Quan Niệm Triết Học Của Duy Thức

Người giảng: Pháp Sư  PHÁP PHẢNG

Người dịch: HT Thích Thắng Hoan

 

 

CHƯƠNG VII

 

LUẬN VỀ LÝ TÁNH CỦA DUY THỨC.

 

I.- NGHĨA TRUNG ĐẠO CỦA DUY THỨC: 

THỊ CHƯ THỨC CHUYỂN BIẾN, PHÂN BIỆT SỞ PHÂN BIỆT, DO THỬ BỈ GIAI VÔ, CỐ NHỨT THIẾT DUY THỨC” (Là các Thức chuyển biến, Phân Biệt Sở Phân Biệt, do đây kia đều không, nên tất cả Duy Thức)

Bài Tụng đây là thuyết minh nghĩa vạn pháp do Duy Thức biến hiện. Ở trước Thể của ba loại Thức Năng Biến đã trình bày qua, tất cả hiện tượng ngã tướng pháp tướng đều do Thức biến hiện. Chỗ biến hiện (sở biến) của Thức chính là các thứ Tướng của ngã (nhân sanh xã hội) và các thứ Tướng của pháp (vũ trụ vạn hữu). Nói chung lại vấn đề Năng Biến và Sở Biến trong đó đã được trình bày rõ ở trước. Hiện tại chỉ đề cập đến đạo lý biến hiện như thế nào của Tâm Thức, tức là trình bày Tâm Thức năng biến như thế nào và Hiện Tượng sở biến như thế nào?

“Thị chư Thức chuyển biến”: Chư Thức là chỉ cho ba Thức Năng Biến, nghĩa là như trước đã trình bày, các thứ tướng của ngã pháp đều do ba Thức năng Biến này chuyển biến để hiện khởi. Chuyển Biến có ba nghĩa:

1)- Nghĩa Biến Hiện: chuyển thì biến và biến thì hiện, cũng như hạt giống sanh hiện hành và hiện hành sanh hạt giống..v..v…., cũng như đạo lý hiện lượng biến thành tánh chất, tánh chất biến thành hiện lượng của Duy Vật Luận; Hùng Thập Lực giải thích rằng, Biến là nghĩa sinh hoạt, đó là chỉ cho ý nghĩa nói trên. Nghĩa là một pháp này một khi biến đổi liền sanh ra thêm một loại pháp kế tiếp đều là do Thức Thể biến hiện phát sanh hai phần Kiến Tướng của nó. Kiến Phần là ngã tướng của thấy, nghe, hiểu, biết,..v..v….; Tướng Phần là pháp tướng của tất cả đối tượng. Vì thế Ngã Tướng Pháp Tướng bao gồm cả toàn thể nhân sanh vũ trụ đều không lìa khỏi tâm thức và ngoài tâm thức tất cả không có thật thể, cho nên gọi là Thức Chuyển Biến.

2)- Nghĩa Biến Dị: là nghĩa biến hiện tướng khác. Hai phần Kiến và Tướng là do Thức biến hiện và Thức biến hiện đây là chỉ cho phần Thức Tự Chứng hiện khởi tướng khác biến thành hai phần Kiến và Tướng, hai phần Kiến và Tướng chính là do phần Thức Tự Chứng biến hiện mà không phải do ai sanh ra. Hai phần Kiến và Tướng là biến thể hình tướng khác của phần Thức Tự Chứng cho nên gọi là Biến Dị. Hơn nữa phần Kiến thì thuộc về năng quán, phần Tướng thì thuộc về sở quán, cả hai về phương diện công dụng thì có khác nhau, nhưng về phương diện thật thể thì giống nhau đều do Thức biến hiện cả cho nên gọi là Biến Dị, hoặc gọi là Duy Thức Chuyển Biến.

3)- Nghĩa cải Chuyển: là đem Thức Thể cải biến chuyển thành Ngã Tướng và Pháp Tướng (phần Kiến và phần Tướng). Vì thế Ngã Tướng và Pháp Tướng của vũ trụ vạn hữu đều do các Thức Năng Biến này chuyển đổi biến tướng khác đi để hiện khởi cho nên gọi là “Thị chư Thức chuyển biến”.

“Phân biệt sở phân biệt”: là chỉ cho các Tướng biến hiện. Câu này có hai nghĩa:

1)- Nghĩa thứ nhất: là trình bày các pháp. Hai chữ “Phân Biệt” đây là chỉ cho Kiến Phần, tức là đề cập đến các thứ tri thức phân biệt của chúng ta và các thứ tri thức phân biệt này thuộc về Y Tha Khởi (nương nơi Thức Thể biến hiện), có công năng tác dụng chấp lấy từ những cảnh giới Tướng Phần của Thức biến hiện, nghĩa là các thứ tri thức phân biệt của chúng ta đều là những hình tướng vọng chấp thuộc tướng phần năng thủ được sanh khởi từ nơi Kiến Phần của Thức. Còn “Sở Phân Biệt” là chỉ cho Tướng Phần, cũng thuộc về Y Tha Khởi (nương nơi Thức Thể biến hiện), chính là ngoại cảnh, đều quan hệ với Thức Thể để phát sanh. Kiến Phần khi nắm lấy Tướng Phần chỉ nắm lấy ảnh tượng tương tợ của ngoại cảnh, như Nhãn Thức thấy sắc, bên trong do thân căn tịnh sắc (thần kinh tinh tế), bên ngoài do quang tuyến tác dụng..v..v….. nhờ đó mới có thể xem thấy được ngoại sắc. Nhưng Nhãn Thức chỉ có thể thấy được ảnh tượng của ngoại sắc mà không thể đích thân thấy được bản chất thật thể của ngoại sắc, nguyên vì bản chất của ngoại cảnh chính là chỗ biến hiện của Thức A Lại Da thứ tám, do đó mới có nghĩa là nương nơi tướng kia. Tướng Phần là là sở phân biệt của Kiến Phần và Kiến Phần là năng phân biệt; năng phân biệt cùng với sở phân biệt đều do Thức Thể biến hiện cho nên gọi là Duy Thức Sở Biến. Như đồ biểu sau đây:

Từ đạo lý này suy cứu sâu rộng thêm thì có hai thứ học thuyết: Kiến Phần Tướng Phần đồng giống và Kiến Phần Tướng Phần khác giống, như trong đồ biểu trên đã lược rõ.

2)- Nghĩa thứ hai: Chữ “Phân Biệt” như trong bài Tụng giải thích là chỉ cho Năng Biến của Thức Thể, tất cả Thức đều nương nơi hư vọng phân biệt làm tự tánh cho nên gọi là Thức Hư Vọng Phân Biệt, cũng chính là chỉ cho các pháp Tâm và Tâm Sở trong ba cõi; các thứ ngoại cảnh đều do Thức Hư Vọng Phân Biệt chuyển biến hiện khởi. Sở Phân Biệt chính là ngã pháp vọng chấp tương tợ hiện khởi mà lại cho là thật ngã thật pháp, trên thật tế hoàn toàn không phải thật có, đều do vọng thức phân biệt tạo thành. Cho nên vấn đề vũ trụ nhân sanh thật ngã thật pháp đây căn cứ trên tình thì có, còn căn cứ trên lý thì không, tất cả không thể ly khai Tâm Thức, vì thế nên gọi là Sở Phân Biệt, như đồ biểu sau đây:

Phân Biệt và Sở Phân Biệt tức là chủ quan và khách quan, cũng chính là bản thể và hiện tượng; những thứ đó đều có tương tợ nên gọi là “Do thử bỉ giai vô”. “Do thử” là chỉ do các Thức chuyển biến và chữ “Bỉ” là chỉ cho phân biệt, sở phân biệt (tức là các thứ tướng ngã pháp), tất cả đều do các Thức đây biến hiện. Bỉ phân biệt và sở phân biệt (các thứ tướng ngã pháp) đều không có tự thể, không phải thật có, “Cho nên tất cả đều chỉ có Thức, hư vọng phân biệt mà có, rồi cả thảy đều cực thành”. “Hư vọng phân biệt”là biệt danh của Thức; “Cực thành” là nghĩa bỉ phân biệt và sở phân biệt đều chung nhau thừa nhận, nguyên vì giáo phái Tiểu Thừa không chấp nhận lý Duy Thức, cho hư vọng phân biệt là thật có mà không phải là thật không. Đạo lý này là chỗ thừa nhận chung của người Tiểu Thừa chấp có, hoặc chỗ thừa nhận chung của người Đại Thừa chấp không. “Chữ Duy là nói các pháp không lìa khỏi Thức”, đây là thuyết minh chữ Duy của Duy Thức. Tất cả pháp đều không lìa khỏi Thức Thể, Chân Như cũng là thể tánh của Duy Thức, cho nên Chân Như cũng không lìa khỏi Thức mà có. Tất cả pháp do hư vọng phân biệt mà có, trên sự thật là tồn tại như huyễn, đã là “Có” (tồn tại) thì không thể phủ định cho rằng “không có” (không tồn tại), đây chính là đạo lý Không Phải Không. Cho đến chỗ chấp thật ngã thật pháp nơi tâm lý nhân loại đều là pháp ngoài tâm xưa nay vẫn “Không”, không tồn tại, chúng nó thuộc loại biến kế không phải “Có”. Vấn đề Không Phải Không, ngoại trừ chữ “Không” (phủ định) của sự chấp trước về tổn giảm, căn cứ trên sự thật đúng là nghĩa tồn tại, nếu như phủ định hoàn toàn thì không hợp với sự thật, đã không hợp với sự thật thì trở thành điên đão; vấn đề Không Phải Có, ngoại trừ chữ “Có” của sự chấp trước về tăng ích, căn cứ trên sự thật, trên đạo lý, nguồn gốc xưa nay tuyệt đối không có (không tồn tại), giả sử đó đây nếu như chấp trước cho là “Có” (tồn tại) thì hoàn toàn không hợp lý, đều thuộc về loại hý luận cả. Giáo nghĩa Trung Đạo của Duy Thức là khi nào phá trừ hẳn hai thứ chấp trước nói trên.

Hơn nữa có rất nhiều kinh giáo cũng đã chứng minh nghĩa lý Trung Đạo của Duy Thức.Như Kinh Hoa Nghiêm giải thích: “Tam giới duy tâm”. Kinh Giải Thâm Mật giải thích: “Chỗ duyên của Thức là cảnh của Duy Thức biến hiện”. Kinh Lăng Già giải thích: “Các pháp không lìa khỏi tâm”. Kinh Lăng Già lại giải thích tiếp: “Chỗ duyên của Tâm, Ý, Thức đều không lìa khỏi tự tánh, cho nên nói rằng tất cả chỉ có Thức không hơn”. Những kinh giáo đây đều thuyết minh chỉ có Nội Thức mà không có Ngoại Cảnh như trước đã giải thích. Nên biết, đặc điểm của Duy Thức đều ở nơi:

1)- Trình bày rõ lý duyên sanh như huyễn, không có nghĩa chân thật, nhưng không phải cho là không tồn tại, tức là không phủ định thể tánh của chúng;

2)- Chỗ chấp trước điên đảo thì cho là “Không”, nhằm mục đích khiến được giác ngộ không phải chân thật để chẳng còn khởi lên sự chấp trước nữa. Như Duy Thức Lượng giải thích: “Nhãn Thức,..v..v…. thành tựu rốt ráo ở chỗ là không thể lìa khỏi Thức tự biến để đích thân duyên nơi sắc,..v..v….., nguyên vì năm Tâm Sở Biến Hành bám theo Nhãn Thức để sinh hoạt, ngoài ra như Nhãn Thức,..v..v…. cũng không thể lìa khỏi sắc,..v..v….. để đích thân tự duyên nơi cảnh”. Nhân Minh Luận căn cứ nơi công thức đó giải thích rằng:

TÔNG: Nhãn Thức,..v..v…. thành tựu rốt ráo ở chỗ là không thể lìa khỏi Thức tự biến để đích thân duyên nơi sắc,..v..v…..

