Hỏi:
Thế
nào là Tổ sư thiền?
Đáp:
Từ
Tổ từ Tổ truyền xuống nên gọi là Tổ sư thiền, Đạt
Ma từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc, người ta gọi là Đạt
Ma thiền. Thiền này do đức Phật Thích Ca đích thân truyền,
không qua văn tự lời nói, tất cả Phật nói trong kinh điển
đều qua văn tự lời nói. Trong hội Linh sơn, Phật đưa cành
hoa lên, Ca Diếp ngộ chỉ mỉm cười, Phật không nói gì nên
pháp môn này là “giáo ngoại biệt truyền bất lập văn tự”.
Trong
Đường Lối Thực Hành Tham Tổ Sư Thiền có 5 câu thoại đầu,
tự mình chọn một câu nào thấy khó hiểu nhất để tham,
cuối cùng Phật tánh hiện lên gọi là kiến tánh thành Phật.
Vì trực tiếp từ địa vị phàm phu thẳng chứng quả Phật
còn gọi là pháp thiền trực tiếp.
Cái
biết bộ óc không cùng khắp không gian thời gian, về không
gian thì biết chỗ này không biết chỗ kia, về thời gian có
lúc biết có lúc không biết. Cái biết Phật tánh là chánh
biến tri (chánh là đúng với thực tế, biến là phổ biến
không gian và thời gian, tri là biết) cùng khắp không gian thời
gian, không có lúc nào không biết, không có chỗ nào không
biết.
Cái
biết Phật tánh không bao giờ mất, nhưng bị cái biết bộ
óc che khuất nên không hiện ra. Phật dạy mình tham thiền
dẹp cái biết của bộ óc để cái biết Phật tánh hiện
lên. Cái biết bộ óc về thời gian thì ngủ mê không biết,
chết giấc không biết, chết rồi không biết. Cái biết Phật
tánh thì ngủ mê vẫn biết, chết rồi cũng biết; nếu chết
rồi không biết thì có gián đoạn, nên không cùng khắp thời
gian, không phải cái biết Phật tánh, không được gọi là
chánh biến tri.
Cái
biết bộ óc dụ cho tướng bệnh, cái biết Phật tánh là
tướng mạnh; nếu tướng bệnh kéo dài thì tướng mạnh không
thể hiện ra. Tại sao? Vì tướng bệnh là xanh vàng ốm yếu,
tướng mạnh là hồng hào; bây giờ mặt mũi này xanh vàng
ốm yếu, làm sao hiện ra hồng hào được? Phải hết xanh
vàng ốm yếu thì hồng hào mới hiện ra. Cho nên, nhờ câu
thoại đầu khởi lên nghi tình để quét sạch cái biết của
bộ óc, đặng cho cái biết Phật tánh hiện lên.
-Ông
chọn câu thoại đầu nào để tham?
-Chọn
câu: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng vật là cái
gì?
-Bây
giờ tôi thử hỏi ông có tham đúng hay không, như tôi nói
muốn dẹp cái biết của bộ óc thì phải không cho bộ óc
suy nghĩ, không cho bộ óc tìm hiểu, không cho bộ óc giải
thích câu thoại đầu, chỉ đêm ngày giữ nghi tình (không
biết), mặc áo, ăn cơm, đi cầu, làm việc… đều hỏi thầm
trong bụng để khởi lên không biết.
Tôi
vừa hỏi dứt thì trả lời ngay, nếu chậm một chút là bộ
óc suy nghĩ có ý trả lời câu hỏi của tôi là không được,
đó là hồ nghi, không phải chánh nghi. Chánh nghi cho tâm nghi
chứ không cho tâm tìm hiểu, không cho bộ óc suy nghĩ.
Tôi
hỏi ông hãy trả lời liền: Chẳng phải tâm, chẳng phải
Phật, chẳng phải vật là cái gì?
Không
trả lời liền là qua bộ óc suy nghĩ rồi, muốn tìm
để trả lời thì không được. Ông hỏi lại tôi đi!
Ông
ấy hỏi: Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải
vật là cái gì?
-Không
biết.
Không
biết là tham thiền, chỉ cần không biết chứ không được
suy nghĩ tìm hiểu. Nếu tìm hiểu được là cái biết bộ
óc, không phải cái biết Phật tánh. Cái biết Phật tánh thình
lình biết gọi là ngộ. Nghĩa chữ Phật là giác ngộ, giác
ngộ là hiện Phật tánh của mình. Tham thiền là muốn hiện
cái biết của Phật tánh thì phải diệt cái biết của bộ
óc. Người ta nói “nếu dẹp cái biết bộ óc làm sao để
làm việc?” Cũng làm việc bình thường.
