5/
Giới luật là nền tảng căn bản của Phật pháp
[^]
Bên
trên đã lược bàn về danh tướng của y bát. Nay nói sơ lược
về ý nghĩa thọ giới. Quý vị phải chú ý lắng nghe. Bí
yếu của Phật pháp nằm nơi ba pháp vô lậu học, tức giới
định huệ. Trong ba pháp này, giới luật là nền tảng căn
bản. Nhờ giới luật mà sanh định. Do định mà sanh huệ.
Nếu trì giới thanh tịnh thì định huệ tự nhiên sẽ được
viên thành. Thể theo ngôn từ, Phật chế giới luật, vốn
có ba hạng: Thứ nhất là giới tại gia; giới này bao gồm
năm giới và tám giới. Thứ hai là giới xuất gia; giới này
bao gồm mười giới của Sa Di và Sa Di Ni, cùng giới Cụ Túc
của tỳ kheo và tỳ kheo ny. Thứ ba là giới chung cho tu sĩ
và cư sĩ (đạo tục thông hành giới), tức là tam tụ tịnh
giới Bồ Tát.
Hôm
nay, quý vị cầu thọ giới, tức là phát hạnh nguyện quan
trọng, cao cả bậc nhất. Hạnh nghĩa là hành trì, tức y theo
giới luật mà tu hành. Nguyện nghĩa là phát nguyện, tức phát
bốn hoằng thệ nguyện. Hạnh nguyện nếu tương dung đầy
đủ thì sẽ thành diệu dụng. Phật chế giới luật, không
ngoài việc khiến cho chúng sanh đoạn trừ thói quen tật xấu,
ngưng ác hành thiện, bỏ trần lao, hợp với tánh giác. Kinh
Hoa Nghiêm thuyết:" Giới là nền tảng căn bản của đạo
quả Bồ Đề vô thượng. Phải nên hành trì tịnh giới đầy
đủ".
Nhờ
giới mà Phật pháp mới trụ thế dài lâu. Tăng già nương
vào giới mà trường tồn, phát triển.
6/
Giới pháp, giới thể, giới hạnh, giới tướng
[^]
Giới
được phân thành bốn loại: Giới pháp, giới thể, giới
hạnh, giới tướng.
A/
Giới pháp: Phật chế năm giới, tám giới cho ưu bà tắc và
ưu bà di, chế sáu giới cho thức xoa ma noa, chế mười giới
cho sa di và sa di ni, và chế giới cụ túc cho tỳ kheo và tỳ
kheo ny. Năm chúng Bồ Tát xuất gia, thọ mười giới trọng,
bốn mươi tám giới khinh. Hai chúng Bồ Tát tại gia, thọ sáu
giới trọng, hai mươi tám giới khinh. Một trăm tám mươi bốn
loại yết ma, ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, cùng vô lượng
luật nghi, được gọi là giới pháp.
B/
Giới thể: Tức là lúc thọ giới, lãnh nạp giới pháp nơi
thân tâm, khiến phát sanh một loại giới thể. Giới thể
này, tuy phàm phu không thể nghe thấy biết đến, nhưng suốt
đời hằng thường tương tục, có công năng phòng việc xấu
ngưng việc ác. Được giới thể bậc ưu hay liệt, tùy theo
sự phát tâm cao thấp trong lúc thọ giới. Người cầu giới,
đầu tiên phải biết phát tâm. Phát tâm có ba phẩm vị thượng
trung hạ.
Thứ
nhất, phát tâm hạ phẩm, tức ngay lúc thọ giới, trí huệ
mờ mịt, hạ liệt, thệ nguyện không rộng, hoặc tâm tán
loạn, duyên cảnh không chu toàn. Tuy thủ trì giới tướng,
nhưng không thể phát khởi công dụng của giới thể, tức
phát tâm hạ phẩm, tức chỉ được giới thể hạ phẩm.
