Đạo
giản dị
Theo
truyền thống, Bát Chánh Đạo nói đến tám chi đạo như:
Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, v. v. Nhưng chân Bát Chánh
Đạo ở trong chúng ta là: Hai mắt, hai tai, hai muĩ, một lưỡi
và một thân. Tám cửa này là toàn thể Đạo (Con Đường);
tâm con người đi trên con đường ấy. Biết những cửa này
và quan sát chúng thì tất cả giáo pháp sẽ hiện khởi.
Cốt
tủy của Đạo rất đơn giản, chẳng cần phải giải thích
dông dài: Vất bỏ yêu ghét, thản nhiên trước mọi chuyện
xẩy ra. Đó là mục tiêu chính của việc hành thiền.
Đừng
cố gắng trở thành cái gì. Đừng nhẩy vào bất cứ chuyện
gì. Cũng đừng là một thiền sinh. Đừng mong giác ngộ. Lúc
ngồi thì hãy ngồi. Khi đi thì hãy đi. Chẳng nắm giữ gì
mà cũng không chống đối gì cả. Dĩ nhiên có hàng chục cách
Thiền Định và nhiều phương pháp Thiền Minh Sát. Nhưng tất
cả đều trở về chỗ: Hãy để mọi sự tự nhiên. Thoát
ra ngoài chiến trường, đặt chân đến nơi an lành mát mẻ.
Tại
sao không thử xem? Bạn dám không?
Trung
Đạo
Đức
Phật không muốn chúng ta đi con đường đôi. Một bên là
tham ái, chìm đắm, và bên kia là sợ hãi, ghen ghét. Ngài dạy
chúng ta hãy tỉnh thức trước mọi lạc thú. Sân hận, sợ
hãi, bất mãn không phải là lối đi của thiền sinh. Đó là
lối đi của người thế tục. Người an tịnh đi trên Trung
Đạo, vất tham ái sang bên trái, và bỏ sợ hãi, ghen ghét
sang bên phải. Người nào muốn thực hành, phải theo Trung
Đạo: không nghiêng về lạc thú hay đau khổ mà chỉ đặt
chúng xuống. Nhưng dĩ nhiên, thoạt đầu hơi khó. Chúng ta
bị đá sang hai bên: lúc sang trái, lúc sang phải như quả lắc
đồng hồ.
Khi
Đức Phật thuyết bài pháp đầu tiên, Ngài đề cập đến
hai thái cực, vì đó là nơi cư ngụ của tham ái. Ái dục,
hạnh phúc đá sang bên này, đau khổ và bất toại nguyện
đá sang bên kia. Cả hai luôn luôn gây phiền lụy và đau khổ.
Nhưng khi đi trên Trung Đạo, bạn đặt cả hai xuống.
Nếu
bạn theo hai thái cực này, bạn sẽ mất hết kiên nhẫn chịu
đựng và sẽ bị hất ra ngoài khi luyến ái hay sân hận lôi
cuốn bạn. Bạn còn mắc bẫy như vậy bao lâu? Hãy xét xem:
Nếu bạn thích một thứ gì đó, bạn sẽ theo sau chúng khi
yêu thích phát sinh và dĩ nhiên nó chỉ lôi kéo bạn đi tìm
sự đau khổ thôi. Tâm luyến ái thật khôn ngoan và khéo léo.
Rồi nó sẽ kéo bạn đi đâu nữa đây?
Đức
Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con
đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh
tử. Không có khóai lạc và đau khổ trên đường này, cũng
không có thiện và ác, tốt và xấu. Than ôi! Con người đầy
ái dục, chỉ muốn tìm khóai lạc, không chịu đi trên con
đường của Đấng Đại Giác, con đuờng dành cho người đi
tìm chân lý. Dính mắc vào hạnh phúc và đau khổ, tốt và
xấu thì không thể đi trên Trung Đạo, không thể trở thành
người trí, không thể giải thoát.
Con
đường của chúng ta rất thẳng, tĩnh lặng và chánh niệm;
dù phiền muộn hay phấn khởi nẩy sinh, nó vẫn an tịnh. Nếu
tâm bạn được như thế, bạn chẳng cần nhờ ai hướng dẫn.
