Tổ Sư Thiền - Nhất Thiết Pháp Vô Ngã, Nhuận Bảo

 


 
.
NHẤT THIẾT PHÁP VÔ NGÃ
Nhuận-Bảo
Có ông bạn, nguyên là kỹ-sư, đã về hưu nhiều năm, nay cuối đời chỉ chuyên tâm một việc là nghiên cứu Phật pháp và tu hành. Ông ấy gởi thư hỏi người viết hai câu, xin được tóm tắt đại ý như sau: 

"Thứ nhứt, vì sao gọi "tất thảy pháp là vô ngã", không phải thật có, trong khi trước mắt, cái gì cũng có, cũng thật cả. Thứ hai, vì sao chỉ một câu tuyên bố đầu tiên của đức Phật "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn" mà có lắm người giảng giải, đôi khi ý tứ trái ngược nhau đến trăm tám chục độ, khiến không biết phải hiểu thế nào là nghĩa đích thực mà đức Phật muốn gởi gắm trong tám lời đó?". 
 
Câu hỏi của ông bạn thật hay, thể hiện cái nhìn sâu xa từ cái tâm đang khát khao tìm cầu chân lý. Bên cạnh đó dường như trong câu hỏi ẩn chứa một nỗi niềm, mà, nếu tôi đoán không lầm thì có lẽ đó là nỗi lo sợ cho tính trong sáng của chân lý giải thoát của đức Phật bị bóp méo, bị làm vẩn đục, bị sanh tử hóa, bị người ta cố tình lái đi lệch hướng vì mục đích phàm tình, vị ngã, trói buộc. Không biết tôi nói như vậy có đúng như ý nghĩ của ông bạn không?.  

Ông bạn thân mến !   

Đối với Phật đạo, tôi cũng chỉ là một Phật tử sơ cơ, đang trên đường tu học như bạn và như những người bạn khác của chúng ta mà thôi. Vả lại, biển pháp mênh mông không ngằn mé, còn cái học của con người, nhất là đối với một kẻ thiểu trí, ngu mê như tôi, chỉ như một chiếc lá, một bọt nước nhỏ nhoi trên đại dương bao la. Tuy nhiên, vì bạn đã tin tưởng mà hỏi thì tôi cũng hoan hỉ và thành tâm trả lời cho bạn với tất cả những gì mà tôi có thể .  Mong rằng, nhờ chút duyên lành cỏn con này, tôi có thể đáp đền một phần nào trong muôn một đối với đại ân đại đức của chư Phật đã ban phát diệu pháp giải thoát cho chúng sanh các cõi, trong đó có mảnh thức biết mê lầm từ lâu đã lìa bỏ Phật tâm thanh tịnh, tự trói buộc vào vọng nghiệp tử sanh, nhị nguyên nhơn quả, cũng là tôi bây giờ đây, được hữu duyên tỉnh giấc mê dài. 

***

ITự thỉ uyên nguyên, Phật và chúng sanh đồng một tâm, là cái "Tâm Biết" tuyệt đối, chơn thường như nhứt, không thiếu cũng không dư, không hơn cũng không kém. Tự thể của tâm biết là không một tướng nào, là "Như", như hư như thật, như có như không, rổng rang, vắng lặng, không sáng cũng không tối, không đến cũng không đi, không mê cũng không ngộ.  Tự tánh của tâm biết tuyệt đối là "không-biết", là "", là vô-tri, vô-tâm, là không có đối tượng để biết, là không có gì không biết. 

Nói đồng một tâm, cũng tức là chỉ cái thể tánh trọn thanh tịnh, là chơn tâm, chơn ngã, gọi sao cũng được, cũng chỉ một nó, mà trong đây một chút pháp "có" cũng không, một chút pháp "không" cũng không thể có, là trong trẻo, tuyệt đối, không gì có thể là hai, là khác.  Tâm Phật-chúng sanh nguyên ủy, chơn không, rỗng lặng mà cực linh cực diệu, hay khéo sanh muôn pháp. 

Tự thỉ trong đây, không một pháp có thể gọi rằng được hay không được, vì tự tâm Phật-chúng sanh thường hằng, chơn không, như nhứt. Nói thường hằng là tạm mượn từ ngữ để chỉ thể tánh tự tại, không đến đi, không sanh diệt của Phật tâm. Nói như nhứt là chỉ tâm Phật, tâm chúng sanh chưa từng rời lìa nhau. Nói chơn không cũng chỉ là một cách nói, một cách miễn cưỡng mượn tính khái niệm của ngôn ngữ cùng ý thức nhị nguyên sanh diệt của loài người để tạm đặt tên, diễn tả hay chỉ trỏ về một cái gì đó không hình tướng, chơn thường, rỗng lặng, không đến không đi, không thêm không bớt, không mất không còn, mà chúng sanh hữu tình ai ai cũng tự sẵn có, nhưng lại hoàn toàn không thể "biết" được. Không ai có thể biết được "nó". 