NHÂN: Nguyên vì năm Tâm Sở Biến Hành bám theo Nhãn Thức,..v..v….. để sinh hoạt.

DỤ: Ngoài ra như Nhãn Thức,..v..v….. cũng không thể lìa khỏi Sắc,..v..v…. để đích thân tự duyên nơi cảnh.

Đây là thuyết minh rằng không luận một Thức nào mỗi khi sanh khởi để duyên cảnh thì  nhất định phải đích thân duyên nơi cảnh tướng của chính nó tự biến hiện, mà cũng không thể đích thân duyên cảnh tướng ngoài Thức của chính nó tự biến. Ngay nơi trong luận Biện Trung Biên, ngài Từ Thị căn cứ nơi hai bài Tụng nói trên giải thích rằng: “Có trên hư vọng và phân biệt, cả hai có đây đều hoàn toàn là không, trong hai cái không này lại có cái không kia, nơi trong cái không kia cũng có hai cái không này. Cho nên nói tất cả pháp không phải là không và cũng không phải chẳng phải là không, có cả cái không và cả cái có là thích hợp với lý trung đạo”.

Những bài Tụng trên của Từ Thị là hiển bày nguyên lý Trung Đạo của Duy Thức. Hai chữ “Phân Biệt” là chỉ cho các pháp Tâm và Tâm Sở của chúng sanh hữu tình trong ba cõi; hai chữ “Hư Vọng” là hình dung các pháp phân biệt đây. Những Tâm Sở nói trên mặc dù tồn tại (hữu), nhưng có trên hư vọng, có trên giả tạo, nghĩa là các pháp Tâm và Tâm Sở trên hư vọng và phân biệt  đều thuộc về năng thủ và sở thủ thì không thật thể. “Trong hai cái không này lại có cái không khác” là nói trong hư vọng và phân biệt lại có Tánh Không, tánh không cũng tức là Chân Như Thật Tánh (lý), lý tánh đây thì thuộc về nhân, là tánh chân thật hoàn toàn không, làm cho năng thủ và sở thủ thể hiện, hoặc tánh chân thật này hoàn toàn không có ngã chấp và pháp chấp (không có tri kiến hư vọng), là cảnh giới chân như chỗ chứng đắc. Nguyên do chân như thật tánh chính là hai không tánh năng thủ và sở thủ thể hiện, cho nên gọi chân như là không tánh. Trên hư vọng và phân biệt duy nhất chỉ có chân như thật tánh này mà thôi, cho nên nói: “Trong hai cái không này lại có cái không khác”. Nghĩa là nơi trong cái hư vọng và phân biệt đây đặc biệt lại có chân như thật tánh. Thật ra chân như thật tánh xưa nay như thế, không có vấn đề không hay không phải không. Như nói: “Tánh tướng pháp giới luôn luôn thường trụ như thế”. “Nơi trong cái không kia cũng có hai cái không này”, chữ “Kia” là chỉ cho Tánh Không, chữ “Này” là chỉ cho Cái Có của hư vọng và phân biệt, nghĩa là trong Tánh Không cũng có hư vọng và phân biệt. Từ đó chúng ta nên biết rằng đạo lý của hai câu Tụng trên đều có tánh liên kết dung nhiếp lẫn nhau. Nếu như căn cứ nơi đạo lý của hai câu luận trên mà nói: Cái Có của hư vọng và phân biệt là Thế Tục Đế (chân thật của thế gian), là sự vật hiện thật, là cảnh giới của Hình Nhi Hạ; Tánh Không là Chân Đế (Đệ Nhất Nghĩa Đế của siêu xuất thế gian), là lý chân thật, là cảnh giới của Hình Nhi Thượng. Trong hai câu đây, câu đầu “Trong hai cái Không này lại có cái Không khác”, chính là nói trong Thế Tục Đế có Chân Đế, như nói: “Sắc tức là Không, cũng chính là trong sự thật tất nhiên có lý tánh; lý tánh là lý tánh trên sự thật, cho nên nói “Nơi trong cái Không kia cũng có hai cái Không này”, tức là trong Chân Đế có Tục Đế, như nói: “Không tức Sắc” cũng chính là trong lý tánh có sự thật. Sự thật là sự vật chân thật của lý tánh, có chỗ gọi là Nhị Đế không rời tướng, tức là lý Trung Đạo của Chân Đế và Tục Đế không hai, cũng chính là Trung Đạo của Tánh Không duyên khởi, cũng giống như Lý Sự Vô Ngại Pháp Giới của Tông Hoa Nghiêm. Câu “Cho nên nói tất cả pháp không phải là không và cũng không phải chẳng phải là không” chính là lời nói đúc kết. Chú ý: Không phải là không tức là có --- có hư vọng và phân biệt; không phải chẳng phải là không tức là không ---không có ngã và pháp của hư vọng. Hai câu này có hai lối giải thích:

a)- “Tất cả pháp” thông thường chỉ cho các pháp hữu vi và các pháp vô vi. Các pháp hữu vi thì có hư vọng và phân biệt (không phải là không); các pháp vô vi tức là các pháp thuộc tánh không (không phải chẳng phải là không).

b)- Trong tất cả pháp, mỗi một pháp đều đủ hai Đế. Câu “Nguyên nhân có, nguyên nhân không và nguyên nhân cũng có” ở đây,  chữ “Nguyên Nhân” thích ứng với ba vấn đề: thứ nhất là nguyên nhân có, thứ hai là nguyên nhân không, thứ ba là nguyên nhân cũng có.

*)- Thứ nhất “Nguyên Nhân Có” nghĩa là chỉ cho cái Có của hư vọng và phân biệt, có chỗ gọi Không Phải Là Không;

*)- Thứ hai “Nguyên Nhân Không” nghĩa là không có cái ngã cái pháp và năng thử cùng sở thủ, có chỗ gọi Không Phải Chẳng Phải Là Không;

*)- Thứ ba “Nguyên Nhân Cũng Có” nghĩa là ý nói rằng đạo lý của hai câu trên cho chúng ta thấy “Trong hai câu Có và Không trên đều có cái Không này, nghĩa là trong cái Có kia cũng có cả cái Không này và trong cái Không kia cũng có cả cái Không này”. Sở dĩ nói cái Có của “Nguyên Nhân Cũng Có” là hàm ý nói hai cái Có trọng yếu, “Cái Có” này hổ tương “Cái Có” kia, nghĩa là nói có tánh không trong hư vọng và phân biệt, trong tánh không cũng có hư vọng và phân biệt; hơn nữa “Tất cả pháp không phải là không và không phải chẳng phải là không” chính là tông chỉ, còn “Nguyên nhân có, nguyên nhân không và nguyên nhân cũng có” chính là nhân, cả hai có thể thành một thứ tỷ lượng. “Đây là thích hợp với lý Trung Đạo” và cũng là hiển bày cái nghĩa Trung Đạo của Duy Thức. Ngoài ra như các nhà Duy Thức đối với Tam Luận Tông giải thích: “Cái Có của Nhị Đế không phải hoàn toàn là không ---- không giống như ngài Thanh Biện chủ trương..v..v….; Cái Không của Nhị Thủ không phải hoàn toàn có ---- không giống Ngoại Đạo và Tiểu Thừa chủ trương..v..v…. Duy Thức chủ trương Tục Đế thì giả có và Chân Đế thì có nhiệm mầu, cho nên Duy Thức Tông đề xướng: tất cả pháp đều “Có”; từ đó Duy Thức dĩ nhiên được gọi là Hữu Tông.

 

II.- BIỆN CHỨNG PHÁP CỦA DUY THỨC: 

“DO NHỨT THIẾT CHỦNG THỨC, NHƯ THỊ NHƯ THỊ BIẾN, DĨ TRIỂN CHUYỂN LỰC CỐ, BỈ BỈ PHÂN BIỆT SANH” ( Do Thức Nhứt Thiết Chủng, như thế như thế mà biến hiện, vì do sức triển chuyển, các thứ phân biệt sanh).

Bài Tụng đây trình bày hoàn toàn không có ngoại cảnh, nhưng tất cả chủng loại đều do Duy Thức tự chuyển biến hiện ra. “Nhứt Thiết Chủng” là chỉ cho chủng tử tất cả pháp đều được tàng trử trong Thức căn bản, không phải chỉ cho Thức thể của Trì Chủng. Chủng tử đều có công năng sai biệt của thân sanh tự quả để sanh ra tất cả pháp. Thân sanh làsanh trực tiếp. “Tự Quả” gồm có quả Đẳng Lưu và quả Dị Thục mà trong đó chỉ cho quả Đẳng Lưu, quả Sĩ Dụng, quả Tăng Thượng. “Công Năng” chính là khả năng tánh, hoặc tánh năng, nghĩa là mỗi một chủng tử đều có đặc tánh của tự loại đủ khả năng trực tiếp sanh ra quả của nó và chủng tử của vạn hữu đây đều hàm chứa Thức thứ tám ở trong. “Như Thị Như Thị Biến” nghĩa là nói mỗi mỗi chủng tử khi gặp trợ duyên liền có thể biến hiện sanh khởi. Chủng tử như thế gặp trợ duyên như thế liền biến hiện ra các pháp quả như thế. Nói lập lại hai chữ “Như Thế” có hai nghĩa: một là hiển bày chủng tử của các pháp quá nhiều; hai là hình dung trình tự biến hoá của chúng cũng quá nhiều. Chủng tử của các pháp mỗi khi sanh khởi pháp quả hiện hành cốt yếu phải từng tự trải qua sự biến hoá và mỗi chủng tử phải nương tựa theo những trợ duyên như thế nào thì nó biến theo như thế đó. Cụ thể như hạt giống lúa, nó phát khởi từ mầm non cho đến nở hoa kết hạt có thể nói nó luôn luôn biến hoá và biến hoá một cách liên tục không ngừng để thành kết quả; con người chúng ta cũng thế,  theo tâm thức lúc vào thai mẹ cho đến ngày sanh ra để già chết, trong thời gian đó có ít nhiều biến đổi. Nên biết rõ đạo lý con người từ khi sanh ra cho đến lúc già chết, trong thời gian nói trên chuyển biến ngàn sai muôn khác, con người trở về già trên sáu mươi tuổi, hồi tưởng lại đời mình đã trải qua không khác cuộc bể dâu! Nhưng mỗi mỗi sự biến thiên đây đều có liên quan đến hành vi của chính mình đã tạo ở quá khứ, những thứ nghiệp hành vi này đều do lực lượng tâm thức bảo trì và chuyển biến cho nên gọi là “Như Thị Như Thị Biến”. “Dĩ Triển Chuyển Lực Cố, Bỉ Bỉ Phân Biệt Sanh”, nghĩa là do năng lực của chủng tử tám Tâm Thức và các pháp Tâm Sở sanh khởi hiện hành, lại cũng do hiện hành năng lực của tám Tâm Thức và các pháp quả cùng nhau huân tập trở lại thành chủng tử, như thế mỗi loại chủng tử sanh khởi mỗi loại hiện hành và mỗi loại hiện hành trở lại huân tập thành mỗi loại chủng tử, cho nên nói rằng “Dĩ Triển Chuyển Lực Cố, Bỉ Bỉ Phân Biệt Sanh”. Từ đó cho thấy, Duy Thức không phải có ngoài cảnh giới, Thức đây có tài năng chuyển biến và cũng có tài năng sanh Tâm Phân Biệt, nghĩa là mỗi loại chủng tử Thức tự nó có thể sanh ra Thức Phân Biệt cho chính nó.

Ý nghĩa quan trọng trong bài Tụng này so sánh với luận lý của Biện Chứng Pháp Duy Vật thì rất gần nhau. Biện Chứng Pháp Duy Vật có ba quy luật:

1)- Luật Mâu Thuẫn Hiệp Nhất: nghĩa là cái Mâu bên này và cái Thuẫn bên kia hợp lại làm một thứ, chính là quy luật Chánh Phản Hiệp của Hách Cách Nhĩ;

 2)- Luận về Lượng biến thành Chất và Chấn biến thành Lượng;

 3)- Luật phủ định của phủ định.