Như
cô Hằng Thiền là thợ may, khi tham thiền bộ óc không biết,
cô cũng cắt xong cái áo vậy, cho đến người em hỏi mấy
phân mấy tấc? Cô trả lời không biết. Vô lý! Không biết
làm sao cắt? Nhưng sự thật người ta lại may, cô đo thước
tấc ghi vào sổ, bắt đầu cắt thì khởi lên nghi tình nhưng
cô vẫn cắt xong cái áo, khỏi cần qua bộ óc; tức là dùng
cái biết của Phật tánh để làm việc.
Chứng
tỏ bộ óc không biết vẫn làm xong công việc, mà lại làm
tốt hơn nữa. Như các kiểu quần áo mới phát minh, người
khác cắt không được hay cắt được rất khó; còn đem lại
cô khỏi cần nghiên cứu, chỉ coi liền cắt vì không cần
phải qua bộ óc. Chứng tỏ bản năng của mình cùng khắp
không gian thời gian, cái gì cũng làm được.
Con
dơi không có mắt mà bay không đụng các vật, vì nó có ra
đa; nhà khoa học học cái ra đa của con dơi rồi làm ra cái
ra đa. Hôm trước, tôi coi đài số 50 có nhà khoa học thử
cái ra đa con dơi rất hay, dở sách nó cũng biết, đếm tiền
nó cũng biết, trong nhà người ta ca hát ồn ào không bị ảnh
hưởng công việc nó chụp con muỗi. Con dơi không có học
và không có nghiên cứu, vì tạo nghiệp con dơi thì con nào
cũng đều có ra đa.
Con
ong có kiến trúc học, con chim ăn cá ở trên hư không, cá
lội dưới biển có sóng lớn, mà ở trên hư không chụp ngay
con cá. Con nào cũng như con nấy, không phải học mà biết,
bản năng nó sẵn có. Bản năng sẵn có là chỉ theo cái nghiệp
một chút xíu, ở trong Phật tánh của mình hiện ra vô lượng
vô biên, không có cái nào không làm được.
Tham
thiền là phát hiện bản năng của mình đem ra dùng, không
phải thành một vị thần linh. Tham thiền cứ hỏi thầm câu
thoại đầu trong bụng cảm thấy không biết là tham được
rồi. Con nít 6, 7 tuổi cũng thực hành được, bà già 8, 9
chục tuổi đều tham thiền được. Bởi vì việc thế gian
muốn biết rất khó, việc không biết ai cũng làm được.
Nhưng tin tự tâm rất khó, phải tin tự tâm là tất cả năng
lực thần thông trí huệ bằng như Phật Thích Ca, không có
kém hơn một chút.
Nếu
tham thiền đến kiến tánh, dứt hết tập khí phiền não từ
từ cái dụng hiện ra, cuối cùng bằng như Phật Thích Ca.
Lúc đó không có cái gì không biết, không lúc nào mà không
biết, chứ không phải cái biết của bộ óc có hạn chế
và không chân thật.
Hỏi:
Hỏi
câu thoại đầu muốn hiểu, giải đáp ra thì như thế nào?
Đáp:
Tham
thiền không dùng bộ óc tìm hiểu, cứ hỏi thầm trong bụng,
có hỏi phải có đáp, hỏi không hiểu thì đáp không ra, tức
lắm, hỏi nữa, khi nào thình lình đáp ra là kiến tánh. Đáp
ra được không phải do bộ óc tìm hiểu mà đáp ra, đáp ra
là thình lình bừng sáng khắp không gian thời gian, tức là
hiện lên bản thể, không phải do lời nói mà đáp.
Hỏi:
Thiết
nghĩ, con đã trôi lăn trong biển sanh tử nhiều kiếp tạo
nghiệp sâu dầy, nay tuy gặp chánh pháp, nếu chỉ có câu tham
thoại đầu trừ vọng tưởng thì đủ giải thoát không? Lại
nữa, chư Tổ dạy tụng kinh, niệm Phật, trì chú để chúng
sanh bớt nghiệp chướng, tạo thêm phúc đức trợ duyên trên
đường tu hành. Vậy con có nên cùng tham thiền và tụng kinh,
niệm Phật, trì chú được không?
