THIÊN THỨ BA
LÝ
TƯỞNG VÀ SỰ THỰC HIỆN
(Luận về Diệt và Ðạo Ðế)
CHƯƠNG III
SỰ TU ÐẠO
CỦA TÍN ÐỒ
I- SỰ TẤT
YẾU CỦA MỘT TÍN ÐỒ
Phàm đã là
tín đồ của Phật thì đều phải thực hành theo những lời dạy cũng
như lý tưởng được tường thuật ở chương trên để hướng tới đạo
giải thoát. Tuy nhiên, nếu muốn tìm cầu lý tưởng chân chính
tối cao thì không thể chỉ thực hành những điều kể trên mà cho
là đã hoàn toàn, bởi vì, những điều ấy mới chỉ là sự biểu hiện
bên ngoài chứ về phương diện tính linh bên trong thì vẫn còn
khiếm khuyết. Trong khi thực sự tu luyện những giáo điều và lý
tưởng kể trên, nếu không có tâm cầu pháp bên trong thì chưa
phải hoàn toàn. Tuy nhiên, nếu chỉ đứng về hình thức mà nói
thì dẫu không tin những giáo điều Phật dạy trên đây cũng không
sao. Do đó, mà các nhà phán giáo Trung Quốc cho các giáo điều
trên là “nhân thiên giáo” và nó ngoài chân đế
của Phật giáo. Riêng phần tôi tuy không tán thành việc đặt
những giáo điều ấy ra ngoài giáo lý Phật giáo, nhưng cũng
không thừa nhận rằng chỉ thực hành những giáo điều và lý tưởng
ấy không thôi mà bảo rắng đó là sự tu dưỡng chân chính của
Phật giáo. Vì, nếu muốn hướng tới giải thoát, người ta còn cần
phải đặt cơ sở ở sự sinh hoạt tâm linh, tức lấy việc tu dưỡng
luân lý “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” (không
làm các điều ác, làm tất cả việc thiện) làm căn đề và lấy việc
“tự tịnh kỳ ý” (làm cho tâm mình trong sạch) làm sự tu
dưỡng cho chính mình. Cứ theo hướng ấy mà đi lên tức là sự tu
đạo của những tín nam (upasaka – Ưu-Bà-Tắc), và tín nữ
(upàsika – Ưu-Bà-Di), những đệ tử của ba ngôi báu (Tam bảo)
vậy.
2- NHỮNG
ÐIỀU KIỆN ÐỂ THÀNH TÍN ÐỒ.
Cái điều
kiện thứ nhất để trở thành một tín đồ tu đạo dĩ nhiên là
quy y Tam Bảo, tức quy y vị giáo chủ là đức Phật, quy y
giáo pháp của Phật truyền cho và quy y theo những người tu
hành theo đúng giáo pháp ấy là Tăng-Già (giáo đoàn).
“Thế Tôn,
ngài là bậc A-La-Hán, đẳng chính giác, minh hạnh cụ túc, thiện
thệ, thế gian giải, vô thượng điều ngự trượng phu, thiên nhân
sư, Phật, Bạc-già-phạm.
Y vào
pháp Thế Tôn nói, pháp ấy là hiện thấy
(Sanditthika), thường hằng (akalika), thực chứng
(ehi-passaka), đạo dẫn (opanayika), y vào tri tuệ có
thể hiểu được hết (paccatam veditabbo vinnùhi). Nỗ lực
biết bao, thánh chúng của Như Lai! Chân trực biết bao thánh
chúng của Như Lai! Chính hạnh biết bao, thánh chúng của Như
Lai! Ðó chính là các bậc tứ song bát bối của Như Lai, là những
người đáng được cúng dàng, tôn kính, là phúc điền vô thượng
của thế gian” (1).
Trên đây là
lý do của sự quy y, cũng tức là tâm tín ngưỡng, được mệnh danh
là tín cự túc (saddàasampanna) là điều kiện tiên khởi
của tín đồ. Do đó, có lời văn phát thệ như sau:
“Quy y
Phật
(Buddham
saranam gacchami).
Quy y
Pháp
(Dhamm
saranam gacchami)
Quy y
Tăng
(Sangham
saranam gacchami).”