Thứ
hai, phát tâm trung phẩm, tức ngay khi thọ giới, tâm duyên
đến tất cả cảnh giới tình cùng vô tình. Song, tại những
cảnh duyên này, có phát khởi phần đoạn các việc ác, phần
tu các việc thiện, lại chỉ muốn tự giải thoát sanh tử,
mà hoàn toàn không có thệ nguyện độ khắp chúng sanh, tức
phát tâm trung phẩm, tức đắc giới thể bậc trung.
Thứ
ba, phát tâm thượng phẩm, tức ngay nơi thọ giới, tâm tâm
tương tục, thấy cảnh sáng trong thanh tịnh, duyên đến tất
cả cảnh giới hữu tình lẫn vô tình. Ngay nơi cảnh duyên
này, có thể quyết định phát đại thệ nguyện, tức nguyện
đoạn tất cả ác, nguyện tu tất cả thiện, nguyện độ
tất cả chúng sanh. Đó là phát tâm bậc thượng, tức đắc
giới thể bậc thượng. Vì vậy, nếu muốn đắc được giới
thể thượng phẩm, phải nên phát tâm thượng phẩm.
Do
đó, trước khi thọ giới, phải khai mở tâm rộng rãi, kế
đến lập chí cao viễn, thì khi thấy các tướng liền hiểu
rõ. Nếu không chuẩn bị kỸ càng, chỉ mơ hồ về pháp tướng,
thì làm sao đắc được giới thể thượng phẩm? Hoặc giả,
hoàn toàn không phát khởi tâm cầu giới, chỉ được danh
thọ giới trống rỗng, thật uổng công sức thọ giới, cùng
lãng phí một đời tu. Quý vị hãy thận trọng lưu ý.
Cảnh
duyên tuy nhiều, nhưng không ngoài hai loại hữu tình và vô
tình. Cảnh duyên loài hữu tình tức là tất cả động vật
có sanh mạng như loài người, cá, chim, trùng, thú, v.v... Cảnh
duyên vô tình tức là tất cả loài không có sanh mạng như
thực vật, khoáng vật, đất đai, núi sông, mặt trăng, mặt
trời, tinh sao, cỏ cây, nhà cửa, dụng cụ, thuốc men, v.v...
Chúng
sanh tạo nghiệp ác, do mê lầm cảnh duyên trước mắt, như
vừa thấy tiền tài, liền khởi tâm muốn ăn cắp; vừa thấy
sắc đẹp liền khởi niệm dâm dục. Song, nghiệp ác vốn
do cảnh khởi, và nghiệp thiện cũng từ cảnh mà sanh. Cảnh
là nơi nương tựa của sự chế giới, cũng chính là nền
tảng căn bản phát khởi giới luật. Ví như giới cấm giết
hại và dâm dục, do cảnh hữu tình phát khởi mà chế giới.
Những giới này, cũng y theo cảnh mà sanh. Giới cấm ăn cắp
và nói láo, do cảnh hữu tình và vô tình phát khởi mà chế
giới. Thế nên, cảnh của rừng cây thâm thẩm đều là gốc
của sự chế giới, và là nhân của sự phát khởi giới.
Nếu hưng khởi được tâm từ quảng đại, duyên cảnh hữu
tình và vô tình, rồi phát khởi ba thệ nguyện rộng lớn,
tương ưng cùng giới pháp, lãnh nạp vào thân, hộ trì suốt
đời, tức đắc giới thể thượng phẩm.
C/
Giới hạnh: Tức là sau khi đắc giới thể, trong cuộc sống
hằng ngày, hành vi động tĩnh, ung dung tự tại, ngừng các
việc ác, tu các điều thiện, thuận trì theo giới đã thọ,
không vượt ngoài luật Tỳ Ni. Nơi pháp thế gian hay pháp xuất
thế gian, cùng tất cả pháp môn tu hành, đều không vượt
ngoài giới hạnh, lại chẳng rời tất cả ngoại hạnh, nên
đặc biệt gọi là giới hạnh.
