Chương
I
CẢNH
TỈNH KẺ TỤC MÊ
Người
thế tục hỏi: Tôi muốn thường ăn chay, có công đức chăng?
Thiền
sư đáp: Các loài có vẩy, có mai, có lông mao, lông vũ, thể
chất nó tuy khác với người, nhưng sự hiểu biết và sự
đau khổ đâu khác chi người. Bởi đời trước nghĩ sai, nên
đời này hình hài có khác. Nếu như một lòng tín thành dứt
ăn thịt, giữ giới sát, thật là bậc “Đại đức quân
tử”. Có thể bảo là người nhân từ, người thiện. Nếu
quả ông ăn chay, giữ giới suốt đời không sờn lòng, chẳng
những thêm nhiều phúc và thọ mà còn gieo được chánh nhơn
giác ngộ. Khá thương cho người đời không trí huệ, tham
đắm vị ngon mặc tình đồn chứa, ra tay sát hạt, tạo tác
muôn ngàn. Chỉ ngon qua ba tấc lưỡi, một ngày kia cải đầu
đổi mặt, lần lượt nuốt ăn. Lúc ấy đau khổ hối hận
không người giúp cho.
HỎI:
Người đời đều cho heo, dê, gà, ngỗng, các loài có vẩy,
có mai, có lông mao, lông vũ v.v. trời sanh ra các loài này để
làm đồ ăn cho người. Nếu không giết để ăn, dùng chúng
làm việc gì?
ĐÁP:
Người đời ăn thịt đương nhiên, buông lung tâm ý mổ giết
để thích khẩu, khoái bụng. Đâu chẳng biết, tất cả chúng
sanh dưới nước, trong đất, trên không, trên bộ, chẳng quan
là do nghiệp lực quả báo mà có thân xác khác nhau. Người
đời tuy nhờ phước nhứt thời mà khinh thường sát hại
quá nhiều rồi. Tha lực yếu kém làm sao chống chỏi nổi
hận oán kia? Có ngày sẽ báo đền oan trái. Quả thật nếu
heo, dê v.v. trời sanh ra làm đồ ăn cho người, còn ở thế
gian những loài sài lang, hổ báo, muỗi mòng, chí rận v.v.
vô hạn ác thú hung cầm đều hay ăn người, đâu không phải
trời sanh? Giả sử người nam kể nữ đều làm đồ ăn cho
loài vật có nên không? Người đời không rõ tạo nghiệp
sẽ có thường mạng lẫn nhau. Không biết cớ sao lại cho
việc sát sanh là việc đáng nên làm, thật quá ngu muội.
HỎI:
Tôi thường nghe người đời có nói: “Người nhiều lòng
tốt cũng như ăn chay rồi”. Lý này thế nào?
ĐÁP:
Bậc nhân đức quân từ, người hiền có lòng nhơn từ, làm
lợi ích cho người, cứu tế loài vật, nhóm công chứa đức,
cho đến những chỗ động dụng hay chỗ làm việc, thấy sanh
linh rơi vào chỗ chết, lúc ấy đâu không khởi lòng trắc
ẩn cứu cho được sống, có lòng từ bi như thế mới bảo
là người tốt. Vô cớ giết nó cho vào miệng ta, hoặc cầm
dao bén mổ bụng, hoặc nắm dao nhỏ đâm vào tim, lóc da, đánh
vẩy, cắt cổ, bổ vỏ hay vào lò nướng, trăm cách tạo tác
làm cho ngon miệng, khoái bụng, lòng thương xót hoàn toàn không,
như vậy lòng tốt ở chỗ nào? mà lại nói lời mê như thế?
Tội lỗi kia làm sao có thể sám hối? Tôi nay nói rõ ông hãy
lắng nghe: Quả như ông một đời giữ giới sát, ăn chay suốt
đời chẳng chán, dù tâm ông chẳng tốt, phải đoạ vào tay
người giết, hoặc trong vạc sôi lò lửa.
HỎI:
Tôi tuy nghèo mà trong sạch, chẳng bao giờ trộm cắp. Vậy
thế nào?