Nơi Duy Thức Học, pháp Năng Huân và pháp Sở Huân là hai pháp Mâu Thuẫn Hổ Tương, nghĩa là pháp Năng Huân và pháp Sở Huân cùng nhau hoà hợp, cùng nhau tác dụng để cùng nhau sanh khởi. Thứ đến chỉ cần một chủng tử có thể sanh ra pháp quả hiện hành rộng lớn phức tạp, cho nên từ nơi Chất mà biến thành Lượng; lại cũng từ nơi pháp hiện hành đây do trải qua kinh nghiệm..v..v…. mỗi phương diện tập trung lại huân tập thành chủng tử, tức là từ nơi Lượng lại biến thành Chất, cho nên chủng tử sanh hiện hành và hiện hành sanh chủng tử chính là Luật Chất Lượng Hổ Tương. Thứ ba phủ định của phủ định, nơi Duy Thức Học trước hết ý nghĩa của câu trên chính là nói “Có”. Đối với vấn đề “Có” thì nói “Không” đó chính là hoàn toàn phủ định cái “Có”, còn nói “Chẳng phải chẳng không” chính là phủ định hoàn toàn “Không”, nghĩa là nói sự vật không có thật tánh.

 

III.- LUẬT NHÂN QUẢ CỦA DUY THỨC: 

“DO CHƯ NGHIỆP TẬP KHÍ, NHỊ THỦ TẬP KHÍ CÂU, TIỀN DỊ THỤC KÝ TẬN, PHỤC SANH DƯ DỊ THỤC” (Do các nghiệp tập khí, cùng hai thủ tập khí, Dị Thục trước dứt rồi, Di Thục sau lại sanh).

Những bài Tụng trên là thuyết minh đạo lý sanh tử luân hồi, kiến lập nghiệp quả và nghiệp quả đây chính là chỉ cho nhân quả, đó là nghĩa chung của Phật Pháp ba Thừa, không có nghiệp quả tức là không có Phật Pháp. Đại sư Thái Hư  cũng đã khai thị rằng: “Nghiệp quả là một pháp rất trọng yếu của Phật Giáo”. Chữ “Nghiệp” là hành vi của sự hoạt động. Nghiệp có ba loại: phước nghiệp, phi phước nghiệp và bất động nghiệp. Ba loại nghiệp này là nói chung bao gồm các nghiệp của loài người và các cõi trời. Thể tánh của những hành động (nghiệp) này chính là Tư Nghiệp của nội Tâm, tất cả sự hoạt động của con người đều do “Tư Tâm Sở” này tạo tác. Nơi Tâm Lý có chỗ gọi Hành Vi Tâm Lý Học chính là chỉ cho sự hoạt động của Tư Tâm Sở, nghiệp đây có thể dẫn đến quả báo chung và quả báo riêng nên gọi là Dị Thục Quả Nghiệp. Tánh của nghiệp (hành vi) đây vừa mới sanh ra liền diệt, nơi Tâm Lý (Tư) sự hoạt động của sanh diệt thì rất nhanh. Trạng thái nghiệp nhân thì không thể cảm thọ quả báo đương tiền, nghĩa là còn ở vị trí nghiệp nhân thì không thể cảm nhận theo quả báo hiện đang thọ. Trạng thái nghiệp nhân đã huân tập trong Thức căn bản trở thành Công Năng (Nghiệp Chủng Tử) của quả chính nó tương lai, Công Năng của nghiệp nhân đây khi gặp được duyên thì có thể cảm thọ để thành kết quả và khi chưa cảm thọ để thành kết quả được gọi là Tập Khí. Luận nói: “Gọi là tập khí khi còn ở trạng thái tập khí”. Những nghiệp tập khí đây là một thứ  nhân lực thuộc định luật nhân quả của nhân sanh.

“Nhị thủ tập khí”: Nhị Thủ tức là chỉ cho Kiến Phần và Tướng Phần. Kiến Phần là năng thủ, hoặc gọi là ngã chấp; Tướng Phần là sở thủ, hoặc gọi là pháp chấp. Tập Khí của nhị thủ nếu trình bày tường tận thì có ba loại: (1) Danh Ngôn Tập Khí: Danh Ngôn Tập Khí lại có hai thứ: Liễu Nghĩa Danh Ngôn và Hiển Cảnh Danh Ngôn (Hai thứ Danh Ngôn này sẽ được giải thích rõ ở phía sau); (2) Ngã Chấp Tập Khí: Ngã Chấp Tập Khí lại có hai thứ: Câu Sanh Ngã Chấp và Phân Biệt Ngã Chấp; (3) “Hữu”Chi Tập Khí.

Nhị Thủ Tập Khí trên gọi chung là nhân duyên của cảm thọ quả báo và cũng là một thứ nhân lực của định luật nhân quả. Các nghiệp tập khí ở trên hoà hợp với nhị thủ tập khí này cùng nhau sanh khởi để cảm thọ quả báo dị thục (sanh mạng). Tuổi thọ của nghiệp báo (sanh mạng) kiếp trước đã hoàn tất và do những năng lực của tập khí hiện hành này trở lại tiếp theo thọ nhận một dị thục quả (sanh mạng) khác. Đạo lý luân hồi được kiến lập từ đây và định luật nhân quả của sanh tử này đều không thể ly khai khỏi Thức. Muốn rõ ràng vần đề cứu cánh của nhân sanh, chúng ta sẽ thảo luận đến một cách tường tận ở sau.

 

IV.- LUẬN VỀ NGHIỆP QUẢ DUYÊN KHỞI CỦA DUY THỨC:

Phật Giáo rất chú trọng học thuyết nghiệp quả luân hồi và những người tu học trong Phật Giáo đều là những kẻ muốn giải thoát hoàn toàn nỗi thống khổ của sanh tử; nói ngược lại, người muốn giải thoát nghiệp quả luân hồi thì nhất định phải hiểu rõ đạo lý của nghiệp quả luân hồi này. Bài Tụng nói: “Do chư nghiệp tập khí, nhị thủ tập khí câu”, hai bài Tụng này là thuyết minh đạo lý Nghiệp và cũng là trình bày rõ đạo lý Nhân. “Tiền dị thục ký tận, phục sanh dư dị thục”, hai bài Tụng này là thuyết minh đạo lý Luân Hồi và cũng là trình bày rõ đạo lý Quả. Nghiệp là nhân, Luân Hồi là quả, nhân quả nối liền với nhau, có tánh thời gian và cũng có tánh không gian nên gọi là luân hồi. Nghiệp và Tập Khí thì rất quan hệ lẫn nhau như trước đã trình bày.

 

1).- NGHIỆP VÀ TẬP KHÍ: 

a)- Nghiệp là gì? Nghiệp nghĩa là hành động, hoặc là sinh hoạt, hoạt động, tạo tác sự nghiệp. “Sự Nghiệp” đều là ý tứ hàm chứa hành động. Nghĩa chữ Nghiệp ở nơi chữ Phạn dịch là Yết Ma, nghĩa là tạo tác. Theo tiếng Phạn ý nghĩa chữ Nghiệp như thế nào?  Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện giải thích: “Xưa kia đã tạo các ác nghiệp, đều do vô thỉ tham sân si, từ thân miệng ý phát sanh ra, tất cả con nay đều xin sám hối”. Đây chính là nói nguồn gốc của cái nghiệp, nghiệp là hành động của thân thể, biểu thị của ngôn ngữ, hoạt động của Ý Thức. Sự hoạt động của thân thể và ngôn ngữ có thể là biểu thị của mắt thấy tai nghe; sự hoạt động của Ý Thức là do Tư làm chủ, Câu Xá Luận giải thích: “Tư và Tư Tạo Tác”, cho nên thể của nghiệp chính là “Tư”. Tư nghĩa là khiến tâm tạo tác, phàm làm việc hoặc nói năng trước hết nhất định phải suy nghĩ đắc đo rồi sau đó mới quyết định hành động; suy nghĩ đắn đo chính là hoạt động của Tư và nhờ suy nghĩ đắn đo mới có năng lực quyết định.

b)- Chủng loại của nghiệp: chủng loại của nghiệp thì rất nhiều, trong đây tổng quát phân làm hai loại: nghiệp hữu lậu và nghiệp vô lậu. Hơn nữa mỗi loại nghiệp cũng có hai: nghiệp chung và nghiệp riêng. Nghiệp Hữu Lậu tức là chỉ cho hành vi của người thế gian trong ba cõi và nghiệp này có thể chiêu cảm Phần Đoạn Sanh Tử của người thế gian; còn Nghiệp Vô Lậu thì tương phản với nghiệp hữu lậu, chính là Nghiệp Xuất Thế. Nghiệp Hữu Lậu có rất nhiều, đại khái chia thành ba loại: nghiệp thiện, nghiệp ác và nghiệp vô ký; ngoài ra nghiệp này còn có thể chia thành ba loại khác nữa, như là nghiệp phước, không phải nghiệp phước và nghiệp bất động. Những nghiệp căn cứ trong thời gian cảm thọ quả báo gồm có: những nghiệp hiện đang thọ, những nghiệp đến đời sau mới thọ, những nghiệp phải đến đời sau nữa mới thọ, những nghiệp cảm thọ sáu căn không đầy đủ. Nghiệp đây nếu chia rộng ra thì có mười loại thiện và mười loại bất thiện; mười loại nghiệp bất thiện gồm có: một là nghiệp sát sanh, nghĩa là sát hại sanh mạng những động vật có tình thức, trong đó có sát hại loài người; hai là nghiệp trộm cắp, nghĩa là hành vi lén lấy những tài vật không phải của mình tạo ra, người ta không cho mà lén lấy, hoặc dùng vũ lực để cướp đoạt; ba là nghiệp tà dâm, nghĩa là hành vi gian dâm với vợ con người khác,..v..v….; bốn là nghiệp vọng ngữ, không hiểu biết cho là hiểu biết, hiểu biết cho là không hiểu biết, dối gạt người khác để mình được lợi ích; năm là nghiệp hai lưỡi, chính là nói gây chia rẻ để ly gián người khác, chuyên nói hai mặt; sáu là nghiệp nói hung ác, chính là nói thô tục hung dữ mạ lỵ người ta; bảy là nghiệp nói khôi hài, nghĩa là nói những lời không giống tình người, nói đến nghe rất hay nhưng thật ra không chút nào ý tứ; tám là nghiệp tham dục, nghĩa là Ý Thức hoạt động tham cầu; chín là nghiệp giận tức, đây là tình trạng Ý Thức oán thù, thường hay xảy ra nơi sự tình không được như ý; mười là nghiệp ngu si, chính là Ý Thức không hiểu biết. Còn mười loại nghiệp thiện chính là ngược lại của mười loại nghiệp bất thiện. Những điều giải thích trên đây là căn cứ nơi hành vi của nhân loại.