D/
Giới tướng: Tức là những giới do Phật chế. Nơi mỗi giới,
có những phần thọ trì mà phạm và không phạm, lại có phân
biệt nặng nhẹ và khai giá. Trì tức là thuận theo giới thể
đã thọ mà lập danh, và được phân thành hai phần, chỉ
trì cùng tác trì. Phạm tức là do vi phạm giới thể đã thọ
mà lập danh, và được phân làm chỉ phạm cùng tác phạm.
Chỉ
trì, tức là phương tiện chánh niệm, hộ trì giới thể đã
thọ, ngăn ngừa cấm chỉ thân tâm, không tạo việc ác, nên
gọi là chỉ. Chỉ mà không vi phạm, thuận theo giới đã thọ,
khiến giới thể sáng trong tinh khiết, nên gọi là trì. Trì
do chỉ mà thành, tức đối với các việc phi pháp ác nghiệp,
không nên làm mà chẳng hề làm, đó là chỉ trì.
Tác
trì, nghĩa là chuyên cần thúc liễm ba nghiệp thân miệng ý,
tu tập giới hạnh, tức có việc thiện phát khởi thì phải
hộ trì, nên gọi là tác. Tác đúng như pháp; thuận theo giới
thể đã thọ, nên gọi là trì. Trì do tác mà thành, tức đối
với những việc đúng như chánh pháp cùng nghiệp thiện, nên
làm thì phải cố làm, đó là tác trì.
Chỉ
phạm, tức do tâm ngu si giải đãi, ngã mạn, khiến hành ngược
với giới thể đã thọ. Nơi các nghiệp thiện thù thắng,
chẳng muốn tu học, nên gọi là chỉ. Chỉ mà có vi phạm,
tức phản lại lời nguyện thọ giới, nghĩa là phạm. Phạm
do chỉ mà thành, tức ngay nơi nghiệp thiện thù thắng phải
nên làm mà không chịu làm, đó là chỉ phạm.
Tác
phạm, tức là trong tâm đầy dẫy những chất độc tham sân,
si, mạn, nghi, ác kiến. Tâm kích thích thân miệng, tạo cảnh
vi phạm luân lý, đó gọi là tác. Tác mà có vi phạm, tức
ô nhiễm giới thể đã thọ, nên gọi là phạm. Phạm do tác
mà thành, tức nơi nghiệp ác phi pháp không nên làm mà lại
cố làm, đó là tác phạm.
Đối
với những giới khinh trọng, khai giá trong tạng luật, quý
vị phải nghiên cứu tu học kỸ càng. Hiện tại, không thể
giảng thuyết tường tận. Những danh tự như thế, được
gọi là giới tướng.
Bên
trên, tuy phân làm bốn loại, nhưng thật ra chỉ là một. Chuyển
phàm thành thánh, gọi là giới pháp. Tổng nhiếp nguồn tâm,
gọi là giới thể. Tu tạo ba nghiệp, gọi là giới hạnh.
Quán sát thấy khác mà phân biệt, gọi là giới tướng. Do
pháp mà thành thể. Nhân thể mà khởi hạnh. Có hạnh tất
y cứ vào tướng. Giới tướng tức là tướng của giới pháp,
cũng là tướng của giới thể, và là tướng của giới hạnh.
Pháp chẳng khác pháp, tức tướng là pháp. Thể chẳng khác
thể, tức tổng tướng là thể. Hạnh chẳng khác hạnh, tức
ngay nơi tướng mà thành hạnh.
Thế
nên, người tu hành phải nghiên cứu tường tận giới tướng.