Bạn
sẽ thấy rằng, khi tâm không luyến ái, nó sẽ nằm ở trạng
thái bình thường. Khi nó bị khuấy động bởi tư tưởng
và cảm giác, tiến trình cấu tạo nên tư tưởng sẽ diễn
ra và ảo giác thành hình. Hãy học cách nhìn tiến trình này.
Khi tâm bị khuấy động, không còn ở trạng thái bình thường,
nó sẽ ra khỏi sự thực hành đúng đắn để tiến đến
một trong những thái cực của đam mê và ghen ghét, từ đó
nó lại càng tạo ra nhiều ảo giác, nhiều tư tưởng hơn
nữa. Nếu bạn tiếp tục quan sát tâm, suốt đời chỉ làm
vậy thôi, tôi bảo đảm rằng bạn chẳng bao giờ buồn chán.
Chấm
dứt hoài nghi
Nhiều
người có trình độ đại học, có bằng cấp tốt nghiệp
và thành công trên đường đời, nhưng vẫn cảm thấy cuộc
sống của họ thiếu thốn. Dầu có tư tưởng cao xa hay thông
minh hoạt bát đến đâu đi nữa, tâm của họ cũng chứa đầy
những thứ vô dụng và hoài nghi. Chim kên kên bay cao đấy,
nhưng nó ăn những thứ gì?
Chân
lý là sự hiểu biết vượt ra ngoài tính cách điều kiện,
tổng hợp và giới hạn của khoa học thế gian. Dĩ nhiên trí
tuệ thế gian có thể dùng vào những mục tiêu tốt đẹp.
Nhưng trí tuệ của thế gian có thể đi ngược lại với tôn
giáo và giáo dục. Cái hay cái đẹp của trí tuệ siêu thế
là có thể sử dụng kỹ thuật của trí tuệ thế gian mà
không bị dính mắc vào chúng.
Phải
học phần căn bản trước. Đó là căn bản đạo đức, giới
luật, thấy được sự giả tạm của cuộc sống, thấy được
hiện tượng già và chết. Đó là nơi chúng ta bắt đầu.
Cũng như trước khi biết đi, bạn phải biết lật, biết bò,
rồi biết... lái xe, và sau đó, có thể lái máy bay du hành
quanh trái đất.
Nghiên
cứu sách vở không quan trọng lắm. Dĩ nhiên kinh điển là
đúng, nhưng không diễn đạt hết chân lý. Kinh điển chỉ
là ngôn từ, chữ viết, mà ngôn từ và chữ viết chỉ có
khả năng diễn đạt giới hạn. Chẳng hạn như danh từ "sân
hận" không thể diễn tả được trạng thái nóng nảy, giận
hờn, cũng như nghe nêu tên một người nào đó, khác với
gặp người ấy. Chỉ có kinh nghiệm của chính bạn mới đem
lại đức tin thật sự.
Có
hai loại đức tin. Loại thứ nhất là tin tưởng một cách
mù quáng vào Phật, Pháp và vị thầy -- thông thường là người
đầu tiên hướng dẫn mình hành thiền hay cho mình xuất gia.
Loại thứ hai là Chánh Tín -- đức tin chắc chắn, không lay
chuyển, phát sinh từ sự hiểu biết của chính mình. Mặc
dầu vẫn còn những phiền não khác cần vượt qua, người
thấy một cách rõ ràng sự vật bên trong chính mình, có thể
dứt được hoài nghi, đạt được đức tin trong việc thực
hành.
Bỏ
hết ngôn từ sách vở, và tự mình nhận thức
Việc
thực hành của tôi không đặt nặng ở học hỏi hay nghiên
cứu. Tôi lấy những lời dạy của Đức Phật làm căn bản
và bắt đầu nghiên cứu tâm mình một cách tự nhiên. Khi
thực hành, bạn hãy tự quan sát mình, cứ thế dần dần trí
tuệ và tri kiến sẽ tự phát sinh. Nếu bạn ngồi thiền mà
muốn được thế này, thế kia thì tốt hơn nên dẹp đi đừng
ngồi thiền nữa. Đừng kỳ vọng hay mang thêm một ý tưởng
gì vào việc thực hành của bạn. Hãy xếp vào kho mọi ý
niệm hay tư kiến của mình.