Đó là văn
quy y Tam Bảo. Tuy trước hết có phật, thứ đến có pháp rồi do
đó mới có sự thành lập Tăng-Già, nhưng sở dĩ có hình thức trên
là vì cả ba Phật, Pháp, Tăng hợp làm một thì các cơ quan cứu
độ chân chính của Phật giáo mới được coi là hoàn thành. Sự quy
y của tín đồ tức là quay về với Tam Bảo. Duy theo tinh thần
của Phật thì Tam Bảo rốt cùng cũng chỉ là nhất thể, do đó, dĩ
nhiên bất cứ xuất phát từ một phần nào trong ba để đi đến tín
ngưỡng thì kết quả cũng đều cùng như Tam quy.
(1) A. 111,
p. 212; Trang 30, Ưu-Bà-Tắc kinh; cáp bản. p. 144.
Tại sao con
đường đi đến giải thoát lại phải cần có Tam Quy? Vấn đề này
nói theo tinh thần của Phật, đạo giải thoát vốn là pháp tự
nhiên như thế (Pháp nhĩ như thị), nhưng duy chỉ có phật là
người có thể nhận thức và thể nghiệm nó một cách chân chính,
và cũng chỉ có đệ tự Phật mới là những người tu hành theo pháp
ấy một cách đúng như thực, bởi vậy ngoài sự quy y Tam Bảo ra
không có giáo pháp giải thoát chân chính nào khác. Cái lý do
cắt nghĩa tại sao Phật một mặt đề cao Tam quy, mặt khác, đồng
thời lại cấm chỉ sự quy y những giáo pháp và thần miếu
(Cetiya) khác cũng là ở đó. Do đó, dĩ nhiên cái gọi là Tam Quy
và chí tâm quy y là niềm tin không phải tiếp thụ một cách mù
quáng mà là niềm tin do đã hiểu rõ giáo pháp mà có. Tức những
thiện nam, tín nữ, sau khi lãnh thụ sự cảm hóa của Phật và các
đệ tử Phật, nhờ hiểu rõ giáo pháp mà tin chắc rằng, ngoài giáo
pháp ấy ra không có một con đường giải thoát chân chính nào
khác, và lấy nó làm pháp nhập môn: đó là một sự thật lịch sử.
Phật bảo là trí tuệ cụ túc (pannàsampanna)và tín cụ túc, cũng
như nhau đều cho đó là điều kiện của một tín đồ lý tưởng. Hiểu
giáo pháp ở đây không có nghĩa là đối với pháp Tứ Ðế tin chắc
rằng thế gian là vô thường, là khổ mà nguyên nhân của khổ là
hoàn toàn do dục vọng, và phương pháp diệt khổ là ở sự tu hành
chính đạo, nhờ kết quả ấy đi đến giải thoát: đó là con đường
giải thoát chân chính. Tức dựa vào niềm tin chắc chắn ấy, một
tín đồ tại gia có thể chế ngự được nguyên nhân gây ra khổ đau
là dục vọng, và những phiền não do dục phát động để ngăn ngừa
việc ác, tu theo lẽ thiện và luôn luôn làm cho tự tâm thanh
tịnh, đó là điểm then chốt trong việc tu đạo của tín đồ. Còn
về nghĩa vụ đối với giáo đoàn thì chính mình đã là một phần tử
trong bốn chúng (Tỷ khưu, Tỷ-Khưu-Ni, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di gọi
là bốn chúng) cho nên cũng có trách nhiệm, và trách nhiệm chủ
yếu là tài trợ, tức tùy hỷ cúng dường các Tỷ-Khưu, Tỷ-Khưu-Ni
và được gọi là thí cụ túc (Agasampanna), cũng như tín cụ
túc và tuệ cụ túc đều là một trong những điều kiện
của tín đồ.
Nếu nói một
cách chặt chẽ thì ngay trong sự quy y Tam bảo cũng đã có ý
nghĩa thực hành tu đạo rồi, bởi vì trong Tứ-Ðế đã bao hàm sự
thực hành tám con đường chân chính vậy. Duy đứng về phương
diện thực tế mà nói, ở cõi Dục mà tu đạo thì cái gọi là
ngăn ngừa dục vọng và làm cho tâm thanh tịnh chủ
yếu là vấn đề trình độ, khi ứng dụng vào thực tế thì tất nhiên
phải thiết lập các quy định thực hành làm tiêu chuẩn: đó tức
là điều kiện giới cụ túc (silasampanna) mà, nếu nói
theo nghĩa rộng, bao hàm trong các vấn đề đạo đức đã được
trình bày ở chương trước, nhưng nếu chỉ nói theo nghĩa hẹp thì
đó chính là sự giữ năm giới (pancasila) và trì trai
(mah’uposatha).
Như đã nói ở
chương trên, năm giới là sự thề nguyện trọn đời giữ năm điều
răn sau đây:
1-
Không giết hại
(Pànàtipatà
pativirato hoti)
2-
Không trộm cắp
(Adinnadà
pativirato hoti)
3-
Không gian dâm
(Kamesu
micchachacàrapativirato hoti)
4-
Không nói dối
(Musàvàda
pativirato hoti)
5-
Không uống rượu
(Susa-meraya-majja panàdatthàvàpativirato hoti)
Trong năm
điều này, bốn điều trên là những điều mục xa lánh chính những
hành vi tội ác (tính ác), còn điều thứ năm là vật cám
dỗ, là điều mục xa lánh cái gọi là gia tội. Ðứng về
phương diện lịch sử mà nói thì, như đã trình bày ở trên, dĩ
nhiên, năm giới không phải Phật đã đặt ra đầu tiên mà ít ra,
có thể nói, bốn giới trước đã bắt nguồn từ Pháp Kinh, hơn nữa,
chúng đã là những quy định của tôn giáo nhất ban thời bấy giờ.
Tuy nhiên, cái đặc sắc của Phật giáo, mà các tôn giáo khác
cũng vậy, thay vì là vật quy định thì lại là cái tinh thần và
thái độ khi thực hành. Có lẽ Bà-La-Môn đương thời chỉ có quy
định mà thiếu tinh thần. Nói cách khác, tuy cho việc không
giết hại là quý, nhưng tế lễ thì lại tàn sát thú vật một cách
nhẫn tâm và như thế thật là mâu thuẫn và buông thả. Ngược lại,
Kỳ-nàng-giáo thì lại giữ gìn một cách quá nghiêm khắc đến nỗi
chỉ rước lấy khổ vào thân, như vậy không tránh khỏi sự thiên
chấp, duy có pHật là giữ thái độ trung đạo trong việc xử lý
năm giới, nghĩa là không quá buông thả mà cũng không đi đến
cực đoan, hễ điều gì không được làm thì tránh, nhưng cốt lấy
tinh thần làm chủ. Chẳng hạn như giới thứ năm không uống rượu
chỉ là điều mục tu dưỡng của Bà-La-Môn trong kỳ Phạm Chí mà
thôi, nhưng phật lại biến cho tinh thần kiện kháng là điều
quan trọng biết chừng nào đối với việc tu dưỡng đạo đức và tôn
giáo: có thể nói, đó là một đặc sắc lớn của giới luận Phật
giáo. Tuy nhiên, các cuộc vận động cấm rượu không phát khởi ở
các nước Phật giáo mà lại được phát động tại các quốc gia theo
Cơ-đốc-giáo mới thật là điều bất khả tư nghị.
Năm giới tuy
là những điều thề nguyện trọn đời nhưng trừ giới uống rượu,
còn bốn giới kia là chỉ đối với tha nhân.
Đến việc
trì trai (mah’uposatha) thì mới chính là pháp tu dưỡng
khắc kỷ đối với bản thân. Tức hàng tháng vào những ngày nhất
định như nửa tháng (rakkha) ngày mùng 1, mùng 8 và ngày 15,
phụng hành ngay Bá-Tát (uposatha), hoặc một tháng sáu kỳ mà
người ta thường gọi là Lục trai (sáu ngày trai). Tín đồ
Cơ-Ðốc lấy ngày chủ nhật, tín đồ Do-Thái giáo lấy ngày thứ bảy
làm ngày khắc kỷ, và Phật Giáo đồ thì lấy những ngày kể trên
làm ngày trai giới. Những điều kiện mục trọng yếu của trai
giới như sau:
1-
Ngoài giờ ăn nhất định ra, không được ăn vặt
(vikà-labhojà pativirato = không ăn phi thời)
2-
Không coi múa hát, không thoa son phấn, nước hoa v.v…
(Naccagitavadita visuka dassana pativirato
mela-gandha-vilepana dhàrana mandana vibhusanatthàna
pativirato)
3-
Không nằm giường cao chiếu rộng
(uccayana-maho-sayana pativirato)
Thông lệ,
cộng thêm vào với năm giới trên gọi là Bát trai giới
(atthangika mah’ uposatha). Ðứng về mặt lịch sử mà khảo sát
thì, như đã nói ở trên, phần lớn pháp trì trai cũng bắt
nguồn từ những điều mục tu dưỡng của Phạm Chí, nhưng Phật đã
biến nó thành phổ thông cho mọi tín đồ và lại định vào những
ngày giờ nhất định cho việc thi hành thì thật là phương pháp
điệu dụng vậy. Tóm lại, trì trai hoàn toàn đối với chính mình,
tuy còn ở thế gian nhưng cũng thực hành đúng như La-Hán để
dưỡng thành sự sinh hoạt tâm linh siêu thế gian cho bản thân,
đó chính là sự sinh hoạt đôn giáo “làm cho tự tâm thanh
tịnh” và là một chế độ rất được tôn trọng.
Ba điều mục
thụ Tam Quy, giữ năm giới và trì trai, vì người làm việc
thiện, đồng thời, làm cho tự tâm thanh tịnh là tiêu chuẩn tu
đạo của tín đồ tại gia (1). Phật gọi những người tu hành các
pháp ấy là Thánh Thanh Văn (Ariyasavaka). Tóm lại, những giới
điều trên đây là tiêu chuẩn quy định sự sinh hoạt của các tín
đồ mà trong cái gọi là “luân lý nhất ban” trình bày ở
chương trước cũng phải có mới có thể hướng tới đạo giải thoát
chân chính.
(1) Xin
tham khảo các kinh: Ba-Li, Tăng-Nhất, Bộ = Upósakavagga, tức
III, pp 203-217. Trung Hàm 30. Ưu-Bà-Tắc-Kinh. S. V, p. 395.
Tạp 33, cáp bản, p. 662 Trung-Hàm, 55, Trì Trai Kinh,
Ấn-Ðộ-Triết-học-Tôn-Giáo-Sử, IV, 255-258.
3- CẢNH GIỚI
CỦA TÍN ÐỒ
(đặc biệt
lấy Ma-ha-nam họ Thích làm thí dụ)
Như vậy, kết
quả cùa sự tu dưỡng ấy sẽ đưa tín đồ đến một cảnh giới như thế
nào? Ðứng về mặt pháp tướng mà nói thì đó là Sơ Quả Dự Lưu
(sotapanna) tức được dự vào ngôi vị thánh nhân để rồi dần
dần tiến lên đến quả thứ ba là Bất-Hoàn, Giáo đoàn đã quy định
như vậy. Những người xuất gia thì sẽ đạt đến quả vị cao nhất
là quả vị thứ tư, còn các đệ tử tại gia thì chỉ đạt đến kết
quả thứ ba mà thôi. Bất-Hoàn quả sau khi chết sinh lên cõi
trời và ở đó mà được giải thoát; loại giải thoát này cũng
giống như tiệm-giải-thoát (kramamukti) trong Phệ-đàn-bà
(1). Trong A-Hàm Hán dịch hiện nay gọi nó là Hữu dư niết
bàn mà, trên thực tế, cũng hệt như cảnh giới của quả vị
tối cao. (2) Không những thế mà thôi, về sau Bắc-đạo-phái
(Witarapathka) còn chủ trương tuy là người thế tục đi nữa cũng
thành được bậc La-Hán (3) vì người tại gia nếu tu hành tinh
tiến cũng có thể đạt đến địa vị ngang hàng với người xuất gia
chuyên môn.
Vấn đề pháp
tướng chủ yếu là lấy việc giải thích sự thật làm chủ, và trên
thực tế, người tại gia cũng không kém gì bậc La-Hán về phương
diện pháp duyệt (vui với giáo pháp) và an tâm, bởi thế rất
nhiều người đã tỏ ra có sức diệu dụng, nhất là khi đau ốm dựa
vào pháp lực để trị liệu, khi sắp chết thì lòng thanh thản,
thung dung, không sợ hãi.
(1) Sáu phái
Triết-Học-Ấn-Ðộ, trang 601.
(2)
Tăng-Nhất-A-Hàm 7, Cáp bản, p. 306: “Bấy giờ đức Thế Tôn bảo
các Tỷ-Khưu rằng có hai cảnh giới Niết-Bàn là Hữu dư niết bàn
và Vô dư niết bàn. Thế nào gọi là Hữu dư niết bàn? Những ai
diệt được năm hạ phận kết thì niết bàn của họ không trở lại
thế giới này, như thế gọi là Hữu dư niết bàn.
(3)
Katthavatthu IV, 1-2.
Hãy lấy thí
dụ của nhà trưởng giả từ thiện nổi tiếng là Tu-Ðạt (Sudatta).
Khi ông này đau nặng muốn được sự an úy cuối cùng nên thỉnh
Xá-Lợi-Phất đến nói pháp cho nghe. Sau khi nói pháp xong,
Xá-Lợi-Phất bèn an úy ông trưởng giả mà bảo rằng ông đã được
quả Dự-Lưu (Sơ Quả), sau khi chết không phải sợ hãi, nhờ thế
mà ông hết bệnh (1), đó là bằng cứ cho thấy là bệnh nặng cũng
có thể trị liệu nếu dựa vào pháp lực và lòng tin tưởng. Sơ quả
mà có được năng lực như thế thì cảnh giới của tín đồ ở Nhị-quả
(Nhất-lai-quả) và tam-quả (Bất-Hoàn-quả) còn tinh tiến biết
chừng nào, điều đó thiết tưởng cứ suy ra cũng thấy rõ. Mà điều
này không phải chỉ giới hạn cho tín đồ phái nam mà ngay cả tín
đồ phái nữ cũng vậy. Từ Tỳ-Xá-Khư-Lộc-Mẫu (Visakha Migaramata)
nổi tiếng cho đến đa số tín nữ (Ưu-Bà-Di) nhiệt thành khác đều
đã được đạo quả và có những lực dụng khác nhau và đức Phật
thường lấy nó làm gương để tưởng lệ những người khác (2). Tuy
nhiên, ở đây, chúng tôi thấy không đủ thì giờ để dẫn chứng sự
thật, vả lại, trên thật tế, vì thiếu tư liệu nên phần nhiều
những sự thật ấy vẫn chưa được rõ. Bây giờ chỉ xin đơn cử một
trường hợp của một nam tín đồ, dòng họ Thích, đã tự đón nhận
lấy cái chết rất hùng tráng để biết qua cái nội lực của một
Ưu-Bà-Tắc nhờ công tu đưỡng, đã đạt đến một trình độ cao như
thế nào. Ðó là trường hợp của Ma-Hà-Nam (Mahanama).
(1) Trung 6,
Giáo-Hóa Bệnh Kinh Ma-Ha-Ðà, 143 Anatthapindikovaha.
(2) A. I.
p, 26.
Ma-Hà-Nam là
người đồng chủng tộc với Phật, là anh ruột của Ma-Na-Luật
(Anuruddha) (1); ông là người rất nhiệt thành cầu pháp sau khi
đã quy y Phật. Trong các kinh điển, người ta thấy có nhiều chỗ
Phật đã lấy ông làm trung tâm để nói pháp (2), như thế ta đủ
thấy cái nhiệt tâm của ông như thế nào rồi. Nhất là trong một
bộ kinh nọ (3) đã chép ông là người đã hỏi rất nhiều về các
tiêu chuẩn tu đạo của Ưu-Bà-Tắc và đã từng được Phật giải đáp
những thắc mắc của ông. Xem thế thì biết ông là người nhiệt
tâm cầu pháp.
Khi ông là
một tín đồ tu đạo thì tại thành Ca-Tỳ-La có xảy ra một biến sự
lớn, tức là, như đã nói ở trên, vua Tỳ-Lưu-Ðà (Vid dabha) của
Xà-Vệ lại đánh phá một lần nữa, vì trong lần chinh phục trước
có Phật can thiệp Tỳ-Lưu-Ðà phải rút quân. Nhưng, sau đó, vì
muốn tranh hùng tranh bá với Ma-Hà-Ðà cũng có truyền thuyết
cho rằng vì thành Ca-Tỳ-La là nơi mà lúc nhỏ, vua Tỳ-Lưu-Ðà đã
bị làm nhục, nên lợi dụng cơ hội khi Phật ở xa mà kéo quân đến
đánh phá để rửa mối nhục lúc thiếu thời.
(1)
Theragatha 892-919
(2) Tạp-Hàm
33, có măm Kinh S. V. pp, 369-374 ba kinh
(3) Tạp-Hàm
33, Cáp bản p, 662 S. V, 465
(1) Cuộc
đánh phá này rất tàn bạo. Lúc đó Ma-Ha-Nam cũng có mặt trong
thành. Vì không nỡ ngồi nhìn nổi khổ thảm của người đồng tộc
nên Ma-Ha-Nam đã đến chỗ vua Tỳ-Lưu-Ðà xin chết thay cho mọi
người để nhà vua chấm dứt sự tàn bạo. Vua Tỳ-Lưu-Ðà bằng lòng
và Ma-Ha-Nam chịu chết bằng cách trầm mình. Nhà vua và những
kẻ tả hữu đều cho rằng xác Ma-Ha-Nam sẽ nổi lên sau đó, nhưng
chờ mãi không thấy, nhà vua bèn sai người lặn xuống để mò lên.
Khi lặn xuống lòng nước thì người ta mới phát giác Ma-Ha-Nam
đã dùng tóc cột mình vào gốc cây dưới nước. Tuy bạo ngược,
nhưng khi thấy thế thì Tỳ-Lưu-Ðà cũng xúc động và mủi lòng, do
đó, ông đã hạ lệnh cho quân sĩ nới tay và nhờ thế mà đa số dân
chúng trong thành Ca-Tỳ-La đã thoát chết. Sự kiện này đã ghi
lại rất rõ ràng trong Ngũ-Phần-Luật 21, và Tăng-Nhất-A-Hàm 26
(2). Cái tinh thần hy sinh mạnh mẽ này khiến người ta, khi đọa
đến, phải thán phục. Nhưng tinh thần ấy lại hoàn toàn nhờ ở sự
tu dưỡng khi còn là Ưu-Bà-Tắc mà có, nhất là Ma-Ha-Nam lại tự
tin vào cái vận mệnh sau khi chết, cho nên mới có được nghĩa
cử thung dung, không sợ hãi như thế.
(1) Về việc
vua Tỳ-Lưu-Ðà làm nhục tại thành Ca-Tỳ-La lúc còn nhỏ có thể
xem trong kinh Tăng-Nhất, Các Bản, p, 386
(2)
Ngũ-Phần-Luật 21, trang 2; Tăng-Nhất 26, Các Bản, p 387.
Trước kia đã
có lúc ông từng hỏi Phật về cái vận mệnh của mình sau khi chết
và được Phật trả lời như sau:
“Này
Ma-Ha-Nam, ông cứ cố gắng mà tu tín, tu giới, tu văn, tư, tuệ,
đừng sợ hãi. Ma-ha-nam, cái chết của ông sau này quyết không
phải là cái chết xấu mà sẽ là cái chết tốt lành” (1)
Cái nguyên
nhân của sự không sợ chết là khi người ta chết vì đại nghĩa,
vì lợi ích của đa số. Không sát sinh, không trộm cắp, không tà
dâm, không nói dối, không uống rượu v.v… chủ yếu tuy là sự tu
dưỡng có tính cách tiêu cực, nhưng đã đến chỗ cùng cực của sự
tu dưỡng thì cho dù là tiêu cực đi nữa nó cũng biểu hiện thành
sự ứng dụng tích cực như trong trường hợp của Ma-ha-Nam trên
đây, như vậy người ta không thể coi thường sự ứng dụng của một
tín đồ tu đạo.
(1) A.V, pp
370-371
---o0o---