ĐÁP:
Không riêng gì lấy tài vật mới gọi trộm cắp, mà tham ô
kẻ lương thiện, dùng tà thuật lừa đảo, xúi người kiện
tụng, rủ rê dụ dỗ người cờ bạc, hại người tù tội,
làm cho người nghiêng ngửa, hại người nơi hiểm nguy, làm
cho hao tài tốn của, tráo đổi vật tốt của người, thiếu
nợ chẳng trả, xâm lấn người ngu, chiếm đoạt kẻ yếu.
Tất cả việc bất lương đều là trộm cướp cả. Nếu là
người có trí huệ, thấy người giàu sang nên khởi lòng kính
mến, mà hận mình đời trước không tu phước, đời này
nghèo khổ phải cam chịu. Lại phát khởi tín tâm, tu phước
lành, chứa công đức, những việc ác chớ làm, nên làm các
việc lành. Tự nhiên không có phụ người chứa nhóm công
đức lành vậy.
HỎI:
Giữ tài sản một cách công bằng, nhưng chẳng bỏ hẳn lòng
tham tích chứa, tùy sức mình mà kinh doanh. Vậy như thế nào?
ĐÁP:
Giữ tài sản một cách công bằng thì nên. Tuy nhiên vật báu
trên đời chứa lâu thành họa. Nếu vật báu có đến chớ
nên chứa, nếu chứa chớ chứa lâu. Còn như tham cầu không
chán, nhận ngang không thẹn, tuy một lúc được giàu có, nhưng
chẳng khỏi tối lo sáng tính.
Kinh
Phật nói: “Tài sản hiện tại của người đời là của
chung của năm nhà. Năm nhà là nhà vua quan, nhà nước lửa,
nhà trộm cướp, nhà giặc giã, con cháu tiêu phá. Người đời
dại dột, đắng cay suốt cả một đời, tạo cho nhiều tiền
của, mong được vĩnh viễn giàu có. Đâu biết đấy là phần
của năm nhà một ngày kia sẽ tan nát. Như vậy giữ của một
cách công bằng mà còn chẳng lâu thay, huống là giựt ngang
hay lừa đảo mà có thề thường còn ư?”
HỎI:
Tôi thường ít ham muốn về sắc dục, chỉ có một vợ, việc
tà dâm tôi đoạn hẳn chẳng phạm. Vậy thế nào?
ĐÁP:
Hai chữ sắc dục là căn bản của việc sanh tử. Trong các
điều ác việc tà dâm tư tình gian dối là bậc nhất. Từ
xưa tới nay nó là việc mất đạo tan đức, lại chuốc họa
vào thân, không thể kể cho hết. Ngay nơi việc thích rượu
chè, ham tiền của còn có thể chế, chỉ có một cửa ải
sắc dục còn khốc liệt hơn gấp bội. Bởi chúng sanh gốc
từ dâm dục mà tánh niệm phải tiếp nối sanh tử. Tập quán
từ trước quá thuần thục, nếu không dùng trí huệ quán
chiếu thì dục nghiệp làm sao rõ? Kẻ tại gia khó đoạn hẳn
sắc dục, nhưng cần yếu là phải giữ cho chơn chánh: chẳng
phải vợ nhà nhất định không thể làm hạnh tà. Có một
bọn tục tử thấy vợ con người, dáng dễ coi liền khởi
tà tâm, rồi nghĩ mộ tham cầu. Như vậy thì lý trời đã
mê, lòng người đã mất.
Kinh
Phật nói: “Gian dâm vợ người bị quả báo tuyệt tự. Gian
dâm con gái người bị quả báo con cháu dâm dật, phóng túng”.
Ông có thể đại khái nhìn những nhà người hiểu dâm hạnh
xấu, bởi tiếp nối dòng tệ hại nên lần lần tiếng nhơ
lan đến mọi người. Cổ nhơn nói: “Ta chẳng dâm vợ người,
người chẳng dâm vợ ta”. Lại có một hạng chúng sanh mang
nghiệp si, thấy người đàn bà khác vốn không phải vợ mình,
cho người ấy đẹp, rồi bày điều gian dâm lừa đảo, trở
lại bỏ bê vợ nhà chẳng đoái hoài. Hoặc thích gần gũi
bỡn cợt trẻ ngoan. Hoặc tư thông với vợ người làm công,
và khiến kẻ dưới lừa đảo người trên…muôn ngàn dâm
nghiệp kể ra không xiết.
