|
. |
Tìm hiểu
SÁU PHÁI
TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ
Thích Mãn Giác
---o0o---
DẪN NHẬP
Nghiên cứu về triết học Ấn Độ,
chúng ta thấy rằng, không phải vì sự nhận định hay công nhận của toàn thể
học giả, duy chỉ là do dựa vào ý kiến của một số đông mà triết học Ấn Độ
được chia làm 6 phái. Danh từ Sïadïarsùana là chỉ cho 6 phái triết học,
tức 6 tư tưởng hệ của 6 triết thuyết được kể như sau: Pùrva-Mìmàmïsà (tiền
Di Man Tác), Sàmïkhya (Số Luận), Yoga (Du Già), Vaisùesïika (Thắng Luận),
Nyàya (Chánh Lý) và Vedànta (Phệ Đàn Đa).
Tuy chia làm 6, nhưng kỳ thực tư
tưởng hệ của 6 phái triết học này có nhiều điểm trùng hợp nhau. Theo bộ
Trung Quán Tâm luận cho biết, luận sư Thanh Biện (Bhàvaviveka) đã vạch
ra những điểm trùng hợp của các triết thuyết này, như: nhiều tư tưởng hệ
của Sàmïkhya lại nằm ở trong Yoga, hay của Vaisùesïika lại nằm cả ở nơi
Nyàya. Chính vì lý do này, trong bộ Trung Quán Tâm luận, Thanh Biện
đã phủ nhận sự hiện diện của 6 phái triết học trong ngôi nhà Triết học Ấn
Độ.
Nguyên do khiến Triết học Ấn Độ không phân biệt rõ ràng sự khác biệt giữa
6 triết thuyết, phần lớn do Vàcaspati Misùra gây nên. Chỉ một mình nhân
vật này vừa san định, vừa trước tác, vừa chú thích kinh điển của cả 6 phái
nên không làm sao tránh khỏi sự trùng hợp. Với triết thuyết Sàmïkhya, ông
viết bộ
Sàmïkhya-tattva-kaumudi; với triết thuyết Yoga, ông viết bộ
Tattvavaisùàradì để giải thích lại ý nghĩa bộ Yoga sùtra của
Vyasa; với triết thuyết Nyàya, ông dựa vào bộ Nyàyavarttika của
Uddyotakara rồi viết ra bộ Nyàyavarttika-tatparya-tika; với
Mimàmïsà, ông viết bộ Nyàyakanïikà để giải thích bộ
Viddhiviveka của Manïdïanammisùra; với Vedantà, ông viết bộ Bhàmatì để
giải thích bộ Vedànta chú giải của Sanïkara. Như vậy, trong 6 phái
triết học Ấn Độ, riêng về kinh điển của triết phái Vaisùesïika là không bị
bàn tay của Vàcaspati Misùra nhúng vào mà thôi.
Một dẫn chứng rõ ràng là khi Vàcaspati Misùra viết bộ
Nyàyavarttika-tatparya-tika cho triết thuyết Nyàya, ta thấy có nhiều
điểm tương đồng rất đậm đà với triết thuyết Vaisùesùika. Bởi vì sự trùng
hợp này, hậu đại đã phủ bác sự phân chia triết học Ấn Độ ra làm 6 phái, mà
lỗi chính vì Vàcaspati Misùra đã không đủ sức tạo cho mỗi triết thuyết một
sắc thái độc đáo riêng biệt. Ông chỉ có một cái công duy nhất là mạch lạc
hóa tư tưởng hệ của mỗi triết thuyết và chia nó ra thành mấy đầu dây, thế
thôi. Do sự thể này khiến 6 phái triết học Ấn Độ dù đã được phân chia,
nhưng chúng cứ vẫn triền miên nằm chung trong một hệ thống tư tưởng.
Vàcaspati Misùra sinh năm 800 và
mất vào khoảng 870. Sở dĩ có danh từ “Sáu phái Triết học Ấn Độ” cũng chính
là do ông đặt lấy; sự việc này được ghi trong chương Nyàya-Sùcì-Nibhanda
của bộ
Nyàya-sùtra, do ông biên soạn vào năm 841 Tây lịch.
Ngoài ra, sự sắp đặt 6 phái triết
học Ấn Độ không được thống nhất. Như bộ
Astasahasari của Vidyananda trong phái Anga (Bạch Y) thuộc
Jaina (Kỳ Na giáo) viết vào khoảng năm 800, thì không sắp triết thuyết
Nyàya vào 6 phái, mà Phật giáo lại được đặt thay ở đây. Đến học giả
Haribhadra, thuộc thế kỷ thứ IX, trong phái Anga của Jaina giáo, khi viết
bộ Sáu phái triết học tập (Sadïdarsùana-Samuccaya) thì 6 phái triết
học gồm có trước hết là Phật giáo, rồi đến Nyàya, Samïkhya, Jaina,
Vaisùesika và Mimàmïsà.
Lịch sử hình thành sáu phái Triết học Ấn Độ còn nhiều, nhưng với vài dòng
giới thiệu đơn giản này cũng đủ để chúng ta có một khái niệm về sự tổ chức
của 6 triết thuyết mà chúng ta sẽ nghiên cứu sau này.
Phật lịch 2546 - 2002
THÍCH MÃN GIÁC
---o0o---
Mục lục
|Chương
I|Chương
II|Chương
III
Chương IV|Chương
V|Chương
VI
---o0o---
Nguồn: www.chuyenphapluan.com
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 4-2005
|
|