.

 

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập 

Hán Dịch

Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh 

Việt Dịch 

--- o0o ---

 
PHẨM "PHƯƠNG TIỆN" (31) THỨ HAI

  1. Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn từ chánh định an lành mà dậy, bảo ngài Xá-Lợi-Phất: "Trí-huệ của các đức Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào, tất cả hàng Thanh-văn cùng Tích-chi-Phật đều không biết được. Vì sao?


  2. Phật đã từng gần gũi trăm nghìn muôn ức, vô số các đức Phật, trọn tu vô lượng đạo pháp của các đức Phật, dõng mãnh tinh tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp ý thú khó hiểu.

    Xá-Lợi-Phất! Từ ta thành Phật đến nay, các món nhân duyên, các món thí dụ, rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa lìa lòng chấp. Vì sao? Đức Như-Lai đã đầy đủ phương tiện, tri kiến và ba-la-mật.

    Xá-Lợi-Phất! Tri kiến của Như-Lai rộng lớn sâu xa, đức vô lượng vô-ngại-lực, vô-sở-úy, thiền-định, giải-thoát tam-muội, đều sâu vào không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có.

    Xá-Lợi-Phất! Như-Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời lẽ im dịu vui đẹp lòng chúng.

    Xá-Lợi-Phất! Tóm yếu mà nói đó, vô lượng vô biên pháp vị tằng hữu, đức Phật thảy đều trọn nên.

     

  3. Thôi Xá-Lợi-Phất! Chẳng cần nói nữa. Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chân thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy.


  4. Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói bài kệ rằng:

  5. Đấng Thế-Hùng khó lường

  6. Các trời cùng người đời

    Tất cả loài chúng sanh

    Không ai hiểu được Phật

    Trí-lực, vô-sở-úy

    Giải thoát các tam-muội

    Các pháp khác của Phật

    Không ai so lường được

    Vốn từ vô số Phật

    Đầy đủ tu các đạo

    Pháp nhiệm mầu rất sâu

    Khó thấy khó rõ được

    Trong vô lượng ức kiếp

    Tu các đạo đó rồi

    Đạo tràng được chứng quả

    Ta đều đã thấy biết

    Quả báo lớn như vậy

    Các món tính tướng nghĩa

    Ta cùng mười phương Phật

    Mới biết được việc đó

     

  7. Pháp đó không chỉ được

  8. Vắng bặt tướng nói năng

    Các loài chúng sinh khác

    Không có ai hiểu được

    Trừ các chúng Bồ-Tát

    Người sức tin bền chặt

    Các hàng đệ tử Phật

    Từng cúng dường các Phật

    Tất cả lậu đã hết

    Trụ thân rốt sau này

    Các hạng người vậy thảy

    Sức họ không kham được,

    Giả sử đầy thế gian

    Đều như Xá-Lợi-Phất

    Cùng suy chung so lường

    Chẳng lường được Phật trí

    Chính sử khắp mười phương

    Đều như Xá-Lợi-Phất

    Và các đệ-tử khác

    Cũng đầy mười phương cõi

    Cùng suy chung so lường

    Cũng lại chẳng biết được.

    Bậc Duyên-giác trí lành

    Vô lậu thân rốt sau

    Cũng đầy mười phương cõi

    Số đông như rừng tre,

    Hạng này chung một lòng

    Trong vô lượng ức kiếp

    Muốn xét Phật thật trí

    Chẳng biết được chút phần.

    Bồ-Tát mới phát tâm

    Cúng dường vô số Phật

    Rõ thấu các nghĩa thú

    Lại hay khéo nói pháp

    Như lúa, mè, tre, lau

    Đông đầy mười phương cõi

    Một lòng dùng trí mầu

    Trải số kiếp hằng sa

    Thảy đều chung suy lường

    Chẳng biết được trí Phật

    Hàng bất-thối Bồ-Tát

    Số đông như hằng sa

    Một lòng chung suy cầu

    Cũng lại chẳng hiểu được.

     

  9. Lại bảo Xá-Lợi-Phất

  10. Pháp nhiệm mầu rất sâu

    Vô lậu khó nghĩ bàn

    Nay ta đã được đủ

    Chỉ ta biết tướng đó

    Mười phương Phật cũng vậy,

    Xá-Lợi-Phất phải biết

    Lời Phật nói không khác

    Với Pháp của Phật nói

    Nên sinh sức tin chắc

    Pháp của Phật lâu sau

    Cần phải nói chân thật

    Bảo các chúng Thanh-văn

    Cùng người cầu Duyên-giác

    Ta khiến cho thoát khổ

    Đến chứng được Niết-bàn

    Phật dùng sức phương tiện

    Dạy cho ba thừa giáo

    Chúng sanh nơi nơi chấp

    Dắt đó khiến ra khỏi.

     

  11. Khi đó trong đại chúng có hàng Thanh-văn lậu tận A-la-hán, ngài A-Nhã Kiều-Trần-Như v.v... một nghìn hai trăm người và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam cùng cận-sự-nữ, hạng người phát tâm Thanh-văn, Duyên-giác đều nghĩ rằng : "Hôm nay đức Phật cớ chi lại ân cần ngợi khen phương tiện mà nói thế này : "Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh-văn cùng Duyên-giác không thể đến được."


  12. Đức Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó đến nơi Niết-bàn, mà nay chẳng rõ nghĩa đó về đâu?