Gọi là giới tướng, tức những tướng trì phạm mà trong
luật đã nói rõ ràng. Những tướng trì phạm tuy nhiều, nhưng
không ngoài tâm cảnh. Nghiệp ác do cảnh mà phát khởi, và
không ngoài tâm mà thành. Giới thiện cũng không vượt ngoài
cảnh mà phát, và không ngoài tâm mà sanh. Vì vậy, Nam Sơn
luật sư Đạo Tuyên bảo:
- Trước
khi chưa thọ giới, tội ác đầy khắp pháp giới. Nay muốn
thọ giới, liền vượt qua cảnh ác, khởi thiện tâm. Đó
là nhân phát khởi giới, khiến giới thể biến khắp pháp
giới.
Thế
nên, người đắc giới thể, tức vượt qua muôn duyên ác
từ bao đời vô thủy, khiến đầy đủ giới thiện, chuyển
hóa báo nghiệp khổ hữu lậu, trở thành pháp thân thanh tịnh.
Quý vị phát tâm thọ giới, phải nên dụng tâm lành thiện.
7/ Những
điểm giống nhau và khác nhau giữa giới luật Đại Thừa
và Tiểu Thừa [^]
Giới
vốn phân chia làm hai phần, giới đại thừa và tiểu thừa.
Giới Bồ Tát gồm có mười giới trọng và bốn mươi tám
giới khinh. Đây là giới Đại Thừa. Mười giới của sa di
và sa di ny, cùng giới cụ túc của tỳ kheo và tỳ kheo ny,
là giới Tiểu Thừa. Tuy là giới Tiểu Thừa, nhưng nếu người
thọ giới phát tâm thượng phẩm thì đắc được giới thể
thượng phẩm. Giới thể thượng phẩm này tương đồng với
giới thể Bồ Tát, tức tam tụ tịnh giới của đại thừa.
Nghiêm trì giới, cấm ngăn việc ác khởi lên, tức nhiếp
luật nghi giới. Dùng trí huệ quán sát, tức nhiếp thiện
pháp giới. Chẳng ngoài việc hộ trì giới, tức là nhiếp
chúng sanh giới. Vì thế, ngay nơi đây, giới Tiểu Thừa tương
đồng với giới Đại Thừa. Thế nên bảo rằng trong tu mật
hạnh Bồ Tát, ngoài hiện tướng Thanh Văn.
Song,
giới Thanh Văn vốn chế phục thân không phạm. Giới Bồ Tát
chế phục tâm không khởi phạm. Vì vậy, việc kết giới
và phạm giới giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa không đồng.
Trong bộ luật Thập Tụng, kết giới phạm giới không ước
định nơi tâm, chỉ khi thân miệng động thì mới thành phạm;
đây chính là giới Tiểu Thừa. Trong bộ luật Tứ Phần, kết
giới và phạm giới ước định tại tâm. Nếu dùng niệm
sau liên tục truy đuổi niệm trước, tức trở thành phạm
giới; đây là thông giới Đại Thừa. Giới Bồ Tát kết phạm
tối trọng, ước định tại tâm. Vọng tâm khởi lên, tức
đã phạm giới. Đây chính là giới Đại Thừa. Tóm lại,
chiếu theo giới luật Tứ Phần của Đại Thừa thì vừa khởi
niệm là đã phạm. Chiếu theo luật Thập Tụng thì khi khởi
động thân miệng, mới tính là phạm giới. Giới Đại Thừa
và Tiểu Thừa, phân biệt rõ ràng như thế, phải nên nhận
biết.
8/
Tam quy y, ngũ giới [^]
Không
luận giới Tiểu Thừa hay Đại Thừa, tam quy y và ngũ giới
là nền tảng căn bản. Đối với người tại gia hay xuất
gia, tam quy y và ngũ giới là hai việc quan trọng tối cực.
(Người tại gia chỉ giữ giới không tà dâm. Người xuất
gia giữ giới hoàn toàn không dâm dục.)
Tam
quy y, tức là quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng.