Khi
thực hành bạn dẹp bỏ tất cả ngôn từ, biểu tượng, dự
định, kế hoạch, v.v. Có thế bạn mới tự mình thấy được
chân lý, vì chân lý không ở đâu xa, nó khởi sinh ngay tại
đây. Tôi đã học giáo pháp qua kinh điển trong những năm
đầu tiên. Lúc ấy, khi có thì giờ tôi thường đến nghe
những học giả, những bậc thầy thuyết giảng, cho đến
khi sự học hỏi này biến thành chướng ngại nhiều hơn là
hỗ trợ, tôi mới ngưng học. Thực ra tôi đã không biết
cách nghe giáo pháp, vì tôi không nhìn vào bên trong.
Các
bậc thiền sư này đã nói đến chân lý bên trong chính mình.
Khi thực hành tôi bắt đầu hiểu rõ là nó nằm ngay trong
chính tôi. Một thời gian sau, tôi thấy rằng các thiền sư
này đã thực sự thấy rõ chân lý, và nếu tôi đi theo con
đường của các ngài, tôi sẽ gặp những gì mà các ngài
đã nói đến; và lúc đó tôi sẽ có thể nói, "Vâng, các
ngài nói đúng. Còn gì nữa đâu?" Khi tôi kiên trì thực hành,
tôi thấy quả đúng như vậy.
Nếu
bạn thích ở trong Giáo Pháp thì hãy xả bỏ, hãy để mọi
chuyện diễn biến tự nhiên theo nó. Chỉ thuần học lý thuyết
mà không thực hành thì chẳng khác nào "bỏ hình bắt bóng."
Không cần học hỏi nghiên cứu nhiều. Nếu bạn dựa vào
những điều căn bản và thực hành theo, bạn sẽ tự mình
thấy giáo pháp.
Tâm
lý học Phật Giáo
Một
hôm có một nữ giảng sư về môn Siêu Hình Phật Giáo đến
thăm Ngài Ajahn Chah. Bà giảng sư này dạy định kỳ ở Bangkok
về Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) và Tâm Lý Học Phật Giáo. Trong
lúc nói chuyện với Ngài Ajahn Chah, bà giải thích cặn kẽ
tầm quan trọng của sự hiểu biết Tâm Lý Học Phật Giáo
đối với mọi người. Bà cũng cho biết là những học sinh
của bà đã gặt hái được nhiều lợi ích khi học hỏi với
bà. Bà hỏi Ngài Ajahn Chah có đồng ý với bà về tầm quan
trọng của một kiến thức như thế không?
Ngài
Ajahn Chah gật đầu đồng ý:
--
Vâng, rất quan trọng.
Hết
sức hân hoan, bà hỏi tiếp là Ngài có chịu để cho học
trò của Ngài học Vi Diệu Pháp không?
--
Vâng, dĩ nhiên.
Bà
lại hỏi là Ngài muốn học trò Ngài học ở đâu và cuốn
sách nào tốt nhất.
Ajahn
Chah đưa tay chỉ vào quả tim mình, nói:
--
Ở đây. Chỉ chỗ này thôi.
Học
hỏi và kinh nghiệm
Chúng
ta hãy nói đến sự khác biệt giữa việc Nghiên Cứu Giáo
Pháp và Áp Dụng Giáo Pháp Vào Thực Hành. Chân Giáo Pháp phải
học hỏi là: Tìm một con đường để thoát khỏi sự bất
xứng ý của đời sống và đạt được hạnh phúc, bình an
cho chính mình cùng tất cả chúng sinh.
Khi
tâm an tịnh tức là nó đang ở trong điều kiện bình thường.
Khi tâm di động thì tư tưởng hình thành. Hạnh phúc hay đau
khổ là một phần của tâm hoạt động này. Bất an và tham
ái cũng được hình thành như thế. Nếu bạn không hiểu rõ
chuyển động này, bạn sẽ săn đuổi đàng sau tư tưởng
hình thành mãi, và trở thành nạn nhân của nó.