     

  13. Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất biết lòng nghi của bốn chúng, chính mình cũng chưa rõ, liền bạch Phật rằng: ?Thưa Thế-Tôn! Nhân gì duyên gì mà Phật ân cần khen ngợi pháp phương-tiện thứ nhất nhiệm mầu rất sâu khó hiểu của các đức Phật? Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói điều đó, hôm nay bốn chúng thảy đều có lòng nghi. Cúi xin đức Thế-Tôn bày nói việc đó. Cớ gì mà đức Thế-Tôn ân cần khen ngợi pháp nhiệm mầu rất sâu khó hiểu? Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

  14. Đấng Huệ-Nhật Đại-thánh

  15. Lâu mới nói pháp này,

    Tự nói pháp mình chứng

    Lực, vô-úy, tam-muội,

    Thiền-định, giải-thoát thảy

    Đều chẳng nghĩ bàn được.

    Pháp chứng nơi đạo tràng

    Không ai hỏi đến được,

    Ý con khó lường được

    Cũng không ai hay hỏi.

    Không hỏi mà tự nói

    Khen ngợi đạo mình làm

    Các đức Phật chứng được

    Trí huệ rất nhiệm mầu.

    Hàng vô-lậu La-hán

    Cùng người cầu Niết-bàn

    Nay đều sa lưới nghi

    Phật cớ chi nói thế?

    Hạng người cầu Duyên-giác.

    Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni,

    Các trời, rồng, quỉ, thần

    Và Càn-thát-bà thảy

    Ngó nhau mang lòng nghi

    Nhìn trông đấng Túc-Tôn,

    Việc đó là thế nào

    Xin Phật vị dạy cho?

    Trong các chúng Thanh-văn

    Phật nói con hạng nhất

    Nay con nơi trí mình

    Nghi lầm không rõ được

    Vì là pháp rốt ráo

    Vì là đạo Phật làm

    Con từ miệng Phật sanh

    Chắp tay nhìn trông chờ

    Xin ban tiếng nhiệm mầu

    Liền vì nói như thực

    Các trời, rồng, thần thảy

    Số đông như hằng sa

    Bồ-Tát cầu thành Phật

    Số nhiều có tám muôn

    Lại những muôn ức nước

    Vua Chuyển-Luân-vương đến

    Đều lòng kính chắp tay

    Muốn nghe đạo đầy đủ.

     

  16. Khi đó đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: Thôi thôi! Chẳng nên nói nữa, nếu nói việc đó tất cả trong đời các trời và người đều sẽ kinh sợ nghi-ngờ."

  17. Ngài Xá-Lợi-Phất lại bạch Phật rằng: "Thưa Thế-Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Vì sao? Trong hội đây có vô số trăm nghìn muôn ức a-tăng-kỳ chúng-sinh đã từng gặp các đức Phật, các căn mạnh lẹ, trí huệ sáng suốt, được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin".


  18. Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

    Đấng Pháp-Vương vô thượng

    Xin nói chuyện đừng lo

    Vô lượng chúng hội đây

    Có người hay kính tin.

     

  19. Đức Phật lại ngăn Xá-Lợi-Phất : "Nếu nói việc đó thì tất cả trong đời, trời, người, A-tu-la đều sẽ nghi sợ, Tỳ-kheo tăng-thượng-mạn sẽ phải sa vào hầm lớn."


  20. Khi đó đức Thế-Tôn lại nói kệ rằng:

    Thôi thôi! Chẳng nên nói

    Pháp ta diệu khó nghĩ

    Những kẻ tăng-thượng-mạn

    Nghe ắt không kính tin.

     

  21. Lúc ấy ngài Xá-Lợi-Phất bạch Phật rằng : "Thưa Thế-Tôn ! Cúi xin Phật nói , cúi xin Phật nói. Nay trong hội này hạng người sánh bằng con có trăm nghìn muôn ức. Đời đời đã từng theo Phật học hỏi, những người như thế chắc hay kính tin lâu dài an ổn nhiều điều lợi ích.


  22. Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

    Đấng vô thượng Lưỡng-túc

    Xin nói pháp đệ nhất

    Con là trưởng tử Phật

    Xin thương phân biệt nói.

    Vô lượng chúng hội đây

    Hay kính tin pháp này

    Đời đời Phật đã từng

    Giáo hóa chúng như thế

    Đều một lòng chắp tay

    Muốn muốn nghe lãnh lời Phật.

    Chúng con nghìn hai trăm

    Cùng hạng cầu Phật nọ

    Nguyện Phật vì chúng này

    Cúi xin phân biệt nói

    Chúng đây nghe pháp ấy

    Thời sanh lòng vui mừng.

     

  23. Bấy giờ, đức Thế-Tôn bảo ngài Xá-Lợi-Phất : "Ông đã ân cần ba phen thưa thỉnh đâu được chẳng nói. Ông nay lóng nghe khéo suy nghĩ nhớ đó, ta sẽ vì ông phân biệt giải-nói."

  24. Khi đức Phật nói lời đó, trong hội có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, cả thẩy năm nghìn người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật mà lui về. Vì sao? Vì bọn người này gốc tội sâu nặng cùng tăng-thượng-mạng, chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà đã cho chứng, có lỗi dường ấy, cho nên không ở lại. Đức Thế-Tôn yên lặng không ngăn cản. 