Thứ
nhất là quy y Phật. Chữ Phật, tiếng Phạn gọi cho đủ là
Phật Đà; Tàu dịch là bậc Giác Giả. Gọi bậc Giác Giả
vì Ngài đã giác ngộ hết tất cả sự việc, tức những
việc quan hệ với nhân quả tương sanh tương diệt, mà không
hạn cuộc vào các loại sự tướng nhân quả, cùng phát hiện
sự trật tự tất nhiên của lý nhân quả. Thật thế, Ngài
phát hiện những thứ tự của mười hai nhân duyên, như vô
minh duyên hành, cho đến sanh duyên già bịnh chết. Từ đó,
Ngài chứng ngộ được chân tướng sự và lý của vũ trụ.
Vì thương xót chúng sanh chưa hiểu rõ chân tướng này, và
đang bị trầm luân trong biển khổ sanh tử, nên Ngài dùng
vô số phương tiện, dạy dỗ giáo hóa. Người thuận theo
lý này thì tất nhiên sẽ cải thiện cuộc sống, nhiếp thu
tư tưởng hành vi quay về nẻo chánh, khiến xa rời mọi khổ
não, đạt đến sự an lạc.
Đó
gọi là bậc Giác Giả. Phật Đà giác ngộ chân lý gì? Đạo
giác ngộ vô thượng, không thể dùng lời nói mà hình dung
được, chỉ đơn cử nghĩa lý để thuyết minh.
Các
pháp đều do duyên khởi; tánh của chúng đều là không. Các
pháp tức là tất cả sự vật. Duyên, tức là bao gồm cả
nhân thân thuộc và duyên hỗ trợ. Duyên khởi tức khi các
pháp sanh khởi, đều do nhiều nhân duyên giả hợp tạo thành.
Ví như lúa là hạt giống, rồi do ruộng đất, mưa gió, ánh
sáng, vật liệu, nhân công, cùng các loại duyên khác hợp
lại, khiến sanh ra thóc. Tánh, được gọi là thể, tức thể
tánh của các pháp, mà mỗi mỗi đều vốn tự như thế, vĩnh
hằng bất biến, không do các loại duyên hợp thành. Tánh Không,
vốn chỉ là lời nói, chớ ngộ lầm với việc không có chi
hết. Bất cứ sự vật nào sanh khởi, phải do các duyên hòa
hợp tạo nên. Chúng vốn không được gọi là thể tánh cố
định vĩnh hằng bất biến. Thể tánh không cố định vĩnh
hằng bất biến, mà nhà Phật gọi là tánh Không. Do đó, tổ
thứ mười bốn ở Ấn Độ, tức Bồ Tát Long Thọ, bảo:
- Nhân
duyên sanh ra các pháp, tức vốn vô tự tánh. Pháp do nhân duyên
sanh, Ta bảo chúng là "Không", cũng gọi là giả danh, cũng là
nghĩa trung đạo. Chưa từng có một pháp, không từ nhân duyên
sanh. Thế nên, tất cả pháp vốn là không.
Phật
thuyết tánh Không, chẳng phải bảo rằng tất cả sự vật
đều không có, mà thể tánh của chúng vốn không vĩnh hằng
bất biến. Vì vậy, Phật Đà không phải là đấng chúa tể
tạo ra muôn vật, mà Ngài là bậc triết nhân phát hiện ra
chân lý sanh diệt liên tục của tất cả sự vật. Tuy chẳng
phải là thần, nhưng vì lòng từ bi bao la, thương xót chúng
sanh khổ nạn, nên Ngài dùng thần thông vô ngã để cứu hộ.
Ngài là bậc vĩ nhân mang phước lạc đến cho chúng sanh. Suốt
đời, chưa từng nghỉ ngơi, Ngài luôn giáo hóa và dẫn dắt
kẻ ngu, phá trừ mê tín, khiến họ thoát khỏi bùn lầy ô
nhiễm, quay về nơi thanh tịnh, tức xả si mê quy nơi bờ giác.