Thế
nên Đức Phật dạy chúng ta hãy quan sát hoạt động của
tâm. Theo dõi tâm di chuyển, chúng ta có thể thấy được những
đặc tính căn bản của nó. Đó là vô thường, bất toại
nguyện và vô ngã. Bạn nên tỉnh thức và quan sát những hiện
tượng tâm lý này. Bằng cách này bạn có thể học được
tiến trình của nhân duyên. Đức Phật dạy rằng: Vô minh
là nhân phát sinh ra hành nghiệp và mọi hiện tượng. Hành
nghiệp hay sự "chủ ý" này phát sinh ra Thức và Thức lại
là nhân của Thân và Tâm. Đó là tiến trình của Nhân duyên.
Khi
bắt đầu nghiên cứu Phật Giáo, chúng ta thấy lối dạy theo
truyền thống kinh điển đem lại nhiều lợi ích cho chúng
ta. Nhưng khi tiến trình đã diễn ra bên trong chúng ta, chúng
ta mới thấy rõ tầm quan trọng của sự thực hành. Những
kẻ chỉ học pháp học mà không thực hành không thể nào
theo kịp sự mau lẹ của tiến trình này.
Dĩ
nhiên tiến trình của tâm được kinh điển hệ thống hóa
và mô tả rõ ràng, nhưng kinh nghiệm vượt ra ngoài sách vở
học hỏi. Sách vở không thể cho bạn biết "đây" là kinh
nghiệm của si mê phát sinh, "đây" là những cảm giác phát
sinh từ tác ý, "đây" là một loại tâm đặc biệt, "đây"
là những cảm giác về sự khác biệt của thân và tâm. Cũng
như khi bạn trèo cây và bị rơi xuống đất. Bạn không thể
nào biết được là bạn đã rơi bao nhiêu thước, bao nhiêu
tấc. Bạn chỉ biết bạn rơi xuống đất và thấy đau mà
thôi. Không sách vở nào mô tả điều này.
Sách
vở nghiên cứu Giáo Pháp được hệ thống hóa và làm cho
rõ ràng, nhưng thực tế không chỉ đi theo một lối đi đơn
giản. Bởi thế, chúng ta phải dùng trí tuệ sâu xa của chúng
ta để nghiệm xem cái gì đã khởi sinh trong tâm kẻ giác ngộ.
Kẻ giác ngộ hiểu biết qua kinh nghiệm của họ rằng tâm
không phải là Ta, của Ta, không phải là Tự Ngã của ta. Khi
nói cho chúng ta biết tên của các loại Tâm và Tâm Sở, Đức
Phật không muốn chúng ta dính mắc vào ngôn từ. Ngài chỉ
muốn chúng ta thấy tất cả đều vô thường, khổ và vô
ngã. Ngài dạy hãy buông bỏ tất cả. Khi các pháp phát sinh
ra hãy chánh niệm, biết chúng. Tâm thực hiện được sự
ghi nhận, giác tỉnh này mới là tâm được huấn luyện đúng
cách.
Khi
Tâm bị khuấy động thì nhiều loại tâm, tâm sở: tư tưởng,
phản ứng, v.v., được hình thành và nẩy nở liên tục. Chỉ
để chúng thế, tốt cũng như xấu. Đức Phật chỉ dạy đơn
giản: "Vất bỏ hết." Nhưng đối với chúng ta thì cần phải
nghiên cứu tâm mình để biết làm thế nào để có thể vất
bỏ chúng.
Nếu
nhìn những yếu tố của tâm, chúng ta sẽ thấy tâm đi theo
một tiến trình nhân quả tự nhiên: tâm sở như vậy, tâm
sinh và diệt như vậy, v.v. Chúng ta có thể thấy ngay trong
sự thực hành của chúng ta: Khi chúng ta có Chánh Kiến và
Chánh Niệm thì Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh
Mạng, theo sau. Người Giác Ngộ thấy rõ từng yếu tố của
Tâm. Người Giác Ngộ chẳng khác nào một ngọn đèn. Nếu
có Chánh Kiến, tức là có sự hiểu biết đúng thì tư tưởng
và những yếu tố khác cũng đúng, chẳng khác nào khi thắp
đèn thì ánh sáng sẽ phát sinh. Nhờ nhìn sự vật với Chánh
Niệm, Chánh Kiến sẽ phát triển.