Tự thể "cái gì đó" cùng với cái thức tâm phân biệt, lăng xăng, thường biến, có đến đi, sống chết của chúng sanh, trong từng mỗi giây phút, trong từng mỗi nhứt cử nhứt động, tự vào ra thông lưu trong nhau vô ngại, nhưng lại thiệt chẳng phải một, chẳng phải hai, cũng không phải khác, vì thế không ai có thể biết được nó. Thí như con mắt và cái thấy. Cái thấy không phải ở trong, ở ngoài hay ở giữa con mắt. Cái thấy thông lưu vô ngại cùng con mắt, nhưng con mắt và cái thấy không thể bảo là một, nhưng cũng chẳng phải thiệt hai, cũng không phải là cái gì khác. Con mắt thấy tất cả những gì ngoài nó, hay nói một cách tương đối chính xác hơn, nếu dùng phương tiện là gương soi thì con mắt cũng có thể thấy cái bóng ảo bên ngoài của nó, chỉ bên mặt ngoài của cái bóng ảo thôi, mà không thể thấy cái tánh thấy của chính nó.  

Cũng vậy, thức tâm của chúng sanh, cũng là thức biết, là tướng huyễn hóa duyên sanh từ cái tâm biết linh diệu, tuyệt đối.  Thức này cũng rất linh diệu, biến hiện vô thường, có thể biết nhiều thứ rất khó biết, trừ ra chính cái tánh "biết" của nó thì nó không thể biết. Bỡi một khi cái tánh biết, cũng là cái tâm biết tuyệt đối của Phật-chúng sanh được biết, thì cái biết vọng (thức tâm) và cái được biết kia (tánh biết chân thật) liền là một, là tuyệt đối, là như bóng thể nhập một với hình, ngay sát na đó cũng chính là sự trở về nguồn cội, trở về với cái tâm biết của dòng thức biết huyễn hoá đã lưu lãng vô định từ lâu đời lâu kiếp theo nghiệp vô minh. Thức biết ấy không là gì khác, mà chính là bóng dáng huyễn hoặc của cái tâm biết tuyệt đối cực linh, cực diệu biến sanh. Những mảnh thức tâm kia, từ thuở bất giác trùng trùng duyên sanh từ tánh biết, nhờ không mất tính linh diệu bổn lai, đã tự kết buộc với thế giới huyễn hoặc, vọng sanh vọng diệt do chính thức biết ấy vọng động tạo tác. Không có thức biết này thì sẽ không có thế giới chúng sanh, không có vọng nghiệp nhơn quả. Sơn hà, đại địa, hàm linh hữu tình, vô tình, …vv, tất thảy mọi pháp tướng sanh diệt, biến hiện đều từ một thức biết này vọng lập, biến sanh, pháp pháp trùng trùng, đầy khắp các cõi. Không có thức biết này, tất thảy đều không, là chơn không, chơn ngã, là thể tánh tuyệt đối, không một pháp có thể được. Những mảnh thức biết ấy, bôn ba lưu lãng, tự trói buộc vọng cảnh, vọng nghiệp nhơn quả, mê muội quên mất đường trở về lại cái tâm biết tuyệt đối, cũng là cái tâm không biết.  Một khi về lại bổn tâm nguyên ủy, tức thể nhập bản thể chơn thường như nhứt, thì không còn gì có thể là hai là khác trong đây nữa, cũng là tự "một" với tánh biết ban sơ, cũng là tánh "không biết", cũng là "một" với cái tâm "vô", vô tri, vô ngôn, vô ngã, vô tâm, vô sanh. Một khi chợt biết như thật cái tâm biết tuyệt đối kia, thì ngay đó tánh năng-biết liền tự "một" cái tâm biết ấy, tuyệt đối, tất thảy vắng lặng, vô ngôn, vô tri, cũng là đồng một cái tâm "vô". Thí như uống nước nóng lạnh tự biết mà không thể nói năng, mô tả một cách đúng như thật cái cảm nhận nóng lạnh ấy. Nên nói, không ai có thể biết được "nó" là vậy đó. Còn những gì chúng ta đang nói về "nó" đây, cũng chỉ mang tính khái niệm, như nói trong giấc chiêm bao mà thôi, hoàn toàn không phải như thật "như-chính-nó-là".  