2).- GIẢI THÍCH TẬP KHÍ:

a)- Nghiệp Tập Khí: là hành vi động tác của con người được nuôi dưỡng thành bản tánh tập quán gọi là Tố Tập Khí. Người đời thường nói: giống người nào thì có tác phong của giống người đó, thái độ của giống người nào thì trở thành tập quán của giống người đó, những tác phong những tập quán nói trên chính là Nghiệp Tập Khí. Chúng ta khi cử động tâm niệm một điều gì thì điều đó “liền huân tập vào Thức căn bản trở thành một công năng và thứ công năng đó gọi là tập khí, cũng gọi là nghiệp tập khí”. Những nghiệp tập khí này chính là chủng tử của các thứ nghiệp đã được đề cập ở trước, cũng có thể cho là do hoạt động tạo nghiệp lưu lại một thứ thế lực tiềm ẩn, hoặc là thế lực thừa lưu lại về sau gặp được duyên, nghĩa là hội đủ điều kiện liền phát sanh tác dụng. Phật nói: “Giả sử trăm ngàn kiếp về trước đã tạo ra các nghiệp, các nghiệp đó không bao giờ mất, khi gặp được nhân duyên hoà hợp, quả báo trở lại tự thọ lấy” đây chính là đạo lý này. Chủng tử nghiệp ở nơi Thức A Lại Da nếu như hội đủ điều kiện liền phát sanh tác dụng ---- cảm thọ quả báo. Quả báo cảm thọ thứ nghiệp đây chính là Quà Dị Thục; nhưng Nghiệp Quả Dị Thục này chỉ là Tăng Thượng Duyên mà không phải là Thân Nhân Duyên.

b)- Nhị Thủ Tập Khí:

1)- “Nhị Thủ” nghĩa là gì? Nhị Thủ gọi cho đủ là Năng Thủ và Sở Thủ. Chữ Thủ nghĩa là nắm giữ, Năng Thủ là chỉ cho bản thể của tất cả Tâm và Tâm Sở; Sở Thủ là chỉ cho Kiến Phần, Tướng Phần, Danh Sắc,..v..v…., chấp lấy (Nhị Thủ) cho là thật có nên gọi là “Nhị Thủ”. Hơn nữa có chỗ cho rằng: Năng Thủ là Kiến Phần và Sở Thủ là Tướng Phần; lại có thuyết cho rằng: Năng Thủ là Ngã và Sở Thủ là Pháp. Nói ngược lại “Nhị Thủ” đây thì thông suốt tất cả pháp tướng.

2)- “Nhị Thủ” trở thành tập khí như thế nào? Bản thân của “Nhị Thủ” thì rất khó mò mẫm, đây chỉ là sự chấp trước trên tư tưởng của nội tâm, sự chấp trước đây rất kiên cố. Cho nên Luận nói: “Nhị Thủ là (hai thủ) chấp giữ”, nghĩa là chấp trước Kiến Phần làm thật ngã và chấp trước Tướùng Phần làm thật pháp; thứ chấp trước đây nơi tâm niệm chúng ta lâu ngày thành tập khí. Luận nói rằng: “Chỗ huân phát kia trực tiếp sanh ra công năng bổn Thức nên gọi là Tập Khí của Nhị Thủ”.

3)- Chủng loại của Nhị Thủ Tập Khí: Chủng loại của Nhị Thủ Tập Khí có ba: Danh Ngôn Tập Khí, Ngã Chấp Tập Khí và Hữu Chi Tập Khí.

a)- Danh Ngôn Tập Khí: Danh Ngôn tức là danh xưng; Danh xưng ngôn thuyết là dùng để nối liền tư tưởng mọi người trong nhân loại, dùng để sanh sản văn hoá, dùng để viết sách lập thuyết, dùng để chỉ đạo nhân sanh, dùng để an lập xã hội. Tất cả ngôn ngữ danh xưng sanh sản đời này qua đời khác liên tục huân tập truyền nhau từ triều đại này qua triều đại khác trở thành tập quán tự nhiên nên gọi là Danh Ngôn Tập Khí. Danh Ngôn Tập Khí có hai: Liễu Nghĩa Danh Ngôn và Hiển Cảnh Danh Ngôn. Liễu Nghĩa Danh Ngôn là những danh tự, danh từ, danh xưng, chương cú, văn tự, phù hiệu,.. v..v…. đều có khả năng giải thích nghĩa lý. Nguyên vì những ký hiệu ấy đều có thể giải bày một thứ thật thể của sự vật, hoặc ý tượng, nghĩa lý, khái niệm,..v..v…. Văn tự xưa nay chính là phù hiệu, từ nơi những phù hiệu này biết được khái niệm bản thể của sự vật..v..v….

*)- Sở dĩ nói Liễu Nghĩa Danh Ngôn chính là hiển bày nghĩa lý của ý, cho nên Nhân Minh Luận giải thích rằng: “Tông..v..v… phần nhiều gọi là năng lập”. Cũng tức là “Ngôn Liễu Nhân và Nghĩa Liễu Nhân”.

*)- Hiển Cảnh Danh Ngôn, Hiển Cảnh là chỉ cho Tâm Thức, Tâm Thức thì có khả năng liễu biệt cảnh giới, ý nghĩ thứ gì thì có thể liễu biệt thứ cảnh giới đó; lại cũng có thể hiển hiện hoặc biến hiện một thứ cảnh giới, tất cả ngôn thuyết danh xưng đều là  ảnh tử nơi Tâm Thức, đều do Tâm Thức giả lập. Hai thứ danh ngôn này đều do huân tập thành chủng tử, thành một thứ tiềm thế lực của tánh tập quán và có thể tác dụng sanh khởi thân nhân duyên của các pháp; chỗ sanh ra quả thì thuộc về Quả Đẳng Lưu, gọi chung là Đẳng Lưu Nhân Quả.

b)- Ngã Chấp Tập Khí: Ngã Chấp là chấp trước cho rằng có cái “Ngã” chân thật. Năng chấp ngã đây chính là Tâm phân biệt hư vọng của chúng ta, cũng gọi là Biến Kế Sở Chấp Pháp. Chấp Ngã có hai loại: Câu Sanh Ngã Chấp và Phân Biệt Ngã Chấp.

*)- Câu Sanh Ngã Chấp: Câu Sanh nghĩa là từ vô thỉ đến nay đều có cùng với sanh mạng, không phải thuộc loại học tập, hoặc gọi là Bản Năng Ngã Chấp hay Bản Hữu Ngã Chấp. 

*)- Phân Biệt Ngã Chấp: thứ ngã chấp này do phân biệt sanh khởi, hoặc do tự tâm phi lý tác ý sanh khởi, hoặc do ngã kiến của người khác dụ hoặc ảnh hưởng, tất cả đều là từ nơi học tập kết thành, cũng gọi là Tố Tập Ngã Chấp, hai thứ ngã chấp này đều quan hệ Thức thứ sáu và Thức thứ bảy. Tất cả ngã chấp đều nương nơi Thức thứ bảy làm căn bản. Ngã Chấp Tập Khí trên chính là chủ nhân của sanh tử.

c)- Hữu Chi Tập Khí:  tức là mười hai nhân duyên mà mười hai nhân duyên là lịch trình của nhân sanh có nhân có quả. Mười hai phần chi này chính là giai đoạn sanh mạng của mỗi cá nhân của nhân loại, cho nên chữ “Có” của Hữu Chi đích thực là chỉ cho sanh mạng này mà nói. Hữu Chi Tập Khí cũng chính là Nghiệp Tập Khí đã nói ở trước, hoặc gọi là Dị Thục Tập Khí, những chủng tử nghiệp vừa nói có công năng chiêu cảm Dị Thục Quả trong ba cõi. Những thứ nghiệp đây có hai loại: Dẫn Nghiệp và Mãn Nghiệp. Mỗi loại nghiệp Dẫn Mãn cũng có hai thứ: một là Thiện Nghiệp có thể chiêu cảm tạo thành Dị Thục Quả của ái lạc; hai là Bất Thiện Nghiệp có thể chiêu cảm tạo thành Dị Thục Quả của không thể ái lạc. Trong hai thứ nghiệp thiện ác này đều có Mãn Nghiệp, tức là luận nhân quả sanh diệt của nhân loại.

Như thế “Nhị Thủ” và Danh Ngôn Tập Khí đối với pháp quả sanh mạng của chúng ta tạo thành Thân Nhân Duyên để chiêu cảm Đẳng Lưu Quả; Ngã Chấp Tập Khí và Hữu Chi Tập Khí đối với pháp quả sanh mạng  của chúng ta tạo thành Tăng Thượng Duyên để chiêu cảm Dị Thục Quả. Nay đem ba loại Tập Khí trên trình bày theo đồ biểu như sau:

 

3)- HAI NGHIỆP, HAI CHƯỚNG, HAI SANH TỬ: 

Hai Nghiệp tức là Dẫn Nghiệp và Mãn Nghiệp đã được giải thích ở trước, hoặc gọi là Hữu Lậu Nghiệp và Vô Lậu Nghiệp. Hai Chướng tức là Phiền não Chướng và Sở Tri Chướng. Sự sanh tử nối tiếp nhau liên tục của chúng ta đều do hai nghiệp và hai chướng này làm nhân duyên, nếu như không có hai thứ nghiệp và chướng này thì không có hai thứ sanh tử. Thành Duy Thức Luận giải thích: “Sự sanh tử nối tiếp nhau liên tục là do nhân duyên bên trong, không đợi các duyên bên ngoài, bởi vì nhờ có Thức.  Nhân ý nghĩa là hai nghiệp Hữu Lậu và Vô Lậu chiêu cảm chính yếu sanh tử cho nên gọi là nhân ; Duyên ý nghĩa là hai chướng Phiền Não và Sở Tri chiêu cảm thiết thực sanh tử cho nên gọi là duyên.”  Vấn đề sanh tử liên tục là do mỗi người tự mình nội tâm sáng tạo nhân duyên mà không phải do ngoại lai mang đến, cho nên người đời bảo rằng: “Mỗi người sanh tử mỗi người tự lãnh hội”. Vấn đề sanh tử có hai thứ: Phần Đoạn Sanh Tử và Biến Dịch Sanh Tử. Phần Đoạn Sanh Tử là như thế nào? Luận giải thích: “Các cõi có những sự việc thiện và bất thiện là do thế lực Phiền Não và Sở Tri trợ duyên chỗ cảm nhận quả Dị Thục là nơi ba cõi. Thân mạng dài hay ngắn là tùy theo năng lực của nhân duyên quyết định thọ mạng có dài lâu hay giới hạn cho nên gọi là phần đoạn.” Đây là thuyết minh quả sanh tử, do nghiệp chiêu cảm, chiêu cảm quả báo thuộc về sanh mạng là có dài lâu và giới hạn. Dài lâu và giới hạn chính là thọ mạng, kỳ hạn dài ngắn của thọ mạng là hoàn toàn nương nơi sự hạn định của năng lực nhân duyên và năng lực của Tăng Thượng Duyên ở trước đã trình bày. Hơn nữa nghiệp nhân đã có thì nhất định phải cảm thọ quả báo, cũng như người vay nợ thì tất nhiên phải trả nợ giống nhau, sở dĩ chúng ta hiện tại thọ quả báo chính là hoàn trả túc trái; chúng ta hoàn trả nợ xong, nếu như không tái diễn vay nợ thêm nữa lẽ đương nhiên sau này không còn chủ nợ đeo đuổi đòi nợ. Còn như đi vay nợ lần nữa thì tất nhiên phải hoàn trả tái diễn, có vay có trả như thế vô cùng không bao giờ chấm dứt; sanh tử luân hồi thì cũng giống như thế. Hiện tại sanh mạng cảm thọ quả báo mà không tái tạo nghiệp mới thì không cảm thọ quả khổ (sanh tử ) trở lại, cho nên Tổ Sư nói: “Nghiệp cũ tùy duyên đã hết lại chẳng tạo thêm tai ương mới”. Người chứng Sơ Quả gọi là người đến bờ mé của khổ cuối cùng, nguyên vì họ không tái tạo thêm tai ương mới mà chỉ duyên lấy nghiệp cũ, khi đến được quả A la Hán túc trái hoàn toàn chấm dứt chừng đó mới thật là người chứng quả Vô Sanh, nguyên vì họ đạt đến một thứ cảnh giới ra khỏi sanh tử. Còn Biến Dịch Sanh Tử thì không thể nghĩ bàn, Luận giải thích: “Ý nghĩaVô Phân Biệt Nghiệp là do năng lực của Sở Tri Chướng hổ trợ, chổ cảm thọ quả Dị Thục vi tế thù thắng; nhờ năng lực bi nguyện đến chuyển sanh mạng, không định kỳ hạn cho nên gọi là Biến Dịch; vốn liếng năng lực định Vô Lậu diệu dụng khó lường nên gọi là không thể nghĩ bàn”. Đây là thuyết minh lý sanh tử của bậc Thánh, bậc Thánh cảm thọ sanh tử thì tự tại theo nguyện lực mà không phải phiêu lưu theo nghiệp lực. Còn chúng sanh cảm thọ sanh tử thì không tự tại, bị nghiệp lực chi phối cho nên cùng chúng sanh không giống nhau. Lại nữa chúng sanh cảm thọ sanh tử là tự mình tranh giành sanh mạng; còn sanh tử của bậc Thánh là hoàn toàn vì cứu độ đại chúng. Luận giải thích: “Nghiệp Vô Lậu phân biệt tức là tất cả công hạnh ba Vô Lậu Học, tám Chánh Đạo..v..v....” Biến Dịch Sanh Tử đây là do nguyện lực tạo nên, do tâm nguyện của mình và theo cơ duyên của chúng sanh, cho nên không có kỳ hạn nhất định. Thí dụ như Bồ Tát lại thọ sanh vào người trong thế gian là đều do nguyện lực mà đến; sự thọ sanh của bậc Thánh có định lực hữu lậu trợ giúp. Việc làm của sự nghiệp thọ sanh là thường khi hiện bày diệu dụng không thể nghĩ bàn.