Khi
quan sát cái mà ta gọi là Tâm, chúng ta chỉ thấy sự kết
hợp của các yếu tố tâm khác nhau mà không có Tự Ngã. Vậy
thì ta ở đâu? Cảm giác, ký ức, tất cả năm uẩn của Thân
và Tâm đang dời chỗ như lá cuốn theo cơn gió... Chúng ta
sẽ khám phá ra điều này khi chúng ta hành thiền.
Thiền
chẳng khác nào một khúc gỗ: Minh sát và suy xét ở một đầu,
an tịnh và định tâm ở đầu kia. Nhặt khúc gỗ lên cả
hai đầu đều lên cùng một lúc. Đầu nào là Thiền Minh Sát
(Thiền quán)? Đầu nào là Thiền Định (Thiền chỉ)? Chỉ
có tâm mà thôi!
Bạn
không thể nào tách rời Định Tâm và Minh Sát. Chúng chẳng
khác nào một trái xoài, lúc còn xanh thì chua, rồi chín thì
ngọt, nhưng vẫn là trái xoài. Cái này sinh trong cái kia. Không
có cái đầu tiên thì không có cái thứ hai. Những từ ngữ
như vậy chỉ là sự chế định để thông đạt. Chúng ta
đừng dính mắc vào danh từ. Nguồn gốc của chân trí tuệ
là thấy những gì ở bên trong chúng ta. Chỉ có loại học
hỏi này có điểm cuối và là loại học hỏi về chân giá
trị.
Sự
an tịnh ở giai đoạn đầu tiên của Định Tâm phát sinh từ
sự thực hành "Nhất Tâm." Nhưng khi sự an tịnh ra đi, chúng
ta lại đau khổ, vì chúng ta đã dính mắc vào nó. Đạt được
sự định tâm không phải là điểm cuối vì pháp hành cấu
tạo và đau khổ vẫn còn hiện hữu.
Thế
nên, Đức Phật lấy sự Định Tâm, sự an tịnh này để
quán xét thêm nữa. Ngài đi tìm sự thật của vấn đề cho
đến khi không còn dính mắc vào sự an tịnh nữa. An tịnh
chỉ là một trong vô số những hình thành của tâm, nó chỉ
là một chặng trên con đường. Còn dính mắc vào sự an tịnh
tức là còn dính mắc vào sự sinh thành và hiện hữu. Bởi
vì khi an tịnh chấm dứt, dao động lại bắt đầu khởi lên
và bạn sẽ bị dính mắc nhiều hơn nữa.
Đức
Phật tiếp tục xem xét sự sinh thành và hiện hữu để tìm
ra nơi chúng phát sinh. Khi chưa tìm ra được sự thật của
vấn đề, Ngài dùng tâm mình quán xét thêm, xem xét mọi yếu
tố của tâm, tìm xem chúng đã phát khởi như thế nào. Dầu
có an tịnh hay không, Ngài vẫn tiếp tục xem xét cho đến
khi Ngài hiểu rõ rằng: tất cả những gì Ngài thấy, tất
cả năm uẩn của Thân và Tâm, giống như một thỏi sắt nóng
đỏ. Khi thỏi sắt còn đang nóng đỏ, bạn có thể tìm được
điểm nguội nào trên đó để sờ tay vào chăng? Năm uẩn
cũng như vậy -- nắm chỗ nào cũng bị phỏng cả. Bởi thế,
không nên dính mắc, dù đó là sự an tịnh hay định tâm đi
nữa. Không nên nói rằng sự bình an tĩnh lặng là "Tôi" hay
"Của Tôi". Nghĩ rằng "Tôi" hay "Của Tôi" sẽ phát sinh ảo
tưởng đau thương về Tự Ngã -- thế giới của Tham Ái và
Si Mê, tức là một miếng sắt nóng đỏ khác. Trong lúc thực
hành chúng ta thường có khuynh hướng nắm giữ (chấp thủ),
coi những kinh nghiệm đạt được là "Tôi" hay "Của Tôi."