Nguồn cội này chính là chỗ mà đức Phật đã dành trọn bốn mươi chín năm, bằng với tất cả mọi phương tiện thiện xảo có thể được, để quyền biến chỉ đường cho chúng sanh tỏ ngộ một nó. Nhưng vì nó là cái toàn thể tuyệt đối, không gì không phải là chính nó, nên không ai có thể biết được nó. Vì mọi quan năng, tình tưởng, tri thức không thể với tới nó, không thể tiếp cận được nó, nên không ít lần đức Phật đã nói xa, nói gần để dẫn dắt trong một chừng mực nào đó mà ngôn ngữ của loài người có thể làm được, về cái chỗ bất khả thuyết, bất khả tư nghì ấy: "Suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp mà môi ta chưa hề động". Hoặc là "Người nào nói ta có thuyết pháp là kẻ ấy chê Phật". Ý chỉ của đức Phật thầm hé lộ về chỗ không gốc gác, thâm sâu, cao viễn, nhưng cũng là nguồn cội vô sanh, chứa đựng trong những lời này và những lời tương tự khác, chính thiệt là kho tàng vô giá, không gì có thể sánh được mà Ngài cũng như những vị Phật khác trong vô lượng kiếp trước đó đã ân cần gởi gắm lại cho chúng sanh.  

Bằng sự hiểu biết nông cạn về Phật pháp, cũng như với chút kinh nghiệm tu học hời hợt của mình, tôi mạnh dạn đề nghị rằng, những người căn cơ, trí tuệ và có phúc phần vào hàng bậc thượng nên mượn những lời vàng ngọc trên của đức Thế tôn dùng làm những Công-án Thiền để tham hỏi hầu trực ngộ tự tánh vô sanh, cũng là sáng tỏ cái tánh biết tuyệt đối của Phật tâm. Thể nhập cội nguồn vô sanh thì vô diệt; vô sanh vô diệt là viễn ly nhơn quả vọng nghiệp, là giải thoát vọng thức sanh tử, là tịch tịnh Niết-bàn. Cho nên chúng sanh còn một chút thức biết, một chút vọng biết vướng mắc khái niệm nhơn quả nhị nguyên, thì không ai có thể thật biết được "nó". Một khi tự chặt đứt được tất cả mọi vướng mắc dây mơ rễ má với cái tâm vọng lập và trói buộc nhị nguyên nhơn quả, cũng là làm cùn mòn thức biết sanh diệt, thì trong đây tự thể rổng rang, vắng lặng, không một pháp có thể được, ngay đó là mỏm cuối cùng của đầu sào trăm trượng, chỉ cần buông tay bước tới một bước nưã là hốt nhiên thể nhập cội nguồn nguyên uỷ vô sanh. Đây là ranh giới mỏng manh nhứt, là chỗ thuận lợi nhứt, là con đường ngắn nhứt để thức biết sanh diệt trở về làm một cùng tâm biết tuyệt đối, cũng là chúng sanh tâm ngộ nhập Phật tâm, nên chư Tổ-sư Thiền-Tông mượn nó dùng làm chìa khóa để độ người căn cơ trí tuệ. Nhơn đó mà có pháp môn vi diệu, độc đáo ra đới, là Tổ-sư Thiền vậy.

Nói chơn, nói không đó, nhẫn đến nói không không, thì cũng chỉ là việc tạm mượn từ ngữ trong cảnh giới chúng sanh nghiệp thức để khái niệm thể tánh chơn thật của Phật tâm một cách tương đối mà thôi. Tri thức, tình tưởng cũng như ngôn ngữ phàm tình hoàn toàn không có khả năng để "biết" như thật "như-tánh-nó-là", vì tự thể nó đối với tri kiến loài người thì nó là "vô", là như thật như hư, như không như có, không một tướng nào, là phi đối đãi, là vô ngôn, bất khả thuyết, bất khả tư nghì. Cho nên sự nói năng, nghĩ tưởng, hay biết của hữu tình về "nó" hoàn toàn có tính cách tương đối, rất giới hạn, như gãi ngứa ngoài giày mà thôi.  

Tự thỉ uyên nguyên, Phật và chúng sanh đều chẳng hề có tên gọi, vì ngoài tự thể trong trẻo, tuyệt đối thì hoàn toàn chẳng có chút gì có thể lập thành trong đây. Một chút khái niệm mong manh như mỏm đầu nhỏ nhất của sợi tóc măng còn chẳng thể được, thì làm sao có thể có, dù chỉ là một chút ý tưởng thoáng hiện để có thể phân biệt là hai, là khác, là đối đãi, là gì gì trong đây. Thế nên không ai có thể biết được nó. 