4).- DO NGHIỆP CHIÊU CẢM QUẢ SAI BIỆT: 

Nghiệp tập khí nhất định sẽ chiêu cảm quả Dị Thục sau này. Lý do nghiệp Hữu Lậu là nghiệp sát na sanh diệt, vừa sanh liền diệt, cho nên không thể cảm thọ quả Dị Thục ngay lúc còn sanh tiền. Cốt yếu ở chỗ nghiệp lực phải được gìn giữ trải qua sau một thời kỳ huân tập thành chủng tử, tương lai khi gặp được duyên mới có thể sanh ra quả, Luận giải thích: “Khai mở chuyển biến liên tục đến khi thành thục cảm thọ quả Dị Thục, đây là hiển bày Thăng Thượng Duyên thù thắng”.  Nghiệp chủng tử này bảo trì trong Thức thứ tám khai mở chuyển biến không mất hiện thành làm Tăng Thượng Duyên đặc thù cho sự cảm thọ quả Dị Thục tương lai. Còn “Nhị Thủ Tập Khí” thì cảm thọ Thân Nhân Duyên của quả Dị Thục. Luận giải thích: “Lôi kéo đến đời vị lai,  Tâm quả Dị Thục cùng với các Tâm Sở kia tương ưng đều là Thân Nhân Duyên”. “Nhị Thủ Chủng Tử” chỗ cảm thọ sanh khởi chính là Quả Đẳng Lưu, Quả Sĩ Dụng, Quả Tăng Thượng. Đây thuộc về tánh tự loại nhân quả của sanh mạng nhân loại, cũng tức là luật nhân quả của sanh mạng nhân loại. Luận giải thích: “Nhị Thủ Chủng Tử thọ quả vô cùng, Nghiệp Tập Khí thọ quả có cùng tận”. “Nhị Thủ Chủng Tử” cùng với chỗ quả cảm thọ thì giống nhau, nên gọi là Quả Đẳng Lưu và quả này cùng tánh giống nhau cho nên cảm thọ quả báo rất dễ dàng; nó thuộc về loại đồng thời sanh diệt cho nên cảm thọ quả báo lại cũng rất dễ và thọ quả thì vô cùng, đây chính là thuyết minh tự thể của sanh mạng. Nguyên vì tự thân của sanh mạng thì có sanh có diệt, có nhân có quả. Nhưng sanh mạng thì vô cùng tận, chính là do nghiệp quả Hữu Lậu chuyển thành quả của nghiệp Vô Lậu và nghiệp Vô Lậu này cũng trở lại thành sanh mạng vô cùng. Nghiệp Tập Khí và Quả Dị Thục thể thánh không giống nhau, thời gian lại cũng không giống nhau, cho nên cảm thọ quả báo rất khổ nạn. Do thời gian không giống nhau cho nên chúng ta không thể nói rằng hiện đời tạo ác nghiệp thì hiện đời liền thọ ác báo.  Đây là đặc điểm không giống nhau của Nghiệp Tập Khí cùng với Nhị Thủ Tập Khí cảm thọ quả báo.

5)- DUYÊN KHỞI LUÂN HỒI:

1)- Duyên Khởi và Duyên Sanh: Duyên Sanh nghĩa là một pháp sanh khởi chi phối mà không chi phối, cũng chủ thể mà không chủ thể, chỉ là tạm nương các duyên để sanh khởi, ngồn gốc thì không mà hiện nay thì có, chính là căn cứ nơi quả mà nói nên gọi là duyên sanh. Duyên Khởi nghĩa là “ vì duyên có thể sanh ra các pháp”, chính là căn cứ nơi nhân mà nói cho nên gọi là duyên khởi. Như Duyên Sanh là từ nơi quả mà nói và Duyên Khởi là từ nơi nhân mà nói, cho nên Kinh giải thích: “Đây có cho nên kia có, đây sanh cho nên kia sanh”, hai câu này là Duyên Khởi Luận và Duyên Sanh Luận của Tông Bổn. Hai câu trên về sau cũng trở thảnh điểm xuất phát tư tưởng Đại Thừa Không Tông của Long Thọ, là căn cứ của hiện tượng thế giới. Từ hai câu đó có thể suy biết “Đây không cho nên kia không, đây diệt cho nên kia diệt”, là cảnh giới     (Hoàn Diệt Môn) của siêu hiện tượng thế giới. Phàm tất cả pháp đều không có tự tánh, cũng không phải người khác sanh, cũng không phải mình và người khác chung nhau sanh và cũng không phải sanh ra không có nguyên nhân; nó sanh ra là từ nơi duyên. Căn cứ hai câu nầy, Duyên Khởi và Duyên Sanh nếu như phân biệt thì: “Đây có”

 “Đây sanh” là chỉ cho tánh duyên khởi; “Kia có” “Kia diệt” là chỉ cho tướng duyên sanh. Tánh Duyên Khởi là có cái không tướng đối đãi; Tướng Duyên Sanh là tướng sanh diệt đối đãi. Do Duyên Khởi mà có Duyên Sanh, cho nên nói tất cả pháp là không và không có tự tánh.

2)- Duyên Khởi Luân Hồi:  nghĩa là Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Xứ, Lục Xứ duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão Tử, Ái Bi Khổ Não..v..v….. sanh tử lưu chuyển do đây kiến lập. Đây là thuyết  minh sơ lược hình tướng tự thể của mười hai duyên khởi: “Vô Minh” là chỗ thâu nhiếp của hành uẩn, tức là “Si” của tham sân si, là một trong phiền não căn bản. “Hành” là chỉ cho ba thứ hành vi của thân miệng ý, thể của hành là Tư, thuộc về trong hành uẩn. “Thức” là Thức A Lại Da, khi vào thai mẹ Thức này nắm lấy tinh cha huyết mẹ để thành nhục thể gọi là Yết La Lam,  lúc đó Yết La Lam là chỗ nắm giữ của Thức này, lần lần khiến cho tăng trưởng. “Danh Sắc” là thuộc về ngũ uẩn hữu lậu ở trong bào thai trước khi sáu căn chưa phân minh, Sắc là nhục thể, Danh là chỉ cho Tâm Thức. “Lục Xứ” tức là sáu căn đã hoàn bị, sau này có thể xuất sanh nhân thế. “Xúc” là tâm sở Xúc của Thức thứ tám tương ưng và sáu xứ sáu cảnh cùng nhau tiếp xúc (Kích thích ). “Thọ” là cảm thọ của sự biết khổ và lạc, có chỗ gọi là tác dụng cảm tình, là thuộc về thọ uẩn. “Ái” là tham ái, khi ở nơi hài nhi đã có, là thuộc về ái câu sanh. “Thủ” là theo đuổi nắm lấy, là ý tứ tìm cầu nắm lấy, tìm cầu sanh hoạt tất cả, phiền não đều do “Thủ” mà xuất hiện.   “Hữu” là Thủ và Thức v..v…. năm vị (Danh Sắc, Lục Xứ, Xúc, Thọ ) hoà hợp mà biến thành hành động, gọi là “Hữu” tức là nghiệp hữu, cũng gọi là báo hữu. Dị Thục Báo đây cùng với “Thủ” hòa hợp mà có hành động của thân thể và có sự hoạt động của tâm lý phiền não. “Sanh” là quả Dị Thục ( sanh mạng )  của vị lai. Có “Sanh” thì nhất định có “Lão Tử”. Hai pháp này đều do Ngũ Uẩn làm thể. Mười hai hữu chi đây có thể hợp nhau lại làm thành bốn chi; đồng thời cũng không ra ngoài ba thứ quan hệ là Hoặc, Nghiệp và Khổ. Như đồ biểu sau đây:

Đạo lý quan hệ mười hai hữu chi và nhân quả ba đời nơi Đại Thừa Duy Thức thì nói: một lớp nhân quả một đời ; còn Tiểu Thừa thì nói: hai lớp nhân qua ba đời. Chỗ nói khó dễ của họ là đều có đạo lý cả, ở đây xin liện kê đồ biểu như sau:

 

 

Trong mười hai chi này, lại bao quát cả Nghiệp tập Khí và Nhị Thủ Tập Khí, “Hành” và “Hữu”  trong mười nhân trước là Nghiệp Tập Khí. “Vô Minh” “Thức” “Danh Sắc”    “Lục Xứ” “Xúc” “Thọ” “Ái” “Thủ” là Nhị Thủ Tập Khí, cho nên có luật nhân quả của luân hồi.

6)- KẾT LUẬN: NGHIỆP QUẢ DUY THỨC: 

Thành Duy Thức Luận Thuật Ký giải thích rằng: “Nghiệp quả như thế, bờ mé của trước của giữa của sau sanh tử luân hồi không đợi các duyên bên ngoài, đã do nội Thức các Tịnh Pháp đều nối tiếp nhau không dứt, cũng nên biết rõ: Từ vô thỉ đến nay nương tựa nơi Thức căn bản, các chủng tử vô lậu đã có sẳn, nhờ Thức chuyển biến, cho nên mỗi mỗi đều nẩy nở phát khởi, lần lần tăng trưởng tốt đẹp, cho đến cứu cánh   ( thành Phật )”. Tịnh Pháp đây là chủng tử vô lậu khiến được tăng trưởng lần lần cho đến thù thắng và chủng tử này có khả năng chuyển hoá chủng tử nhị chướng, đoạn diệt hai giống sanh tử, chứng đặng hai thứ quả chuyển y, nghĩa là giải thoát cứu cánh, chứng đến quả vị Phật một cách tự tại vô ngại. Tất cả chỉ nương nơi năng lực bên trong của Thức chính mình mà không vay mượn các duyên bên ngoài, cho nên gọi là Duy Thức.

V.- BA TÁNH, BA VÔ TÁNH CỦA DUY THỨC: 

1.- GIẢI THÍCH NGHĨA BA TỰ TÁNH: 

Thành Duy Thức Luận giải thích: “Nếu như chỉ có Thức, tại sao Thế Tôn trong mỗi kinh đều nói có ba tánh? Tạo sao thế?” Tụng nói rằng:

“DO BỈ BỈ BIẾN KẾ, BIẾN KẾ CHỦNG CHỦNG VẬT, THỬ BIẾN KẾ SỞ CHẤP, TỰ TÁNH VÔ SỞ HỮU, Y THA KHỞI TỰ TÁNH, PHÂN BIỆT DUYÊN SỞ SANH, VIÊN THÀNH THẬT Ư BỈ, THƯỜNG VIỄN LY TIỀN TÁNH, CỐ THỬ DỮ Y THA, PHI DỊ PHI BẤT DỊ, NHƯ VÔ THƯỜNG ĐẲNG TÁNH, PHI BẤT KIẾN THỬ BỈ”.

( Do thường hay biến kế, biến kế các thứ vật, Biến Kế Sở Chấp này, nó không có tự tánh. Tự tánh Y Tha Khởi, do phân biệt sanh ra. Nơi Viên Thành Thật kia, thường xa lìa tánh ở trước, nên nó và Y Tha, giống nhau mà khác nhau, như tánh vô thường vân vân, không phải không có thể xem thấy)

Ba bài Tụng đây thuyết minh ba thứ tự tánh. Ba thứ tự tánh là: Biến Kế Sở Chấp Tự Tánh, Y Tha Khởi Tự Tánh và Viên Thành Thật Tự Tánh. Ba tánh này có thể bao gồm tất cả pháp và tất cả pháp không thể lìa khỏi ba tánh này. Nếu như ngoài Thưc có ba tự tánh thì đạo lý Duy Thức không thể thành lập; còn nếu như ngoài Thức không có ba tự tánh thì trái ngược với Phật Pháp. Ba bài Tụng trên chính là giải đáp vấn đề này. Trước hết ý nghĩa ba Tự Tánh xin được thuyết minh như sau:

 a)- Biến Kế Sở Chấp Tự Tánh: Biến Kế là mưu tính rộng khắp, là Ý Thức tìm cầu mọi thứ, có chỗ gọi làtâm lý hoạt động. Sở Chấp tức là những sự vật của tâm chấp trước, theo bài Tụng đầu giải thích: “Do bỉ bỉ biến kế”, hai chữ bỉ bỉ là hình dung tâm niệm có rất nhiều khả năng biến kế, Tâm Thức hư vọng phân biệt là chỉ cho tâm thường hay biến kế; “Biến kế chủng chủng vật”, chữ Vật tức là chỉ cho sự vật, sự thể ( pháp ), có tâm thường hay biến kế thì tất nhiên phải có sự vật để biến kế, trong sự biến kế đây có thể tạo lập động từ để nói, tức là ý mưu tính tìm cầu, do đấy rất nhiều tâm lý thường hay biến kế, đi tìm cầu các thứ sự vật, cho đây là chân thật và cho kia là hư giả; đây là thiện và kia là bất thiện..v..v…., kỳ thật chỗ tâm biến kế này đúng là không thể tánh, như trong tất cả pháp căn bản là không có “Ngã” và cũng không có

“Ngã Sở”, nguyên vì tất cả pháp đều do nhân duyên sanh không có tự tánh; không có tự tánh tức là không, cho nên bảo rằng Tự Tánh Biến Kế Sở Chấp là không.

b)-Y Tha Khởi Tự Tánh: Y nghĩa là nương tựa, nguyên vì tất cả pháp đều nương tựa nhân duyên để sanh khởi. Tự tánh của các pháp y tha khởi là “duyên nơi sự phân biệt để sanh ra”. Trong đây, “sự phân biệt” là chỉ cho các pháp Tâm và Tâm Sở của hữu lậu và vô lậu, những tâm pháp này đều có công năng tác dụng duyên lự và cũng đều là Y Tha Khởi cả. Hơn nữa tất cả pháp phải nương nơi hư vọng phân biệt làm nhân duyên mới có thể sanh khởi,  cho nên mới bảo rằng, duyên nơi sự phân biệt để sanh ra. Còn nữa: Sự Phân Biệt là chỉ cho tất cả Kiến Phần của các loại Tâm, những Kiến Phần này là chỗ sanh các duyên, những quan yếu của Kiến Phần là bên trong nương nơi chủng tử của Kiến Phần và bên ngoài mượn những cảnh giới tri thức để duyên, nhờ đó mới có thể sanh khởi. Nên biết trong đây hư vọng phân biệt là chỗ sanh các duyên và nghĩa của chỗ sanh các duyên chính là nghĩa của Y Tha Khởi, vì thế vấn đề nhân duyên cũng là chỉ cho tất cả pháp. Từ đó hai câu Tụng trên là nói bao quát Tánh Y Tha Khởi của tất cả pháp nhiễm tịnh.

c)- Tánh Viên Thành Thật: căn cứ nơi chữ nghĩa mà nói: Viên là viên mãn, nghĩa là thoát ly tất cả sự điên đảo, Thành nghĩa là cứu cánh, Thật nghĩa là không hư vọng sai lầm, tức là chân thật. Viên Thành Thật hàm ý là viên mãn hợp lý cứu cánh chân thật. Biệt danh của Viên Thành Thật gồm có chân như, pháp giới, pháp tánh..v..v…. “Viên Thành Thật nơi kia”, chữ “Kia” là chỉ cho tự tánh Y Tha Khởi. Đây là nói Tánh Viên Thành Thật có một thứ hoàn toàn quan hệ nơi pháp Y Tha Khởi. Sự quan hệ như thế nào? Nghĩa là “thường xa lìa nơi tánh ở trước”; “ tánh ở trước” là chỉ cho Tánh Biến Kế Sở Chấp, nghĩa là Tánh Viên Thành Thật nơi pháp Y Tha cuối cùng luôn luôn lìa khỏi hẳn Tự Tánh Biến Kế Sở Chấp đã nói ở trước, cho nên gọi là Tánh Viên Thành Thật.   

Trong vấn đề đây xin thí dụ: có người ở trong bóng tối thoáng thấy sợi giây thừng, nghi là con rắn, vọng sanh sợ hãi. Quan niệm con rắn trên sợi giây thừng chính là Biến Kế Sở Chấp, nguyên do vọng chấp cho là có con rắng thật, thế nên tâm sanh sợ hãi, nhưng kỳ thật không phải con rắn mà chính là sợi giây thừng. Sợi giây thừng tức là Y Tha Khởi, nguyên vì sau này nhìn rõ chính là sợi giây thừng mà không phải con rắn. Nơi sợi giây thừng đã lìa khỏi quan niệm con rắn chính là Viên Thành Thật Tánh. Nếu như quan sát thêm nữa, sợi giây thừng là do giây bố tạo nên và tự tánh của giây thừng cũng không có tức là đã thấy được Viên Thành Thật Tánh.

“Cố thử dữ y tha, phi dị phi bất dị”, đây là trình bày sự quan hệ của ba tánh. Chữ

“Thử” là chỉ cho Tự Tánh Viên Thành Thật,Viên Thành Thật và Y Tha Khởi là chân lý cùng sự thật, cả hai đều là “phi dị phi bất dị”. “Dị” là không giống nhau; “Bất Dị” là giống nhau; “Phi Bất Dị” trong đây là sử dụng hai từ phủ định, chính là danh từ đôi, có nghĩa là chân lý là chân lý không phải là sự thật, sự thật là sự thật không phải là chân lý, cho nên không thể khẳng định nói là một thứ và cũng không thể nói là hai thứ tuyệt đối. Mục đích ở chỗ chân lý được hiển bày từ nơi sự thật và sự thật cũng được thuyết minh thành chân lý, ly khai chân lý thì không có sự thật và ly khai sự thật thì cũng không có chân lý, cho nên hai thứ này rất quan hệ mật thiết với nhau.

“Như vô thường đẳng tánh”, đây là đem học thuyết của Tiểu Thừa để chứng minh. Chữ  “Đẳng” trong đây là chỉ cho “Khổ” “Không” và “Vô Ngã”. Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã là bốn Pháp Ấn. Tổng quát dùng đồ biểu để giải thích:

Như tánh vô thường cùng pháp hữu vi không thể cho là khác, vì vô thường là tướng chung của pháp hữu vi; nhưng cũng không thể cho là một, nếu như cho là một thì hoàn toàn không thể sai khác; ngoài ra ý nghĩa khổ, không, vô ngã cũng giống như thế. Cho đến ý nghĩa Tánh Viên Thành Thật và Tánh Y Tha Khởi thì cũng giống như trên. “Phi bất kiến thử bỉ”, Chữ  “Kiến” trong đây là ý nghĩa xem thấy, chứng ngộ; Phi Bất Kiến là ý nghĩa có thể quán sát. Chữ “Thử” là Tánh Viên Thành Thật, chữ “Bỉ” là Tánh Y Tha Khởi. Phi Bất Kiến Thử Bỉ là nói ở nơi pháp hữu vi không phải là không có thểù xem thấy (chứng ngộ) tánh vô thường đây (tức là Tánh Chân Như), mà có thể chứng ngộ được chỗ như thế của các hành hữu vi; nói ngược lại, thấy được Tánh Viên Thành Thật thì mới có thể biết rõ Tánh Y Tha Khởi là như huyễn. Chữ “Có” giả như không trừ khử vọng kiến của Tánh Biến Kế Sở Chấp thì vĩnh viễn không thể xem thấy Tánh Viên Thành Thật; không ngộ được Viên Thành Thật cũng chính là không thể biết rõ cái “Có” như huyễn của Tánh Y Tha Khởi; không biết rõ Tánh Y Tha Khởi thì vĩnh viễn là Biến Kế Sở Chấp. Thí dụ như: khi biết rõ giây bố thì mới có thể hiểu được đạo lý giây thừng là giả, còn như chẳng biết được giây thừng thì mãi chấp cho là con rắn, trong đó yếu tố sáng tỏ được giây thừng chính là giây bố!    

2..- GIẢI THÍCH RIÊNG NĂM PHÁP VÀ BA TỰ TÁNH: 

Nghĩa của ba tự tánh nơi giáo pháp Duy Thức thì rất trọng yếu.Theo giáo nghĩa Duy Thức thành lập, ba tự tánh là cương lĩnh tổng quát, giờ đây xin trình bày thuyết thứ nhất:

a)- TỰ TÁNH BIẾN KẾ SỞ CHẤP: 

1.-Năng Biến Kế và Sở Biến Kế: chính là Tâm và Tâm Sở Pháp hư vọng phân biệt của chúng ta. Nguyên vì tất cả hành vi động tác, ngôn ngữ đàm luận, tư tưởng kế hoạch..v..v…. phàm tất cả sự sinh hoạt của tâm lý đều do những Tâm Thức này chỉ đạo, đây là thuộc về chủ quan. Còn Sở Biến Kế chính là chỉ cho tất cả sự vật đối tượng, tất cả hiện tượng thế giới chỗ để quan sát đến của Ý Thức và năm giác quan (năm Thức) chúng ta. Các thứ cảnh giới bên ngoài chỗ để thấy nghe hiểu biết và chỗ để tư duy đều là chỗ biến kế, thuộc về khách quan cả.

2.- Tự Tánh Năng Biến Kế và Tự Tánh Sở Biến Kế:

Thứ nhất sự quan hệ của Tự Tánh Năng Biến Kế có hai thuyết: một là chỉ cho tám Tâm Thức và các Tâm Sở Pháp của các hữu tình trong ba cõi đều thuộc về Năng Biến Kế. Nguyên vì Thức thứ tám là loại năng duyên đều chọn lấy vư vọng phân biệt làm tự tánh, cũng tương tợ như hiện tượng năng thủ và sở thủ, cho nên chúng thuộc về loại Năng Biến Kế; hai là Tâm của Năng Biến Kế là chỉ cho loại Tâm (Tâm và Tâm Sở) Thức thứ sáu và Thức thứ bảy của hữu lậu, những Tâm này có khả năng biến kế ngoại vật mà chúng quyết định không phải Thức thứ tám, tất cả thường hay chấp ngã và chấp pháp, cho nên chúng thuộc về loại Năng Biến Kế. Thức thứ sáu và Thức thứ bảy thì chuyên môn chấp ngã chấp pháp, cho nên chỉ có hai Thức này mới có khả năng biến kế (mưu tính, so lường và phân biệt). Luận nói: “Chỉ có Ý và Thức (thứ bảy và thứ sáu) là biến kế”.  Thức thứ tám và năm Thức Trước đều không có phân biệt, tính toán, so lường, cho nên không phải thuộc loại Năng Biến Kế. Thứ đến, Tự Tánh Biến Kế là như thế nào? Nơi năm Uẩn, Kiến Phần và Tướng Phần chính là Ngã Tướng và Pháp Tướng. Nhiếp Luận đề cập đến tánh Y Tha Khởi là chỗ biến kế. Hiện tượng vũ trụ đều là Y Tha Khởi, cho nên chỗ biến kế chính là hiện tượng vạn hữu.   

Thứ hai Tướng Biến Kế Sở Chấp là như thế nào? Biến Kế Sở Chấp và Tướng Biến Kế Sở Chấp thì không giống nhau. Trước là Tánh Y Tha Khởi và sau là Tánh Biến Kế Sở Chấp. Tướng Biến Kế Sở Chấp có hai thuyết: một thuyết nói rằng Tâm và Tâm Sở Pháp trong ba cõi là chỗ sanh ra Kiến Phần Tướng Phần, Năng Thủ Sở Thủ, Ngã Tướng Pháp Tướng. Duy hai tánh này là nơi Tướng Biến Kế Chấp. Nguyên vì Nhị Thủ là do vô minh..v..v…. từ vô thỉ huân tập kết thành. Nhưng tướng trạng Nhị Thủ của ngã pháp chỉ có nơi tình và không nơi lý, cho nên thuộc về Tướng Biến Kế Sở Chấp. Còn một thuyết nói rằng: tất cả Tâm và Tâm Sở Pháp đều do huân tập năng lực từ nơi duyên sanh. Sự biến kế là nương nơi vọng chấp, xác định thật có và không, một và khác, đầy đủ và không đầy đủ..v..v..…., đây là Tướng Biến Kế Sở Chấp.

 

b).- TỰ TÁNH Y THA KHỞI:

Thế nào là Tánh Y Tha Khởi? Vấn đề đây xin trình bày sơ lược: Thứ nhất Thành Duy Thức Luận giải thích: “Các duyên là chỗ sanh ra thể của Tâm Tâm Sơ ûvà Kiến Phần của chúng, hữu lậu và vô lậu đều Y Tha Khởi, Y Tha nơi các duyên mới có thể khởi lên được”. Chỗ đây không phải chỉ nói các hữu lậu hữu vi đều là Tánh Y Tha Khởi, cho đến các công đức Phật quả vô lậu hữu vi cũng là Y Tha Khởi. Thứ hai Nhiếp Luận giải thích: “Chỉ có Lượng và chỉ có thứ Nhị Chủng đều gọi là Tánh Y Tha Khởi”.  Chữ Lượng nghĩa là tri thức, nương nơi Lượng làm tiêu chuẩn thì mới có thể hiểu biết chân lý của tất cả sự vật không chút lầm lẫn, cho nên chữ Lượng chính là tri thức. Còn Kiến Phần Tướng Phần..v..v… đều là thể tánh tâm lý tri thức của chúng ta và Năng Thủ Sở Thủ mỗi loại đều có những thứ tướng sai biệt cho tất cả gọi chung là pháp Y Tha Khởi. Thứ ba Kinh Lăng Già giải thích: “Tướng..v..v…. bốn pháp đều gọi là Y Tha Khởi”. Bốn pháp là Danh, Tướng, Phân Biệt, Chánh Trí trong năm pháp đều là Y Tha Khởi. Ngoại trừ một thứ Chân Như là pháp vô vi không phải Y Tha Khởi. Nhờ ba học thuyết trên, chúng ta biết rõ đạo lý của pháp Y Tha Khởi là chỉ chung cho tất cả sự vật trong vũ trụ. Hơn nữa pháp Y Tha Khởi cũng chính là nhân duyên nơi sanh ra vạn pháp, tất cả pháp môn lưu chuyển trong thế gian và tất cả pháp môn hoàn diệt trong thế gian đều được kiến lập nơi pháp Y Tha Khởi của tánh nhân duyên này.

 

c)- TÁNH VIÊN THÀNH THẬT: 

 Tánh viên thành thật có hai nghĩa, nghĩa hẹp và nghĩa rộng: nghĩa hẹp rút gọn là chỉ cho Nhị Không nơi hiển bày chân như là Tánh Viên Thành Thật, một thứ lý tánh thuộc pháp vô vi. Tại sao cho Nhị Không là chỗ hiển bày ? Nghĩa là do nơi cái Không hoàn toàn, không còn điên đảo chấp trước về năng thủ sở thủ và ngã tướng pháp tướng, chính là nơi đó hiển bày thật tánh chân như, ngã pháp nếu như không hoàn toàn thì chân như không thể hiển bày. Trí Sanh Không phá trừ chấp trước nhân ngã chính là nơi hiển bày Sanh Không Chân Như; Trí Pháp Không phá trừ pháp chấp chính là nơi hiển bày Pháp Không Chân Như. Chân Như tức là thật tướng, cũng gọi là tánh không, tánh pháp, tánh bất tư nghì, tánh viên thành thật. Viên Thành Thật yếu nghĩa có ba: nghĩa phổ biến, nghĩa thường trụ và nghĩa không hư vọng. Nhưng ba nghĩa ly khai này không phải là chỉ cho tánh viên thành thật. Còn nghĩa rộng của Viên Thành Thật tóm lược bao quát gồm có hai không, chỗ hiển bày chân như, cùng với tất cả pháp công đức (Pháp quả tam thừa bồ đề) của hữu vi vô lậu. Niết Bàn, Trạch Diệt Vô Vi..v..v…. đều thâu nhiếp trong Viên Thành Thật. Nguyên vì công đức vô lậu là cảnh giới tự chứng xa lìa điên đảo, cũng có nghĩa phổ biến thường trụ, không phải hư vọng, cho nên được gọi là Tánh Viên Thành Thật. Nghĩa rộng của chân như đây so với hàm nghĩa chân như của Đại Thừa Khởi Tín Luận thì giống nhau. Nghĩa chính chân như của các nhà Duy Thức chủ trương là nghĩa thích hợp đã được giải thích ở trước.

 

D)- QUAN HỆ LẪN NHAU CỦA BA TÁNH:

1)- BIẾN KẾ SỞ CHẤP VÀ Y THA KHỞI:

Pháp Y Tha Khởi là hư vọng phân biệt, là thế tục đế, là pháp “Có”. Biến Kế Sở Chấp là hư vọng phân biệt, chỗ chấp trước của thật ngã thật pháp, là pháp “Không”. Như thế cả hai đây, một Có một Không thì không phải không khác. Các thứ cảnh tướng của hiện tượng thế gian, tất cả pháp đó tuy là y tha duyên sanh, do các duyên hoà hợp, đều tồn tại của sự có giả, mà không phải là có chân thât. Đúng như Kim Cang Kinh Tụng giải thích: “Tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn bào ảnh, như sương khói và sấm chớp, nên quán chiếu như thế”. Những lời giải thích trên trình bày những pháp nhân duyên đều có giả có huyễn, là một thứ cảnh ngộ sau khi sử dụng trí tuệ tư duy khảo sát. Thật ngã thật pháp của biến kế sở chấp, nếu như biết rõ không có tánh tự thể cũng là một thứ cảnh ngộ. Hai loại này chứng minh cho thấy, căn cứ nơi sự thật thì đều chân thật, chẳng qua chúng tương phản lại nơi thường thức. Nơi thường thức sự chấp ngã chấp pháp cho là chân thật, không lãnh hội được đạo lý nhân duyên sanh, không rõ được các pháp y tha khởi tánh đều không. Hơn nữa biến chấp là thuộc về tình có, y tha khởi là giả có hoặc là đạo lý có, cho nên không phải là không khác. Đây cũng không phải là cách nhìn thường thức. Nhưng không luận vọng tình có và giả có đều là có giống nhau nơi thường thức, cho nên không phải khác. Ngài Thế Thân giải thích rằng: “Ý Thức ( thứ sáu và thứ bảy ) đều là Thức biến kế và y tha khởi đây là tánh cảnh sở duyên sở thủ thường hay sanh ra biến kế, cũng tức là biến kế sở chấp. Nói cách khác y tha khởi là cảnh và tâm sanh ra biến kế, cho nên gọi là biến kế sở chấp tánh. Nói rõ hơn Ý Thức kia là biến kế, duyên nơi tướng mạo kia là cảnh sở thủ, chính là chỗ biến kế. Do y tha này cũng gọi là tánh biến kế, cho nên không phải khác”. Vô Tánh giải thích rằng: “Không phải khác là có y tha khởi, có biến kế sở chấp. Chữ “Khác” là “Có” nơi hư vọng, có thể cho là có, chữ “Không” là “không phải có”  nơi hư vọng    ( không ), không có thể cho là khác. Kia đã là không, sao lại hư vọng cho là khác? Không phải không khác là có và không phải có không thể thành một được”.    

2)- VIÊN THÀNH THẬT VÀ Y THA KHỞI:

Căn cứ nơi trước biến kế sở chấp là thuộc về “Tình Có”,  nay nói viên thành thật là thuộc về “Diệu Có” và y tha khởi là thuộc về “Huyễn Có”, hai câu này không giống nhau, cho nên gọi là không phải không khác. Hai câu này nếu ở phương diện khác mà nói thì không phải khác, nguyên do viên thành thật là tánh chân thật của pháp y tha khởi, nếu như có khác thì không thích ứng với tánh kia, còn nếu như không khác, pháp y tha khởi là thường hoặc viên thành thật là vô thường. Mà thật ra không phải thế, hai loại này có chỗ khác nhau. Hơn nữa, y tha khởi là cảnh giới của Phàm Thánh, riêng viên thành thật chỉ là cảnh giới của bậc Thánh, là chỗ chứng đắc của bậc Thánh.  Bậc Thánh thì có thể duyên nơi y tha khởi, nhưng hạng phàm phu thì không thể hội nhập được viên thành thật, đó là chỗ không phải không khác. Còn nữa y tha khởi thì đa số nương tựa nơi phần ô nhiễm và viên thành thật thì lại nương tựa nơi phần thanh tịnh. Trí tuệ của bậc Thánh có hai thứ: Một là Trí Căn Bản, tức là trí không phân biệt và trí này thân chứng tánh viên thành thật. Hai là Trí Hậu Đắc, phần nhiều chỉ có trí sai biệt phân biệt ( Trí này có khi cũng không phân biệt). Trí Hậu Đắc sau khi chứng đặng Trí Căn Bản liền khởi lên trí sai biệt để duyên các pháp tướng sai biệt y tha khởi, cho nên viên thành thật này cùng với y tha khởi không phải không khác. Nếu như quyết định cho rằng không khác thì viên thành thật đúng là chỗ duyên của Trí Hậu Đắc, hoặc tánh y tha khởi đúng là chỗ duyên của Trí Căn Bản. Nhưng thật ra không phải vậy, cho nên gọi là không phải không khác. Thành Duy Thức Luận giải thích: “Cho nên không phải một và không phải khác, pháp cùng pháp tánh (y tha khởi cùng viên thành thật) về phương diện lý thì lẽ tất nhiên thích ứng với nhau, nhưng về mặc sự thì thắng nghĩa và thế tục có chỗ đối đãi với nhau”.

3)- VIÊN THÀNH THẬT VÀ BIẾN KẾ CHẤP:

Sự quan hệ của viên thành thật và biến kế chấp cũng như ánh sáng và bóng tối đối lập nhau. Có ánh sáng thì tất nhiên không có bóng tối và có bóng tối thì không có ánh sáng. Chứng ngộ hoàn toàn viên thành thật thì không còn biến kế chấp, có biến kế chấp thì không có viên thành thật, đây là mê và ngộ đối lập nhau cho nên gọi là không phải không khác. Nhưng biến kế sở chấp vốn không có bản thể, giống như lông rùa sừng thỏ. Tánh không của biến kế tức là viên thành thật cho nên cũng gọi là không phải khác. 

      4)- KẾT NẠP VÀO BA TÁNH DUY THỨC : 

Ba tánh thì chọn pháp y tha làm trung tâm, pháp y tha khởi nếu như không tồn tại thì hai tánh trước và sau không thế chứng đắc, không thể thiết lập. Pháp tánh y tha khởi là hư vọng phân biệt và hư vọng phân biệt tức là tâm thức. Cho nên Luận giải thích: “Có hư vọng phân biệt”. Trước hết biến kế chấp là dựa trên  y tha khở để vọng tình so đo chấp trước; sau đó viên thành thật là tánh chân thật dựa trên trên y tha khởi. Nếu như ly khai hoàn toàn pháp y tha khởi thì hai tánh căn bản ở trước không thể chứng đắc, do đó mới nói đến nghĩa Duy Thức. Còn sự chứng ngộ của trí tuệ, sau khi chứng viên thành thật này thì mới có thể hiểu rõ sự tồn tại như huyễn của y tha khởi kia. Tánh không của biến kế sở chấp nếu như chưa chứng ngộ thì  không thể hiểu biết như thật tánh của viên thành thật. Nhân đây trình tự tu chứng là trước hết cần thiết phá chấp biến kế để trừ chướng ngại của sự chứng ngộ viên thành thật. Vả lại, trí không phân biệt đã chứng chân như thì  trí hậu đắc mới có thể thấu đạt tánh y tha khởi đều là những sự việc như huyễn..v.. v… Theo bài Tụng sau đây nói rằng:  “Không phải không thấy chân như, mà có thể liễu ngộ được các pháp đều là những sự việc như huyễn..v.. v…, chúng nó mặc dù có mà không phải chân thật”.

5)- BA TÁNH VÀ NĂM PHÁP: 

Năm pháp nơi Duy Thức Tông trong các Kinh Luận đều có giảng giải. Năm pháp là: Danh, Tướng, Phân Biệt, Chánh Trí, Như Như. “Danh” nghĩa là danh xưng ngôn thuyết, tất cả danh xưng của sự vật trong vũ trụ, tất cả văn tự học thuyết, văn hoá tư tưởng đều từ nơi Danh này để kiến lập. “Tướng” nghĩa là tướng trạng (pháp tướng)  thể tánh và sự tướng sai biệt của vạn sự vạn vật, gọi chung chính là tướng trạng của tất cả hiện tượng giới. “Phân Biệt” nghĩa là tư tưởng tri thức của tâm lý. “Chánh Trí” nghĩa là trí tuệ vô lậu vượt ra ngoài thế gian, trong đó bao gồm cả trí tuệ của thế gian. “Như Như” nghĩa là thật tánh của chân như, chính là lý tánh thật tế của vũ trụ. Năm pháp này có thể bao gồm tất cả pháp của thế gian và xuất thế gian, theo như đồ biểu sau đây:

Theo Du Già Sư Địa Luật giải thích: Năm pháp đây không quan hệ với biến kế sở chấp. Chân Như của Như Như tức là tánh viên thành thật. Ngoài Như Như ra bốn pháp còn lại đều là tánh y tha khởi. Danh là pháp giả của Năng Thuyên ( Văn cú giải thích nghĩa lý kinh điển ), là tâm thức hữu lậu biến hiện tương tợ. Tướng là nghĩa lý và sự tướng của Sở Thuyên, Phân Biệt là tâm và tâm sở pháp hữu lậu thường biến hiện tương tợ. Chánh Trí là tâm và tâm sở pháp vô lậu thường biến hiện tương tợ. Cho nên bốn pháp này đều là y tha khởi. Ý nghĩa này giống như đồ biểu sau đây:

Theo Biện Trung Biên Luận giải thích: Biến kế chấp thì không có thật thể, chỉ có giả danh, cho nên gọi là Pháp Biến Kế Chấp. Tướng tức là Tướng Phần nương nơi tâm thức biến hiện. Phân Biệt là Kiến Phần thuộc tâm và tâm sở pháp, hai thứ tâm này đều là tánh Y Tha Khởi. Chánh Trí Như Như đều không điên đảo, là tánh Viên Thành Thật. Ý nghĩa này giống như đồ biểu sau đây:   

Theo Kinh Lăng Già giải thích: Năng Thuyên là biểu tượng tất cả danh xưng ngôn thuyết của sự vật, Tướng là biểu tượng pháp tướng, pháp nghĩa của Sở Thuyên, hai vấn đề này trên phương diện tình thì có, trên phương diện lý thì không, cho nên thuộc về biến kế sở chấp. Phân Biệt là hai phần Kiến và Tướng của tâm và tâm sở hữu lậu thì thuộc vể y tha khởi. Chánh Trí và Như Như đã xa lìa điên đảo thì thuộc về viên thành thật.  Ý nghĩa này giống như đồ biểu sau đây:

 

3.- GIẢI THÍCH NGHĨA BA VÔ TÁNH:

Theo Duy Thức Luận giải thích: “Nếu như có ba tánh, tại sao đức Thế Tôn nói tất cả pháp đều không có tự tánh”?  Bài Tụng giải rằng:

“TỨC Y THỬ TAM TÁNH, LẬP BỈ TAM VÔ TÁNH, CỐ PHẬT MẬT Ý THUYẾT, NHẤT THIẾT PHÁP VÔ TÁNH, SƠ TỨC TƯỚNG VÔ TÁNH, THỨ VÔ TỰ NHIÊN TÁNH, HẬU DO VIỄN LY TIỀN, SỞ CHẤP NGÃ PHÁP TÁNH” (Tức nương nơi ba tánh này, lập ra ba vô tánh kia, cho nên Phật mật ý nói: tất cả pháp đều vô tánh. Trước là tướng vô tánh, kế vô tự nhiên tánh, sau do lìa tánh trước: là tánh chấp ngã pháp).

Hai bài Tụng đầu là trình bày rõ nghĩa ba vô tánh và cũng là giải thích một vấn đề trọng yếu của Duy Thức Học. Như trước đã giảng ba tánh không thể lìa khỏi Thức để hiện hữu mà có chỗ đức Phật lại nói ba vô tánh và Duy Thức cũng nói có ba tánh,  như thế có trái ngược nhau không? Vấn đề đây hai bài Tụng trên đã giải đáp. Nghĩa là căn cứ ba thứ tự tánh đã đề cập ở trên để kiến lập ba thứ vô tánh. Ba thứ vô tánh này hoàn toàn không phải biệt lập ngoài ba thứ tự tánh. Cho nên mục đích đức Phật dùng mật ý để giải thích ba thứ vô tánh. Mật ý là ý tứ tuyệt đối không hiển bày. Đó chính là nói ba vô tánh và không phải trình bày giáo nghĩa. Theo ý tứ của các luận sư Duy Thức, tất cả pháp hoàn toàn không phải chỉ bày giáo nghĩa. Họ cho rằng sự vật trên lý tánh tất cả pháp không phải là vô tánh và cũng không phải tất cả pháp  đều không có gì hết. Nếu thế hiện thật trở thành phủ định và bát bỏ toàn diện lý tánh. Nhưng đức Phật nói vô tánh là có dụng ý khác, cũng như Thành Duy Thức Luận trình bày ba vô tánh cả hai đều không phải cho rằng không có tánh.

“Thứ vô tự nhiên tánh”, nghĩa là kế đến căn cứ nơi tánh Y Tha để kiến lập Sanh Vô Tự Nhiên Tánh. Chữ Sanh là chỉ cho các pháp Y Tha khởi, nghĩa là các pháp đều nương nơi nhân và gá nơi duyên để sanh khởi thì không có tánh tự nhiên. Trong thế gian, Khoa Học Tự Nhiên đều cho rằng, tất cả sự vật được sanh ra đều từ nơi tự nhiên, Phật Giáo thì không thừa nhận riêng tự sanh, cũng không chấp nhận thuyết tha nhân sanh, hơn nữa cũng không bảo rằng không có nhân mà tự nhiên sanh, cho nên Phật chủ trương tất cả đều do nhân duyên sanh. Như bài Tụng của Mã Thắng Tỳ Kheo giải thích rằng: “Các pháp do nhân duyên sanh, cũng do nhân duyên diệt, ta là bậc Đại Sa Môn, thường chủ trương học thuyết như thế”.  Bài Tụng trên chính là đả phá những tà thuyết cho rằng tự sanh, tha sanh, cộng sanh, tự nhiên sanh. Căn cứ nơi tánh nhân duyên sanh trên mà chủ trương tánh sanh không có tự tánh.

“ Hậu do viễn ly tiền, sở chấp ngã pháp tánh”, nghĩa là sau cùng căn cứ nơi tánh Viên Thành Thật kiến lập tánh Thắng Nghĩa không có tự tánh. Tánh Viên Thành Thật là cảnh giới chân thật hiển bày sau khi xa lìa hẳn ngã tướng pháp tướng thật có của Biến Kế Sở Chấp.  Chân Như chính là Thắng Nghĩa Đế, cho nên chủ trương rằng tánh Thắng Nghĩa không có tự tánh.

VI.- TÁNH CHÂN NHƯ CỦA DUY THỨC:  ( Thuyết minh tánh Duy Thức )

“THỬ CHƯ PHÁP THẮNG NGHĨA, DIỆC TỨC THỊ CHÂN NHƯ, THƯỜNG NHƯ KỲ TÁNH CỐ, TỨC DUY THỨC THẬT TÁNH” (Các pháp thắng nghĩa này, cũng tức là chân như, vì tánh nó thường như, tức thật tánh Duy Thức).

Hai mươi bốn bài Tụng ở trước là thuyết minh Tướng của Duy Thức. Bài Tụng thứ hai mươi lăm này là thuyết minh Tánh của Duy Thức. Tánh là chỉ cho Thắng Nghĩa của Duy Thức hiển bày, cũng tức là Tánh Viên Thành Thật. Đúng ra chính nơi pháp Y Tha Khởi, nếu không có vọng tình chấp trước, lẽ đương nhiên là bao gồm Thắng Nghĩa Đế ở trong. Không chủ trương Y Tha Khởi là Thắng Nghĩa, vì lo sợ Viên Thành Thật sẽ bị lạm dụng, cho nên nói xa lìa điên đảo chính là Chân Như. Bản tánh của Viên Thành Thật là thường như cho nên gọi là Chân Như, nghĩa là bản tánh của các pháp không tăng không diệt. Như Luận giải thích: “ Đây tức là như thế, không phải không như thế, thị tức là như thị, không phải không như thị”. Chữ Đây và chữ Thị là chỉ cho bản lai diện mục của các pháp, bản tánh của tất cả sự vật như thế nào, chúng ta liền trở về chỗ đó như thế nào là nơi không thêm sắc thái và không tăng không diệt. Đây chính là tánh chân thật của Duy Thức, có chỗ gọi là Thắng Nghĩa, Chân Như, Duy Thức Tánh, tất cả đều một thể mặc dù tên có khác nhau.

 

---o0o---

 

Mục Lục > Chương 1 > Chương 2 > Chương 3 > Chương 4

Chương 5 > Chương 6 > Chương 7 > Chương 8

 

---o0o---

Trình bày: Nhi Tuong
Cập nhật: 01-11-2007

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

giÃÆ chuyen do cho ca kiep nhan sinh Ð Ð Ð 不空羂索心咒梵文 Mùa rơm vàng c½u PhÃÆp thuc hanh tam vi tha 04 phan 1 song cà y phật tử trẻ nhận giải thưởng vì chu hieu va dao hieu qua loi phat day tu tanh di da 1 gởi 真言宗金毘羅権現法要 chẳng Đọc kinh Học 願力的故事 Vì sao bạn mất ngủ về đêm Mẹ Khám tang 心中有佛 Tùy nhung khac biet giua thien va yoga nguyên tỉnh ngậm điều tong Chay hàng rong bèo đản truyền chÙa tram tu ve vu tru xung quanh chung ta thức tỉnh khi đọc bức thư của chàng song nam Æ ç Š mà 虚云朝拜五台山从哪里出发 cuÑi Trẻ đẹp nhờ ăn nấm 五痛五燒意思 học là m sửa