SẮC TƯỚNG VÀ THẬT TƯỚNG
Vấn đề Nhị Đế trong Tứ
Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
Prof. Guy Newland, Ph.D.
Việt dịch Tâm Hà Lê Công Đa
---o0o---
CHƯƠNG III
Trường Phái Kinh Lượng Bộ
Những
kiến giải của Hoàng mạo phái liên quan đến quan điểm của Kinh Lượng Bộ về
Nhị đế thoạt trông có vẻ khác thường, nhất là khi trường phái này cho rằng
những vật thể thông thường như cái bàn, cái ghế là những Chân đế, trong
khi đó các ý niệm về không tánh, hay vô ngã do thực chứng được trên hành
trình tu tập lại là Tục đế. Ðã có rất nhiều lý giải khác nhau tận căn bản
về Kinh Lượng Bộ của những học giả không thuộc truyền thống Hoàng mạo phái
tại Tây Tạng cũng như ở Tây phương (1). Tuy nhiên cách tiếp cận của Hoàng
mạo phái đối với Kinh Lượng Bộ đã đưa ra một số ý niệm cực kỳ quan trọng,
chẳng hạn như mối quan hệ giữa hiện lượng -tức nhận thức trực tiếp- và tỷ
lượng -tức nhận thức đối đải phân biệt, mà một phần lớn những nội dung này
đã được Hoàng mạo phái đưa vào lý giải những quan điểm của trường phái
Trung Quán sau này. Thật ra những giáo lý của trường phái Kinh Lượng Bộ
đã được chính thức dùng làm nền tảng cho các học trình trong các học viện
của Hoàng mạo phái. Theo truyền thống, trước khi đi chuyên sâu vào các
trường phái cao hơn, các tăng sĩ Hoàng Mạo phái đã phải bỏ ra rất nhiều
năm để học hỏi về luận lý học, tâm lý học, nhận thức học của Kinh Lượng
Bộ. Thế nên bất cứ ai muốn hiểu rõ cách thức tiếp cận của Hoàng mạo phái
đối với Trung Quán tông như thế nào, bắt buộc phải hiểu rõ những kiến giải
của Hoàng Mạo phái về Kinh Lượng Bộ.
Không ai
có thể phủ nhận rằng tất cả mọi trường phái của Phật giáo đều dựa vào kinh
tạng. Tuy nhiên chỉ có trường phái Kinh Lượng Bộ -như tên gọi của nó- là
nhấn mạnh rằng những giáo lý của mình được chính thức rút ra từ kinh điển.
Khác với trường phái Phân Biệt Thuyết (Ðại Tỳ Bà Sa), phái Kinh Lượng Bộ
cho rằng nội dung của Bảy tập A Tì Ðạt Ma là không phải do chính Ðức Phật
ngôn thuyết. Cũng vậy, theo quan điểm của Kinh Lượng Bộ, những kinh sách
Ðại thừa cũng không phải là những lời dạy của đấng Bổn sư (2).
Kinh
Lượng Bộ còn được chia ra làm hai tiểu bộ phái: Kinh Thủ và Luận Lý. Quan
điểm của phái Kinh Thủ đã được ngài Thế Thân tóm tắt trong cuốn Bảo Tàng
Tri Kiến. Những kiến giải về Nhị Ðế của phái này hoàn toàn tương đồng với
quan điểm của trường phái Phân Biệt Thuyết thế nên ta không cần thiết phải
lập lại ở đây mà chỉ đặc biệt giới thiệu quan điểm của tiểu bộ phái Luận
Lý của Kinh Lượng Bộ về Nhị đế. Như thế để giản dị hóa, từ đây về sau ta
tạm thời dùng danh xưng “Kinh Lượng Bộ” để chỉ tiểu bộ phái Luận Lý. Có
thể nói nguồn tài liệu nguyên thủy và quan trọng nhất về trường phái này
là tác phẩm “Chú Giải về ‘Tập Lượng Luận’ của Trần-Na” (Commentary on
Dignaga’s “Conpendium on Valid Cognition”) của ngài Pháp Xứng
(Dharmakirti).
NHỮNG THUẬT NGỮ TƯƠNG ÐƯƠNG VÀ CÁC THÍ DỤ
Bất cứ cái gì hiện hữu đều
phải thuộc về hoặc Chân đế hay Tục đế chứ không thể là cả hai. Ðể có một ý
niệm ban đầu về ý nghĩa của Nhị đế theo Kinh Lượng Bộ, ta có thể liên hệ
chúng với các khái niệm tương đương về hiện tượng giới (3). Các cụm từ sau
đây được coi như là có ý nghĩa tương đương với “Chân đế”:
1. sự
vật có chức năng (dngos po);
2. hiện
tượng giới vô thường (mi rtag pa);
3. cá
thể đặc thù thực hữu (tự tướng: rang mtshan);
4. đối
thể của hiện lượng (mngon sum gyi snang yul);
5. thiết
định một cách chân thật (bden grub);
6. hiện
hữu rốt ráo (don dam par yod).