  25. Bấy giờ, Đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất : "Trong chúng ta đây không còn cành lá, rặt có hạt chắc. Xá-Lợi-Phất! Những gã tăng-thượng-mạn như vậy lui về cũng là tốt. Ông nay nên khéo nghe, ta sẽ vì ông mà nói."


  26. Ngài Xá-Lợi-Phất bạch rằng : "Vâng thưa Thế-Tôn con nguyện ưa muốn nghe".

  27. Đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất : "Pháp mầu như thế, các đức Phật Như-Lai đến khi đúng thời mới nói, đó như hoa linh- thoại đến thời tiết mới hiện một lần. Xá-Lợi-Phất! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng.

  28. Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật theo thời nghi nói pháp y -thú khó hiểu. Vì sao? Ta dùng vô số phương tiện các món nhân duyên, lời lẽ thí dụ diễn nói các pháp.


  29. Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được đó. Vì sao? Các đức Phật Thế-Tôn, chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời.

    Xá-Lợi-Phất! Sao nói rằng các đức Phật Thế-Tôn chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra đời? Các đức Phật Thế-Tôn vì muốn cho chúng sanh khai tri kiến Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng-sanh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh chứng vào đạo tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời.

    Xá-Lợi-Phất! Đó là các đức Phật do vì một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời".

     

  30. Đức Phật bảo Xá-Lợi-Phất : "Các đức Phật Như-Lai chỉ giáo hóa Bồ-Tát, những điều làm ra thường vì một việc : chỉ đem tri kiến Phật chỉ cho chúng sanh tỏ ngộ thôi"


  31. Xá-Lợi-Phất! Đức Như-Lai chỉ dùng một Phật thừa mà vì chúng sanh nói pháp không có các thừa hoặc hai hoặc ba khác.

    Xá-Lợi-Phất! Pháp của tất cả các đức Phật ở mười phương cũng như thế.

    Xá-Lợi-Phất! Thuở quá khứ các đức Phật dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp. Vì pháp đó đều là một Phật thừa, nên các chúng sanh đó theo chư Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt-thiết chủng-trí."

    Xá-Lợi-Phất! Thuở vị lai, các đức Phật sẽ ra đời cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp, vì pháp ấy đều là một Phật thừa nên các chúng sanh đó theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt-thiết chủng-trí".

    Xá-Lợi-Phất! Hiện tại nay, trong vô lượng trăm nghìn muôn ức cõi Phật ở mười phương, các đức Phật Thế-Tôn nhiều điều lợi ích an vui cho chúng sanh. Các đức Phật đó cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân-duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp, vì pháp đó đều là một Phật thừa, các chúng sanh ấy theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng "nhứt-thiết chủng-trí".

    Xá-Lợi-Phất ! Các đức Phật đó chỉ giáo hóa Bồ-Tát, vì muốn đem tri kiến Phật mà chỉ cho chúng sanh, vì muốn đem tri kiến Phật cho chúng sanh tỏ ngộ, vì muốn làm cho chúng sanh chứng vào tri kiến Phật vậy.

    Xá-Lợi-Phất ! Nay ta cũng lại như thế, rõ biết các chúng sanh có những điều ưa muốn, thân tâm mê chấp, ta tùy theo bản tánh kia dùng các món nhân duyên lời lẽ thí dụ cùng sức phương tiện mà vì đó nói pháp.

    Xá-Lợi-Phất ! Như thế đều vì để chứng được một Phật thừa "nhứt-thiết chủng-trí."

     

  32.  (không thấy đoạn số 19 trong kinh)

  33. Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước ở mười phương còn không có hai thừa hà huống có ba!


  34. Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật hiện ra trong đời ác năm trược, nghĩa là: Kiếp trược, phiền-não- trược, chúng-sinh-trược, kiến-trược, mệnh-trược. Như thế, Xá-Lợi-Phất, lúc kiếp loạn trược chúng sinh nhơ nặng, bỏn sẻn, tham lam, ghét ganh, trọn nên các căn chẳng lành, cho nên các đức Phật dùng sức phương tiện, nơi một Phật thừa, phân biệt nói thành ba.

     

  35. Xá-Lợi-Phất! Nếu đệ tử ta tự cho mình là A-la-hán cùng Duyên-giác mà không nghe không biết việc của các đức Phật Như-Lai chỉ giáo hóa Bồ-Tát, người này chẳng phải là đệ tử Phật, chẳng phải A-la-hán, chẳng phải Duyên-giác.


  36. Lại-nữa, Xá-Lợi-Phất! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đó tự cho mình đã được A-la-hán, là thân rốt sau rốt ráo Niết-bàn, bèn chẳng lại chí quyết cầu đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Nên biết bọn đó là kẻ tăng-thượng-mạn. Vì sao? nếu có Tỳ-kheo thực chứng quả A-la-hán mà không tin pháp này, quyết không có lẽ ấy, trừ sau khi Phật diệt độ hiện tiền không Phật. Vì sao? Sau khi Phật diệt độ, những kinh như thế, người hay thọ trì đọc tụng hiểu nghĩa rất khó có được, nếu gặp đức Phật khác, ở trong pháp này bèn được hiểu rõ.

    Xá-Lợi-Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu thọ trì lời Phật dạy. Lời các đức Phật Như-Lai nói không hư vọng, không có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa thôi.