Lại
có kẻ đọc sách tài tử, cũng cho học là người thông minh.
Sách ấy miêu tả chuyện tư tình của phụ nữ nơi khuê môn,
biên vào ca dao, làm thành sách vở, làm mê hoặc người thật
thà, dẫn học vào tà niệm. Tội ác của kẻ ấy thật như
núi cao, không thế nào cầu đảo mà hết được. Nếu
là người có trí huệ phải nên tự hổ thẹn và tự ăn năn,
mà đoạn tuyệt ngay nết tà dâm, thì cõi người cõi trời
đâu đó có phần. Kẻ ngu ngày đắng miệng mà khuyên các
ông: “Chỉ nhơn nghiệp dâm mà tội ác tạo ra nhiều lắm!”
HỎI:
Dâm dục tội ác như vậy, khẩu nghiệp như thế nào?
ĐÁP:
Trong mười nghiệp ác, chỉ có miệng là đã chiếm hết bốn
rồi. Nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói ác là giết
người không máu. Kẻ ấy còn hơn người làm ác nhiều. Làm
bại hoạt việc lành của người, nói chỗ yếu của người.
Bàn biệc quấy của người, luận việc lỗi của người,
lừa đảo tiền của của người, cho đến việc bại hoại
đạo đức, chôn vùi người mà cũng chôn vùi mình, đều do
không ngăn được cái bệnh lắm mồm của mình. Cho nên tự
chuốc họa rất nhiều.
Kinh
nói: “Phật bảo ngài A-nan rằng người đời tai họa từ
nơi miệng mà lưu xuất phải nên giữ gìn cái miệng còn hơn
giữ lửa. Lửa dữ thiêu đốt tài sản ở thế gian, lửa
ác khẩu thiêu đốt tài sản bảy báu của mình”. Tất cả
chúng sanh tai họa từ nơi miệng mình mà ra, nó là chiếc búa
chém mình, là cái họa tai tiêu diệt mình. Nay có người muốn
nuôi dưỡng đức hạnh, phải ẩn ác dương thiện, phát ngôn
nên nói lời chơn thật, đàm luận không nên nói bậy, có
hỏi có đáp, lời nói giản dị, khí sắc ôn hòa, thì chư
Phật chư thiên gia hộ và cũng được người thương yêu và
kính trọng.
HỎI:
Tánh tôi thích uống rượu, như vậy thế nào?
ĐÁP:
Tâm tánh mê mờ, chí khí bị chôn vùi, nhà cửa tan nát, lại
còn mất mạng, phần nhiều do uống rượu mà ra, và chuốc
họa tai không ít. Người đời mê rượu không chán, cho đến
hình hài bị hủy thương, điên đảo cả lễ pháp, nằm lăn
nơi phố chợ, la ó om sòm, phạm lỗi người trên mất hết
danh dự, loạn dâm mất đức, muôn ngàn việc lỗi lầm nghịch
ngợm là do tham uống rượu.
Người
xưa nói: “Ngăn ông chớ uống rượu, nó là thuốc làm điên
loạn chớ chẳng phải vị ngon. Nó hay khiến người tánh tình
thuần hậu thành kẻ hung dữ dối láo”. Trong luật tứ phần
nói: “Uống rượu có ba mươi sáu lỗi. Chẳng những người
đời uống rượu phạm lỗi, cho đến la hán tham uống rượu
cũng mất hết thần thông”. Chúng sanh mê muội, kẻ phàm
phu sơ học phải giữ gìn và kiêng cữ uống rượu.
HỎI:
Xin nói ba mươi sáu lỗi gồm những gì?