Tự thỉ, tâm chúng-sanh đương thể như như, bất động là Phật tâm, cũng là cái tâm biết nguyên uỷ chơn thật, thường hằng, tịch lặng, không sanh, không diệt. Hốt nhiên vào một thuở xa xăm nào đó (người viết tạm mượn từ ngữ "thuở xa xăm" có tính cách chỉ thời gian lâu xa để chúng ta dễ hiểu mà thôi, chứ tự tánh vô sanh, bất biến và chơn thật, thì tự thỉ chí chung, chỉ gồm trong một niệm chơn chánh) chúng sanh trong đây vô cớ, bất giác động tâm, cũng là tánh biết tuyệt đối của Phật tâm bị dấy động, tức thì pháp pháp huyễn hoá từ tánh biết cực linh, cực diệu duyên sanh, biến thành thế giới vọng thức trùng trùng, và từng mỗi pháp là từng mỗi thức tâm hư huyễn, chu lưu biến khắp pháp giới. Những thức tâm này cũng chính là thức biết, nhưng mà là vọng biết, vọng sanh vọng diệt, chẳng phải thật có. Vì là những vọng pháp huyễn ảo, không phải thật có, không có tự tánh riêng biệt, nên nói tất thảy pháp vô ngã. Thí như tự nghịch ngợm nhấn mắt, thì liền thấy có hoa đóm xảy sanh trong không, muôn hình muôn tướng, nhưng ta biết là hoa đóm không phải thật có. Thế nhưng tự trong cảnh giới của hoa đóm, từng mỗi hoa đóm lại mê mờ, lầm chấp từng mỗi cá thể hoa đóm và các hoa đóm khác tương quan, tương tác là thật có. Cho nên nói, tất thảy pháp trước mắt chẳng phải thật không, cũng chẳng phải thật có, là vậy. Chúng sanh trong cảnh giới vọng thức, vọng nghiệp nhơn quả này cũng như thế, chẳng phải thật chúng sanh, mà chỉ tạm gọi là chúng sanh mà thôi. Cả sơn hà đại địa, cả thế giới này cũng vậy, đều là tướng huyễn hoá biến sanh từ thức tâm, chẳng phải thật có. Thế nhưng vẫn gọi đó là chúng sanh, vẫn gọi đó là thế giới. Có nghĩa là, nếu được ngắm nhìn từ góc độ chơn thật của cái tâm biết, thì những chúng sanh đó chính là các thức tâm huyễn vọng, là những bóng hình ảo hóa duyên từ trong tánh biết bị dấy động mà tuông sanh. Chúng sanh huyễn sanh, huyễn diệt, không có tự tánh, nên nói không thật có, là phải. Thế nhưng, nếu những chúng sanh kia được ngắm nhìn từ bỡi chính những chúng sanh ấy, cũng là những thức biết biến sanh, trong cảnh giới nhị nguyên do chính thức biết vọng biết, vọng lập, như chúng ta đang nói chuyện đây, thì không ai trong chúng ta có thể phủ nhận là không phải chúng sanh, hay chúng sanh ấy không phải thật có được. Cho nên mới nói, chúng sanh đó cũng chẳng phải thật không. Chỉ có điều, nếu từ trong thể tánh  chơn thật mà nhìn, thế  giới chúng ta đang sống chẳng khác cảnh giới trong mơ của những kẻ mê ngủ, chiêm bao, mộng mị. Trong kinh Kim-Cang Bát-nhã Ba-la-mật, đức Phật đã chỉ dạy một cách rất rõ ràng, rất chơn thật:"Chúng sanh đó, Như-lai nói chẳng phải chúng sanh, chỉ tạm gọi là chúng sanh mà thôi" cũng là nghĩa lý từ hai cái thấy biết khác nhau của thánh trí và phàm tình, mà nói chúng sanh chẳng phải thật có, cũng chẳng phải thật không, cũng là như có như không, là vọng sanh vọng diệt vậy. 

