TẠNG
TRUYỀN
Hướng
Dẫn Thiền Tây Tạng
Dưới
đây là bản Việt dịch từ nguyên tác Anh ngữ “Tibetan Meditation
Instructions,” một bản văn cô đọng về Thiền
Tây Tạng do Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 14 viết cho ấn
bản điện tử của Tricycle, một tạp chí Phật Giáo tại
Hoa Kỳ. Nơi đây, ngài nói về pháp thiền này là hãy để
tâm vào trạng thái tự nhiên, và hãy quán sát tâm này –
mà tâm là một thực thể, theo ngài, có tánh sáng và tánh
biết, nơi đó bất kỳ những pháp gì, hiện tượng gì, sự
kiện gì trong thế giới xuất hiện với chúng ta cũng đều
qua nhận biết của thức. Khi ngồi, tóm gọn, chỉ để tâm
thả lỏng tự nhiên và nhìn vào tâm này, dần dần sẽ thấy
bản tánh của tâm.
(Bắt
đầu bản văn)
Trước
tiên, hãy sửa soạn tư thế của bạn: xếp chân ở vị trí
thoải mái nhất; xương sống thẳng như mũi tên. Đặt hai
bàn tay vào thế quân bình, khoảng cách chiều rộng bốn ngón
tay dưới rún, với bàn tay trái ở dưới, bàn tay phải đặt
trên, và các ngón cái chạm nhau để thành một hình tam giác.
Tư thế này của các bàn tay có liên hệ với chỗ trong cơ
thể, nơi nội nhiệt khởi lên. Nghiêng cổ xuống chút xíu,
để miệng và răng như bình thường, với đầu lưỡi chạm
vào vòm trên của miệng gần các răng phía trên. Hướng mắt
nhìn xuống thả lỏng – không cần thiết phải nhìn vào chóp
mũi; mắt có thể hướng về sàn nhà phía trước chỗ bạn
ngồi, nếu điều này tự nhiên hơn. Đừng mở mắt quá lớn
mà cũng đừng nhắm mắt; hãy để mắt mở hé chút xíu. Đôi
khi mắt sẽ khép lại tự nhiên; thế cũng được. Ngay cả
nếu mắt đang mở, khi ý thức chú tâm đều đặn vào đối
tượng, các hiện tướng của nhãn thức sẽ không quấy rối
bạn.
Với
những người mang kính, bạn có ghi nhận rằng khi gỡ kính
ra, bởi vì mắt thấy ít rõ ràng cho nên sẽ ít cơ nguy hơn
từ sự sinh khởi kích động, trong khi có thêm cơ nguy của
sự lơi lỏng? Bạn có thấy có dị biệt giữa việc hướng
mặt vào tường và không hướng vào tường? Khi hướng vào
tường, bạn có thể thấy là có ít cơ nguy của sự kích
động hay tán tâm? Qua kinh nghiệm, bạn sẽ quyết định sao
cho thoải mái, dễ an tâm...
Hãy
cố gắng để tâm trong trạng thái tự nhiên một cách sinh
động, không nghĩ gì về chuyện quá khứ hay về chuyện bạn
tính làm trong tương lai, không khởi lên bất kỳ một khái
niệm nào. Ý thức của bạn đang ở nơi đâu? Nó [ý thức]
đang ở với đôi mắt hay ở đâu? Nhiều phần, bạn sẽ cảm
thấy nó [ý thức] liên kết với đôi mắt, bởi vì chúng
ta khởi lên hầu hết nhận thức về thế giới này là xuyên
qua mắt thấy. Điều này là do dựa quá nhiều vào cảm thức
của chúng ta. Tuy nhiên, sự hiện hữu của một ý thức riêng
biệt có thể biết chắc được; thí dụ, khi chú tâm hướng
về âm thanh, thì những gì xuất hiện qua nhãn thức không
được ghi nhận. Như thế cho thấy một ý thức riêng biệt
đang chuyên chú hơn vào âm thanh nghe qua nhĩ thức, hơn là ảnh
của nhãn thức.
Với
tu tập kiên trì, ý thức có thể được nhận ra hay được
cảm nhận như một thực thể của ánh sáng thuần khiết và
của tánh biết, mà đối với nó bất kỳ thứ gì cũng có
khả năng để xuất hiện ra, và nó [ý thức], khi các điều
kiện thích nghi hội đủ, có thể được sinh khởi trong hình
ảnh của bất kỳ đối tượng nào. Khi nào mà tâm không đối
phó với khái niệm về ngoại cảnh, tâm sẽ an trú rỗng không
mà không có gì xuất hiện trong nó, hệt như nước trong. Thực
thể của nó [tâm] là thực thể của kinh nghiệm thuần túy.
Hãy để tâm trôi chảy tự nhiên mà đừng phủ lên khái niệm
nào. Hãy để tâm an nghỉ trong trạng thái tự nhiên của nó,
và quan sát nó. Lúc đầu, khi bạn chưa quen với pháp này,
nó thật là khó, nhưng dần dần tâm xuất hiện như nước
trong. Rồi thì, hãy hãy an trú với tâm không bị thêu dệt
này, mà đừng để khái niệm nào sinh khởi. Khi chứng ngộ
bản tánh của tâm, chúng ta sẽ lần đầu tiên định vị
được đối tượng của quan sát của loại thiền nội quan
này.
Thời
gian tốt nhất để tập pháp thiền này là vào buổi sáng,
tại một nơi im vắng, khi tâm rất trong suốt và tỉnh táo.
Đêm trước đó, nhớ đừng ăn nhiều quá hay ngủ nhiều quá;
như thế sẽ làm cho tâm nhẹ hơn và nhạy bén hơn vào buổi
sáng kế tiếp. Dần dần, tâm sẽ trở nên càng lúc càng an
bình; sự tỉnh thức và trí nhớ sẽ trở thành rõ ràng hơn.
(Hết
bản văn)
Pháp
Thở Đơn Giản
Dưới
đây là bản Việt dịch từ nguyên tác Anh ngữ “A Simple Breathing
Meditation,” một cẩm nang về bước đầu tập thiền của
Kadampa, một tông phái Tây Tạng đang có hơn 700 tự viện tại
36 quốc gia. Nguyên khởi, Đại sư Atisha (982-1054) từ An Độ
sang Tây Tạng, đã sáng lập tông phái Kadampa, với pháp tu
Lamrim, chuyển hóa tất cả mọi hoạt động thường ngày vào
con đường chứng ngộ giải thoát. Pháp Thở Đơn Giản là
bước đầu thiền tập, và có thể dùng cho mọi truyền thống
khác.
(Bắt
đầu bản văn)
Giai
đoạn đầu tiên của thiền là ngưng loạn tâm, và làm tâm
chúng ta trong trẻo hơn, sáng tỏ hơn. Điều này có thể thành
tựu bằng cách tập pháp thở đơn giản. Chúng ta chọn một
nơi im vắng để thiền tập, và ngồi trong một tư thế thoải
mái. Chúng ta có thể ngồi trong tư thế tréo chân truyền thống,
hay trong bất kỳ tư thế nào khác mà mình thấy thoải mái.
Nếu muốn, chúng ta có thể ngồi ghế. Điều quan trọng nhất
là giữ lưng cho thẳng để giữ tâm khỏi bị buồn ngủ hay
trì trệ.
Chúng
ta ngồi với hai mắt khép một chút thôi, và chú tâm vào hơi
thở. Chúng ta thở tự nhiên, tốt nhất là thở qua lỗ mũi,
đừng tìm cách kiểm soát hơi thở, và chúng ta chú tâm vào
cảm thọ về hơi thở khi hơi thở vào và ra hai lỗ mũi. Cảm
thọ này là đối tượng thiền tập của chúng ta. Chúng ta
nên cố gắng tập trung vào nó, và gác bỏ mọi thứ khác.
Thoạt
tiên, tâm chúng ta sẽ rất bận rộn, thậm chí có thể cảm
thấy rằng thiền tập đang làm cho tâm chúng ta bận rộn hơn,
nhưng trên thực tế chúng ta chỉ đang ý thức hơn về mức
độ bận rộn biến chuyển mà tâm chúng ta đang thực sự
hiện hành. Sẽ có một sức lôi cuốn lớn để dẫn [chúng
ta] theo các niệm khác nhau khi nó hiện khởi, nhưng chúng ta
nên chống lại [lôi cuốn đó] và cứ tập trung nhất tâm
vào cảm thọ về hơi thở. Nếu chúng ta thấy là tâm chúng
ta lang thang và chạy theo các niệm, chúng ta nên tức khắc
trở về với hơi thở. Chúng ta hãy làm thế liên tục khi
cần thiết, cho tới khi tâm an trú vào hơi thở.
Nếu
chúng ta kiên nhẫn tập cách này, dần dần các niệm lung tung
sẽ lắng xuống và chúng ta sẽ kinh nghiệm một cảm thọ
về sự an tĩnh trong tâm và sự thư giãn. Tâm chúng ta sẽ
cảm thấy sáng rõ và như rộng lớn bát ngát, và chúng ta
sẽ cảm thấy như được tươi mới. Khi biển dậy sóng, cặn
sẽ cuốn lên và nước sẽ đục ngầu, nhưng khi gió êm thì
bùn dần dần lắng xuống và nước nhìn rõ trong suốt. Tương
tự, khi dòng niệm không ngừng tuôn của chúng ta được an
tĩnh nhờ tập trung vào hơi thở, tâm chúng ta sẽ trở thành
trong suốt và sáng tỏ dị thường. Chúng ta nên ở trong trạng
thái an tĩnh tâm thức này một thời gian.
Mặc
dù thiền tập hơi thở chỉ là bước đầu thiền tập, nó
có thể rất là mãnh liệt. Chúng ta có thể thấy từ pháp
tu này là chúng ta có thể đạt được an tĩnh nội tâm và
sự an lạc chỉ bằng cách kiểm soát tâm, mà không dựa vào
bất kỳ điều kiện bên ngoài nào. Khi dòng niệm lắng xuống,
và tâm chúng ta tịch tĩnh, một niềm hạnh phúc sâu thẳm
và sự an lạc tự nhiên khởi lên. Cảm thọ về sự an lạc
và sự sung mãn giúp chúng ta đối phó với sự bận rộn và
khó khăn của đời sống thường nhật. Quá nhiều căng thẳng
thường đến từ tâm chúng ta, và nhiều vấn đề chúng ta
trải qua, kể cả bệnh hoạn, gây ra hay bị làm trầm trọng
thêm bởi sự căng thẳng này. Chỉ bằng cách thiền tập hơi
thở trong 10 hay 15 phút mỗi ngày, chúng ta sẽ có thể giảm
sự căng thẳng. Chúng ta sẽ kinh nghiệm một cảm thọ tịch
tĩnh, bao la bát ngát trong tâm, và nhiều vấn đề thường
gặp của chúng ta sẽ biến mất. Các hoàn cảnh gian nan sẽ
dễ dàng hơn để đối phó, chúng ta sẽ tự nhiên cảm thấy
nồng ấm và cởi mở với người khác, và quan hệ của chúng
ta với người khác sẽ dần dần thăng tiến.
(Hết
bản văn)
Đại
Thủ Ấn
Pháp
môn Mahamudra, thường được dịch là Đại
Thủ Ấn, còn gọi tắt là Đại Ấn, được trình bày
trong bản Việt dịch sau đây, theo toàn văn bài “See the True
Nature, then Let Go and Relax in That” (Hãy Nhìn Thấy Chân Tánh,
rồi Buông Xả và Thư Giãn trong Đó) – ghi lại cuộc phỏng
vấn đại sư Khenpo Tsultrim Gyamtso Rinpoche, thực hiện bởi
Melvin McLeod, đăng trên tạp chí Buddhadharma: The Practitioner’s
Quarterly, số mùa xuân 2004.
Khenpo
Tsultrim Gyamtso Rinpoche sinh năm 1934 tại miền đông Tây Tạng.
Sau khi hoàn tất việc học sớm của thầy về các kinh điển
Đại Thừa, thầy đi tới các bãi tha ma và hang động miền
trung Tây Tạng trong 5 năm để thực tập pháp tu Chod. Thầy
nhận được lời dạy pháp chỉ thẳng từ Đức Karmapa
đời thứ 16, và cư ngụ trong các hang động quanh Tsurphu trong
một năm, tiếp tục pháp tu Chod, và học thêm pháp của Dilyak
Drupon Rinpoche, vị thầy về nhập thất ẩn tu của vùng Tsurphu.
Sau đó, trong khi thầy đang nhập thất ở phía nam Lhasa, một
nhóm ni sư tới xin thầy giúp đối phó với người Trung Hoa.
Sau đó, thầy dẫn nhóm ni sư vượt biên an toàn sang An Độ;
nhiều vị trong nhóm bây giờ vẫn còn đang theo học pháp của
thầy.
Tại
Ấn Độ, Khenpo Tsultrim nhận được văn bằng Khenpo (có thể
dịch là Cao Học Phật Học, học ít nhất 10 năm) từ Đức
Karmapa, và văn bằng Geshe Lharampa (có thể dịch là Tiến Sĩ
Phật Học, học ít nhất 20 năm) từ Đức Đạt Lai Lạt Ma,
công nhận thành tựu cao của thầy về các môn tranh luận
và lý luận. Vào cuối thập niên 1970s, thầy đi Aâu Châu theo
yêu cầu của Đức Karmapa, và từ đó thầy liên tục đi và
giảng dạy không mệt mỏi, nổi tiếng với tài tranh luận,
với các bài ca ứng khẩu tự nhiên và với khả năng diễn
đạt các giáo pháp thâm sâu nhất của Phật Giáo Kim Cang Thừa
trong một cách rõ ràng, tiếp cận được và sống động.
(Bắt
đầu bản văn)
Melvin
McLeod (M): Thưa Rinpoche, thầy là một trong những vị thầy
hàng đầu của Đại Thủ Aán, pháp tu và triết học cao nhất
của tông phái Kagyu trong Phật Giáo Tây Tạng. Xin thầy mô
tả cái nhìn Đại Thủ Aán về bản tánh của tâm?
Khenpo
Tsultrim Gyamtso Rinpoche (K): Trong Đại Thủ Aán, có ba truyền
thống: kinh bộ Đại Thủ Aán, mật bộ Đại Thủ Aán, và
tánh bộ Đại Thủ Aán.
Truyền
thống kinh bộ Đại Thủ Aán bao gồm cả các thời chuyển
pháp luân thứ nhì và thứ ba (giáo pháp về Tánh Không và
về Phật Tánh, tuần tự). Theo lời giảng trong kỳ chuyển
pháp luân thứ nhì, thật tánh của tâm vượt ra ngoài mọi
khái niệm. Như thế có nghĩa là nó không có thể được mô
tả như là hiện hữu hay không hiện hữu, như là một cái
gì hay là không có gì, hay như là thường hay vô thường. Tâm
không thể được mô tả hay khái niệm hóa trong bất kỳ những
cách như thế: tánh của tâm thì vượt ra ngoài mọi khái niệm.
Rồi thì, theo lời giảng của thời kỳ chuyển pháp luân thứ
ba, đó là giáo pháp về Phật Tánh, như trong quyển luận Uttaratantrashastra
(1), tánh thật của tâm được mô tả như sự trong suốt chiếu
sáng. Đây là bản tánh được chứng ngộ về Phật Tánh,
hoàn toàn xa lìa mọi nhiễm ô, hoàn toàn xa lìa mọi bất toàn
hay khiếm khuyết nào. Tánh chiếu sáng (luminosity) này không
tách biệt với tánh không (emptiness). Cho nên, chân tánh của
tâm được mô tả như sự kết hợp của tánh trong suốt và
tánh không.
Truyền
thống mật bộ của Đại Thủ
Ấn giải thích rằng chân tánh của tâm chính là sự an
lạc (bliss) và tánh không (emptiness) không tách biệt nhau. Đây
là điều mà hành giả sẽ thiền tập trên đó, sau khi nhận
lễ gia trì (empowerments). Đón nhận lễ gia trì xong, và thiền
tập theo cách này, hành giả có thể chứng ngộ tánh rỗng
rang an lạc (bliss-emptiness) này; đây là chân tánh của tâm.
Cuối
cùng, là truyền thống tánh bộ Đại Thủ Ấn, trong đó chân
tánh của tâm được gọi là thamel gyi shepa, tức là tâm bình
thường. Tâm bình thường có nghĩa là, hành giả được dạy
rằng không cần phải thay đổi gì hết về tâm. Hành giả
không cần tu sửa nó dù theo bất kỳ cách nào. Hành giả không
cần ngăn chận bất cứ những gì đang xảy ra, hay là làm
bất cứ thứ gì mới cho xảy ra. Chân tánh của tâm thì vượt
ra ngoài mọi kỹ xảo khéo léo và mọi thêu dệt chế tác.
Truyền
thống tánh bộ Đại Thủ Ấn không lệ thuộc vào kinh điển
hay lý luận như kinh bộ và mật bộ Đại Thủ Ấn. Trong truyền
thống tánh bộ, vị thầy chỉ ra bản tánh của tâm học trò,
dựa vào kinh nghiệm riêng của học trò và dựa vào cách học
trò đang liên hệ với các hiện tướng vào lúc đó. Đó là
truyền pháp chỉ thẳng. Còn chỉ đọc nó trong một cuốn
sách thì không đủ. Bạn phải tin sâu vào thầy, và rồi thầy
có thể chỉ ra bản tánh của tâm. Cho nên, nếu có ai muốn
khảo sát bản tánh của tâm họ, và muốn được chỉ thẳng
ra, họ nên xin học từ một vị thầy mà họ thâm tín. Rồi
vị thầy sẽ trao cho họ lời dạy chỉ thẳng, và có thể
rằng họ sẽ chứng ngộ bản tánh của tâm.
Nếu
học trò biểu lộ được sự chắc thật rằng tâm thì xa
lìa mọi đến và đi, xa lìa mọi sinh, trụ và diệt, thì học
trò được nói là đã chứng ngộ tánh của tâm. Như thế
không có nghĩa là học trò đã có kinh nghiệm chứng ngộ trực
tiếp; trong ngữ cảnh này, chứng ngộ có nghĩa là có sự
chắc thật.
Nếu
đọc truyện về Ngài Milarepa gặp cậu bé chăn cừu Repa Sangye
Kyap, người ta sẽ có một khái niệm về một cách chỉ thẳng
giữa thầy và trò.
M:
Ngoài cách truyền pháp trực tiếp từ thầy sang trò, còn những
phương pháp nào hay thiền tập nào được sử dụng để chứng
ngộ bản tánh của tâm?
K:
Nếu muốn học cách khảo sát bản tánh của tâm, người ta
nên hiểu rằng có những cách khác nhau để làm như thế.
Thí dụ, trong truyền thống kinh bộ Đại Thủ Aán, có phương
pháp phù hợp với kỳ chuyển pháp luân thứ nhì [của Phật]
để khảo sát bản tánh của tâm, có phương pháp phù hợp
với kỳ chuyển pháp luân thứ ba.
Nếu
bạn muốn học về cách khảo sát tâm theo kỳ chuyển pháp
luân thứ nhì, bạn nên đọc cuốn The Sun of Wisdom. (2) Tất
cả những phương pháp để khảo sát Tánh Không được dạy
trong sách đó có thể được áp dụng vào tâm. Sự khác biệt
nằm ở chỗ kỹ thuật thiền tập thì làm theo Đại Thủ
Aán. Sự khảo sát thì y hệt nhau, nhưng khi bạn hoàn tất
việc khảo sát xong, [thì] phương pháp bạn thiền tập lại
làm theo pháp thiền Đại Thủ Aán.
Khi
bạn khảo sát theo kỳ chuyển pháp luân lần thứ ba, điều
bạn chắc thật sẽ là thật tánh của tâm là sự trong trẻo
chiếu sáng, xa lìa bất kỳ nhiễm ô nào. Có một bài kệ
trong bộ luận Uttaratantrashastra, bộ luận về Phật Tánh,
viết rằng, “Tánh thật của tâm là sự trong trẻo chiếu
sáng, không hề lay động như hư không. Có những cấu nhơ
lướt qua, nhưng chỉ là tạm thời, và không hiện hữu trong
bản tánh của tâm.”
(Lời
Người Dịch: Trong khi truyền thống Phật Giáo Trung Hoa và
Việt Nam dựa vào “Ngũ Thời Phán Giáo” để phân chia các
thời kỳ hoằng pháp của Phật, thì Phật Giáo Tây Tạng lại
chia ra chỉ có ba thời kỳ -- Đức Phật chuyển pháp luân
lần đầu là dạy pháp Tứ Diệu Đế, lần thứ nhì dạy
pháp Tánh Không, lần thứ ba dạy về Phật Tánh. Các thời
kỳ sau không phủ nhận thời kỳ trước, mà bao gồm luôn
cả thời kỳ trước. Thời kỳ thứ nhì được khai triển
trong các bộ luận Trung Quán, thời kỳ thứ ba trong các bộ
luận Duy Thức.)
Đó
là chìa khóa chính của thời chuyển pháp luân lần thứ
ba – để thấy rằng tự tánh của tâm là tánh sáng chiếu
và tánh không, và rằng không có gì có thể làm cho bản tánh
này bất toàn hay ngăn trở. Làm ngăn trở, không cho chúng ta
thấy chân tánh của tâm chỉ duy là những cấu nhiễm biến
hiện. Chúng không thật sự hiện hữu; cấu nhiễm không có
tự tánh và do vậy chúng có thể được gỡ bỏ.
Sau
khi phân tích dựa theo hoặc là [giáo pháp] chuyển luân lần
thứ nhì hay thứ ba, phương pháp thiền tập thì như nhau: đó
là, an nghỉ và thư giãn trong bản tánh của bạn. Theo [giáo
pháp] kỳ chuyển luân thứ nhì, bạn thấy rằng thật tánh
của tâm thì xa lìa các khái niệm thêu dệt, và bạn chỉ
cần buông xả hết và an nghỉ thư giãn trong đó. Theo [giáo
pháp] kỳ chuyển luân thứ ba, bạn thấy rằng thật tánh của
tâm là tánh sáng và tánh không, và bạn chỉ cần buông xả
hết và an nghỉ thư giãn trong đó.
M:
Thế thì trông rất là hân thưởng, qua cách Thầy trình bày.
K:
Nếu có sự hân thưởng vui thích, thì cũng vẫn không có chấp
giữ nào vào sự hân thưởng đó. Nếu có an nghỉ thư giãn,
cũng không có chấp giữ nào vào sự an nghỉ thư giãn.
M:
Nhiều Phật Tử phương Tây trong mọi truyền thống đã đọc
các bài ca của Ngài Milarepa. Chúng tôi được cảm hứng và
say mê vì các bài ca này, nhưng không nhất thiết xem chúng
như giáo pháp có thể ứng dụng vào pháp tu tập. Thầy đã
dạy nhiều về các truyện và bài ca của Milarepa; Thầy còn
cho các bài ca này được dịch lại lần nữa và phổ vào
nhạc theo giai điệu phương Tây. Trong tất cả các nguồn từ
truyền thống Tây Tạng, tại sao Thầy nhấn mạnh về lời
dạy của Milarepa?
K:
Milarepa là vị thành tựu giả lớn nhất ở Tây Tạng. Trong
các vị thầy chứng đạo đã sống ở Tây Tạng, Milarepa là
người vĩ đại nhất. Ngài thành Phật chỉ trong một kiếp
với một thân xác: ngài thanh tịnh các cấu nhiễm của nadi,
prana và bindu (3) và đạt toàn giác.
Milarepa
được gọi là học giả, tức người uyên bác. Ngài đã học
những gì? [Về] nghĩa quyết định, mà ngài đã bày tỏ trong
các bài ca. Do vậy, khi bạn dùng các bài ca của ngài như căn
bản để nghe, tư duy và thiền tập, bạn có sự hỗ trợ
thâm sâu và vi tế để khai mở tri thức.
Trước
kia, chúng tôi quen với việc hát các bài ca riêng lẻ, nhưng
bây giờ chúng tôi hát các bài ca chung với các truyện kể
liên hệ. Chúng tôi có khoảng 11 hay 12 chương đã dịch xong,
và nhiều chương trong đó là về chuyện Milarepa gặp các đệ
tử của ngài, đặc biệt là các nữ đệ tử của ngài, những
người rồi sau đó cũng tự chứng đạo. Các chương này đều
là các trợ giúp tuyệt diệu cho việc tu tập của chúng ta.
Bây giờ, người ta thích nghiên cứu và thiền tập, nhưng
họ cũng cần các giáo pháp cô đọng. Điều lớn lao về những
chương này là mỗi chương kể ra một chuyện đầy đủ về
Milarepa và một đệ tử nào đó, hay một nhóm đệ tử nào
đủ. Chúng đưa ra con đường đầy đủ từ đầu tới cuối,
từ khi các đệ tử lần đầu gặp Milarepa, kể lại chuyện
họ gặp nhau, cho tới những gì xảy ra khi họ tu tập và khi
Milarepa trao thêm cho họ những lời dạy. Do vậy, trong mỗi
chương có một pháp tu hoàn tất. Và các bài ca đều rất
thâm sâu. Hãy nhìn vào một bài ca, như bài “Chân Dung Chân
Thật Của Trung Đạo” (The Authentic Portrait of the Middle Way),
và xem có bao nhiêu thật sự trong đó. Thật tuyệt diệu.
Khi
chúng ta hát đêm qua, “E ma, hiện tượng ba cõi luân hồi,
trong khi không thật có nhưng vẫn đang xuất hiện, thật là
tuyệt diệu không ngờ.” Chỉ mới có hai dòng thôi đó, nhưng
nếu bạn biết ý nghĩa của hai dòng chữ này, ứng dụng của
nó là vô tận.
M:
Các bản dịch của các bài ca và truyện này mà chúng ta thường
biết tới thì lại trau chuốt trong ngôn ngữ triết học cao
siêu. Một trong những điều tôi thích thú – và thấy hiệu
quả – là việc Thầy cho dịch lại bằng ngôn ngữ trực
tiếp, đời thường. Bởi vì khi Thầy nghĩ về nó, những
bài ca này thường được hát cho những người mù chữ và
trong giai điệu bình dân của thời đó.
K:
Đúng vậy. Đó là cách Milarepa thực sự đã hát lên các bài
đó, trong những chữ dễ hiểu và để dân chúng có thể hiểu
được. Và thực sự hát những bài ca này đưa ra năng lực
đặc biệt, bởi vì chính Milarepa đã hát lên chúng. Khi chúng
ta hát các bài này lên, chúng ta liên hệ tới chúng trong cùng
cách mà Milarepa và các môn đệ ngài đã hát. Điều đó đưa
tới sức mạnh của ân sủng và sức mạnh của liên kết.
M:
Đối với tôi thì như dường rằng Thầy đang tự hiến mình
vào việc thiết lập một truyền thống tu trì Phật Giáo đầy
đủ và thuần chất ở Phương Tây. Vậy thì, cái gì là yếu
tính của đạo lộ tu trì mật bộ?
K:
Cốt tủy của truyền thống tu trì là, các khổ đau và cảm
xúc loạn động sẽ không bị gạt bỏ; mà nên là, hành giả
sẽ thiền tập về tánh thật của chúng. Trong cách này, chúng
được tự giải thoát, bởi vì khổ đau và cảm xúc loạn
động là tự sinh khởi và tự giải thoát. Do đó, hành giả
cần tu tập trong việc hiểu biết về nghĩa của tự sinh khởi
và tự giải thoát, tu tập trong pháp thiền tự sinh khởi và
tự giải thoát, và tu tập trong cách xử thế tự sinh khởi
và tự giải thoát. Đó là toàn bộ pháp tu. Bạn có hiểu
không?
M:
Không. [Cười.] Nhưng, “tự giải thóat” có nghĩa là gì?
K:
Sự so sánh thường dùng là hình ảnh một làn sóng khởi lên
và tan biến trở lại vào đại dương. Đó là một so sánh
tốt, nhưng nó thực sự như thế nào thì lại là điều mà
bạn phải kinh nghiệm cho chính mình. Như Drogan Sombuyagada nói,
“Khi bạn thấy trên một đại dương trong suốt, sáng rõ
tuyệt đẹp, với các lượn sóng khởi lên và biến tan trở
lại vào đại dương, bạn không biết rằng đây là vị đạo
sư đang giảng dạy cho bạn rằng các niệm chính là pháp thân?”
Tự sinh khởi và tự giải thoát có nghĩa rằng, khi niệm khởi
lên, nó y hệt một lượn sóng khởi lên từ đại dương của
sự trong sáng chiếu diệu. Và nó tan biến trở lại vào sự
trong sáng chiếu diệu đó. Nó không bao giờ xa lìa bản tánh
của sự trong sáng chiếu diệu, y hệt như sóng không bao giờ
rời nước.
Một
cách căn bản, như thế có nghĩa là, bất cứ thứ gì xuất
hiện đều luôn luôn là sự chiếu sáng. Thí dụ, niệm của
bạn không tới từ bất cứ nơi nào, và chúng không đi bất
cứ nơi đâu. Nhưng, cùng lúc, chúng xuất hiện và chúng hiển
lộ. Do vậy, hiện tướng đó, sự sinh khởi đó, được gọi
là tự sinh khởi và tự giải thoát bởi vì không có gì khác
hơn chính sự chiếu sáng đó nó tự giải thoát.
[Hát]
“Niệm không tới từ bất kỳ đâu, và chúng không đi bất
cứ nơi nào, thế nên làm sao chúng có thể là bất cứ thứ
gì khác hơn cái tự sinh khởi và tự giải thoát? Y hệt như
sóng trên đại dương.” Đó là cách nó là.
Milarepa
nói rằng niệm và hiện tướng của ma quỷ thì tự sinh khởi
và tự giải thoát. Cách ngài nói là thế này, “Cái xuất
hiện như là, được nhận thức như là, và được nghĩ tới
như là một bóng ma – bất cứ khi nào những thứ này xuất
hiện, từ người hành giả chúng xuất hiện; và bất cứ
khi nào chúng tan biến, vào người hành giả mà chúng tan biến.”
(LND.
Câu trên dịch theo sát nguyên văn, “What appears as, is perceived
as, and is thought of as a ghost – whenever these appear, from the yogi
they appear, and whenever they dissolve, into the yogi they dissolve,”
chỉ đổi một dấu ngắt câu để tránh nhầm lẫn. Nhưng
nếu dịch dài dòng hơn thì sẽ sáng nghĩa hơn, như “Cái
xuất hiện như là một bóng ma, cái được hành giả nhận
thức như là một bóng ma, và cái được hành giả nghĩ tới
như là một bóng ma – bất cứ khi nào những thứ này xuất
hiện, chỉ là từ hành giả mà chúng xuất hiện; và bất
cứ khi nào chúng tan biến, thì chính là chúng tan biến vào
[tâm] hành giả.”)
M:
A mà, câu hỏi kế tiếp phải là, làm cách nào hành giả tu
tập trong cách như thế.
K:
Để hiểu nguyên tắc của tự sinh khởi và tự giải thoát,
bạn phải tu tập trong cái nhìn thâm sâu của Đại Thủ Aán,
trong thiền tập thâm sâu của Đại Thủ Aán, và rồi nối
kết mọi thứ bạn làm vào với nó.
Thí
dụ, nếu bạn rất mệt và tâm bạn nặng nề và mờ tối,
bạn đừng gạt bỏ hoàn cảnh này. Thay vào đó, bạn hãy
cứ ngủ đi, và bạn thiền tập về tánh thật của giấc
ngủ, vốn là tánh chiếu sáng. Vị đại thành tựu giả Lavapa
đã thiền tập bằng cách ngủ trên các lề đường trong mười
hai năm, và trong cách đó Ngài đã chứng ngộ Đại Thủ Aán.
Toàn thể thời gian Ngài ngủ, Ngài đều thực sự thiền tập
trong tánh trong sáng chiếu diệu.
Nếu
bạn vào sự chắc thật trong cái nhìn thâm sâu của Đại
Thủ Ấn, bạn sẽ biết tự sinh khởi và tự giải thoát nghĩa
là gì, và bạn sẽ vui hưởng trong khi thiền tập. Khi bạn
có kinh nghiệm trực tiếp, có chứng ngộ trực tiếp, thì
bạn thực sự là một hành giả. Rồi thì bạn thực sự hiển
lộ như là tự sinh khởi và tự giải thoát.
(LND.
Dòng cuối của đọan trên, “Then you actually manifest as self-arisen
and self-liberated,” cũng là tông chỉ của Thiền Tông, bởi
vì bấy giờ thì tất cả mọi biến hiện trong tâm hành giả,
cho dù là tham sân si hay bất cứ gì, đều thấy ngay được
là như mây tự sinh khởi và rồi tự tan biến trong bầu trời
không tánh của tâm chiếu diệu. Trong Kinh Tạng Pali, Phật
cụ thể đã dạy Ngài La Hầu La hãy để tâm như hư không,
như dòng sông, như mặt đất… Vì các pháp vô tự tánh như
thế, nên điều khó chỉ còn là chỗ, làm sao thấy tánh vô
sở trụ của tâm, thì tự khắc giải thoát, mà không cần
trừng tâm hay quán tịnh gì.)
M:
Cho nên, nguyên tắc chính là, có những kỹ thuật cụ thể
để dựa vào đó tất cả các trạng thái của tâm có thể
được thiền tập vào đó và đưa về lại con đường...
K:
Đúng vậy. Khi bạn khéo léo và sử dụng các phương pháp,
thì tất cả các trạng thái của tâm có thể là bằng hữu
của bạn. Tất cả trạng thái của tâm có thể thành bạn
của mình, khi mình nhận ra rằng tánh thật của tâm thì tự
sinh khởi và tự giải thoát, rằng tất cả trạng thái của
tâm thực sự giống y hệt nhau – chúng tự sinh khởi và tự
giải thoát.
M:
Thầy nhấn mạnh vào việc học hỏi nghiên cứu, đặc biệt
về pháp lý luận của Long Thọ và Nguyệt Xứng, và các luận
sư khác của Trung Luận Tông. Làm sao mà pháp lý luận này
lại dẫn tới kết quả chứng ngộ, điều phi khái niệm tuyệt
đối?
K:
Hành giả không cần dẹp bỏ các niệm. Hành giả không cần
xua đuổi các niệm, bởi vì các niệm trong bản tánh thì tự
sinh khởi và tự giải thoát. Theo giáo pháp thời chuyển luân
lần thứ nhì, vừa khi niệm sinh khởi, chúng không gì khác
hơn là sự tự do xa lìa khỏi các thêu dệt nghĩ tưởng. Tánh
thật của chúng thì vượt ngoài khái niệm – như chúng xuất
hiện và như chúng được giải thoát, tánh thật của chúng
thì vượt ngoài khái niệm. Theo giáo pháp thời chuyển luân
lần thứ ba, khi niệm sinh khởi, chúng là bản tánh của sự
trong sáng chiếu diệu. Hệt như chúng sinh khởi và hệt như
chúng được giải thoát, chúng là bản tánh của sự trong
sáng chiếu diệu. Và theo mật bộ Đại Thủ Ấn, khi niệm
sinh khởi, bản tánh của chúng là Cái Rỗng Rang An Lạc, và
khi chúng được giải thoát, bản tánh chúng là sự an lạc
và sự rỗng rang.