ĐÁP:
Uống rượu có ba mươi sáu lỗi là: bất hiếu với cha mẹ,
khinh mạn thầy dạy, chẳng kính trọng Tam bảo, bài báng hàng
Sa-môn, bươi móc tội người, thường nói lời vọng, vu người
làm ác, đem lời thâm thọc hai đầu, nói lời hung ác hại
người, là gốc của bịnh hoạn, là rễ của đấu tranh, tiếng
ác đồn khắp, người hiền đều chán, bài xích thánh hiền,
khinh lờn trời đất, hư mất sự nghiệp, phá nát gia tài,
thường không biết hổ thẹn, chẳng biết sỉ nhục, vô cớ
đánh người ở, giết hại chúng sanh, gian dâm vợ người,
trộm tài vật của người, lơ là với người hiền, gần
gũi bạn ác, thường ôm lòng sân hận, ngày đêm lo rầu. Lấy
đông đưa tây, giữ nam mắc bắc, nằm đường té rãnh, rơi
xe té ngựa, gặp sông rơi xuống nước, cầm đèn bị cháy,
tháng nắng nóng chết, ngày lạnh rét chết. Người uống rượu
có những lỗi như vậy. Người quân tử nuôi đức, phải
tự răn mình đừng uống rượu.
HỎI:
Tôi có chỗ tốt là khi bị người ta điểm nhục mà không
giận dữ, nếu có chút phiền, nhưng khi biết rồi cũng hết.
Vậy thế nào?
ĐÁP:
Giận dữ là gốc của muôn điều chướng ngại, nhẫn nhục
là đứng đầu của trăm phước. Người đời nói nhẫn nhưng
mà chữ nhẫn rất khó, không phải là người trí huệ quyết
không thể nhẫn được. Trừ ngoài Phật Tổ được như như
chẳng động. Kẻ hào kiệt, người sơ học phần nhiều do
không nhẫn mà bị thất bại, và bị hãm vào chỗ bất như
ý. Kinh Phật nói: “Nhẫn nhục là bậc nhất”. Tục ngữ
có câu: “Ăn được ba đấu tương chua, giấm đặc mới làm
được tể tướng”. Kẻ phàm phu ở đời còn như vậy, huống
là người học đạo không rộng lòng nhẫn nhục ư?
HỎI:
Người đời nhiều lòng tham, gom góp tài sản cho thật nhiều.
Tự bảo là để lại cho con cháu sau này được giàu có, được
hay chăng?
ĐÁP:
Kẻ ngu si ở thế gian ý cậy quyền thế, mê tâm chôn đức,
có trăm cách khéo léo để lấy, dù được giàu có bất ngờ,
nhưng có bao giờ được lâu dài. Nếu là người trí huệ
nên phải chứa công nuôi đức, tuỳ khả năng mình mà kinh
doanh, theo đúng mệnh trời, tự nhiên chư thánh phò hộ, âm
thầm tăng trưởng phước lộc. Người đời chỉ biết vì
con cháu lo làm giàu, chớ chẳng biết vì con cháu làm lành
tạo phúc. Thế nào gọi là phúc? Kính trọng Tam bảo, chứa
nhóm âm đức, cẩn trọng qui tắc của gia đình, dạy người
cố gắng làm việc và học hành, đấy là tạo phúc.
Thế
nào là cầu làm giàu? Không thành tín mê mờ thiên lý, dùng
tâm máy móc, gom góp tiền của không hợp lý, đấy là cầu
giàu có. Kẻ cầu giàu chẳng thạnh người tạo phúc sẽ hiển
vinh. Há chẳng thấy kẻ giàu to ở đời, con cháu hư hèn,
cờ bạc phóng túng, một ngày kia sẽ phá cửa nhà, cho đến
mất thân mạng. Chuyện này thường có xảy ra, sao không lấy
đó làm gương? Tục ngữ nói: “Được của không chánh đáng,
bỏ được là tốt”. Người trí xem biệc này chưa khỏi
lạnh lòng!
HỎI:
Như đã mở bày, muốn làm người tốt phải xem tất cả như
không, và thường thường kiểm điểm, phải vậy chăng?
ĐÁP:
Muốn làm người tốt phải tự soi xét: suốt một ngày từ
sáng đến chiều phải soi tâm mình và tự xét lý kia. Khi khởi
tâm động niệm có cùng tâm trời hợp không? Hành động hàng
ngày có cùng với người hợp không? Hằng thường tỉnh táo,
không rơi vào tư riêng lâu ngày tâm được chánh, nhơn dục
tự nhiên hết.