Thứ
hai là quy y pháp. Pháp tức là lời lược thuyết của Phật,
chỉ rõ chân tướng của sự vật cùng các hành vi chân chánh.
Sự biểu hiện của hành vi cá nhân, quan hệ với đạo đức
của nhân loại. Hành vi phân rõ tà chánh, thiện ác. Song, việc
phê phán thiện ác, quan điểm và lập trường của mỗi người
đều không đồng. Nếu muốn biết tiêu chuẩn xác thật, phải
dùng đạo lý tự nhiên về sự tướng của nhân quả mà xem
xét, và cũng phải y theo cách nhìn khách quan về sự phát triển
hiện thực của quy luật tự nhiên, để phán đoán đúng sai.
Xưa
kia, xã hội Ấn Độ phân thành bốn chủng tộc: Bà La Môn
(tức Phạm Chí), Sát Đế Lợi (tức vua chúa), Phệ Xá (tức
thương nhân), Thủ Đà La (tức người hạ liệt). Những giai
cấp tánh tộc này phân biệt rất nghiêm ngặt. Đại chúng
bần khổ bị áp bức thống thiết mà không dám kêu ca. Cuộc
sống khổ cực còn hơn loài vật. Song, đại chúng bần khổ
kia lại nhận lầm rằng đó là do mệnh trời sắp đặt, tức
đã được chủ định, không thể cải biến. Sau khi thành
đạo nơi núi Tuyết Sơn, Phật Thích Ca Mâu Ni tự ta thán ba
lần:
- Lạ
thay! Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ trí huệ đức
tướng của Như Lai, và có khả năng hiểu rõ các pháp đều
do duyên khởi, tánh vốn không. Tất cả chúng sanh, loài hữu
tình và vô tình, đều có thể thành Phật.
Ngài
kết luận rằng bốn chủng tộc trên đều xác thật bình
đẳng, như các dòng sông đồng chảy về biển cả, mà không
có tên con sông này, con sông nọ. Do đó, Ngài cực lực nhấn
mạnh và chủ trương sự bình đẳng, đả phá phân chia giai
cấp. Đây là dùng chân tướng của sự lý mà làm lệ chứng
tiêu chuẩn đạo đức.
Thứ
ba là quy y tăng. Chữ Tăng, tiếng Phạn gọi là Tăng Già; Tàu
dịch là Chúng Hòa Hợp. Nhiều người cùng nhau sống chung
một chỗ, hòa thuận, chí đồng đạo hợp, cùng tu hạnh tự
lợi lợi tha.
Năm
giới tức là giới không giết hại, ăn cắp, tà dâm, nói
láo, và uống rượu.
9/
Mười giới, cụ túc giới, tam tụ tịnh giới
[^]
Bên
trên đã lược thuyết tam quy y ngũ giới. Nay bàn về mười
giới của sa di, sa di ny, giới cụ túc của tỳ kheo, tỳ kheo
ny, cùng Bồ Tát tam tụ tịnh giới. Mười giới và giới cụ
túc đều nhắm vào việc tự lợi; nghĩa là cầu tự giải
thoát cho chính mình, nên chỉ là hương thơm biểu thị. Giới
Bồ Tát đa phần nhắm vào việc lợi người, tức tự rèn
luyện thân tâm, để chuẩn bị xả thân cứu thế; tất nhiên
là hương thơm cúng dường chư Phật. Người xuất gia, tức
sa di và sa di ny, đều được dự vào giới phẩm Cụ Túc;
bên trong phải tu từ bi hòa nhã; bên ngoài phải đắp y khác
người thế tục; cử chỉ hành động đều luôn theo oai nghi
phép tắc; chuyên cần học tập luật nghi về giới sa di và
sa di ni; cẩn trọng, chớ phóng dật. Tỳ kheo phải thường
hành hai trăm năm mươi giới. Tỳ kheo ny phải hành ba trăm
bốn mươi tám giới. Phòng cấm ba độc, điều phục bảy
chi, đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh. Ba độc
tức là tham, sân, si. Bảy chi tức là bảy chi phần của thân
miệng. Thân có ba chi, khiến phạm giới giết hại, ăn cắp,
dâm dục. Miệng có bốn chi, khiến phạm giới nói láo, nói
lời thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời ác độc. Nơi
bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi, đều đầy đủ hai trăm
năm mươi giới, cộng thành một ngàn. Thời quá khứ, hiện
tại, vị lai đều đầy đủ, nên cộng thành ba ngàn oai nghi.