Những thức tâm kia rất linh diệu, vì đó là thức biết, nên thường hay vọng biết, vọng tác thế giới vọng nghiệp, vọng lập khái niệm để phân biệt theo nhị nguyên nhơn quả, vọng chấp chính nó cùng thế giới chúng sanh trong vọng thức (ngã, pháp) làm thật có, tự trói buộc nhau, nên mê mờ quên mất bổn tánh uyên nguyên. Từ chỗ lầm chấp ngã-pháp làm thật có nên liền có tứ tướng huyễn hoặc, sanh diệt hiện tiền (tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ mạng), tự trói buộc vào cảnh giới nghiệp quả tử sanh. Chúng sanh cứ thế sống chết, chết sống liên tục theo vọng nghiệp, khiến những chúng sanh cũng là những thức tâm kia, cũng là bóng hình của chơn tâm biến sanh, càng ngày càng tự xa lìa, càng tự cách biệt chơn tâm sâu thẳm hơn. Từ vô thỉ nhẫn đến ngày nay, những mảnh tâm thức ấy, cũng là những bóng dáng huyễn hoá cứ liên tục tạo tác, lặn ngụp trong cảnh giới vọng nghiệp nhơn quả, chịu khổ đau bất tận vì nghiệp thức.  Thí như người ngủ mê thấy chiêm bao, chấp cảnh giới trong chiêm bao làm thật có khiến thấy có vui buồn, khổ sướng, đến đi, sống chết liên tục trong vọng cảnh đó, ngày càng mê mờ tâm biết chơn thật. 

***

II.  Tự trong vọng thức nghiệp báo nhơn quả, chúng sanh không ai có thể biết được Phật tâm cũng là cái tâm biết nguyên uỷ mà ai ai cũng tự sẵn có. Không ai có thể biết được "nó" một cách như thật như "tự-chính-nó-là", vì nó hoàn toàn không phải là đối tượng để các dòng vọng thức huyễn hoặc, sanh tử, thường biến của thức tâm này có thể được biết, có thể tiếp cận, có thể với tới, trừ khi chúng sanh ấy biết mượn pháp Phật chân chính tu hành mà tự chuyển tâm mình. Tự chuyển tâm, tức chuyển từ thức biết huyễn hoặc, vọng sanh, vọng diệt trở về lại tâm biết chơn thường, là chuyển cái tâm vọng biết trở về Phật tâm nguyên uỷ, tức cái "tâm-không-biết" tuyệt đối, cũng là chơn tâm, chơn tánh, chơn ngã, chơn thường. Nghĩa là, nhờ pháp Phật nhiệm mầu dẫn dắt, cộng với sự tinh tấn nỗ lực tu hành một cách chân chính, khiến cái thức tâm vọng biết thường hay tạo tác vọng nghiệp nhơn quả đến chỗ cùn mòn, triệt tiêu, tự dứt sạch vọng thức nghiệp báo, nhường chỗ lại cho cái tâm rổng rang, tịch lặng dễ có cơ trở về lại bổn tâm nguyên uỷ, tức cùng chơn tâm "như-thật-một', là nhứt như, là pháp tánh như thị. Pháp Phật linh diệu nhiệm mầu, không giấy bút nào, ngôn ngữ nào có thể nói ra, có thể nghĩ tưởng được. Tuỳ tâm tạo tác nghiệp quả thiện ác, nặng nhẹ và tuỳ căn cơ trí tuệ duyên phần, phước đức của từng chúng sanh mà đức Phật đã phát minh hằng nhiều vạn pháp môn, chứa đựng trong mười hai phần giáo điển, cao thấp có ba Thừa, lâu mau có Giáo, có Tông, trí ngu có đốn, có tiệm, chậm lụt hay linh lợi có tiệm tu tiệm ngộ, có đốn ngộ tiệm tu vv…. và vv. Trong khuôn khổ một lá thư ngắn, ở đây người viết chỉ xin nói lướt qua để bạn biết được một cách đại khái các pháp tu mà thôi. Còn về phần nghiên cứu sâu xa thì hãy sáng suốt mà biết tuỳ thuận cơ duyên, phần phước, trí tuệ  của từng mỗi người mà tự chọn cho mình một pháp tu thích hợp. Mà dẫu chọn pháp nào đi nữa thì cũng chỉ có một đích đến, là giải thoát sự trói buộc của thức tâm sanh tử, thường biến, cũng tức là tự sáng tỏ bổn tánh chơn thật, cũng là trở về lại làm "một" Phật tâm nguyên ủy vô sanh. Vô sanh thì vô diệt. Vô sanh diệt là tịch tịnh Niết-bàn.    

Chơn tâm sẵn có trong từng mỗi chúng sanh, từ vô thỉ chí vô chung, đồng "một" Phật tâm không khác, không tên, không tuổi, không hình, không tướng, không đến, không đi, không sanh, không diệt, tịch nhiên, rổng lặng, lại hay khéo duyên sanh các pháp. Vì bổn tánh của tâm chơn nguyên cực linh cực diệu hay sanh muôn pháp, biến khắp pháp giới, nên từ vô thỉ, chỉ vì một niệm bất giác của chúng sanh trong đây dấy động, mà hốt nhiên biến sanh trùng trùng pháp giới, khiến chúng sanh (cũng là những mảnh tâm thức - thức biết) mê mờ bổn tánh thường hằng thanh tịnh, tự tuông chảy vào biển vọng thức, tự trói buộc cảnh giới vọng nghiệp từ chính vọng thức biến sanh. Do mịt mờ chơn tánh, cũng là tự quên mất tánh biết bổn lai, nên lầm chấp bóng hình biến sanh từ vọng thức làm thật có, vọng khởi chấp ngã chấp pháp, vọng lập năng biết sở biết, tự trói buộc nhị nguyên, mê lầm nhơn quả huyễn hoặc khiến phải tiếp nối tử sanh trong vô lượng kiếp vọng, kết buộc vào sáu đường, ba cõi, chín loài chúng sanh theo nghiệp báo, không biết đường trở về lại bổn tánh nguyên uỷ vô sanh. 

Tự tánh của tâm Phật-chúng sanh, chơn không, rỗng lặng mà cực linh cực diệu, hay khéo sanh muôn pháp, mà từng mỗi pháp pháp duyên sanh vẫn không hề mất tự tánh bổn lai. Tạm lấy sóng và nước làm thí dụ. Được gọi là sóng, tức các pháp tướng duyên sanh từ cái đại thể tĩnh lặng, nhứt như cũng là nhứt-hợp-tướng bất khả phân ly của biển nước. Nghĩa là mặt nước đang phẳng phiu vắng lặng của đại dương hốt nhiên gặp gió duyên thành những con sóng. Sóng sóng tiếp nối lên xuống, mất còn không ngừng nghỉ. Từng mỗi con sóng chỉ là những pháp duyên sanh, không có tự tánh nhất định. Hay nói chính xác hơn, tự thể của sóng chính là nước, là thể nước. Tự tánh của sóng không một tánh nào riêng biệt, mà là tánh ướt của nước. Tự tánh của một giọt nước, một hạt sương, cũng là tánh ước của biển nước. Biển nước vô hạn lượng chính là cái đại thể của từng mỗi con sóng, hay nói cách khác, từng mỗi con sóng lên xuống, mất còn, chưa từng rời lìa tự thể của biển nước. Biển nước không có gió duyên động thì không có sóng. Thế nên, sóng và nước không phải một, không phải hai, cũng chẳng phải khác . Sóng chỉ là những bóng dáng của nước duyên động mà thành, không có thật tướng. Tướng thật của sóng là không một tướng nhất định nào, là huyễn hoá, huyễn sanh huyễn diệt.  

Những con sóng tự quên mất bản thể nguyên uỷ của mình là nước, quên mất bản tánh chơn thật của mình là tánh ướt, tánh tự tại, bất biến. Sóng tự lầm chấp mình và thế giới sóng bên cạnh mình (ngã-pháp) làm thật có, rồi cùng với hàng hàng lớp lớp những con sóng khác xô đẩy nhau, nhô cao, xuống thấp, mất còn đến đi vô tận không ngưng dứt. 

Nếu từng mỗi con sóng tự ngộ ra bản thể chơn thật của chính mình cùng biển nước mênh mông kia là một, nghĩa là tự thể sóng cùng cái toàn thể nhứt hợp tướng không đến đi, không lên xuống, không mất còn kia không hai không khác, thật tánh của sóng chính thiệt là tánh ướt đặc trưng của thể nước, thì dẫu có sự lên xuống mất còn của từng con sóng trên đại dương, đối với tự chính nó, cũng chỉ là sự du hí thần thông trong nhứt thời vào cảnh giới biến hiện, ảo hóa, cũng là rong chơi trong cái toàn thể không đến đi, không mất còn của chính nó. Khi ấy sóng tự biết như thật, đại thể bất biến kia cùng nó là một, bất khả phân ly, không thể gọi là hai, là khác.  Sự đến đi, mất còn, cao thấp của từng mỗi con sóng chỉ là từ cái ý nghĩ chia cắt, phân biệt vọng lập, chứ tự thể nó cùng cái toàn thể kia bất khả chia lìa, không động tịnh, lên xuống, mất còn, không đến, không đi, vì tự thể chơn thật, bất biến của nó chính là nhứt hợp tướng bất biến. Biển nước bất biến mà tuỳ duyên khéo sanh muôn sóng, mà từng mỗi con sóng không hề đánh mất bổn thể chơn thật của nó là nước, bổn tánh chơn thật của nó là tánh ướt của nước. Hay nói chính xác hơn, nó tự ngộ ra rằng, từng mỗi con sóng chỉ là cái bóng dáng được duyên thành từ gió và mặt biển nước, sóng không phải thật có vì không thường hằng, tự tại, không đúng như thể tánh chơn thật của nó là biển nước. Bạn cứ theo đó mà tự suy gẫm ra để biết, rằng các mảnh thức tâm vọng sanh vọng diệt cùng cái tâm biết cũng có chỗ tương tự như sóng và nước vậy. 

Bổn tâm chơn nguyên phi sanh diệt, hay là chơn tâm, Phật tâm, Phật tánh, tánh biết bổn lai, vv…. đều là sự mượn từ ngữ để đặt tên, gọi thế nào cũng chỉ một nó, cũng đều có tính cách biểu thị theo khái niệm, còn thật tánh của nó, cũng là đệ nhất nghĩa, thì bất khả thuyết, bất khả tư nghì, mà ngôn ngữ, tri thức, tình tưởng của chúng-sanh-tâm chẳng thể với tới.  Cho nên, chợt khi nói về "nó", biết về nó, thì đối với người nói, người biết kia, nó tức khắc trở thành một pháp tương đối, không phải đúng như thật tánh "tuyệt-đối-nó-là". Một khi thật biết nó thì liền cùng nó không hai không khác, là tuyệt một, nên không thể mở miệng được. Chợt mở miệng hay động tịnh, nghĩ suy thì ngay sát na đó, liền cùng nó chia lìa, là ngàn trùng cách biệt 

Thế nên, khi vừa mới giáng sanh trong cõi này để thực hành đại nguyện từ bi cứu độ, tánh chơn linh đã được đặt vào miệng của bậc anh nhi Đại-Thánh-trí. Nghĩa là, theo truyền thuyết, vừa mới sanh ra từ hông mẹ, bậc Đại-Thánh-trí đã biết đi, biết nói. Vừa bước đi bảy bước trên bảy đoá hoa sen từ chơn không hiện ra nâng đỡ đôi chân, anh-nhi Tất-Đạt-Đa một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, dõng dạt tuyên bố trước trời người trên mặt đất: "Thiên-thượng, Thiên-hạ, duy Ngã độc tôn - Trên trời, dưới trời (dưới đất) chỉ có "Ngã" là độc nhất tối tôn, tối thượng". Cái từ "Ngã" được Ứùng-Hoá thân của một vị Phật vừa mới giáng sanh, mà cũng là vị Thiên, Nhơn Sư đại từ-bi, đại trí-huệ của hiền kiếp này đề cập trong tám chữ trên, chính là "Chơn-Ngã", là Phật tâm uyên nguyên, cực linh cực diệu, cũng là cái tâm biết không từng sanh diệt, là chơn tâm, chơn tánh, tối tôn, tối thượng, bất khả thuyết, bất khả tư nghì mà chúng sanh ai ai cũng tự sẵn có. Do mê mờ cảnh giới nghiệp thức nhơn quả từ lâu đời  lâu kiếp mà chúng sanh hữu tình đã tự xa lìa, tự quên mất chơn-ngã, cũng là tánh biết bổn lai, khiến tự trói buộc khổ đau trong luân hồi sanh tử theo dòng thức biết biến hiện không phút giây ngưng nghỉ. Vì lòng từ thương xót chúng sanh, Đức Phật thị hiện trong cõi này không ngoài việc dùng mọi phương tiện thiện xảo để quyền biến chỉ đường cho chúng sanh ngộ nhập Chơn-Ngã, cũng là Phật tâm, cũng là tánh biết bổn lai phi sanh diệt. Không sanh không diệt là viễn ly nghiệp quả chúng sanh, thân chứng Niết-bàn tịch tịnh. 

Tám chữ trên của bậc anh-nhi Thánh-trí, là lời nói chân thật, là nghĩa lý chân thật, là cứu cánh giải thoát chân thật, không gì có thể sai khác được. Thế nhưng ngày nay, như ông bạn đã ca thán, có không hiếm người, hoặc vô tình vì thiểu trí, không thấu hiểu nổi ý nghĩa chơn chánh câu tuyên ngôn bất hủ trên của đức Phật, hoặc cố ý xuyên tạc, diễn sai câu nói để huỷ báng chánh pháp, đã giảng giải câu trên rằng "trên trời dưới đất chỉ có Ta (tức Ngã-ngôi thứ nhất, nhân xưng đại-danh từ, tức chỉ đức Phật) là duy nhất tối tôn tối thượng". Thậm chí có vị còn đi xa hơn, thêm mắm, thêm muối, tô đậm thêm hơn tính sai lạc có chủ ý, giảng giải rằng "trên trời dưới đất chỉ có "Ta-Ngã" (đức Phật) là tối tôn, tối thượng, hơn hẵn tất thảy mọi giáo chủ của các tôn giáo khác". 

Than ôi ! Một việc làm đáng chê trách thay! Đó là những lời rao giảng xằng bậy, hoàn toàn không khế hợp ý chỉ của đức Phật, nếu không muốn nói là đi ngược lại chân lý nhứt thiết pháp vô ngã mà Ngài đã dạy dỗ để tuỳ duyên dẫn dắt chúng sanh tự giải thoát sanh tử trói buộc, cũng là trực ngộ chơn ngã, chơn tâm, cũng là trở về cội nguồn nguyên uỷ vô sanh. Những lời rao giảng sai lạc như  vừa nêu ở trên là tuỳ tiện, chủ quan, là cố tình bóp méo một chân lý, là bôi nhọ tính trong sáng lời khai thị đầu tiên của bậc Đại-Thánh-trí dành cho loài người ngay khi đến cõi này, là xuyên tạc với ý đồ xấu xa và đầy tội lỗi của ma quỉ. Hơn thế nữa những lời ấy còn mang tính chất kích động, dễ gây hiềm khích, hiểu lầm, mâu thuẫn với các tôn giáo khác. Đức Phật là bậc toàn giác, tam thân của Ngài (báo thân, ứng hoá thân và pháp thân) là chơn linh của trí huệ; Ngài thị hiện cõi này là để tuỳ thuận nhơn duyên giảng giải chơn lý vô ngã, giúp chúng sanh tự chặt đứt mọi kiến chấp trói buộc sanh tử, cứu cánh vô sanh, thì làm sao những lời khai thị đầu tiên từ tánh trí chơn linh ấy, được coi như những lời sấm, lại có thể đi ngược lại chơn lý giải thoát mà Ngài muốn dạy cho thế gian sau này. Làm gì có đạo lý ấy được. Thế thì, chỉ có những người vì thiểu trí mà vô tình, hay vì cố tình ác ý rao giảng như trên để vì một mục đích vị ngã nào đó, mới là những người có cái tâm ma quỉ, đen tối, nặng chấp ngã chấp pháp, tự cao tự đại, hoàn toàn đi ngược lại chủ trương phá chấp, cũng là đề cao chân lý nhứt thiết pháp vô ngã của đức Phật. Rất mong những ai vô tình vì kém hiểu biết hay cố ý vì ác tâm, có chủ đích, đã và đang nói ngược, làm ngược lại chơn lý và bản hoài của đức Phật, hãy nên sớm biết dừng lại để tự sám hối nghiệp tội vô minh, may ra còn chưa muộn, để pháp Phật luôn được trong sáng, lúc nào cũng biểu hiện được tánh vô ngã và bình đẳng, hầu đem lại hòa bình, an lạc cho mọi chúng sanh trong cõi này, vốn dĩ đã phải chịu dẫy đầy nhiễu nhương, đau khổ rồi.  

Ông bạn thân mến. 
Sự hiểu biết của tôi về đạo pháp rất hạn chế. Cho nên những gì trong khả năng có thể trả lời cho bạn thì tôi cũng đã nói rồi. Cầu chúc bạn thân tâm thường an lạc và tinh tấn, dũng mãnh trên con đường tu học.   
 

10-05-2007 04:51:23
 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

6 loại thực phẩm gây đầy bụng hóa tim gi Thích hoa tu mieng ra thÒ tu tanh di da 2 ruc Ä Ã xin giu tron cau the xin giữ trọn câu thề Thăm Mẹ đản Người Câu chuyện của Steve Jobs về tình yêu sống tổ a Đâu cau chuyen ve tam Mông sơn thí thực ba n să c văn ho a cu a dân tô c viê t benh am co that khong Ăn chay giúp giảm nguy cơ ung thư thức biến và chuyển thức em dot doi minh ThẠn Màu luật tạng phat phap Vitamin B1 dưỡng chất cần thiết cho cơ Cười tren Đậu các bạn xuất gia trẻ mua xuan sap di qua nhung y xuan luon o lai y nghia cua tu chanh can tre truyen SPIRULINA lẽ sống cuộc đời luân hồi phần 1 về giáo lý của phật giáo nguyên thủy luan hoi phan 1 huong Giç moi lien he giua thay va tro hành trình siêu ý niệm