Nếu
là người buông lung tâm ý, chẳng sợ trời phạt, chẳng sợ
báo ứng, phi lễ mà hành động, mà tạo tá, lâu ngày chầy
tháng, tích chứa nghiệp ác quá nặng, một mai phúc hết, các
nghiệp đến bên thân, hiện đời gặp tai họa, khi chết đoạ
ba đường ác. Kinh Phật nói: “Nghiệp đã tạo, giả sử
trải qua trăm ngàn kiếp cũng không mất, khi nhơn duyên hội
ngộ, mình phải trở lại chịu quả báo”. Thế nên biết,
nhơn quả chẳng sai, người đời sau hãy tin chắc thật.
HỎI:
Việc nhơn quả có nhiều người không tin. Vậy thế nào?
ĐÁP:
Việc nhơn quả báo ứng chẳng sai chẳng lầm, giống như bóng
theo hình, một mảy may không lộn lạo. Các bậc tiên thánh
đã nói việc này rất rành rõ. Người sau ngu mê chẳng tin,
phải nên tế nhị mà xét: Người đời có kẻ giàu sang, người
bần tiện, có kẻ chết yểu, người trường thọ, có kẻ
được vinh dự sủng ái, có người gian nan nhục nhã, có người
khổn khổ, kẻ an nhàn, có người trẻ mà được đăng khoa,
có người suốt đời thi chẳng đậu, có người rất giàu
có mà không con, kẻ nghèo xơ xác mà nhiều người kế hậu,
có người ấu niên, trung niên, lão niên khổ vui chẳng đồng,
có người nghèo hay giàu sang suốt một đời, còn muôn ngàn
việc sai khác nhau chẳng nhất định, ấy tất cả đều do
nghiệp cảm nên. Người xưa nói: “Mùa xuân gieo một hạt
thóc, mùa thu được muôn vạn hạt. Người đời làm thịện
ác quả báo cũng như vậy” (xuân chủng nhất lạp túc, thu
thu vận khoả tử, nhơn sanh vi thiện ác, quả báo hoàn như
thể). Thế nên biết, sự vui buồn trong ba cõi, sự thăng trầm
trong sáu nẻo, đều do tự mình tạo và tự mình chịu lấy,
không phải từ bên ngoài đem đến cho mình.
HỎI:
Tôi thấy người trung chánh lương thiện lại nghèo không một
gánh lúc. Lại có bọn điêu ngoa hung ác mà ruộng đất cò
bay thẳng cánh. Như vậy nhơn qủa há chẳng lầm ư?
ĐÁP:
Tạo thiện ác chẳng đồng nhau, nên quả báo cũng chẳng nhất
định: Có lúc báo ngay nơi thân mình, có khi báo nơi thân con
cháu, có khi báo đời này, có lúc báo đời sau. Như có người
ăn cơm hẩm, kẻ ăn cao lương. Người mặc áo gấm, kẻ áo
lông. Lại có kẻ lầu son gác tía, lên xe xuống ngựa. Tất
cả đều do đời trước tự làm điều thiện hay điều ác,
mà nay chịu quả báo khổ hay vui, một mảy may chẳng sai chạy.
Chỉ thấy kẻ hung ác mà được giàu sang, đâu biết được
người ấy đời trước đã tu phước? Hoặc thấy người
rất từ thiện mà nghèo khó lại mạng yểu, ấy là do đời
quá khứ tạo nghiệp ác mà ra.
Trang
Tử nói: “Tên đạo chích theo đoàn quân chín ngàn người,
hoành hành thiên hạ, xâm bạo các nước chư hầu mà tên ấy
vẫn trường thọ”. Trong Luận ngữ sớ nói: “Hạng Thác
bảy mươi tuổi làm thầy Đức Khổng Tử mà chết yểu”.
Cho nên có người trong sạch chân chánh mà thân bần cùng.
Hoặc có người tham ô mà giàu có. Chớ chấp hiện đời này
có sai khác mà bài báng nhơn đời trước thì sai lầm vậy.
HỎI:
Sự báo ứng của thiện ác, lý kia không sai. Có một bọn
ngu si chẳng tin nhân quả, trở lại nói: “Lương tâm chẳng
thể làm ra gạo. Nếu lương tâm hay vào nồi thành cơm thì
cũng có thể nên làm”.