Nơi bảy chi của thân miệng, đều đầy đủ ba ngàn oai nghi,
cộng thành hai mươi mốt ngàn. Nơi tham sân si cùng các đẳng
phần, (khi tham khởi lên thì sân và si cũng theo nó mà khởi,
nên gọi là đẳng phần) tức là trong bốn loại phiền não,
nếu đều thanh tịnh không hủy phạm, tức là tám mươi bốn
ngàn tế hạnh. Tám mươi bốn ngàn cũng chỉ cho con số lớn.
Trong
giới luật, có một điều rất quan trọng, nay muốn nói rõ
cho quý vị nghe. Trong giới bổn có cấm tỳ kheo tự tay đào
đất, dệt vải. Hiện tại, chúng ta đang làm ruộng, dệt
vải, vậy có phạm giới không? Chúng ta phải biết, việc
chế giới luật của Phật, có hai loại tánh giới và giá
giới. Thiên đầu là tội ba la di, tức tánh giới, cũng là
giới căn bản; nếu phạm thì không thể sám hối được.
Những giới khác, đều là giá giới; nếu phạm thì có thể
sám hối. Người nghiên cứu kinh tạng, luật tạng, phải nên
hiểu rõ tường tận về sự khác biệt giữa các giới khinh,
trọng, khai, giá.
Đối
với tánh giới, nếu làm thì vi phạm lý thể. Vô luận Phật
có chế hay không chế, nếu làm thì phạm tội, như giết hại,
ăn cắp, tà dâm, v.v... Giá giới, tức là lúc Phật chưa chế
giới mà làm thì không có tội. Từ khi Phật chế giới ra,
nếu làm thì thành tội, như giới đào đất dệt vải. Phật
chế ra giá giới vì có nhiều nguyên nhân, như địa thế,
sự việc, thời tiết. Ví như lập ra giới không được đào
đất và dệt vải, là vì muốn tránh sự hiềm nghi của người
đời. Xã hội Ấn Độ thời xưa, hành khất thức ăn y phục,
vốn là việc của người xuất gia. Nếu tự mưu tính việc
ăn mặc, thì bị người đời hiềm nghi. Vì vậy, Phật phải
chế ra giới này. Song, xã hội và phong tục tập quán các
nơi không đồng; phải thuận theo địa thế, sự việc thời
tiết mà chế giới. Do đó, không thể giữ giới cứng chắc.
Trong luật Ngũ Phần, Phật nói:
- Tuy
Ta chế giới như thế, nếu tại các nơi khác, không thể hành
thanh tịnh, thì không nên ứng dụng. Tuy Ta chẳng chế giới,
nhưng tại các nơi khác, nếu nên hành ở các nơi khác để
sự tu hành được thanh tịnh, thì phải hành theo.