Đáp:
Nói
tham thiền để trừ vọng là sai lầm, vì vọng tưởng là
vô minh mới có; chứ không phải Phật tánh có vọng tưởng,
Phật tánh là bất nhị, siêu việt số lượng. Bản thể Phật
tánh cùng khắp không gian thời gian. Nếu nổi vọng tưởng
là có số lượng, có nổi tâm trừ vọng tưởng là hai lớp
vọng. Cho nên tu hành trừ vọng tưởng là sai lầm lớn. Tụng
kinh là mục đích để biết ý của Phật dạy, mình theo đó
để tu, chứ không phải tụng kinh để cho Phật nghe, mà nói
là có công đức. Kinh là lời Phật dạy nên Phật đâu cần
nghe!
Dùng
niệm Phật, niệm chú để trừ vọng tưởng sẽ phát lên
nguy hiểm, vọng tưởng được trừ, có sức định cao thì
sẽ bị tẩu hỏa nhập ma, phát điên, ói máu. Sự thật tôi
gặp người tu ở Việt Nam rất nhiều trong những trường
hợp này. Những người không biết ý của Phật dạy, tưởng
là tu để trừ vọng tưởng, đó là sai lầm rất lớn; mà
bây giờ rất phổ biến trong giới Phật tử, ấy rất nguy
hiểm. Tu hành uổng công, có quả không tốt.
Phật
dạy mình tin tự tâm, tất cả thần thông trí huệ bằng như
Phật, không kém hơn Phật một chút nào. Tham thiền là phát
hiện cái mình sẵn có cùng khắp không gian thời gian, không
có cái nào mà làm không được. Con dơi có ra đa là bản năng
đầu thai thành con dơi phải có ra đa, con ong có kiến trúc,
nhà kiến trúc học kiến trúc của con ong. Kiến trúc của
con ong không phải do học mà có, nó theo nghiệp mà có.
Tham
thiền không phải để tiêu nghiệp, nghiệp vốn không có,
vì tâm mình tạo mới có. Ngưng tâm không tạo nữa thì nghiệp
ở đâu? Khỏi cần tiêu mà nó tự tiêu. Tâm tạo rồi tiêu,
tiêu rồi tạo nữa, khi nào mới tiêu hết! Tu hành không phải
để tiêu nghiệp, nghiệp khỏi cần tiêu, vọng tưởng khỏi
cần trừ. Tự tánh mình là bất nhị, không có vọng tưởng,
không có nghiệp chướng. Thiền tông nói “nghiệp chướng
bổn lai không” (nghiệp chướng vốn là không). Kệ truyền
pháp của 7 Phật trước Phật Thích Ca nói “không có nghiệp
chướng”.
Trong
Thiền tông có công án:
Tăng
hỏi Tổ kiến tánh: muốn trừ nghiệp chướng phải làm sao?
Tổ
nói: nghiệp chướng bổn lai không.
Tăng
hỏi: thế nào là bổn lai không?
Tổ
nói: nghiệp chướng.
Tăng
hỏi: thế nào là nghiệp chướng?
Tổ
nói: bổn lai không.
Nếu
thật có nghiệp chướng, mình từ vô thỉ đến bây giờ đã
tạo biết bao nhiêu nghiệp chướng, làm sao trừ cho hết! Nhưng
khỏi cần trừ, ngộ là xong. Nghiệp chướng ở trong chiêm
bao, thức tỉnh chiêm bao thì nghiệp chướng đi đâu tìm! Người
ta thật sự không tu hành nên không hiểu được nghĩa này;
tự mình không biết rồi lấy cái sai lầm dạy người khác,
thành ra vĩnh viễn ở trong biển khổ không ra được. Vì vọng
tưởng làm sao trừ, nghiệp chướng làm sao tiêu?
Tham
thiền là phát hiện nghiệp chướng, vọng tưởng vốn không
có. Không tạo nghiệp chướng, vọng tưởng thì không có nghiệp
chướng, vọng tưởng. Do mình tạo nghiệp chướng, vọng tưởng
nên mới có cái để trừ. Không có vọng tưởng để trừ
và không có nghiệp chướng để tiêu. Cho nên chư Tổ nói
“không cần phí sức”. Nếu đạt đến chỗ ít phí sức
là được, có còn trừ vọng tưởng và tiêu nghiệp chướng
là sai lầm lớn.
Tham
câu thoại đầu mặc dù không tiêu nghiệp chướng và không
trừ vọng tưởng, nhưng tự nhiên automatic trừ vọng tưởng
và tiêu nghiệp chướng. Tại sao? Vì nghiệp chướng và vọng
tưởng đều do bộ óc biết mới có, giữ không biết của
bộ óc thì tự tiêu. Những người tụng kinh, niệm Phật cứ
suy nghĩ hoài, tạo hoài, làm sao tiêu trừ được! Giữ được
nghi tình là không tạo nữa, khi nào ngộ thì vọng tưởng
nghiệp chướng hết.
Bát
Nhã Tâm Kinh nói “vô vô minh diệc vô minh tận” (không có
vô minh cũng không có hết vô minh), không có vô minh làm sao
có vọng tưởng? Có vô minh nên có vọng tưởng, có vô minh
nên có nghiệp chướng. Không có hết vô minh, nếu có vô minh
mới có hết vô minh; tức là không có hết vọng tưởng nghiệp
chướng, vì vọng tưởng nghiệp chướng vốn không có. “Vô
lão tử diệc vô lão tử tận” (không có già chết cũng không
có hết già chết), sanh tử là chúng sanh, hết sanh tử là
Phật.
Kinh
nói rõ ràng không chịu tin, cứ tạo nghịch lại cho là đúng!
Mình đã sai, mà lại trách người đúng. Tại sao Giáo môn
tụng kinh rồi tụng Bát Nhã? Vì sợ người ta tụng kinh xong
chấp kinh đó. Cho nên sau cùng một thời kinh, tụng Bát Nhã
để quét sạch vừa rồi tụng. Nhưng người tụng chỉ biết
nhắm mắt tụng, chứ không biết kinh nói gì; cho là tụng
kinh để tiêu nghiệp chướng. Tại sao tụng kinh rồi không
y theo mà làm, lại nghịch với kinh? Nghịch với kinh đã có
tội, lại trách người đúng. Người ta y theo kinh cho là sai,
nghịch với kinh cho là đúng. Rất điên đảo!
Hỏi:
Người
chứng ngộ thì trí tuệ đến trước hay niềm tin đến trước?
Đáp:
Không
có thể nói là trí huệ hay không trí huệ, dùng bộ óc phân
biệt thì có ngu si và trí huệ để đối đãi; bản thể Phật
tánh không có đối đãi, nên không phải ngu si và trí huệ;
toàn thể hiện ra không có trước sau, nếu có trước sau là
có đối đãi còn trong số lượng thời gian.
Hỏi:
Khi
mình đọc thoại đầu, bổng nhiên không còn nghi tình, mà
nó giống như qua đi qua đi và trở thành trạng thái niệm
thoại đầu. Như trong trường hợp đó phải như thế nào?
Đáp:
Niệm
thoại đầu chỉ có thể trừ vọng tưởng, không đạt đến
kiến tánh. Tham thiền không phải trừ vọng tưởng, vọng
tưởng khỏi cần trừ. Niệm thoại đầu để trừ vọng tưởng
là sai lầm. Nếu không phát khởi nghi tình, nhưng cũng phải
hỏi hoài thì sẽ phát khởi nghi tình. Bởi vì câu thoại đầu
là có dấu hỏi. Như câu “khi chưa có trời đất ta là cái
gì?” Có trời có đất thì mình ngồi đây, chưa có trời
đất mình ở đâu không biết? Cái không biết là nghi tình
tức tham thiền rồi, rất giản dị chỉ cần không biết,
việc thế gian muốn biết rất khó, không biết thì dễ. Cho
nên con nít 6, 7 tuổi cũng biết tham thiền.
Hỏi
câu thoại chứ không phải niệm câu thoại, hỏi đến khi
nào thình lình đáp ra được, gọi là kiến tánh (chứng ngộ).
Nhưng khi đáp ra không phải có gì đáp ra, tức là bùng nổ
phát hiện bản thể mình cùng khắp không gian thời gian, không
có chỗ nào không biết, không có lúc nào không biết. Bộ
óc ngủ mê không biết, chết giấc không biết, chết rồi
không biết; cái biết Phật tánh gọi là chánh biến tri thì
ngủ mê vẫn biết, chết rồi vẫn biết, chết giấc vẫn
biết. Nếu chết rồi không biết thì không phải cái biết
của Phật tánh.
Cái
biết Phật tánh khắp không gian thời gian, khắp không gian
không có chỗ nào không biết. Nếu có một chỗ không biết,
không phải cái biết của Phật tánh. Tham thiền là phát hiện
cái biết Phật tánh thì phải dẹp cái biết của bộ óc.
Vì cái biết Phật tánh bị cái biết bộ óc che khuất nên
không hiện lên được. Kinh Viên Giác thí dụ “vàng thật
đã thành sẵn trong quặng, nhưng lộn với đất cát tạp chất,
nên vàng thật không hiện ra; vì vậy phải luyện bỏ đất
cát tạp chất, vàng thật mới hiện ra”. Nếu trong quặng
không có vàng thật, luyện cách mấy cũng không có vàng thật
hiện ra. Phật tánh của mình lộn với tham sân si, nên Phật
tánh không hiện lên. Tham sân si là cái biết của bộ óc,
dẹp hết tham sân si thì Phật tánh hiện lên.
Hỏi:
Tham
thoại đầu thường hay tìm ra giải pháp để trả lời câu
thoại, làm sao để tránh trường hợp đó xẩy ra?
Đáp:
Phải
thống thiết việc sanh tử, giải quyết việc sanh tử là cần
nhất. Cái năng biết của bộ óc sau khi chết đem thiêu thành
tro, đi chôn thành đất. Như vậy còn biết để làm chi? Biết
bao nhiêu cũng hết. Cái biết Phật tánh không thể biến thành
tro thành đất, vĩnh viễn như vậy gọi là như như bất động,
luôn luôn cùng khắp không gian thời gian, không có biến đổi,
không có tiêu diệt.
Hỏi:
Bảo
rằng tìm Phật tánh thì không học, mà không học là mù; vậy
liệu rằng trong trạng thái ngu dốt đó, có cơ hội học hỏi
Phật pháp không hay chỉ để gặp pháp thiền này rồi tu?
Đáp:
“Không
học là ngu”, cái ngu đó là do người ấy tạo. Phật tánh
không có ngu dốt và trí huệ để đối đãi, vì cái gì cũng
sẵn sàng. Như kinh Pháp Hoa nói “có hạt châu như ý mà không
biết, tự cho mình nghèo khổ rồi đi ăn xin”. Chỉ cần gặp
người trí chỉ cho biết thì không còn đi ăn xin nữa. Mình
đã có đầy đủ sẵn có thần thông trí huệ thì đâu cần
học! Như con dơi không cần học, mà lại có ra đa. Con chim
từ trên hư không bắt cá ở dưới biển, có bản năng đó,
đâu phải do học!
Nếu
trừ hết tập khí phiền não của mình thì có bản năng vô
lượng vô biên, không có cái nào không biết, không có cái
nào mà không làm được. Còn cái học thì có cái học được,
có cái học không được. Bởi vì không phải cái của mình
sẵn có, nếu phát hiện cái của mình sẵn có thì không cần
học. Sự thật tôi chứng tỏ cô thợ may Trì Hằng Thiền,
bây giờ người ta phát minh kiểu mới, cô đâu cần học,
kiểu mới đem lại cô cắt liền mà không cần nghiên cứu;
đem đến người khác không cắt được, chứng tỏ là hơn
học rồi.
Hỏi:
Con
chim nhỏ đang đậu trên tảng đá, có con chim lớn đến đuổi
con chim nhỏ để đậu, rồi một làn sóng phủ lên tảng đá
làm cho chim lớn sợ bay đi. Lực lớn trùm lên lực nhỏ, hiện
tượng đó có mang ý nghĩa nào không?
Đáp:
Tất
cả hiện tượng thế giới đều do cái ngã tạo ra, bởi vì
có ngã mới đuổi con chim kia. Nhưng con chim không có nhân chiếm
được tảng đá thì không thể chiếm được tảng đá, nếu
con chim lớn tạo nhân chết trên tảng đá, sóng biển có thể
làm nó chết trên tảng đá.
Không
có ngã làm sao tạo ra nhân quả? Có nhân quả là do cái ngã
tạo ra, hiện tượng thế giới không có ngoài luật nhân quả.
Gần đây bị bảo làm chết bao nhiêu người là do cộng nghiệp.
Trong
hoàng cung, Thái hậu mất một hạt châu rất quý, nhà vua bắt
những người trong cung xét để tìm hạt châu.
Thái
hậu nói: khỏi cần, ít bữa sẽ trở về.
Vua
nói: sao Thái hậu biết?
Thái
hậu (có tu, lại biết mấy chục kiếp trước) nói: tôi từ
mấy chục kiếp trước đến nay không có ăn cắp đồ của
người ta, nên đồ của tôi không thể mất, ít bữa sẽ trở
về.
Ít
bữa sau, Tôn giả A Nan lượm được đem lại trả cho vua,
vua đưa cho Thái hậu.
Thái
hậu nói: phải không!
Vua
cười và nói: Do Tôn giả A Nan lượm được mới đem lại
trả, nếu người khác lượm thì đâu có đem lại trả, mà
nói trở về.
Thái
hậu nói: nếu không tin thì muốn bỏ chỗ nào cũng được,
rồi sẽ trở về.
Vua
bỏ hạt châu nơi ngã tư người ta thường đi qua lại, cho
người mặc đồ thường thay phiên giữ coi có ai lượm không;
qua ba bốn ngày không có ai lượm, vua lấy về tự tay bỏ
xuống biển để coi có trở về được không? Mấy bữa sau
nhà bếp hoàng cung làm một con cá có hạt châu trong bụng.
Chứng tỏ nhân quả không thể sai lầm, vì không tạo nhân
mất đồ thì không mất đồ.
Có
một vị chứng quả Bích chi phật ở trên núi phơi chiếc
y đỏ, dưới núi có người mất con bò, thấy trên núi có
người đốt lửa hơ chiếc y màu đỏ cho là da bò; rồi lên
bắt ông ấy ở tù 12 năm, các đệ tử của ông tưởng ông
mất tích. Qua 12 năm, có một đệ tử có dịp vô trong khám
gặp thầy.
Đệ
tử hỏi: sao Thầy không nói là không ăn cắp bò, mà phải
bị tù 12 năm?
Thầy
nói: không có bị oan.
Đệ
tử hỏi: vậy ăn cắp bò của người ta sao?
Thầy
nói: không có ăn cắp bò, vì kiếp trước tôi có làm oan người
ta, làm cho người bị tù 12 năm. Bây giờ tôi phải ở tù
12 năm trả lại.
Hỏi:
Muốn
báo ân cha mẹ, trong Phật pháp chúng con phải làm thế nào?
Đáp:
Trong
Phật pháp có nói “nhứt thiết duy tâm tạo”, tâm lực mình
mạnh có ảnh hưởng đến cha mẹ được sửa đổi tâm, mới
là báo ân. Nếu tâm tham thiền, không những báo ân cha mẹ
đời nay, mà báo ân cha mẹ nhiều kiếp trước. Tâm lực của
mình yếu thì không thể báo ân, tụng kinh để báo ân thấy
rất khó, ở thời Phật không có tụng kinh. Ngày xưa Phật
bảo Mục Kiền Liên muốn báo ân mẹ, nên thiết trai cúng
dường trai tăng 1.000 vị Tỳ kheo chứng quả A la hán. Việc
ấy, Phật muốn người ta cúng dường chư Tăng để có thì
giờ tu hành độ chúng sanh giải thoát khổ, nên sức đó mới
lớn.
Trong
nhà Phật có báo tứ ân: ân Phật, ân chúng sanh, ân sư trưởng,
ân cha mẹ. Tại sao chúng sanh là ân? Vì tất cả chúng sanh
đều là cha mẹ, vô lượng kiếp chúng sanh đều làm cha mẹ
mình; chứ không phải chỉ có cha mẹ kiếp này. Sư trưởng
dạy mình biết tu giải thoát. Phật cũng vậy, dạy cho mình
biết tu giải thoát, cho nên gọi là tứ ân. Quyết tâm tham
thiền thì tứ ân đều báo hết, nếu tụng kinh để báo ân
là do người tụng kinh ấy có thật chân tu cảm ứng tâm người
đó có thể sửa đổi.
Hỏi:
Trước
nhà cô bạn có một cây lớn, con quỷ ở trên cây đó; ông
chồng cưa cây làm cho con quỷ về báo không có chỗ ở, làm
cho vợ chồng cải nhau ly dị; người chồng phải đến chỗ
khác ở, chỉ có người vợ mới ở được. Một hôm cô ấy
thấy một tay có lông thò vào cửa sổ. Vậy hiện tượng
đó như thế nào?
Đáp:
Hiện
tượng đó có thể có thật, trong Hư Vân Niên Phổ nói cây
lâu năm có quỷ thần ở. Nhưng cũng ở trong nhân quả, chứ
không ở ngoài nhân quả. Nếu tham thiền thì giải quyết tất
cả vấn đề, không có vấn đề nào mà không giải quyết.
Vì tất cả đều do tâm tạo, tham thiền làm tâm lực mạnh,
việc sanh tử cũng sửa đổi được.
Như
Kim Bích Phong đáng lẽ phải chết, Diêm La vương sai quỷ sứ
lại bắt.