ĐÁP:
Khá tức cười, thật là quá ngu si điên đảo. Ông, nếu lương
tâm từ sáng đến tới không dối, thì phù hợp với lòng
trời, lúc ấy thần cũng vui vẻ, người cũng hân hoan. Niềm
hòa khí được cảm triệu, thì tự nhiên tươi vui. Kinh thi
nói: “Niềm vui chỉ đến với người quân tử, và phước
lộc sẽ đến với họ”. Nếu do chôn vùi đức hạnh mà
được tiền của, bỏ tấm lòng mà được giàu có, thì mới
trở lại bài báng lương tâm vô dụng, không thể vào nồi
thành cơm. Đâu biết hạng người này đã mê mồ lý trời,
trong bóng tối thần giận qủi hờn, giảm phúc tổn thọ,
nghèo thiếu nạn tai, cho đến con cháu hư hèn, việc lạ đâu
chẳng có.
Sách
Văn Xương nói: “Người tu thân sửa hạnh, trời nhất định
giáng cho trăm điều lành. Trái lại kẻ phản đạo bại đức,
thần cũng đoạt năm phước”(1). Thế nên, phước thiện
hay hoạ tai, lý nó tất nhiên nhất định như vậy. Nếu
chịu cải ác làm lành, chẳng khinh lờn, tự nhiên Phật trời
ngầm phò hộ, phước thọ được tăng trưởng.
HỎI:
Người có lỗi biết ăn năn có thể được chăng?
ĐÁP:
Đã là người ai chẳng có lỗi lầm, biết lỗi lầm mà ăn
năn chừa cải, thì điều lành nào chẳng lớn? Sự lỗi lầm
ác hại chẳng phải có một. Nên nơi thân miệng ý phải luôn
tỉnh táo, nhất định giờ phút nào cũng phải soi xét xem
hành động mình có thích đáng hay không. Nếu là thiện nên
làm, còn ác thì mau cải đổi. Sự đổi ác theo thiện như
con bệnh ra mồ hôi, tự nhiên sẽ được may mắn, vui vẻ,
chư thánh sẽ phò hộ cho.
HỎI:
Giả sử chiếu xét chẳng đến, một lúc sanh tâm động niệm,
chưa biết phải háng phục tâm ấy như thế nào?
ĐÁP:
Người xưa trị tâm rất khít khao, cho nên gặt hái được
nhiều kết quả to lớn. Tất cả những tâm thiện ác của
con người đều do NIỆM. Khi niệm dấy động nên mau mau tỉnh
giác. Tỉnh giác nó liền thành không. Thu nhiếp như vậy lâu
ngày chầy tháng tự nhiên tâm chánh. Kinh Thư nói: “Buông
lung niệm là người điên, chế phục được niệm là bậc
thánh”. Lời nói này rất chi lý và nên theo đó mà hành.
HỎI:
Người tại gia năm dục (2) cột trói, không thể thoát liền
được, chưa biết có phương tiện gì để tu lần hay không?
ĐÁP:
Người tại gia tu hành việc ấy rất khó, phải dũng mãnh
kiên chí và thường lâu mới được. Nên trong lúc động tịnh
hàng ngày, trong lúc rảnh rang hay lúc bận rộn, chỉ riêng
đề khởi một câu A Di Đà Phật, rồi hồi quang phản chiếu,
chỉ giữ một niệm. Giả như có nhiều vòng lửa xoay trên
đầu nhất định cũng không bỏ một niệm này, mặc tình
cho tám gió (3) đến xung kích ta, chẳng cho mất một niệm
này, lâu ngày chầy tháng một niệm được thuần chơn. Trở
lại đem một niệm này phá nát ra, lúc ấy tự tánh Di Đà
mới hiện. Giả sử hành như vậy, suốt một đời chẳng
ngộ, khi báo tận mạng chung (chết), tự giữ một niệm, thẳng
đến đường chánh. Trở lại làm người một nghe ngàn ngộ,
thấy tánh thành Phật đã có phần. Đây là yếu chỉ của
biệc trở về tâm (qui tâm). Trái lại chờ hướng bên ngoài
mà dong ruổi tìm cầu. Tự mình phải lời nói và hành động
không trái, thì mới gọi là chơn chánh thọ dụng.