Do
đó, xưa kia tổ Bá Trượng thấy hoàn cảnh nước Tàu và
Ấn Độ không đồng, nên cử ra giới: "Ngày nào không làm
thì ngày đó không ăn". Nếu Phật giáng sanh nơi xứ này, thì
quyết chắc sẽ không chế giới đào đất, dệt vải. Thế
nên, chúng ta làm ruộng dệt vải, chẳng phải phạm giới
luật. Hy vọng trong khi tu trì, quý vị chớ nên bỏ phế việc
lao động. Trong lúc lao động, cũng không nên quên việc tu
trì. Cả hai việc đều có thể làm cùng một lúc. Đối với
việc thọ trì giá giới, quý tại tuân thủ bổn ý chế giới
của Như Lai, chớ nên tử thủ chấp chặt giới điều. Nếu
hiểu được ý Phật, tuy tương phản điều văn, nhưng cũng
gọi là trì giới. Nếu không hiểu được ý Phật, tuy tôn
thủ giới điều, nhưng cũng thành phạm giới. Song, không thể
vay mượn lời tôi, mà phá giới luật Phật chế. Muốn hiểu
chi tiết, quý vị phải nghiên cứu và thâm nhập sâu vào tạng
luật.
Giới
Bồ Tát nhiếp hết ba tụ: Nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện
pháp giới, nhiếp chúng sanh giới.
Thứ
nhất, nhiếp luật nghi giới, tức là xa rời tất cả việc
ác. Trong tụ giới này, chỉ tức là trì, và tác tức là phạm;
phải thuận theo luật giáo mà hộ trì nghiêm túc, cẩn trọng
chớ phạm.
Thứ
hai, nhiếp thiện pháp giới, tức là tích tụ tất cả việc
lành. Thân miệng ý đều lành; ba huệ văn tư tu, mười ba
la mật, tám muôn bốn ngàn pháp trợ đạo, đều tu hành đến
cứu cánh cùng cực. Nơi tụ này, tác tức là trì, chỉ tức
là phạm; phải thuận theo giáo pháp mà hành, chớ hối hận,
thối tâm.
Thứ
ba, nhiếp chúng sanh giới, cũng gọi là nhiêu ích hữu tình
giới, tức độ tận hết tất cả chúng sanh; dùng bốn môn
vô lượng làm tâm, và dùng bốn nhiếp pháp làm hạnh. Bốn
môn tâm vô lượng tức là từ, bi, hỶ, xả. Từ là ban vui.
Bi là cứu khổ. HỶ là hoan hỶ vui mừng khi chúng sanh thoát
rời mọi khổ não, và đắc pháp lạc sung túc. Xả là khiến
chúng sanh hành hạnh Phật, đến nơi Phật địa, rồi khởi
tâm xả bỏ.
Bốn
nhiếp pháp, tức là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự.
Thứ nhất bố thí, tức là nếu có chúng sanh thích muốn tiền
tài thì bố thí tiền tài; nếu thích nghe pháp thì bố thí
pháp; nếu sợ hãi thì sẽ an ủi che chở, khiến họ sanh tâm
thân ái, y theo mình mà thọ giáo học đạo. Thứ hai ái ngữ,
tức là tùy theo chúng sanh lợi căn và độn căn mà dùng lời
lành thiện khuyên lơn an ủi, khiến họ sanh tâm thân thiết,
y theo mình mà học đạo. Thứ ba lợi hành, tức là khởi hành
động lành thiện từ thân miệng ý, làm lợi ích chúng sanh,
khiến họ sanh tâm thân mến mà thọ đạo. Thứ tư đồng
sự, tức là dùng pháp nhãn quán sát căn tánh của chúng sanh,
tùy theo ý thích mà thị hiện; lại nữa, cùng làm việc, tạo
ích lợi, khiến họ thọ đạo. Nơi tụ này, tác tức là trì,
chỉ tức là phạm.
Ngoài
ra, lúc Bồ Tát phát tâm, phải phát bốn hoằng thệ nguyện:
Thứ
nhất, chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, tức là phát tâm
Bồ Tát, hành đạo Bồ Tát, y theo giáo pháp, đoạn trừ ngã
ái, hy sinh thân mình cho người, lấy tâm chúng sanh làm tâm
mình, lấy khổ chúng sanh làm khổ của mình, thường hành
bố thí bình đẳng độ khắp chúng sanh. Bồ Tát Địa Tạng
bảo: