Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Cái gì đi tái sanh?
(Lý Vô Ngã)
"Không
là một, cũng không phải khác."
--
Thanh Tịnh Đạo
---o0o---
Ngoài
Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, là hai thành
phần cấu tạo chúng sanh, Phật Giáo không chấp nhận có
một linh hồn vĩnh cửu hay một bản ngã trường tồn mà con
người đã thọ lãnh một cách bí ẩn, từ một nguồn gốc cũng
không kém bí ẩn.
Một linh hồn mà trường cửu tất
nhiên phải bất biến, trước cũng như sau. Nếu linh hồn mà
người ta giả định là phần tinh túy của con người là trường
tồn vĩnh cửu thì linh hồn không thể tái sanh hay hoại diệt,
mà ta không thể giải thích vì sao "từ lúc sơ khởi, linh
hồn nầy lại khác biệt rất xa với linh hồn kia."
Để chứng minh rằng có những lạc
thú vô cùng tận trên một thiên đàng vĩnh cửu và cảnh
khổ đau vô cùng tận dưới một địa ngục trường tồn,
tức nhiên phải chủ trương có một linh hồn trường cửu.
Bertrand Russell viết :
"Ta phải nói rằng sự phân
biệt cũ kỹ giữa linh hồn và thể xác đã tiêu tan như mây
khói, bởi vì vật chất đã mất tính chất cứng rắn của
thể đặc mà tâm cũng mất tính chất tinh thần của nó. Tâm
lý học vừa bắt đầu trở thành một ngành khoa học. Trong tình
trạng hiện hữu của tâm lý học, sự tin tưởng nơi một cái
gì trường tồn vĩnh cửu không có cái nào đòi hỏi khoa
học tán trợ" [1].
Theo nhà học giả uyên bác, tác giả
quyển "The Riddle of the Universe":
"Biện chứng Thần Linh Học chủ
trương có một đấng Tạo Hóa thổi vào con người một linh
hồn bất diệt (thường được xem là một phần của Thần
Linh). Đó là một câu truyện thần thoại. Biện chứng Vũ
Trụ Luận cho rằng "trật tự luân lý của thế gian"
đòi hỏi phải có một linh hồn trường tồn bất diệt. Đó
là giáo điều vô căn cứ. Biện chứng Chung Quả Luận chủ
trương rằng do sự tiến triển không ngừng của con người
để cải thiện vận mạng mình, những khuyết điểm của
linh hồn phàm tục phải được cải tiến mãi mãi trong đời
sống và sau kiếp sống. Đó là một lối hiểu sai lầm của
thuyết sinh vật đồng nhân (anthropomorphism) cho rằng tất cả
những sinh vật đều có hành động và tư tưởng như người.
Theo biện chứng Đạo Đức Luận, những khuyết điểm và
những tham vọng chưa được thỏa mãn trong đời sống phải
được bổ khuyết và "đền bù một cách công bình và vĩnh
viễn" sau kiếp sống. Đó chỉ là một điều mong ước
cuồng nhiệt. Biện chứng Nhân Chủng Luận cho rằng sự tin tưởng
nơi tánh cách bất diệt của linh hồn cũng như sự tin tưởng
nơi một đấng Tạo Hóa là chân lý cố hữu trong toàn thế
nhân loại. Đó hiển nhiên là một sai lầm. Biện chứng Bản
Thể Luận chủ trương rằng linh hồn là một thực thể đơn
giản, vô hình, và bất khả phân, tất không thể bị liên
quan đến sự vong hoại do cái chết gây ra. Điều nầy căn
cứ trên quan niệm sai lạc về hiện tượng tâm linh. Đó là
ảo mộng của Duy thần luận. Tất cả những biện chứng
kể trên cũng như tất cả những giả thuyết tương tợ về
bản ngã đã lâm vào tình trạng nguy ngập trong vòng mười năm
nay và đã bị khoa học chỉ trích và bác bỏ hoàn toàn."
[2]
-- Nếu không
có chi dưới hình thức linh hồn, chuyển từ kiếp sống nầy
sang kiếp sống khác thì cái gì được tái sanh?
Hỏi như vậy đương nhiên là chấp
nhận có một cái gì tái sanh.
Cách đây vài thế kỷ có lập luận
"Cogito, ergo sum", "tôi tư tưởng, tức là có tôi".
Đúng như vậy. Tuy nhiên, trước tiên phải chứng minh rằng có
một cái "tôi", đang tư tưởng.
Chúng ta nói rằng mặt trời mọc ở
phương Đông và lặn ở phương Tây, mặc dầu ta biết rằng
thật sự không phải mặt trời mọc lên và lặn xuống mà chính
là quả địa cầu quay. Chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng ta
không thể gõ hai lần đúng y vào một chỗ, mặc dầu bề ngoài
là như vậy. Tất cả đều biến đổi rất nhanh chóng. Không
thể có hai khoảnh khắc giống hệt nhau.
Người Phật tử đồng ý với
Bertrand Russell khi ông nói:
"Hiển nhiên có vài lý do để
chủ trương rằng cái "Tôi" ngày hôm nay và cái "Tôi"
ngày hôm qua là một; và để lấy một thí dụ hiển nhiên hơn
nữa, nếu cùng một lúc, tôi thấy một người và nghe người
ấy nói ắt, có cảm giác rằng cái "Tôi" đang nghe và
cái "Tôi" thấy là một." [3]
Cho đến những ngày gần đây các
khoa học gia còn tìm nơi tính cách bất khả phân tán và bất
khả diệt của nguyên tử.
"Với đầy đủ lý lẽ, các nhà
vật lý học đã phân tán hạt nguyên tử ấy ra từng loạt
những thành phần nhỏ. Cũng vì những lý do không kém chánh
đáng, các nhà tâm lý khám phá rằng tâm không phải là một
thực thể đồng nhất với cái gì liên tục trường tồn mà
là một loạt những yếu tố kết hợp với nhau trong những
liên quan mật thiết nào. Do đó, vấn đề trường tồn bất
diệt trở thành câu hỏi rằng sau khi thể xác kia chết thì
những yếu tố của tâm và những yếu tố của thân có còn
tiếp tục liên quan mật thiết với nhau không?" [4]
Cũng như C. E. M. Joad viết trong
quyển "The Meaning of Life":
"Vật chất đã tan rã dưới chính
mắt chúng ta. Nó không còn ở thể đặc, không còn bền
vững trường tồn, không còn bị những định luật cưỡng
chế quy định, và quan trọng hơn tất cả, không còn được
biết là gì."
Vậy, hình như cái được gọi là
nguyên tử "có thể bị phân tán và có thể bị tiêu
diệt". Những điện tử và dương tử cấu thành một
nguyên tử "có thể gặp nhau và tiêu diệt lẫn nhau".
Trong lúc ấy, sự bền vững của hai thành phần điện tử và
dương tử, chỉ tựa hồ như sự vững bền của một lượn
sóng, không có giới hạn chắc chắn, và luôn luôn nằm trong
tiến trình biến đổi liên tục, cả hai đều thay đổi hình
thức và vị trí."
Theo Đức Giám Mục Berkeley, cái được
gọi nguyên tử là một giả tưởng của siêu hình học và Ngài
chủ trương có một thực chất tinh thần gọi là linh hồn.
Sau khi tìm hiểu cái hồn, Hume viết
như sau:
"Có vài triết gia tư tưởng
rằng trong mỗi chập tư tưởng chúng ta mật thiết ý thức cái
gọi là "Ta" và chúng ta cảm giác rằng cái
"Ta" có thật, và thật sự tồn tại. Các triết gia
ấy, ngoài sự hiển nhiên của mọi luận chứng, cũng quả
quyết rằng cái "Ta" hoàn toàn không biến đổi và không
thể phân chia.
"Riêng về phần tôi, khi xâm
nhập mật thiết vào cái mà tôi gọi là "Tôi" thì luôn
luôn tôi vấp phải một cảm giác đặc biệt như nóng hay
lạnh, sáng hay tối, thương hay ghét, vui hoặc buồn. Tôi chưa
từng bắt gặp cái "Tôi", ngoài những cảm giác ấy,
và chưa hề chiêm nghiệm được cái gì ngoài cảm giác
..." [5]
Bergson nói:
"Tất cả mọi tâm thức chỉ
tồn tại trong thời gian sinh hoạt và một trạng thái tâm,
nếu không biến đổi thì không còn là trạng thái nữa.
Trạng thái tâm là một sự biến đổi không ngừng. Nếu sự
biến đổi ngưng là trạng thái tâm cũng ngưng. Trạng thái tâm
chẳng qua là sự biến đổi."
Theo nhà tâm lý học trứ danh Watson:
"Chưa có ai từng sờ đụng một
linh hồn, hay nhìn thấy linh hồn trong một ống thí nghiệm,
hay bằng cách gì khác, để tiếp xúc với linh hồn, như đã
từng tiếp xúc với các vật khác trong phòng thí nghiệm. Tuy
nhiên, ngờ vực sự hiện hữu của linh hồn được coi là
phản tôn giáo và có thể bị rơi đầu. Cho đến ngày nay, người
có địa vị ưu tú cũng không dám nêu vấn đề ấy lên."
[6]
Đề cập đến vấn đề linh hồn,
Giáo sư James viết:
"Cho đến nay, để giải thích
những sự kiện thật sự có thể chứng minh được về kinh
nghiệm của thân thì thuyết linh hồn là hoàn toàn vô ích.
Cho đến nay không ai có thể bị cưỡng bách phải chấp
nhận thuyết ấy vì những lý do khoa học.
"Cái Ta (dùng như một túc từ) là
sự kếp hợp do kinh nghiệm, cấu tạo với sự vật đã được
biết một cách khách quan. Vậy cái Ta (thường dùng như một
chủ từ) biết được sự vật ấy không thể là một sự
kết hợp. Không thể dùng cái Ta ấy trong những nhu cầu tâm
lý và xem nó như một thựa thể siêu hình không biến đổi,
một linh hồn trường tồn bất biến.
Cũng như không thể xem nó như một
nguyên lý, một bản ngã siêu việt vượt ra ngoài thời gian.
Cái "Ta" chỉ là một tư tưởng biến đổi từng
chập. Không một tư tưởng nào giống chập tư tưởng trước
kế đó, nhưng luôn luôn thuận ưng theo chập tư tưởng trước
để cùng chung hợp lại thành một tư tưởng riêng biệt."
[7]
Và giáo sư James kết luận đoạn sách
thích thú về linh hồn như sau: "Chính cái tư tưởng là
người tư tưởng"
Và đó là dư âm của những lời mà
Đức Phật đã dạy từ hơn 2500 trước, trong vùng thung lũng
sông Hằng (Ganges).
Phật Giáo dạy một thứ tâm lý
học trong đó không có linh hồn. Phật Giáo chủ trương rằng
chúng ta là sự cấu hợp của hai thành phần Danh và Sắc (nama-rupa),
phần tâm linh và phần vật chất, và hai thành phần nầy ở
trong trạng thái luôn luôn biến đổi như một dòng suối trường
lưu bất tức.
Từ ngàn xưa, những nhà hiền triết
Ấn Độ cũng có tin một nguyên tử bất khả phân tán gọi là
Paramanu. Theo quan niệm thời bấy giờ, 36 Paramanu hợp thành
một Anu; 36 Anu hợp thành một Tajjari; 36 Tajjari hợp thành
một Ratharenu. Một hạt bụi rất nhỏ mà ta thấy vởn vơ
trong làn ánh sáng, gọi là Ratharenu. Vậy, nếu chia hột bụi
kia làm 46.656 phần thì Paramanu là một phần nhỏ ấy
(1/46.656).
Theo quan niệm thời bấy giờ thì
Paramanu là đơn vị vi tế nhất của vật chất, không thể phân
chia được nữa.
Với nhãn quang siêu phàm, Đức Phật
phân tách Paramanu và tuyên bố rằng Paramanu gồm có những năng
lực tương quan gọi là Paramattha, hay là thành phần chánh
yếu của vật chất .
Những Paramattha ấy là Đất (Pathavi),
Nước (Apo), Lửa (Tejo), và Gió (Vayo), gọi là Tứ Đại.
Đất (Pathavi) là thành phần có đặc
tính duỗi ra, thể chất của phần vật chất. Nếu không có
thành phần đất (Pathavi), thì một vật thể không thể
chiếm không gian. Hai tánh cách tương đối, cứng và mềm, là
điều kiện của thành phần ấy.
Nước (Apo) là thành phần có đặc tính
làm dính liền lại. Do ngũ quan, ta có thể tiếp xúc với thành
phần Đất (Pathavi), nhưng không thể dùng mắt, tai, mũi, lưỡi
và thân để tiếp xúc với thành phần Nước (Apo) trong vật
chất. Chính thành phần nầy làm cho những phân tử rời rạc
của vật thể dính liền lại và cho ta ý niệm hình thể. Khi
một vật ở thể đặc chảy ra thì thành phần Nước (Apo)
trong chất lỏng ấy trở nên trội hơn. Khi một vật ở thể
đặc bị phân tán thành bụi, trong mỗi hột bụi tí ti cũng
có chứa thành phần Nước. Hai Paramattha, Đất (Pathavi) và Nước
(Apo), trong vật chất liên quan với nhau thật là mật thiết.
Khi thành phần Nước (Apo), có đặc tánh làm dính liền, tiêu
tan, thì thành phần Đất (Pathavi), có đặc tính duỗi ra cũng
không còn.
Lửa (Tejo) là thành phần nóng trong
vật chất. Lạnh cũng là một hình thức của Lửa (Tejo). Cả
nóng lẫn lạnh đều nằm trong thành phần Lửa (Tejo) của
vật chất và cả hai đều có năng lực làm cho vật chất
trở nên chín mùi, hay nói cách khác tạo sinh lực cho vật
chất. Vật chất được tồn tại hay bị hư hoại đều do thành
phần Lửa. Trái với ba thành phần khác trong Tứ Đại, Lửa
(Tejo), cũng gọi là Utu, có năng lực làm cho vật chất tự mình
hồi sinh.
Gió (Vayo) là thành phần di động. Chính
thành phần Gió (Vayo) trong vật chất tạo nên sự vận
chuyển và được xem là năng lực làm phát sanh hơi nóng.
Sự di động và nhiệt lực trong
phạm vi vật chất cũng tương đương như tâm và nghiệp trong
phạm vi tinh thần.
Tứ Đại, Đất-Nước-Lửa-Gió, là
những đơn vị căn bản của vật chất, luôn luôn pha lẫn
với bốn chuyển hóa là màu sắc (vanna), hương (gandha), vị (rasa),
và bản chất dinh dưỡng (oja).
Tứ Đại và bốn chuyển hóa luôn luôn
dính liền nhau và liên quan với nhau rất mật thiết. Nhưng
trong một loại vật chất, thành phần nầy có thể trội hơn
thành phần khác. Thí dụ như trong đất, thành phần Đất (Pathavi)
trội hơn ba thành phần kia. Trong nước thì thành phần Nước
(Apo) trôi hơn. Trong lửa thì thành phần Lửa (Teio) và trong không
khí thì thành phần Gió (Vajo) trội hơn.
Như vậy, vật chất gồm có những năng
lực và những đặc tính trong trạng thái liên tục biến đổi,
luôn luôn trôi chảy như một dòng suối. Theo Phật Giáo vật
chất chỉ tồn tại trong thời gian bằng 17 lần một chập tư
tưởng.[8]
Tâm, thành phần quan trọng hơn trong
guồng máy phức tạp của con người gồm có 52 trạng thái tâm
(tâm sở) luôn luôn biến đổi. Thọ (vedana), hay cảm giác, là
một. Tưởng (sanna), hay tri giác, là một tâm sở khác. 50 tâm
sở còn lại gọi chung là Hành (samkhara), hay là những sinh
hoạt có tác ý của tâm. Trong 52 trạng thái tâm, hay tâmn sở,
tác ý (cetana), hay "ý muốn làm" là quan trọng nhất.
Tất cả tâm sở đều phát sanh trong thức (vinnana), hay Tâm.
Theo triết học Phật Giáo, không có
một khoảnh khắc nào mà tâm có thể trống rỗng, nghĩa là
không lúc nào không có một loại tâm duyên theo một đối tượng
vật chất hay tinh thần. Thời gian tồn tại của một loại tâm
như vật gọi là chập tư tưởng. Khi một chập tư tưởng
diệt, tức khắc có một chập mới phát sanh. Như vậy,
những chập tư tưởng liên tục nối tiếp, và thời gian
tồn tại của một chập tư tưởng thật ngắn, khó mà quan
niệm được.
Mỗi chập tư tưởng gồm ba giai đoạn
(khana): Sanh (uppada), Trụ (thiti), và Diệt (bhanga).
Ngay khi một tư tưởng vừa qua giai
đoạn diệt (bhanga), tức khắc giai đoạn sanh (uppada) của
chập tư tưởng kế khởi lên. Trong tiến trình luôn luôn
biến đổi của đời sống, mỗi chập tư tưởng khi diệt,
chuyển tất cả năng lực và tất cả những cảm giác thâu
nhận cho chập tư tưởng kế tiếp. Mỗi chập tư tưởng
mới gồm những tiềm năng do chập tư tưởng trước trao
lại và thêm vào đó còn có cài gì khác nữa. Như vậy có
sự luân lưu không ngừng của tâm. Luồng tâm như một dòng
suối luôn luôn trôi chảy. Chập tư tưởng mới không hoàn toàn
giống chập tư tưởng trước bởi vì thành phần cấu tạo
đã đổi mới, mà cũng không tuyệt đối là khác bởi vì
cả hai cùng nằm trong một luồng sống, một dòng đời. Không
có chúng sanh đồng nhất nhưng có sự đồng nhất trong tiến
trình đời sống của chúng sanh.
Không nên nhận định rằng tâm là
một chuỗi dài những chập tư tưởng riêng biệt, kế tiếp
nối liền với nhau, như một sợi dây xích, hay một đoàn
những toa xe lửa nối liền. Trái lại, "nó liên tục trôi
chảy như một dòng sông, luôn luôn tiếp nhận dồi dào
những thành phần mới, từ những chi lưu ngũ quan và luôn luôn
cung cấp cho thế gian chung quanh những tư tưởng mới thâu
nhập trên đường đời [9]".
Trong chuỗi dài những trạng thái tâm,
có sự kề nhau nối tiếp mà không có trạng thái chập
chồng cái nầy trên cái kia như có người lầm tưởng. Không
có chập tư tưởng đã qua mà còn trở lại. Không có chập tư
tưởng hoàn toàn giống hệt chập qua. Những trạng thái ấy
luôn luôn biến đổi, không thể tồn tại trong hai khoảnh
khắc kế tiếp. Hạng phàm nhân còn lúng túng trong ảo mộng,
lầm nhận sự liên tục giả mạo bên ngoài ấy là cái gì
vững bền, vĩnh viễn, không đổi thay, và còn đi xa đến đổi
đưa một linh hồn trường tồn bất biến (giả định là người
vừa hành động vừa quan sát hành động) vào trong cái tâm luôn
luôn biến đổi.
Bốn loại hiện tượng tâm linh,
hợp với một hiện tượng vật lý, tạo nên Ngũ Uẩn (pancakkhandha),
sự kết hợp vô cùng phức tạp của năm thành phần cấu
tạo một chúng sanh.
Mỗi cá nhân là sự phối hợp của
năm uẩn ấy.
Nhìn ra đại dương ta thấy một
biển nước bao la, những thành phần bé nhỏ trong biển cả là
sự kết hợp của nhiều giọt nước li ti. Trên bờ biển, cát
nhiều vô số kể, nhưng ta chỉ thấy một thảm cát trãi dài
trên bãi. Những lượn sóng kế tiếp nhô lên rồi tan ra trên
mặt cát, nhưng một cách chính xác, không có một lượn sóng
đồng nhất, bất biến, từ đáy sâu của biển cả nhô lên
để rồi tan mất sự đồng nhất ấy trên bãi cát.
Xem xi-nê, ta thấy cảnh vật di động
trên màn ảnh, nhưng thực ra chỉ có những hình ảnh riêng
biệt, liên tục tiếp diễn theo một tốc độ nào và cho ta
cảm giác đang nhìn một hoạt cảnh liên tục.
Ta không thể nói hương hoa tỏa ra
từ tai hoa, nhụy hoa, hay từ sắc màu của hoa, nhưng mùi thơm
là của hoa.
Cùng một thế ấy mỗi cá nhân là
sự kết hợp của năm uẩn.
Toàn thể tiến trình của những
hiện tượng tâm-vật-lý ấy luôn luôn trở thành rồi tan
biến, sanh rồi diệt. Đôi khi Đức Phật dùng danh từ thông
thường mà gọi tiến trình ấy là "Ta" hay atta. Tuy
nhiên, đó chỉ là một tiến trình luôn luôn biến đổi chớ
không phải là một thực thể trường tồn bất biến.
Phật Giáo không hoàn toàn phủ nhận
sự hiện hữu của một cá tính theo nghĩa thông thường của
nó. Phật Giáo chỉ phủ nhận - trong định nghĩa cùng tột (Paramatha
Saccena, Chân đế) - một chúng sanh bất biến, một thực thể
vĩnh cửu, chớ không phủ nhận có sự liên tục trong tiến
trình.
Danh từ triết học Phật Giáo gọi
một cá nhân là Santati, một sự trôi chảy, một triều lưu,
hay sự liên tục. Dòng triều lưu bất tức hay sự liên tục
không ngừng ấy của hiện tượng tâm-vật-lý - do nghiệp
lực tạo điều kiện - đã bắt nguồn từ quá khứ xa xôi mà
ta không thể quan niệm, và sẽ còn liên tục diễn tiến trong
tương lai vô tận, ngoại trừ trường hợp ta áp dụng Bát Chánh
Đạo một cách đầy đủ và đúng mức.
Chính dòng triều lưu liên tục của
hiện tượng tâm-vật-lý ất là cái mà các hệ thống tín ngưỡng
khác gọi là cái "Ta" vĩnh cửu hay cái "linh hồn"
trường tồn.
-- Nếu không
có linh hồn, coi như một thực thể đơn thuần, không biến
đổi, thì cái gì tái sanh?
Theo Phật Giáo, sanh là sự kết hợp
của những uẩn (khandas) hay nhóm, hợp thể (khandhanam patubhavo).
Cũng như sự tái sanh của một
trạng thái vật chất phải do trạng thái trước làm nguyên
nhân và tạo điều kiện, những hiện tượng tâm-vật-lý
nầy cũng phát hiện do những nguyên nhân từ trước khi sanh làm
điều kiện. Tiến trình biến đổi hiện tại là kết quả
của lòng khao khát ham muốn duyên theo sự biến đổi trong
một kiếp sống trước, và bản năng ham muốn tự nhiên trong
hiện tại sẽ tạo điều kiện cho sự tái sanh sắp đến.
Trong một kiếp sống, tiến trình của đời sống có thể
diễn tiến mà không cần có một thực thể trường tồn di
chuyển từ chập tư tưởng nầy sang chập tư tưởng kế, thì
một loạt tiến trình cũng có thể đặc tính mà không cần có
một cái gì khác chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác.
Thuyết tái sanh của Phật Giáo không
phải thuyết chuyển sinh linh hồn, hiểu như có sự di chuyển
của một linh hồn từ thân xác nầy đến cơ thể vật chất
khác. Trong sách vua Milinda Vấn Đạo (Milinda Panha) và Thanh
Tịnh Đạo (Visuddhi Magga), Đại Đức Nagasena và Đại Đức
Buddhagosa đã dùng nhiều truyện ngụ ngôn để giúp ta lãnh
hội dễ dàng định luật tái sanh của Phật Giáo.
Câu truyện mồi lửa rất là rõ ràng.
Đời sống xem như một ngọn lửa, và hiện tượng tái sanh
như sự mồi lửa từ cây đèn nầy sang cây đèn khác. Ngọn
lửa của đời sống liên tục tiếp diễn, mặc dầu có sự
gián đoạn bộc lộ ra bên ngoài mà ta gọi là cái chết.
Vua Milinda hỏi Đại Đức Nagasena:
"Kính bạch Đại Đức, phải chăng
có sự tái sanh mà không có gì chuyển sinh thân nầy đến xác
thân khác?"