    Khi ấy đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

     

  37. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni


  38. Mang lòng tăng-thượng-mạng

    Cận-sự-nam ngã mạn

    Cận-sự-nữ chẳng tin,

    Hàng bốn chúng như thế

    Số kia có năm nghìn

    Chẳng tự thấy lỗi mình

    Nơi giới có thiếu sót

    Tiếc giữ tội quấy mình

    Trí nhỏ đó đã ra,

    Bọn cám tấm trong chúng

    Oai đức Phật phải đi,

    Gã đó kém phước đức

    Chẳng kham lãnh pháp này,

    Chúng nay không cành lá

    Chỉ có những hột chắc

     

  39. Xá-Lợi-Phất khéo nghe!

  40. Pháp của các Phật được

    Vô lượng sức phương tiện

    Mà vì chúng sanh nói.

    Tâm của chúng sanh nghĩ

    Các món đạo ra làm

    Bao nhiêu những tánh dục

    Nghiệp lành dữ đời trước

    Phật biết hết thế rồi

    Dùng các duyên thí dụ

    Lời lẽ sức phương tiện

    Khiến tất cả vui mừng.

    Hoặc là nói Thế kinh

    Cô khởi cùng Bổn-sự.

    Bổn-sanh, Vị-tằng-hữu

    Cũng nói những nhân duyên

    Thí dụ và Trùng tụng

    Luận nghị cộng chín kinh.

    Căn độn ưa pháp nhỏ.

    Tham chấp nơi sanh tử

    Nơi vô lượng đức Phật

    Chẳng tu đạo sâu mầu

    Bị các khổ não loạn

    Vì đó nói Niết-bàn.

    Ta bày phương tiện đó

    Khiến đều vào huệ Phật,

    Chưa từng nói các ông

    Sẽ được thành Phật đạo

    Sở dĩ chưa từng nói

    Vì giờ nói chưa đến,

    Nay chính là đến giờ

    Quyết định nói Đại-thừa.

     

  41. Chín bộ pháp của ta

  42. Thuận theo chúng sanh nói

    Vào Đại-thừa làm gốc

    Nên mới nói kinh này.

    Có Phật tử tâm tịnh

    Êm dịu cũng căn lợi,

    Nơi vô lượng các Phật

    Mà tu đạo sâu mầu,

    Vì hàng Phật tử này

    Nói kinh Đại-thừa đây.

    Ta ghi cho người đó

    Đời sau thành Phật đạo

    Bởi thâm tâm niệm Phật

    Tu trì tịnh giới vậy

    Hạng này nghe thành Phật

    Rất mừng đầy khắp mình,

    Phật biết tâm của kia.

    Nên vì nói Đại-thừa.

    Thanh-văn hoặc Bồ-Tát,

    Nghe ta nói pháp ra

    Nhẫn đến một bài kệ

    Đều thành Phật không nghi.

     

  43. Trong cõi Phật mười phương

  44. Chỉ có một thừa pháp

    Không hai cũng không ba

    Trừ Phật phương tiện nói

    Chỉ dùng danh tự giả

    Dẫn dắt các chúng sanh

    Vì nói trí huệ Phật.

    Các Phật ra nơi đời

    Chỉ một việc này thực

    Hai thứ chẳng phải chơn.

    Trọn chẳng đem tiểu thừa

    Mà tế độ chúng sanh,

    Phật tự trụ Đại-thừa

    Như pháp của mình được

    Định, huệ, lực trang nghiêm

    Dùng đây độ chúng sanh.

    Tự chứng đạo vô thượng

    Pháp bình-đẳng Đại-thừa

    Nếu dùng tiểu thừa độ

    Nhẫn đến nơi một người

    Thời ta đọa sân tham

    Việc ấy tất không được,

    Nếu người tin về Phật

    Như-Lai chẳng dối gạt

    Cũng không lòng tham ghen

    Dứt ác trong các pháp

    Nên Phật ở mười phương

    Mà riêng không chỗ sợ.

    Ta dùng tướng trang nghiêm

    Aùnh sáng soi trong đời

    Đấng vô lượng chúng trọng

    Vì nói thực tướng ấn

     

  45. Xá-Lợi-Phất! nên biết

  46. Ta vốn lập thệ nguyện

    Muốn cho tất cả chúng

    Bằng như ta không khác,

    Như ta xưa đã nguyện

    Nay đã đầy đủ rồi

    Độ tất cả chúng sanh

    Đều khiến vào Phật đạo

    Nếu ta gặp chúng sanh

    Dùng Phật đạo dạy cả

    Kẻ vô trí rối sai

    Mê lầm không nhận lời.

    Ta rõ chúng sanh đó

    Chưa từng tu cội lành

    Chấp chặt nơi ngũ dục

    Vì si ái sinh khổ,

    Bởi nhân duyên các dục.

    Sanh vào ba đường dữ

    Xoay lăn trong sáu nẻo

    Chịu đủ những khổ độc

    Thân mọn thọï bào thai

    Đời đời tăng trưởng luôn

    Người đức mỏng ít phước

    Các sự khổ bức ngặt

    Vào rừng rậm tà kiến

    Hoặc chấp có, chấp không

    Nương gá các chấp này

    Đầy đủ sáu mươi hai

    Chấp chặt pháp hư vọng

    Bền nhận không bỏ được

    Ngã mạn tự khoe cao

    Dua nịnh lòng không thực

    Trong nghìn muôn ức kiếp

    Chẳng nghe danh tự Phật

    Cũng chẳng nghe chánh pháp

    Người như thế khó độ.

     

  47. Cho nên Xá-Lợi-Phất!

  48. Ta vì bày phương tiện

    Nói các đạo dứt khổ

    Chỉ cho đó Niết-bàn

    Ta dầu nói Niết-bàn

    Cũng chẳng phải thật diệt,

    Các pháp từ bổn lai

    Tướng thường tự vắng lặng

    Phật tử hành đạo rồi

    Đời sau được thành Phật

    Ta có sức phương tiện

    Mở bày khắp ba thừa.

    Tất cả các Thế-Tôn

    Đều nói đạo nhất thừa

    Nay trong đại chúng này

    Đều nên trừ nghi lầm

    Lời Phật nói không khác

    Chỉ một, không hai thừa.

     

  49. Vô số kiếp đã qua

  50. Vô lượng Phật diệt độ

    Trăm nghìn muôn ức Phật

    Số nhiều không lường được.

    Các Thế-Tôn như thế

    Các món duyên thí dụ

    Vô số ức phương tiện

    Diễn nói các pháp tướng,

    Các đức Thế-Tôn đó

    Đều nói pháp nhất thừa

    Độ vô lượng chúng sanh

    Khiến vào nơi Phật đạo

    Lại các đại-Thánh-chúa

    Biết tất cả thế gian

    Trời người loài quần sanh

    Thâm tâm chỗ ưa muốn

    Bèn dùng phương tiện khác

    Giúp bày nghĩa đệ nhất.

     

  51. Nếu có loài chúng sanh

  52. Gặp các Phật quá khứ

    Hoặc nghe pháp bố thí

    Hoặc trì giới nhẫn nhục

    Tinh tấn, thiền, trí thảy

    Các món tu phước huệ,

    Những người như thế đó

    Đều đã thành Phật đạo

    Sau các Phật diệt độ

    Nếu người lòng lành dịu

    Các chúng sanh như thế

    Đều đã thành Phật đạo

     

  53. Các Phật diệt độ rồi

  54. Người cúng dườngxá-lợi

    Dựng muôn ức thứ tháp

    Vàng, bạc và pha-lê

    Xa-cừ cùng mã-não

    Ngọc mai khôi, lưu ly

    Thanh tịnh rộng nghiêm sức,

    Trau giồi nơi các tháp,

    Hoặc có dựng miếu đá

    Chiên-đàn và trầm-thủy

    Gỗ mật cùng gỗ khác

    Gạch ngói bùn đất thảy,

    Hoặc ở trong đồng trống

    Chứa đất thành miếu Phật

    Nhẫn đến đồng tử giỡn

    Nhóm cát thành tháp Phật,

    Những hạng người như thế

    Đều đã thành Phật đạo.

     

  55. Nếu như người vì Phật

  56. Xây dựng các hình-tượng

    Chạm trổ thành các tướng

    Đều đã thành Phật đạo.

    Hoặc dùng bảy báu làm

    Thau, đồng bạch, đồng đỏ

    Chất nhôm cùng chì kẽm

    Sắt, gỗ cùng với bùn

    Hoặc dùng keo, sơn, vải

    Nghiêm sức làm tượng Phật

    Những người như thế đó

    Đều đã thành Phật đạo

    Vẽ vời làm tượng Phật

    Trăm tướng phước trang nghiêm

    Tự làm hoặc bảo người

    Đều đã thành Phật đạo.

    Nhẫn đến đồng tử giỡn

    Hoặc cỏ cây và bút

    Hoặc lấy móng tay mình

    Mà vẽ làm tượng Phật

    Những hạng người như thế

    Lần lần chứa công-đức

    Đầy đủ tâm đại bi

    Đều đã thành Phật đạo

    Chỉ dạy các Bồ-Tát

    Độ thoát vô lượng chúng.

     

  57. Nếu người nơi tháp miếu

  58. Tượng báu và tượng vẽ

    Dùng hoa, hương, phan, lọng

    Lồng kính mà cúng dường

    Hoặc khiến người trổi nhạc

    Đánh trống, thổi sừng ốc

    Tiêu địch, cầm, không-hầu

    Tỳ-bà, chụp-chả đồng

    Các tiếng hay như thế

    Đem dùng cúng dường hết

    Hoặc người lòng vui mừng

    Ca ngâm khen đức Phật

    Nhẫn đến một tiếng nhỏ

    Đều đã thành Phật đạo

     

  59. Nếu người lòng tán loạn

  60. Nhẫn đến dùng một hoa

    Cúng dường nơi tượng vẽ

    Lần thấy các đức Phật

    Hoặc có người lễ lạy

    Hoặc lại chỉ chắp tay

    Nhẫn đến giơ một tay

    Hoặc lại hơi cúi đầu

    Dùng đây cúng dường tượng

    Lần thấy vô lượng Phật

    Tự thành đạo vô thượng

    Rộng độ chúng vô số

    Vào Vô dư Niết-bàn

    Như củi hết lửa tắt.

    Nếu người tâm tán loạn

    Bước vào trong tháp chùa

    Chỉ niệm Nam-mô Phật

    Đều đã thành Phật đạo

    Nơi các Phật quá khứ

    Tại thế, hoặc diệt độ,

    Có người nghe pháp này

    Đều đã thành Phật đạo

     

  61. Các Thế-Tôn vị lai

  62. Số nhiều không thể lường

    Các đức Như-Lai đó

    Cùng phương tiện nói pháp.

    Tất cả các Như-Lai

    Dùng vô lượng phương tiện

    Độ thoát các chúng sanh

    Vào trí vô lậu Phật,

    Nếu có người nghe pháp

    Không ai chẳng thành Phật.

    Các Phật vốn thệ nguyện

    Ta tu hành Phật đạo

    Khắp muốn cho chúng sanh

    Cũng đồng được đạo này.

    Các Phật đời vị lai

    Dầu nói trăm nghìn ức

    Vô số các pháp môn

    Kỳ thực vì nhất thừa.

    Các Phật Lưỡng-Túc-tôn

    Biết pháp thường không tánh

    Giống Phật theo duyên sanh

    Cho nên nói nhứt thừa.

    Pháp đó trụ ngôi pháp

    Tướng thế gian thường còn

    Nơi đạo tràng biết rồi

    Đức Phật phương tiện nói.

    Hiện tại mười phương Phật

    Của trời người cúng dường

    Số nhiều như hằng sa

    Hiện ra nơi thế gian

    Vì an ổn chúng sanh

    Cũng nói pháp như thế.

    Biết vắng bặt thứ nhứt

    Bởi dùng sức phương tiện

    Dầu bày các món đạo

    Kỳ thực vì Phật thừa

    Biết các hạnh chúng sanh

    Thâm tâm nó nghĩ nhớ

    Nghiệp quen từ quá khứ

    Tánh dục, sức tinh tấn

    Và các căn lợi độn

    Dùng các món nhân duyên

    Thí dụ cùng lời lẽ

    Tùy cơ phương tiện nói.

     

  63. Ta nay cũng như vậy

  64. Vì an ổn chúng sanh

    Dùng các món pháp môn

    Rao bày nơi Phật đạo

    Ta dùng sức trí huệ

    Rõ tính dục chúng sanh

    Phương tiện nói các pháp

    Đều khiến được vui mừng.

    Xá-Lợi-Phất nên biết!

    Ta dùng mắt Phật xem

    Thấy sáu đường chúng sanh

    Nghèo cùng không phước huệ

    Vào đường hiểm sanh tử

    Khổ nối luôn không dứt

    Sâu tham nơi ngũ dục

    Như trâu "mao" mến đuôi

    Do tham ái tự che

    Đui mù không thấy biết

    Chẳng cầu Phật thế lớn

    Cùng pháp dứt sự khổ

    Sâu vào các tà kiến

    Lấy khổ muốn bỏ khổ

    Phật vì chúng sanh này

    Mà sanh lòng đại bi

     

  65. Xưa, tu ngồi đạo tràng

  66. Xem cây cùng kinh hành

    Suy nghĩ việc như vầy:

    Trí huệ của ta được

    Vi diệu rất thứ nhứt

    Chúng sanh các căn chậm

    Tham vui si làm mù

    Các hạng người như thế

    Làm sao mà độ được?

    Bấy giờ các Phạm-vương

    Cùng các trời Đế-Thích

    Bốn Thiên-vương hộ đời

    Và trời Đại-Tự-Tại

    Cùng các thiên chúng khác

    Trăm nghìn ức quyến thuộc

    Chắp tay cung kính lễ

    Thỉnh ta chuyển pháp-luân.

    Ta liền tự suy nghĩ

    Nếu chỉ khen Phật thừa

    Chúng sanh chìm nơi khổ

    Không thể tin pháp đó

    Do phá pháp không tin

    Rớt trong ba đường dữ

    Ta thà không nói pháp

    Mau vào cõi Niết-bàn

    Liền nhớ Phật quá khứ

    Thực hành sức phương tiện

    Ta nay chứng được đạo

    Cũng nên nói ba thừa.

     

  67. Lúc ta nghĩ thế đó

  68. Mười phương Phật đều hiện

    Tiếng Phạm an-ủi ta

    Hay thay! đức Thích-Ca

    Bậc Đạo-Sư thứ nhứt

    Được pháp vô thượng ấy

    Tùy theo tất cả Phật

    Mà dùng sức phương tiện

    Chúng ta cũng đều được

    Pháp tối diệu thứ nhứt

    Vì các loại chúng sanh

    Phân biệt nói ba thừa.

    Trí kém ưa pháp nhỏ

    Chẳng tự tin thành Phật

    Cho nên dùng phương tiện

    Phân biệt nói các quả

    Dầu lại nói ba thừa

    Chỉ vì dạy Bồ-Tát.

     

  69. Xá-Lợi-Phất nên biết!

  70. Ta nghe các đức Phật

    Tiếng nhiệm mầu rất sạch

    Xưng: ?Nam-mô chư Phật!?

    Ta lại nghĩ thế này

    Ta ra đời trược ác

    Như các Phật đã nói

    Ta cũng thuận làm theo

    Suy nghĩ việc đó rồi

    Liền đến thành Ba-Nại.

    Các pháp tướng tịch diệt

    Không thể dùng lời bày

    Bèn dùng sức phương tiện

    Vì năm Tỳ-kheo nói.

    Đó gọi chuyển pháp luân

    Bèn có tiếng Niết-bàn

    Cùng với A-la-hán

    Tên pháp, tăng sai khác.

    Từ kiếp xa nhẫn lại

    Khen bày Pháp Niết-bàn

    Dứt hẳn khổ sống chết

    Ta thường nói như thế

     

  71. Xá-Lợi-Phất phải biết

  72. Ta thấy các Phật tử

    Chí quyết cầu Phật đạo

    Vô lượng nghìn muôn ức

    Đều dùng lòng cung kính

    Đồng đi đến chỗ Phật

    Từng đã theo các Phật

    Nghe nói pháp phương tiện

    Ta liền nghĩ thế này

    Sở dĩ Phật ra đời

    Để vì nói Phật huệ

    Nay chính đã đúng giờ.

     

  73. Xá-Lợi-Phất phải biết!

  74. Người căn chậm trí nhỏ

    Kẻ chấp tướng kiêu mạn

    Chẳng thể tin pháp này

    Nay ta vui vô-úy

    Ở trong hàng Bồ-Tát

    Chính bỏ ngay phương tiện

    Chỉ nói đạo vô thượng.

    Bồ-Tát nghe pháp đó

    Đều đã trừ lưới nghi

    Nghìn hai trăm La-hán

    Cũng đều sẽ thành Phật

    Như nghi thức nói pháp

    Của các Phật ba đời

    Ta nay cũng như vậy

    Nói pháp không phân biệt

    Các đức Phật ra đời

    Lâu xa khó gặp gỡ

    Chính sử hiện ra đời

    Nói pháp này khó hơn

    Vô lượng vô số kiếp

    Nghe pháp này cũng khó,

    Hay nghe được pháp này

    Người đó cũng lại khó

    Thí như hoa linh-thoại

    Tất cả đều ưa mến

    Ít có trong trời, người

    Lâu lâu một lần trổ.

     

  75. Người nghe pháp mừng khen

  76. Nhẫn đến nói một lời

    Thời là đã cúng dường

    Tất cả Phật ba đời

    Người đó rất ít có

    Hơn cả hoa Ưu-đàm.

    Các ông chớ có nghi

    Ta là vua các pháp

    Khắp bảo các đại chúng

    Chỉ dùng đạo nhứt thừa

    Dạy bảo các Bồ-Tát

    Không Thanh-văn đệ tử

     

  77. Xá-Lợi-Phất các ông!

    Thanh-văn và Bồ-Tát

    Phải biết pháp mầu này

    Bí yếu của các Phật

    Bởi đời ác năm trược

    Chỉ tham ưa các dục

    Những chúng sanh như thế

    Trọn không cầu Phật đạo

    Người ác đời sẽ tới

    Nghe Phật nói nhứt thừa

    Mê lầm không tin nhận

    Phá pháp đọa đường dữ

    Người tàm quí trong sạch

    Quyết chí cầu Phật đạo

    Nên vì bọn người ấy

    Rộng khen đạo nhất thừa.

    Xá-Lợi-Phất nên biết

    Pháp các Phật như thế

    Dùng muôn ức phương tiện

    Tùy thời nghi nói pháp

    Người chẳng học tập tu

    Không hiểu được pháp này

    Các ông đã biết rõ

    Phật là thầy trong đời

    Việc phương-tiện tùy nghi

    Không còn lại nghi lầm

    Lòng sinh rất vui mừng

    Tự biết sẽ thành Phật.

 

KINH DIỆU- PHÁP LIÊN- HOA
Quyển Thứ Nhất

--o0o--

 

Một sáng chiếu phương đông, thể diệu toàn bày, chẳng phải chỗ suy lường mà suy lường được, thầm hiểu ở trong lòng, phương tiện truyền bày một đạo nhả hương trời.

NAM-MÔ PHÁP-HOA HỘI-THƯỢNG PHẬT BỔ-TÁT (3 lần)

Thế-Tôn hiện điềm tốt, Di-Lặc nghi tướng lành, Văn-Thù vì chúng rộng phô bày: Phật xưa phóng hào-quang. Ba phen mời đấng Pháp Vương vì nói hương Diệu-Liên.

NAM-MÔ QUÁ-KHỨ NHẬT-NGUYỆT ĐĂNG-MINH PHẬT (3 lần)

 

THÍCH NGHĨA

(1) KINH: Pháp thường, mười phương ba đời các đức Phật đều nói như vậy. Nói đủ là "Khế Kinh" nghĩa là "pháp thường khế hiệp chân lý cùng khế hiệp căn cơ chúng sanh". DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA: Pháp mầu khó nghĩ lường, thắng hơn tất cả pháp. Kinh pháp nầy là bật nhất trong kinh pháp khác của Phật nói, dụ như hoa sen, vì hoa sen sánh với hoa khác có 5 điều đặc biệt:
Có hoa là có gương: nhân quả đồng thời.

  1. Mọc trong bùn lầy mà vẫn trong sạch thơm tho.

  2. Cọng hoa từ gốc tách riêng nhưng không chung cành với lá.

  3. Ong và bướm không bu đậu.

  4. Không bị người dùng làm trang điểm (xưa đàn bà Ấn-Độ quen dùng hoa kết thành tràng để đeo đội v.v...)

(2) Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni.

(3) Các điều vọng lầm hay làm lọt mất công đức lành.

(4) Tự mình đã được thoát khỏi khổ sinh tử luân hồi.

(5) BA CÕI: Cõi dục, cõi sắc, cõi vô-sắc.
(6) Từ quả A-na-hàm trở xuống chưa được giải thoát còn phải học tập nên gọi "HỮU-HỌC".Quả A-la-hán đã được giải thoát, về trong Tiểu-thừa-pháp, thì không còn phải học nữa nên gọi "VÔ-HỌC".

(7) Quả chứng của Phật.

(8) TỒNG TRÌ: Gồm nhiếp các Pháp.

(9) Tài biện luận ưa giảng nói pháp.

(10) Chỗ rốt ráo, trọn vẹn, nên xong hoàn toàn.

(11) Tên của vị vua 33 nước trời Đao-Lợi ở trên đỉnh núi Tu-Di.

(12) Ba thứ tiếng vang dội và 3 thứ rung động của hình sắc.

(13) (16) Các loài thần hầu hạ cõi Đao-Lợi.

(14) Thần phi-thiên: có phước như trời mà đức kém hơn trời.

(15) Chim cánh vàng (kim-sí-điểu)

(17) Thần rắn.

(18) 1) Trời; 2) Người; 3) A-tu-la; 4) Thú; 5) Quỉ; 6) Địa ngục.

(19) Phật là vua pháp (Pháp-vương). Bồ-Tát cũng như con của Phật nên là: Pháp-vương-tử.
(20) Người thọ tam quy ngũ-giới tu tại-gia gần gũi hộ thờ Tam-Bảo nên gọi cận-sự, đàn ông là Nam, đàn bà là nữ, ta quen gọi là "cư-sĩ".
(21) Vô số (một số lớn). Kiếp có: Tiểu-kiếp, trung-kiếp, đại-kiếp.Một tiểu-kiếp có 16.798.000 năm.Một trung-kiếp có 20 tiểu-kiếp.Một đại-kiếp có 4 trung-kiếp: Thành, Trụ, Hoại, Không.

(22) 1) Khổ-đế; 2) Tập-đế; 3) Diệt-đế; 4) Đạo-đế.
(23) 1) Vô-minh- 2) Hành- 3) Thức- 4) Danh sắc- 5) Lục nhập- 6) Xúc- 7) Thọ- 8) Aùi- 9) Thủ- 10) Hữu- 11) Sanh- 12) Lão-tử. Mười hai món này làm nhân duyên lẫn nhau.

(24) Cũng gọi là 6 độ: 1) Bố-thí-độ, 2) Trì-giới-độ, 3) Nhẫn-nhục-độ, 4) Tinh-tấn-độ, 5) Thiền-định-độ, 6) Trí-huệ- độ.
(25) Trí của Phật.
(26) 1) Đông-thắng-thần-châu. 2) Nam-thiệm-bộ-châu (quả địa-cầu), 3) Tây-ngưu-hóa-châu, 4) Bắc-câu-lô-châu.

(27) Thọ-ký:Trao cho lời ghi chắc về sau, bao nhiêu năm cõi nào sẽ thành Phật hiệu là v.v...

(28) Sông Hằng một con sông lớn xứ Ấn-Độ, trong sông và hai bờ có cát rất mịn, trong kinh thường dùng số cát ấy để chỉ một số đông nhiều.
(29) Ông thầy dắt dẫn.
(30) Thanh-văn thừa, Duyên-giác thừa, Phật-thừa.

(31) Phương chước hay phương pháp tiện lợi dễ dàng.
 
 

Sự tích tả

KINH PHÁP HOA

ÔNG NGHIÊM CUNG

Nước Tàu, triều nhà Trần niên hiệu Đại-Kiến năm đầu, ở xứ Dương-Châu có ông Nghiêm-Cung tả kinh Pháp-Hoa để phân phát cho người trì tụng.

Lúc đó có thần ở miếu Cung-Đình-Hồ mách mộng cho khách buôn đem hết của trong miếu đưa sang trao cho ông Cung để chi phí về việc tả kinh.

Lại một hôm ông Cung mang tiền ra phố mua giấy viết lỡ thiếu 3.000 đồng điếu, bỗng thấy từ trong chợ đi ra một người cầm 3.000 đồng điếu trao cho ông Cung mà nói: "Giúp ông mua giấy". Nói xong biến mất.

Rốt đời Tùy, giặc cướp đến Giang-Đô đều dặn nhau không nên phạm đến xóm của ông Nghiêm Pháp-Hoa (Nghiêm-Cung). Nhờ đó mà cả xóm an-lành.

Đến cuối đời Đường, nhà họ Nghiêm vẫn nối nhau tả kinh không thôi.

Vậy thì tả kinh, hay in kinh công đức lớn biết dường nào, không nói đến phước báu tốt đẹp ở nhiều đời sau, mà ngay trong hiện tại cũng không thể lường được, chẳng những là mình khỏi khổ ngay mà ngay mọi người ở gần cũng được nhờ, cả Thần Thánh cũng thường theo hộ trợ như truyện ông Nghiêm-Cung đây vậy.

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

Nhìn BÃƒÆ n Chạy Trở về với thiên nhiên y học của hanh dong voi tu ai va bi man phật tử trẻ nhận giải thưởng vì faux meat for very real seasons v Bốn Niệm Xứ truyê n ngă n 7 bước đến miền tuong phat hoang bang ngoc da duoc dat vang Thêm 願力的故事 放下凡夫心 故事 五痛五燒意思 妙蓮老和尚 that dạ chiec chan bong vọng ngo Không nên để công việc lấy đi can phai tu trong mua ban kinh doanh 波羅蜜心經全文 thuan 22 hoat Ão cuoi so Bệnh nhân huyết áp nên gần gũi Ënh and 四大皆空 chÙa chà ma văn cội Phật giáo lợi Nước tăng lực có thể gây ngộ độc Xá tội vong nhân tron cuoi va hanh phuc trong con loc khung hoang Mùa bo tat 20 chất