Và bạn nghĩ "Tôi an tịnh" hay "Tôi dao động", "Tôi tốt" hay
"Tôi xấu", "Tôi hạnh phúc" hay "Tôi đau khổ". Sự dính mắc
này là nguyên nhân của "Sinh thành" và "Hiện hữu". Khi hạnh
phúc chấm dứt, đau khổ xuất hiện. Khi đau khổ chấm dứt,
hạnh phúc xuất hiện. Bạn sẽ thấy chính mình không ngừng
phân vân giữa thiên đàng và địa ngục. Đức Phật thấy
rõ điều kiện của Tâm là vậy, và Ngài hiểu đó là nguyên
nhân sinh thành và hiện hữu. Tâm ở trong điều kiện đó
nên sự giải thoát không hoàn thành được. Ngài bèn lấy
những kinh nghiệm đó và quán xét chân tướng của chúng:
Do
có nắm giữ (chấp thủ) nên có Sanh và Tử. Trở nên
hân hoan là sanh; trở nên thóai chí là tử. Có chết nên có
sống. Sinh và Tử từ thời điểm này đến thời điểm kia,
kế tục nhau không dứt, như một guồng bánh xe kéo chỉ quay
không ngừng.
Đức
Phật thấy rõ cái gì do tâm sinh ra cũng đều tạm bợ, là
những hiện tượng có nhân duyên, thực sự trống rỗng. Khi
ánh sáng trí tuệ này phát sinh, Ngài xả bỏ tất cả, không
nắm giữ gì nữa và chấm dứt đau khổ. Bạn cũng vậy, phải
hiểu những vấn đề này đúng theo chân lý. Khi hiểu rõ sự
vật đúng theo chân tướng của nó, bạn sẽ thấy rằng những
yếu tố tạo thành tâm thường đánh lừa bạn. Tâm chẳng
có gì cả, không sinh ra cũng không chết đi. Nó tự do, chiếu
sáng, chói lọi, rực rỡ, và không gì làm bận rộn nó cả.
Tâm trở thành bận rộn chỉ vì nó hiểu sai và bị mê mờ
bởi những hiện tượng có điều kiện này -- đó là ý tưởng
sai lầm về Tự Ngã. Thế nên, Đức Phật muốn chúng ta nhìn
vào tâm mình xem thử lúc đầu có cái gì. Thật ra chẳng có
gì cả. Sự trống rỗng này không sinh và diệt theo hiện tượng.
Khi chứa đựng điều tốt, nó không trở nên tốt. Khi tiếp
xúc việc xấu nó cũng không trở nên xấu. Tâm trong sạch
biết những đối tượng này một cách rõ ràng--biết rằng
chúng không có bản chất.
Khi
tâm của thiền sinh an trụ như vậy, sẽ không có hoài nghi
nữa: Có trở thành không? Có sinh không? Khỏi cần hỏi ai!
Quan sát những yếu tố của Tâm, Đức Phật để chúng tự
nhiên và trở thành người tỉnh thức trước chúng. Ngài chỉ
nhìn với tâm xả. Những điều kiện dẫn đến Sinh không
còn hiện hữu ở Ngài. Với trí tuệ hoàn toàn của Ngài,
Ngài gọi chúng là Vô thường, Khổ và Vô ngã. Bởi thế nên
Ngài trở thành người hiểu biết chắc chắn. Người hiểu
biết chắc chắn hay giác ngộ thấy sự vật theo chân lý,
không hạnh phúc hay đau khổ theo những đổi thay của điều
kiện. Đó là chân bình an, vô sinh, vô lão, vô bệnh, vô tử,
không tùy thuộc vào nhân quả hay điều kiện, vượt ra ngoài
hạnh phúc và khổ đau, thiện và ác. Không còn cái gì để
nói đến, không còn điều kiện nào để cải thiện nữa.
Do
đó, hãy phát triển tâm định, an tịnh và minh sát, hãy học
cách làm cho nó khởi dậy trong tâm bạn và thật sự dùng
nó. Nếu không, bạn chỉ biết Phật giáo qua ngôn ngữ, danh
từ. Mặc dầu khi hiểu rành pháp học, bạn có thể đi khắp
nơi giảng giải cho mọi người biết giáo pháp, những đặc
tính của cuộc đời; bạn có thể thông thái, hoạt bát, nhưng
khi sự vật hiện khởi trong tâm, bạn có theo được chúng
không? Khi tiếp xúc với vật ưa thích, bạn có tức khắc
dính mắc vào nó không? Khi gặp chuyện bực mình, người giác
ngộ có giữ sự bực mình trong tâm hay họ để nó ra đi?
Nếu bạn thấy những điều bạn không thích mà vẫn nắm
giữ hay kết án nó thì bạn nên suy tư như sau: Như vậy không
đúng đâu, không cao thượng đâu. Nếu bạn quan sát tâm như
vậy, bạn sẽ thật sự hiểu chính mình.
Tôi
không dùng từ ngữ trong kinh điển để thực hành. Tôi chỉ
nhìn vào kẻ giác ngộ. Nếu tôi ghét người nào, tôi hỏi
tại sao? Nếu tôi không thương một người nào, tôi hỏi tại
sao? Những gì khởi sinh hãy dò đến tận cội nguồn của
nó thì bạn có thể giải quyết được vấn đề yêu ghét
và khiến chúng để bạn ở yên một mình. Tất cả đều
trở về và khởi sinh trong kẻ giác ngộ. Nhưng không phải
chỉ nghe suông là đủ đâu, phải liên tục và quyết liệt
thực hành mới được.
Gà
hay trứng?
Giáo
pháp dạy chúng ta hãy buông bỏ, nhưng thoạt đầu chúng ta
tự nhiên bị dính mắc vào phần lý thuyết của giáo pháp.
Người trí biết sử dụng lý thuyết làm công cụ để khám
phá phần tinh hoa của cuộc sống.
Suốt
thời gian viếng thăm Anh quốc lần đầu tiên, Ngài Ajahn Chah
đã đến giảng dạy cho nhiều nhóm Phật tử. Một buổi tối
nọ, sau phần thuyết giảng, Ngài nhận được một câu hỏi
từ một mệnh phụ. Bà là người đã nhiều năm nghiên cứu
sự phức tạp của tâm theo Vi Diệu Pháp. Bà hỏi ý Ngài có
thuận giải thích cho bà một vài điểm khó khăn trong môn
học này để bà có thể tiếp tục nghiên cứu một cách dễ
dàng hơn không.
Thấy
bà bị dính mắc vào sự hiểu biết lý thuyết và ngôn từ
chế định mà không nhận ra được lợi ích của sự thực
hành nơi chính tâm mình, nên Ngài Ajahn Chah trả lời bà một
cách trực tiếp và mạnh bạo:
--
Bà chẳng khác nào người nuôi gà trong sân, thay vì nhặt trứng
bà lại đi quanh sân để nhặt phân gà.
Những
tên trộm trong tâm bạn
Mục
đích của thiền là nắm sự vật lên và đưa vào phòng thử
nghiệm để rõ thực chất của chúng. Chẳng hạn, khi nhìn
hình dáng của một vật, ta thấy nó xinh đẹp, trong khi đó
Đức Phật dạy chúng ta: nó là bất tịnh, vô thường, và
chất chứa đau khổ. Vậy quan niệm nào đúng theo chân lý?
Chúng
ta như du khách đến viếng một xứ lạ. Không hiểu ngôn ngữ
bản xứ nên chúng ta chẳng thấy thú vị. Nhưng một khi đã
học nói, học nghe ta có thể cười và nói đùa với người
bản xứ.
Quan
điểm thông thường cho rằng những yếu tố của đời sống
chúng ta, bắt đầu từ cơ thể, là ổn cố. Một đứa bé
chơi bong bóng. Quả bóng vướng phải gai hay một vật nhọn,
nổ tung; cậu bé khóc lóc tiếc nuối. Một cậu bé khác, khôn
ngoan hơn, biết rằng bong bóng rất dễ vỡ nên không buồn
rầu khi bong bóng vỡ. Con người đi vào cuộc sống như kẻ
mù. Họ quên cái chết như người tham ăn, ngốn vào bụng
thật nhiều thức ăn khóai khẩu mà chẳng nghĩ rằng mình
phải bài tiết. Đến khi đau bụng, vì không dự liệu trước,
nên chẳng biết phải chạy đi đâu.
Thế
gian đầy hiểm nguy, hiểm nguy từ những yếu tố của cuộc
sống, hiểm nguy từ những tên trộm. Trong chùa chiền cũng
có những mối hiểm nguy như vậy. Đức Phật dạy chúng ta
truy tầm những mối hiểm nguy này và đặt tên "Bhikkhu" cho
người xuất gia. Bhikkhu có hai nghĩa: người đi xin, và người
thấy được hiểm nguy tham ái trong luân hồi. Chúng sanh đầy
tham lam, sân hận, si mê. Bị ba loại phiền não này chế ngự
nên họ phải nhận lấy quả, gia tăng thói xấu, tạo thêm
nghiệp, và lại bị ngã quỵ trước phiền não.
Tại
sao không thể loại bỏ tham, sân, si ? Nếu bạn có tư tưởng
xấu, bạn sẽ đau khổ. Nếu bạn có sự hiểu biết đúng,
bạn có thể chấm dứt đau khổ.
Phải
biết hiệu lực và sự tác động của nghiệp, của nhân và
quả. Dính mắc vào khóai lạc sẽ nhận lấy quả khổ. Ăn
quá độ thức ăn ngon thì dạ dày và ruột sẽ phản ứng
và bạn sẽ nhận lấy hậu quả sau đó. Bạn vui mừng khi
lấy trộm của ai vật gì; nhưng sau đó cảnh sát sẽ còng
tay bạn. Khi quan sát theo dõi, bạn sẽ biết cách hành động,
sẽ biết cách chấm dứt sự nắm giữ và phiền muộn. Đức
Phật thấy được điều này nên cương quyết thoát khỏi
mọi hiểm nguy thực sự của thế gian.
Muốn
thoát khỏi mối nguy hiểm của thế gian này, phải chế ngự
những mối hiểm nguy bên trong chúng ta. Hiểm nguy bên ngoài
không đáng sợ bằng hiểm nguy bên trong. Những hiểm nguy bên
trong gồm: Gió, Lửa, Nước, và Những Tên Trộm.
Gió:
Gió đến từ giác quan của chúng ta, thúc ép tham lam, sân hận
và si mê khởi dậy, hủy diệt phần bên trong tốt đẹp của
chúng ta. Thông thường chúng ta chỉ thấy gió khi gió thổi
lá cây, không thấy được gió của giác quan. Gió giác quan
này nếu không được theo dõi sẽ gây ra bão tố tham muốn.
Lửa:
Chùa chúng ta có thể chẳng bao giờ bị hỏa hoạn. Nhưng tham
lam, sân hận, si mê đốt cháy chúng ta luôn khi. Tham ái và
sân hận khiến chúng ta có ngôn ngữ sai lầm. Si mê khiến
chúng ta thấy thiện ra ác, ác ra thiện, xấu thành tốt, không
có giá trị thành có giá trị. Những người không hành thiền
thì không thấy được nên bị lửa đốt cháy.
Nước:
Mối hiểm nguy ở đây là lũ lụt phiền não trong tâm chúng
ta, nhận chìm bản tính thực sự của chúng ta.
Trộm:
Những tên trộm chính tông không ở ngoài chúng ta. Chùa chúng
ta trong vòng hai mươi năm nay chỉ bị trộm một lần. Nhưng
năm nhóm đạo chích của tham ái, ngũ uẩn, đã luôn luôn trộm
cắp, đánh đập ta, hành hạ ta đủ điều.
Năm
uẩn này gồm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức.