Mục Lục- Lời Tựa
Lược truyện tác giả
Chương I: Cảnh ngữ khai thị người mới phát tâm tham thiền
Chương II: Bình luận cảnh ngữ của cổ nhân khai thị
Chương III: Cảnh ngữ khai thị lúc nghi tình phát chẳng khởi
Chương IV: Cảnh ngữ khai thị lúc nghi tình pháp khởi
Chương V: Cảnh ngữ khai thị thiền giả tham công án
Phụ lục: Thiền sư Bác Sơn khai thị về giải ngộ và chứng ngộ
.
Thiền Sư Bác Sơn
THAM THIỀN CẢNH NGỮ
Dịch Gỉa Thích Duy Lực
LƯỢC TRUYỆN TÁC GIẢ

Hòa thượng Bác Sơn (1575-1630), họ Sa, tên Đại Hy, tự là Vô Dị, người đời thường gọi là Ngài là Thiền sư Vô Dị. Sư năm 16 tuổi phát chí xuất gia, đến chùa Ngõa Quan ở Kim Lăng nghe giảng kinh Pháp Hoa, cảm khái than: “Cầu điều đó ngay nơi mình, há có thể đuổi theo câu văn mà được ư!”

Sư bèn bỏ đi Kiến Vô lễ Pháp sư Ngũ Đài Thông cạo tóc xuất gia. Đầu tiên tu tập Chỉ quán. Sư ngồi tu dưới cội tùng chẳng biết ngày đêm, muỗi mòng bu đầy trên thân như cắn cây khô, bên trong chẳng biết có thân tâm, bên ngoài chẳng thấy có núi sông đại địa, trải qua năm năm, dù lạnh dù nóng cũng không ngừng nghỉ.

Sau đó, Sư đến Pháp sư Hồng, ở núi Siêu Hoa thọ giới Tỳ kheo, nghe nói Đại sư Thọ Xương Huệ Kinh ở núi Nga Phong xiển pháp của Tào Động, Sư qua yết kiến, thấy ngài Thọ Xương đầu đội nón lá, vác cuốc giống như người nhà nông, tâm bèn sanh nghi. Sư bỏ đi về đất Mân (Phước Kiến) ở núi Bạch Vân Phong ba năm, viết thư trình sở đắc lên Thọ Xương. Thọ Xương viết thư phúc đáp rằng: “Đó chẳng phải là đệ nhứt nghĩa”. Sư mới biết mình lầm, bèn đốt thư đi. Sư càng để tâm vào tông thừa, xem lời của Thuyền Tử nói: “Chỗ ẩn thân không tung tích, chỗ không tông tích chớ ẩn thân”, nghi tình liền phát khởi, đến nổi quên ngủ quên ăn trải qua hơn một năm. Một hôm Sư xem Truyền Đăng Lục thấy Triệu Châu bảo Tăng rằng: “Phải ra ngoài ba ngàn dặm gặp Thiện tri thức mới được”. Sư bất giác tỉnh ngộ, như bỏ được gánh nặng ngàn cân, tự cho rằng đại ngộ, chạy đến yết kiến Thọ Xương, Thọ Xương chẳng công nhận. Sư mới hổ thẹn, từ đó y chỉ Thọ Xương nổ lực cầu đạo đến nổi thân hình khô héo, mặt mũi nám đen, còn da bọc xương mà tinh tấn chẳng lùi.

Một hôm, Thọ Xương nhận lời Ngọc Sơn thỉnh muốn Sư cùng đi, Sư từ chối. Thọ Xương nói: “Hôm nay có người thuyết pháp cho ông nghe chóng làm cho ông ngộ”. Sư mới chịu đi. Dọc đường luận về chỉ thú ngũ vị quân thần, Sư nói lưu lót chẳng ngừng, Thọ Xương đều công nhận, rồi hỏi lại Sư: “Như lời Phật Ấn nói con kiến biết tìm chỗ tanh đến, ruồi xanh hay đến chỗ thối tha là thuộc về quân vị hay thần vị?”

Sư đáp: Thuộc về thần vị.
Thọ Xương quở: Sẽ có người cười ông.
-Tại sao trước nói phải mà bây giờ nói chẳng phải?
-Một chẳng phải thì tất cả chẳng phải.
Đến Ngọc Sơn, Sư ngồi kiết già trên tảng đá, bỗng nghe tượng Hộ Pháp Già Lam ngã xuống đất, trong tâm hoát nhiên, vội làm kệ tụng trình Thọ Xương:

Ngọc Sơn dụ nhứt ngôn
Tâm hưu ngũ lộ tuyệt
Kỳ đà huyền giải hội
Như phất thang nghiêu tuyết
Một ba tỷ kim châm
Hảo nhân duyên thời tiết
Mai nhụy đỉnh khô chi
Đào hoa khai cửu nguyệt
Xúc mục như hưu biện biệt
Cấp thủy than đầu phao thảm can
Nịch sát vô hạn anh hùng khách.

Dịch nghĩa:

Ngọc Sơn dạy một lời
Tâm dứt, ngữ ngôn bặt
Bao nhiêu hiểu huyền diệu
Như tuyết gặp nước sôi
Kim vàng không lỗ trôn
Nhân duyên thời tiết tốt
Cành khô sanh hoa mai
Hoa đào nở tháng chín
Đầu ghềnh nước đổ ném gậy dò
Chìm chết vô hạn anh hùng khách.

Thọ Xương nói: “Một đến nhiều cửa, lại đến cửa. Bởi vì tâm trí giải tuyệt mà mạng căn chưa dứt”.

Sư càng tự cố gắng, ở riêng trong Tông thừa đương ngày đêm chẳng chịu ngủ nghỉ. Một hôm, Sư đi cầu xí thấy người leo cây bèn ngộ chí đạo, chạy đến yết kiến Thọ Xương, vừa vào cửa liền lễ bái.

Thọ xương hỏi: Ngày gần đây như thế nào?
Sư đáp: Có con đường sống chẳng cho người biết.
-Vì sao chẳng cho người biết?
-Chẳng biết, chẳng biết.
Thọ Xương nhắc lại công án: “Bà già đốt am đuổi Tăng” và hỏi “Thủ đoạn bà già như thế nào?”
Sư đáp: Vàng ròng thêm màu mà thôi.
Thọ Xương lại cử câu: “rồng gầm, cọp rống”, bảo Sư làm kệ tụng.
Sư liền cầm bút lập tức viết:

Sát hoạt tranh hùng các hữu kỳ
Mơ hồ nhục nhãn hạt năng tri
Thổ quang bất toại thời lưu ý
Y cựu xuân phong trục mã đề.

Dịch nghĩa:

Giết cứu tranh hùng đều diệu kỳ
Mơ hồ mắt thịt đâu thể hay
Nói ra chẳng toại lòng ai cả
Du xuân gió mát vẫn y xưa.

Thọ Xương cười nói: Ông hôm nay mới biết ta chẳng dối gạt ông.
Sư hỏi: Về sau còn có việc gì nữa hay không?
-Lão Tăng chỉ biết mặc áo ăn cơm.
-Há không có phương tiện ư?
-Ông về sau được ngồi mặc áo, không còn tính toán là đủ rồi. 
Thọ Xương bèn nói kệ truyền pháp:

Bổn nhiên thanh tịnh hằng như nhiên
Khế chứng đa sanh trị hữu duyên
Xúc mục hổn dung giai chi điệu
Thông thân tác dụng tổng hư huyền.
Ngũ tông cực tắc cơ tề quán
Tâm tạng tinh vi lý cộng viên
Bất ngại cổ kim phàm thánh sự
Như Lai thiền hợp Tồ Sư thiền.

Dịch nghĩa:

Xưa nay thanh tịnh hằng như nhiên
Khế chứng nhiều đời gặp hữu duyên
Chạm mắt hổn dung đều chí diệu
Toàn thân tác dụng thảy hư huyền.
Năm tông cực tắc cơ đồng quán
Ba tạng tinh vi lý cũng viên
Chẳng ngại xưa nay việc phàm thánh
Như Lai thiền hợp Tổ Sư thiền.

Lại phó chúc thêm: “Hãy lấy vô tâm tương tục làm chánh dụng, tận pháp hành trì, đền đáp cái ơn chẳng thể báo đáp bằng cách làm lợi ích cho người chánh tín có duyên”. Lúc ấy Sư mới 27 tuổi.

Sư qua Nga Hồ thọ giới Bồ tát, ở lại sáu tháng rồi trở về đất Mân, nhận lời mời thỉnh đến Viện Tổ Ấn ở Tín Châu, sau đó Sư dời về Bác sơn, bèn trao cho Sư cái nghi quỷ thọ giới để làm Luật sư. Từ đó Thiền Luật song hành, tông phong rất hưng thạnh. Miền Bắc đến Yên Đô (Bắc Kinh), miền Nam đến tận Giao Chỉ (Việt Nam), người nghe tiếng Sư mỗi năm tìm đến có hàng ngàn.

Sư đã từng nhận lời mời đến chùa Thiên Giới ở Kim Lăng (Nam Kinh) thuyết pháp. Chùa ấy rộng mấy mươi dặm, có thể dung nạp mấy trăm vạn người, lúc ấy nón giày vân tập chùa thành ra nhỏ. Tổn phí cơm nước mỗi ngày hơn bạc vạn mà mỗi người chỉ được ăn một chén cơm với vài cọng rau mà thôi.

Niên hiệu Sùng Trinh năm Canh Ngọ (1630), Sư từ Kim Lăng trở về, tự nói: “Ta xuất thế quá sớm thì tạ thế cũng sớm”. Sư bèn sai đệ tử xây tháp. Kiết hạ, Sư trước tác Tông Giáo Thông Thuyết một quyển, trình bày hết những điều huyền ảo, sách viết chín tháng mới xong. Sư bèn thị hiện có chút bệnh, đến nửa đêm ngày 17; Sư gọi Thủ tọa Trí Mẫn đến giường dặn dò áo nghĩa Tông thừa rồi cười.

Thủ tọa hỏi: Hòa thượng an chăng?
Sư đáp: Được chút thọ dụng.
-Còn có cái chẳng bệnh chăng?
-Nóng làm sao ấy!
-Đến đi tự tại thế nào?

Sư đòi bút, viết bốn chữ lớn “Rõ Ràng Phân Minh”, rồi ném bút, ngồi tịch. Sư thọ 66 tuổi đời, 41 tuổi đạo.

Pháp tôn là Hoằng Hàn, Hoằng Dũ gom góp Ngữ Lục của Sư thành Quảng Lục ba mươi hai lăm quyển lưu hành ở đời (xem Tục Tạng Kinh).

Năm sau, Ngày 21 tháng 10 năm Tân Vị (1631) đem toàn thân Sư nhập tháp trên ngọn Thê Phụng Lãnh ở phía Tây chùa. Sư để lại ngôn thuyết Pháp thân chia làm chín loại, trong đó bộ Tham Thiền Cảnh Ngữ là kinh nghiệm của chính Sư đã trải qua, vì người phát tâm Tối thượng thừa, chỗ đau châm trên mũi dùi, lúc trợt thì đưa gậy cho nắm, thật đáng là linh đơn thay xương đổi cốt vậy.
 
 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

học phật 18 sự thật khiến bạn mạnh mẽ hơn chốn luãƒæ n 不可信汝心 汝心不可信 Mưa Cảnh ç Tự nấu nước mát giải nhiệt viên có nên tu tập trong hoàn cảnh ở đà そうとうしゅう Đọc kinh Trần Nhân Tông Sở đắc giải mát Trưởng thế Tổ TÃƒÆ tức về NhÃƒÆ ï¾ Khu biệt giam Chín hầm của họ Ngô khong gian ba chieu cua hy xa cẩm nang vào đời cho người phật tử Bỏ những thói quen xấu để sống vui Hoài niệm Hòa Thượng Thích Trí Thủ Cách rửa 4 loại quả 観世音菩薩普門品偈 Vua đầu bếp Yan Can Cook nói Khứ lai vô ngại hạnh phúc chân thật là gì Tuyệt thức Mùa xuân nơi cô ng chùa tiếng chuông chùa rượu quÃƒÆ Trà cột Lợi ích mới của Thiền định Làm bánh hạt sen đón Tết Hạnh nước mùi vị nước KhoẠlùi