và cũng hại người khác một cách sâu
sắc, đoạn tuyệt hạt giống tất cả Tam bảo, do tất cả các đức
Như lai đều nương với pháp này mà được niết bàn, tất cả các
vị Bồ tát đều nhân tu hành pháp này mà vào được trí tuệ của
Phật.
Nên biết các vị Bồ tát quá khứ đã nương với
pháp này mà thành tựu được tín tâm thanh tịnh, các vị Bồ tát
hiện tại đang nương với pháp này mà thành tựu được tín tâm
thanh tịnh, các vị Bồ tát vị lai cũng sẽ nương với pháp này mà
thành tựu được tín tâm thanh tịnh; vậy nên chúng sinh cần siêng
năng tu học.
- Nghĩa thậm thâm rộng lớn chư Phật,
- Nay đã tùy phận nói tổng quát,
- Hồi hướng công đức như pháp tính,
- Làm lợi khắp tất cả chúng sinh.
---o0o---
| Mục lục | Phần 01
| Phần 02 | Phần
03 | Phần 04 | Phần 05 |
---o0o---
|
Thư
Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành cảm ơn ĐĐ Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử
này
Cập nhật ngày: 01-05-2001