Chân đế cùng cộng hữu với
từng ý nghĩa tương đương nói trên. Ðiều này có nghĩa là, lấy một thí dụ cụ
thể, bất cứ cái gì là một sự vật có chức năng thì đó là một Chân đế và
ngược lại.
Khi nói
đến “hiện tượng giới vô thường,” “vô thường” ở đây không hoàn toàn mang ý
nghĩa đơn giản là sự vật rồi sẽ hoại diệt mà bao hàm rằng mọi sự vật đang
biến đổi và tan rã trong từng sát na. Ta có thể nêu ra một vài thí dụ về
Chân đế: cái bàn, cái ghế, cái nhà, con người, cái bình, các hạt (phân
tử),v.v...
Những cụm
từ sau đây có ý nghĩa tương đương với “Tục đế”:
1. hiện
tượng giới không chức năng (dngos med);
2. hiện
tượng giới thường hằng (rtag pa);
3. tổng
thể khái quát (tổng tướng: spyi mtshan);
4. đối
thể của tỷ lượng (rtog pa‘i snang yul);
5. bản
thể giả lập (brdzun par grub ya);
6. hiện
hữu ước lệ (kun rdzob ty yod).
Những thí dụ về Tục đế có
thể kể đến như: hình ảnh gợi ý về một cái bàn, hư không giới (tức là
khoảng không hoàn toàn không bị ngăn ngại,) và tánh không của một hữu thể.
TỶ LƯỢNG
(NHẬN THỨC ÐỐI ÐẢI PHÂN BIỆT)
Theo kiến
giải của Hoàng Mạo phái về bộ phái Luận Lý của Kinh Lượng Bộ thì vấn đề
khác nhau giữa Tục đế và Chân đế có thể được xem như gắn bó chặt chẽ với
sự khác nhau giữa tỷlượng và hiện lượng. Một cách rõ ràng hơn, những đối
thể của tỷ lượng luôn luôn là Tục đế trong khi đó, những đối thể của hiện
lượng đều là những Chân đế. Như vậy, muốn hiểu ý nghĩa của Nhị đế theo
quan niệm của trường phái này ta cần phải hiểu rõ được sự khác nhau giữa
hiện lượng và tỷ lượng.
Trong mỗi
hình thái nhận thức ta có thể phân biệt ra hai loại đối thể là độc ảnh
cảnh (snang yul) và đới chất cảnh (‘jug yul). Ðối với tỷ lượng thì độc
ảnh cảnh và đới chất cảnh là hoàn toàn khác biệt. Cụ thể như khi tỷ lượng
ghi nhận một cái bàn thì đới chất cảnh chỉ đơn giản là một cái bàn như ta
nhận thấy hay được biết. Tuy nhiên độc ảnh cảnh xuất hiện trong tâm thức
ta không phải là một cái bàn mà là một hình ảnh chuyển tải về khái niệm
“cái bàn”, một hình ảnh được cô đọng lại trong số vô vàn chi tiết mà ta
biết qua hiện lượng. Khi tỷ lượng nắm bắt một cái bàn, lập tức hình ảnh về
“cái bàn” được cô đọng lại với những đặc tánh chánh yếu của nó như màu
sắc, hình dáng, tánh cách vô thường, thực hữu, v.v...
Có thể
phân biệt ra nhiều loại tỷ lượng: Ký ức, sự hình dung và tưởng tượng, lòng
hoài nghi, những kiến thức tích lũy, nhận thức do thiền quán, nhận thức vô
minh khiến con người bị trôi nổi trong vòng luân hồi, và nhận thức thông
thường như biết rằng đây là cái bàn, cái ghế,... Tuy được phân biệt ra như
thế nhưng tựu trung tất cả các loại nhận thức này đều giống nhau ở chỗ là
không có khả năng nhận thức trực tiếp tất cả những phẩm chất hay đặc tánh
(màu sắc, hình dáng, tính cách vô thường,...) về đới chất cảnh của chúng.
Tỷ lượng
cũng còn được gọi là “khiển trừ” bởi vì chúng tiếp cận các đối thể một
cách gián tiếp bằng cách loại trừ tất cả những gì không phải là chính đối
thể đó. Hãy lấy thí dụ về cái bàn. Khi ý thức nắm bắt về cái bàn thì tất
cả những gì không phải là “cái bàn” bị loại trừ, nghĩa là những cái ghế,
cái đồng hồ, và v.v... bị loại bỏ ra ngoài. Ðồng thời nó cũng loại bỏ luôn
ra ngoài màu sắc của cái bàn, tính cách vô thường của cái bàn, cũng như
tất cả những phẩm chất khác của cái bàn bởi vì tất cả những đặc tính này
tự chúng không giống hệt như hình ảnh “cái bàn”. Tuy nhiên khi một cái bàn
qua tỷ lượng bị tước bỏ tất cả những đặc tánh của nó để trở thành một hình
ảnh biệt lập trong ý thức thì cái còn lại đó thực ra không còn là một cái
bàn nữa mà là một “cấu trúc” do ý thức ta tạo ra về hình ảnh của một cái
đối-nghịch-với-những-gì-không-phải-là-cái-bàn. Ðây là một hình ảnh
tương đối trừu tượng, có tính cách chung chung về “cái bàn” được xuất hiện
khi tỷ lượng nắm bắt về cái bàn. Nó được gọi là một tổng tướng, bởi vì,
không giống như một cái bàn, nó không được làm bằng gỗ, v.v... và do đó nó
không được hình thành với những đặc tánh chính của nó. Một cách cụ thể, nó
thiếu những chi tiết đặc biệt và đặc tánh riêng của một cái bàn cụ thể nào
đó.
Tiến
trình này thoạt xem có vẻ rất là rắc rối nhưng trong thực tế nó xuất hiện
một cách hầu như tự động khi ta liên tưởng đến một vật thể quen thuộc. Ðể
làm quen với những vật thể mới mẻ, những cái mà chúng ta chưa hề biết đến
-như tánh không chẳng hạn- tiến trình này được bắt đầu bằng cách tạo dựng
ra rồi tinh lọc dần một hình ảnh chung chung về sự vật đó.
Khi ý
thức ta nhớ lại hay nghĩ về một cây kem chẳng hạn thì cây kem là một đới
chất cảnh và hình ảnh gợi ra ý nghĩa chung về cây kem là một độc ảnh cảnh.
Ðối với tỷ lượng, hình ảnh chung về kem xuất hiện mặc dù đây là một cây
kem mang một hình dáng nào đó. Dĩ nhiên thông thường thì chúng ta chẳng
bao giờ phải bối rối đến độ NGHĨ rằng, “cái hình ảnh của cây kem hiện ra
này đích thực là một cây kem.” Trên một bình diện khác, tỷ lượng đã dùng
những hình ảnh trừu tượng này, vận dụng chúng như chúng là những vật
thể thực sự mà chúng biểu trưng. Nói một cách khác, tất cả tỷ lượng
(cho dù chính xác hay không) đều hàm chứa một yếu tố của sai lầm bởi vì
đã xem những hình ảnh biểu trưng của đối thể như chính là đối thể thực
sự.
Loại giả
tướng này có thể được so sánh với hình ảnh của một khuôn mặt xuất hiện ở
trong tấm gương soi với khuôn mặt thực sự. Bằng cách để cho giác quan của
chúng ta bị gạt gẫm một cách nông cạn, chúng ta thu nhận được những thông
tin đáng giá về tình trạng của khuôn mặt chính mình. Cũng tương tự như
vậy, quả là một điều hệ trọng đối với những kiến giải của Hoàng Mạo phái
về lộ trình mà những tỷ lượng có thể nhận ra những đới chất cảnh của
chúng, cho dù là giả tướng. Tỷ lượng, theo Kinh Lượng Bộ có khả năng nhận
biết mọi loại hiện tượng giới trong khi đó hiện lượng chỉ nhận biết các
hiện tượng giới mang tính vô thường.
Các hình
ảnh gợi ý nghĩa chung đều được coi là thường hằng bất biến, có nghĩa là
chúng không phải là đối tượng của đổi thay, hoại diệt trong từng sát na
liên tục. Những hình ảnh này được tồn tại bao lâu mà chúng xuất hiện trong
tâm của chủ thể nhận thức và trong suốt thời gian đó chúng không hề thay
đổi từ sát na này qua sát na khác (4). Những hiện tượng giới thường hằng
này (ví dụ những hình ảnh gợi ra ý nghĩa chung, hư không giới, v.v...) đều
là những Tục đế. “Tục đế” ở đây cũng đồng nghĩa với “sự thực đối với nhận
thức vô minh” và trong ngữ cảnh “nhận thức vô minh” này bao gồm tất cả mọi
tỷ lượng. Một tỷ lượng được gọi là một “nhận thức vô minh” bởi vì những
phẩm tính cá biệt của hiện tượng giới vô thường đã bị ngăn che không thể
thấy được. Bị che lấp mang cái ý nghĩa là nó không thể trực nghiệm một
cách tổng hợp những trộn lẫn đa dạng của những phẩm tính này. Lấy thí dụ,
khi một tỷ lượng nhận thấy một cái bàn như là một đới chất cảnh, tự nhiên
là nó không thể kinh qua những phẩm chất cá biệt và đồng nhất của cái bàn
đó, thay vào đó tất cả những gì mà nó có được chỉ là hình ảnh chung gợi ra
về một khái niệm trừu tượng của một cái bàn, tức là một độc ảnh cảnh.
Cái hình
ảnh trừu tượng đó xuất hiện ngay trong tâm trí của một người biết tiếng
Anh khi nghe nói đến tiếng “table”. Tỷ lượng của các chúng hữu tình khi
hiểu một ngôn ngữ thường liên hệ một hình- ảnh-gợi-ý với một
hình-ảnh-gợi-thanh tương ứng với tiếng đó. Tuy nhiên, tỷ lượng không nhất
thiết phải đòi hỏi một khả năng về ngôn ngữ. Thú vật chẳng hạn, chắc chắn
là có những hình ảnh gợi ý chung liên hệ đến những khái niệm như “đồ ăn”
hay “nguy hiểm”.... mặc dù chúng không hề có những từ ngữ liên hệ với
những ý nghĩa này. Ngay cả con người cũng vậy cho dù biết một ngôn ngữ
nhưng vẫn có những tỷ lượng không cần nương tựa vào yếu tố ngôn ngữ.
Einstein chẳn hạn, từng tuyên bố rằng ông ta có thể suy nghĩ mà không cần
đến chất liệu ngôn từ. (Phải chăng cái này được gọi là trực giác?)
HIỆN LƯỢNG
(NHẬN THỨC TRỰC TIẾP)
Bây giờ
chúng ta đi vào những gì không phải là tỷ lượng được biết đến dưới danh
xưng là hiện lượng. Các hiện tượng giới vô thường (tức là hoại diệt trong
từng sát na) được gọi là Chân đế bởi vì chúng là những chân lý đối với
nhận thức rốt ráo. Ðiều này có nghĩa là chúng hiện hữu, hay một cách khác
hơn chúng xuất hiện một cách toàn vẹn đối với hiện lượng. “Nhận thức rốt
ráo” ở đây bao gồm tất cả mọi hiện lượng -không phải chỉ riêng những trực
nghiệm của nhà du già mà đồng thời kể cả những nhận thức thông thường,
đúng đắn của giác quan về một đối thể như cái bàn chẳng hạn.
Trong
trường hợp nhãn thức trực tiếp thu nhận một cái bàn, cái bàn là độc ảnh
cảnh và cũng đồng thời vừa là đới chất cảnh. Không hề có một độc ảnh cảnh
tách rời khỏi một cái bàn cụ thể nào đó mà nhãn thức đang chụp bắt. Ðiều
này có nghĩa là một cái bàn cụ thể nào đó đã được ta nhận biết một cách
trực tiếp thông qua sự xuất hiện sinh động của cái bàn đó. Một cái bàn
xuất hiện do ý thức nhận ra hình dung của nó và rồi thâu nhận cái hình
dáng này. Một cách cụ thể, nhãn thức trực tiếp thu nhận một cái bàn cũng
giống như một tấm kiếng ghi nhận hình ảnh trung thực của cái bàn đó, kể cả
tất cả những phẩm chất đặc tánh của nó -như màu sắc, hình dáng, khuôn khổ,
sự vô thường, v.v... Chỉ có tự tướng (tức là chân đế, và cũng có nghĩa là
hiện tượng giới vô thường) là có khả năng phô ra để ý thức có thể nhận
diện được nó, điều này cũng có nghĩa là chỉ có hiện lượng mới có thể nhận
ra được những Chân đế một cách rõ ràng dứt khoát.
Một Chân
đế, ví dụ như cái bàn, xuất hiện một cách toàn vẹn trước nhãn thức bình
thường thâu nhận trực tiếp nó, bởi vì nó xuất hiện cùng một lúc với tất cả
những đặc tính, phẩm chất của nó cụ thể như màu sắc, khuôn khổ, v.v...
Một hiện lượng vì thế cũng được gọi là một “tập hợp” hay là một “tổng thể”
(sgrub’jug) bởi vì nó thu nhận đối thể thông qua sự tập hợp hình tướng của
mỗi tự tướng như là một cá thể duy nhất, hay là “một bộ phận khăng khít”
không tách rời của đối thể. Một cái bàn xuất hiện trước nhãn thức với tất
cả toàn bộ cá thể của nó gộp lại. Nhãn thức thu nhận cùng một lúc các đặc
tánh của một cái bàn cụ thể nào đó trong một thể thống nhất, kể cả cái đặc
tánh hoại diệt trong từng sát na của cái bàn này.
Tuy nhiên
một điều quan trọng cần ghi nhớ là hiện lượng không nhất thiết phải xác
định hay ghi nhận hoặc thực chứng tất cả mọi chi tiết. Ngay cả tính chất
vô thường vi tế của cái bàn -tức là cái đặc tánh hoại diệt trong từng sát
na- xuất hiện, nó cũng không được ghi nhận hay xác định bởi nhãn thức
thông thường đang thu nhận cái bàn. Ðể nhận ra tính cách vi tế của vô
thường bằng hiện lượng, trước tiên người ta cần phải thực chứng nó thông
qua tỷ lượng, tức là bằng nhận thức suy luận. Như thế, những kiến giải của
Hoàng mạo phái về Kinh Lượng Bộ đã trình bày trước cho ta thấy một quan
điểm cực kỳ quan trọng trong việc kiến giải Trung Quán Tông sau này: Cho
dù với phẩm tính sai lầm của tỷ lượng, không thể chối cãi được rằng những
chân tỷ lượng được đạt đến thông qua phân tích thuần lý là những viên đá
lót đường không thể thiếu được trong việc dẫn đến hiện lượng của nhà du
già.
Sau khi
đọc và duyệt qua những thảo luận liên quan đến hiện lượng và tỷ lượng, ta
có thể rút ra được ý niệm về sự tương đương như thế nào giữa hiện tượng
giới thường hằng, tục đế, độc ảnh cảnh của tỷ lượng và tổng tướng; cũng
như sự tương đương giữa hiện tượng giới vô thường, Chân đế, độc ảnh cảnh
của hiện lượng và tự tướng. Bây giờ chúng ta hãy xem Hoàng Mạo phái đã
thực sự định nghĩa về Nhị Ðế như thế nào trong Kinh Lượng Bộ.
NHỮNG ÐỊNH NGHĨA
Ngài Pháp
Xứng (Dharmakirti) trong “Chú Giải về ‘Tập Lượng Luận’ của Trần-Na”
(Commentary on (Dignaga’s) “Conpendium on Valid Cognition”) đã phát biểu
như sau :
[Theo trường phái này], cái gì có thể tác hành
chức năng của nó một cách rốt ráo, hiện hữu như là một Chân đế; những cái
khác [hiện tượng giới không thể rốt ráo tác hành một chức năng] hiện hữu
như là một Tục đế. Những điều này mô tả tánh cách của tự tướng và tổng
tướng (5).
Một số
các học giả của Hoàng Mạo phái đã dùng đoạn văn trích dẫn này như là một
nguồn tài liệu để định nghĩa tự tướng và tổng tướng thay vì Chân đế và Tục
đế. Tuy nhiên một số khác, cụ thể như Purbujok và Jamyang Chokla Oser đã
định nghĩa Chân đế như là :
Cái gì có thể tác hành một chức năng một cách rốt
ráo.
Những Tục đế được định nghĩa như là hiện tượng
giới không thể tác hành những chức năng một cách rốt ráo.
Thế nào
được gọi là tác hành một chức năng? Những Chân đế (hiện tượng giới vô
thường) có thể vận hành như là những nguyên nhân, nghĩa là chúng có thể
tác hành chức năng dẫn đến những hậu quả. Bởi lẽ chúng hoại diệt trong
từng sát na, những chân đế có thể tác hành như là những nguyên nhân cho
hiện tượng xảy ra trong sát na kế tục. Thí dụ như một khoảnh khắc của
ngọn lửa này có thể sản sinh ra khoảnh khắc của ngọn lửa kế tục và khoảnh
khắc của ngọn lửa cuối cùng sản sinh ra hậu quả của khói.
Thêm và
đó, một loại chức năng quan trọng thứ hai mà bất cứ Chân đế nào cũng có
thể tạo tác được trong khi đó Tục đế không thể thực hiện, đó là vận hành
như là một nguyên nhân để tác tạo ra một thành phẩm được trực tiếp thâu
nhận bởi nhãn thức. Ngược lại, một Tục đế -vốn thường hằng, và vô tác-
không thể thực hiện một chức năng hay sản sinh ra một hậu quả. Nó không
thay đổi từ sát na này qua sát na khác, và nó không có khả năng tạo ra một
ý thức nắm bắt nó.
Các hình
ảnh tưởng tượng và những Tục đế khác không hiện hữu như là những thực thể
có thể vận hành chức năng. Lý do là bởi vì chúng thực ra chỉ là “những cấu
trúc” tưởng tượng, những giả lập của tâm thức. Hiểu rõ điều này là nhận
thức căn bản của một tiếp cận khác của Hoàng Mạo phái định nghĩa về Nhị Ðế
trong trường phái này. Cụ thể như Ngawang Palden đã định nghĩa về Tục đế
như sau:
Ðó là một hiện tượng giới được thiết định hoàn
toàn do gán đặt bởi tỷ lượng.
và định nghĩa Chân đế như
là:
Một hiện tượng giới hiện hữu từ chính nó, hoàn
toàn không bị gán đặt bởi tỷ lượng. (6)
Một hiện
tượng giới vô thường như cái bàn chẳng hạn thỏa mãn định nghĩa này về Chân
đế bởi vì tự nó có thể khẳng định sự hiện hữu, tách rời khỏi sự gán đặt
bởi ý thức. Một cái bàn là một Chân đế. Nó hiện hữu một cách rốt ráo bởi
vì nó được cấu thành bởi những nhân duyên chứ không phải bị gán đặt bởi
trí tưởng, và do đó có thể tạo nên một hình dạng với tất cả những đặc
tánh, phẩm chất riêng biệt được thu nhận bởi hiện lượng. Trái lại, những
hiện tượng giới thường hằng chẳng hạn như những hình ảnh gợi ý, hư không
giới,... là những Tục đế bởi vì nó không được cấu thành bởi nhân duyên mà
chỉ do tâm thức gán đặt, không có những phẩm tánh riêng biệt có thể phô ra
để được thu nhận bởi hiện lượng. Chúng chỉ hiện hữu một cách ước lệ hoặc
bởi gán đặt.
Tuy
nhiên, một điều cũng nên lưu ý rằng ngay cả những vật thể chỉ hiện hữu một
cách gán đặt, giả lập cũng vẫn hiện hữu. Một sự vật hiện hữu như là một sự
gán đặt hoàn toàn do tâm thức không có nghĩa là trở thành phi hữu, tức là
chỉ hiện hữu trong tưởng tượng. Chúng ta hãy lấy cái thí dụ về cái “sừng
thỏ” thường hay được nói tới trong kinh Phật. Nó không hề hiện hữu như là
một gán đặt bởi tỷ lượng, bởi một lẽ đơn giản là trong thực tế nó không hề
hiện hữu. Thế nhưng trong tâm thức của một người đang tưởng tượng đến cái
sừng thỏ, vẫn hiện ra một hình ảnh gợi ý về cái sừng thỏ. Như vậy cái hình
tượng gợi ý này hiện hữu; nó hiện hữu thuần tuý do tỷ lượng gán đặt. Trong
kiến giải của Hoàng Mạo phái về Kinh Lượng Bộ, người ta xem những vật thể
hiện hữu do gán đặt vẫn hiện hữu. Sau này khi ta nghiên cứu về trường phái
cao nhất, Quy Mậu Biện Chứng Phái của Trung Quán Tông, ta sẽ thấy rằng
toàn bộ pháp giới chỉ hoàn toàn là những gán đặt bởi ý thức, ngay cả những
sự vật có thể vận hành như là những nguyên nhân.
NHƠN VÔ NGÃ
Theo
trường phái Kinh Lượng Bộ, việc thoát ly khỏi vòng luân hồi sinh tử dựa
vào yếu tố thực chứng được rằng con người không là một thực hữu, tức không
phải là một hiện hữu tự thân. Con người là hiện tượng giới vô thường, thế
nên chúng là những Chân đế. Chúng có khả năng tạo tác ra nghiệp quả cũng
như có thể phô bày ra những nhân dạng khác nhau đối với hiện lượng. Tuy
nhiên, không giống như phần lớn những Chân đế khác, chúng không phải là
những hiện hữu tự thân bởi vì chúng không thể được nhận biết nếu như không
có sự nhận thức của vài bộ phận của tâm hay cơ thể mà chúng được gán đặt.
Nói một cách dễ hiểu hơn, một con người thiếu cả “thực thể” vật chất của
thân xác lẫn “thực thể” tinh thần của ý thức. Con người thực ra chỉ được
gán đặt cho một vài sắc uẩn nào đó của tâm và / hay vật, thế nên tất cả
mọi chức năng của nó, kể cả sự vận hành nhằm tạo nên nhân dáng để được thu
nhận bởi hiện lượng cũng đều nương tựa vào chức năng của những sắc uẩn
này.
Nhận thức
vô minh vốn là gốc rễ của vòng luân hồi khổ đau là một nhận thức cho rằng
con người là một hiện hữu tự thân, có thực. Theo trường phái Kinh Lượng
Bộ, con người đã mang một nhận thức lầm lạc như thế một cách thâm căn cố
đế, thế nên, mục tiêu của nhà hành giả du già tu tập theo trường phái này
là khai mở trí tuệ siêu việt có khả năng thực chứng tánh không, tức là
thấy được rằng hoàn toàn không hề có một con người như là một thực hữu, tự
thân.
Tuy nhiên
, quả là một điều khó khăn cho con người có được một nhận thức trực tiếp
có thể thực chứng một cách rõ ràng về một tánh Không, bởi vì Không tánh
như ta biết là một hiện tượng giới thường hằng, một hư không giới. Tánh
Không như thế là một Tục đế; và cũng là một tổng tướng. Tánh Không thiếu
những phẩm chất, đặc tánh riêng biệt tức là không có tự tướng để có thể
phô ra cho hiện lượng thu nhận, và như vậy không thể được nhận biết một
cách trực tiếp. Thế nên, trường phái Kinh Lượng Bộ quan niệm rằng trí tuệ
siêu việt là một hiện lượng có khả năng nhận chân một cách trực tiếp và rõ
ràng các sắc uẩn và tưởng uẩn trong một cách thế bao hàm cả sự nhận thức
về con người như là một hiện hữu tự thân trong mối tương quan với các sắc
uẩn đó.
KẾT LUẬN
Ði sâu vào những kiến giải
của Hoàng Mạo phái về trường phái Kinh Lượng Bộ là những bước chuẩn bị
quan trọng cho tâm thức ta làm quen với việc nghiên cứu nội dung của
trường phái Trung Quán Tông. Một số chủ đề đã không được đề cập đến ở đây
-chẳng hạn như hiện tượng giới định chắc (sgrub pa - vidhi) và khiển trừ
(dgag pa - pratisedha), tổng tướng (spyi - samanya) và tự tướng (bye brag
- visesa), cũng như cách sử dụng các ký hiệu luận lý (rtags - linga) trong
thiền quán. Thế nhưng từ những lý giải vừa được trình bày ta cũng có thể
rút ra được một số điểm được xem như là quan trọng nhất:
Thứ nhất,
trường phái Kinh Lượng Bộ đã giới thiệu khái niệm cho rằng Nhị đế là đối
tượng của hai hình thái nhận thức: hiện lượng và tỷ lượng. Mặc dù tỷ lượng
không phải lúc nào cũng là chân lượng (tshad ma - pramana) nhưng tựu trung
cả trí hiện lượng và trí tỷ lượng đều có khả năng biết rõ những đối thể
của mình. Khái niệm cho rằng Nhị đế là hai vòng tròn của nhận thức về đối
thể, mỗi vòng tương ứng với một loại tâm thức cá biệt và không hề mâu
thuẫn lẫn nhau, rất cực kỳ quan trọng trong kiến giải của Hoàng Mạo phái
về Kinh Lượng Bộ và là mấu chốt để ta hiểu tại sao Hoàng Mạo phái khẳng
định rằng hai khía cạnh của Nhị đế tương hợp một cách thuần lý chứ không
hề đối nghịch nhau. Chân đế và Tục đế chỉ là đối thể của một loại tâm thức
nào đó và cái này không hề đánh đổ cái kia. Trong Trung Quán tông, Nhị đế
(Tục đế và Chân đế) là những đối thể được nhận biết bởi cả tri giác thông
tục lẫn rốt ráo, trong khi đó với Kinh Lượng Bộ chúng đều là những thể
tướng của tỷ lượng và chân lượng. Sự song hành của hai lối kiến giải này
rất đáng cho ta lưu ý. Kiến giải của Hoàng Mạo phái về Kinh Lượng Bộ có
thể truyền đạt một sự tin tưởng cơ bản cho môn sinh vào sự tương hợp của
Nhị đế, một niềm tin dùng làm cơ sở cho sự nghiên cứu về Nhị Ðế của Trung
Quán Tông sau này.
Thứ hai,
trường phái Kinh Lượng Bộ là một bối cảnh mà qua đó Hoàng Mạo phái giới
thiệu cho những môn sinh của mình khái niệm rằng tri thức phân biệt chẳng
những không phải là kẻ thù mà còn là một phương tiện tuyệt đối không thể
thiếu trên lộ trình giải thoát. Chẳng hạn như tính vô thường vi tế của một
cái bàn đã được phô bày ra trước nhãn thức bình thường trực tiếp thu nhận
cái bàn; thế nhưng ta đã không nhận ra được tính cách vô thường này và bởi
vậy đã vọng tưởng rằng cái bàn giống như nguyên trạng trong từng sát na.
Thế nên để hiện lượng có thể trực nhận được tính cách vô thường vi tế này,
điều cần thiết trước tiên là phải hình thành một nhận thức phân biệt rằng
cái bàn đang thay đổi trong từng sát na. Bắt đầu bằng nghi vấn rằng cái
bàn có thể thay đổi trong từng giây phút, sự thiền quán trên tính cách vô
thường của cái bàn sẽ từ từ dẫn đến một cảm thức mạnh mẽ, một thừa nhận
đúng đắn rằng cái bàn là vô thường. Tiếp tục thiền quán trên đề mục này sẽ
dẫn đến một sự khẳng định hoàn toàn vững chắc qua suy luận rằng cái bàn là
vô thường. Khởi đi bằng nghi vấn và cuối cùng là tin chắc, tất cả chuổi
vận hành của ý thức đều là nhận thức phân biệt. Bằng cách thiền quán như
thế trên tính cách vi tế của vô thường, ta trở nên quen thuộc sâu xa với
nó cho đến một lúc ta thực chứng được tính cách vô thường này một cách rốt
ráo bằng hiện lượng. Như thế, ý thức (phân biệt) thoạt tiên được sử dụng
như là một thanh gươm nhằm chặt bỏ nhận thức sai lầm và rồi được quăng bỏ
khi nhận thức sai lầm đã hoàn toàn bị bác khước. Kiểu cách này đã được rập
khuôn trong cách miêu tả của Hoàng Mạo phái làm thế nào để thực chứng tánh
không trong trường phái Trung Quán Tông. Ðại sư Tông Kha Ba (Tsong kha pa)
còn nhấn mạnh rằng an trú trong tầng thiền vô phân biệt xứ vẫn chưa đủ khi
mà ýniệm về hiện hữu tự thân (cùng với tất cả những tỷ lượng khác) chỉ mới
bị kiềm chế một cách tạm thời. Thay vào đó, ta phải bắt đầu bằng cách vận
dụng thiền quán để nhận diện rồi loại trừ ý niệm về hiện hữu tự thân một
cách thuần lý.
Thứ ba,
khác với trường phái Phân Biệt Thuyết, Kinh Lượng Bộ bình đẳng hoá giữa bộ
phận và toàn thể. Như ta đã biết, Phân Biệt Thuyết cho rằng những sự vật
được xem là những thực tại rốt ráo khi nào chúng không còn có thể phân
chia ra được nữa ngoài chính chúng. Nói một cách cụ thể, điều này có nghĩa
rằng những bộ phận bất khả phân này là thực tướng, trong khi đó cái “toàn
thể” hay hợp chất do các bộ phận này cấu thành chỉ là tục tướng. Ngược
lại, kiến giải của Hoàng Mạo phái về trường phái Kinh Lượng Bộ cho rằng
ngay cả một tập hợp thô của các hạt (phân tử) -như cái bàn, cái ghế,
v.v...- hiện hữu một cách rốt ráo bởi vì chúng là những hiện thể (độc ảnh
cảnh) của hiện lượng. Anne Klein đã chỉ rõ rằng một trong những nét đặc
trưng nhất quán của Hoàng Mạo phái -không giống với Phân Biệt Thuyết và
các trường phái khác- kiến giải về Kinh Lượng Bộ là nó chuẩn bị cho tâm
thức chấp nhận sự bình đẳng hoá về thực trạng của cái bộ phận và cái toàn
thể được giảng dạy trong Trung Quán (7). Trong trường phái Trung Quán
Tông, không hề có những hạt bất khả phân, hay là những yếu tố không còn
phân chia được nữa. Cái bộ phận cũng không nhiều hay ít chân thực hơn là
cái toàn thể bởi vì tất cả đều chỉ hiện hữu một cách quy ước.
Kinh Lượng
Bộ, như đã nói ở trên, còn giúp sửa soạn tâm thức để nghiên cứu Quy Mậu
Biện Chứng phái của Trung Quán Tông khi đưa ra ý niệm rằng một sự vật nào
đó có thể hiện hữu cho dù nó thuần túy chỉ là sự gán đặt của ý thức phân
biệt. Chẳng hạn như, khi người môn sinh đã trở nên quen thuộc với ý niệm
rằng vô ngã của con người là một “sự gán đặt hoàn toàn bởi nhận thức phân
biệt”, họ sẽ không phạm sai lầm khi giả định rằng cụm từ “sự gán đặt hoàn
toàn bởi nhận thức phân biệt” liên hệ đến khái niệm về một cái gì đó hình
như hiện hữu mà sự thực là không hiện hữu gì cả. Ðây giống như một sự
chủng ngừa quan trọng cho các tăng sinh nhằm chống lại sự nguy hiểm của
chủ nghĩa đoạn kiến khi học tập về giáo lý của Trung Quán Tông sau này,
rằng tất cả mọi hiện tượng giới đều hiện hữu hoàn toàn như là những gán
đặt bởi ý thức phân biệt, những giả danh.
Cuối cùng,
Kinh Lượng Bộ khẳng định rằng những sự vật chỉ có thể tác hành-nghĩa là có
thể thực hiện những chức năng, vận hành như là những nguyên nhân) nếu
chúng hiện hữu một cách rốt ráo, nghĩa là tự mình có thể khẳng định sự
hiện hữu của chính mình, không phải là những gán đặt bởi ý thức phân biệt.
Sự khẳng định này -hoàn toàn khác biệt với quan điểm của Trung Quán Tông-
có vẻ như là một mục tiêu mà các vị thầy của Hoàng Mạo phái muốn thiết
định lên tâm thức của những môn sinh. Nó vạch một hướng nhìn đưa lối suy
nghĩ thế tục, bẩm sinh của chúng ta ra khỏi những bóng tối vây bủa để đi
vào sự tập trung của ánh sáng tỉnh thức. Nhờ vậy mà sau này, khi nghiên
cứu về Trung Quán Tông, những biện giải của trường phái cao hơn này đã có
sẵn một mục tiêu rõ ràng để nhắm tới và dứt điểm.
CHÚ THÍCH.
(1) Xem
Knowledge and Liberation. Anne Klein. Ithaca: Snow Lion, 1986. và
Recognizing Reality. Goerges Dreyfus. Albany: State University of New York
Press, 1997.
(2) Tuy
nhiên theo Jamyang Shayba trong Great Exposition of Tenets cho biết là một
số luận giải sau này của các thuyết phái Tiểu Thừa đã chấp nhận những kinh
sách Ðại thừa là những ngôn thuyết của Ðức Phật.
(3)
Presentation of the Ultimate and the Conventional in the Four System of
Tenets, 34.
và Practice and
Theory of Tibetan Buddhism, Geshe Lhundup và Jeffrey Hopkins, 93.
(4) Xem
Knowledge and Liberation, tr. 117, những thảo luận liên quan đến kinh
nghiệm (kinh nghiệm thườngngày và kinh nghiệm thiền định) có vẻ như mâu
thuẫn với khẳng định của Hoàng Mạo phái cho rằng những hình-ảnh-gợi-ý là
thường hằng.
(5)
Dharmakirti. “Chú Giải về ‘Tập Lượng Luận’ của Trần-Na”. Commentary on
(Dignaga’s)
“Conpendium on Valid Cognition”. (Pramanavattikakarika), P5709, Vol 130,
88.3-5. Bản dịch dựa trên Knowledge and Liberation. Anne Klein, 71.
(6)
Presentation of the Ultimate and the Conventional in the Four System of
Tenets, 34.
(7) Xem
Knowledge and Liberation. Anne Klein, 31.
---o0o---
Mục Lục
|
ChươngI |
ChươngII |
ChươngIII
|
ChươngIV
ChươngV |
ChươngVI | ChươngVII
| ChươngVIII
|
ChươngIX
---o0o---
Chân thành cảm ơn Cư Sĩ Tâm Hà Lê Công Đa đã gởi
tặng phiên bản điện tử
tập sách này. ( Trang nhà Quảng Đức, 05-2002)
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---