- Đúng như vậy, sự tái sanh diễn
tiến không cần có cái gì chuyển sinh thân nầy đến thể xác
khác?"
- Xin Ngài ban cho một thí dụ.
- Tâu Đại Vương, thí dụ người
nọ dùng lửa của cây đèn nầy để mồi cây đèn kia. Có
phải ngọn lửa cây đèn nầy chuyển sang cây đèn kia không ?
- Kính bạch Ngài, không phải vậy.
- Đúng thế, tâu Đại Vương, tái
sanh diễn tiến không cần có sự di chuyển của một cái gì
từ nơi nầy đến nơi khác.
- Kính bạch Đại Đức, xin Ngài ban
cho một thí dụ khác.
- Tâu Đại Vương, Ngài còn nhớ không,
thửa nhỏ đi học, ông thầy dạy làm thơ đọc cho Ngài nghe
vài vần thơ để Ngài đọc theo đến thuộc lòng.
- Bạch Ngài, có như vậy.
- Vậy, tâu Đại Vương, có phải
lời thơ chuyển từ ông thầy sang trí nhớ của Đại Vương
không?
- Bạch Ngài, không.
- Cùng một thế ấy, tâu Đại Vương,
hiện tượng tái sanh diễn tiến mà không cần có cái gì
chuyển từ chổ nầy sang qua nơi khác.
Và Đức vua Milinda hỏi tiếp:
- Kính Bạch Đại Đức, vậy thì cái
gì tiếp nối từ kiếp nầy sang kiếp khác?
- Tâu Đại Vương, chính Danh và Sắc,
phần tâm linh và phần vật chất, cũng được sanh ra trong
kiếp sống kế.
- Có phải cũng tâm và thể xác trước
được di chuyển đến và sanh trở lại trong kiếp sống sau
không?
-Tâu Đại Vương, không phải chính tâm
và thể xác trong kiếp trước được được sanh trở lại
trong kiếp sống nầy. Tuy nhiên, Danh và Sắc ở kiếp trước
đã hành động, gây nhân , tạo nghiệp - thiện hay ác - và tùy
thuộc nơi nghiệp ấy, tâm và thể xác được sanh ra trong
kiếp nầy.
- Kính bạch Đại Đức, nếu không
phải chính tâm và thân trước được sanh trở lại trong
kiếp kế thì ta có thể tránh khỏi quả báo của những hành
động bất thiện không?
- Nếu không có sự tái sanh thì ta không
còn trả quả của những hành động bất thiện, nhưng tâu Đại
Vương, ta đã tái sanh trong một kiếp sống khác thì tức nhiên
phải còn chịu hậu quả của những hành động quá khứ.
- Kính thỉnh Đại Đức cho một thí
dụ.
- Tâu Đại Vương, cũng như người
nọ bẻ trái xoài của một người khác, bị chủ bắt, nạp
cho vua và thưa: "Tâu Đại Vương, người nầy đã lấy
của tôi một trái xoài", và người nọ trả lời: "Tâu
Đại Vương, tôi không có lấy trái xoài của ông ấy. Trái
xoài mà tôi bẻ không phải là trái mà ông ấy đã trồng ra
cây xoài. Như vậy tôi không đáng bị trừng phạt." Vậy,
Tâu Đại Vương, người lấy trái xoài có đáng bị phạt không?
- Kính bạch Đại Đức, dĩ nhiên người
ấy đáng tội.
-Vì lẽ gì?
- Bạch Ngài, dầu có viện lẽ nào
để chạy tôi, người ấy cũng đáng bị phạt vì trài xoài
mà người ấy bẻ là do xoài của ông kia trồng ra cây.
- Cùng một thế ấy, Tâu Đại Vương,
với tâm và thân nầy ta làm một điều gì - thiện hay ác - và
do hành động ấy, một tâm và thân khác được sanh ra trong
kiếp mới. Như ,vậy, ta không tránh khỏi sự ràng buộc của
nghiệp quá khứ. [10]
Đại Đức Buddhaghosa giải thích điểm
phức tạp nầy bằng những thí dụ như tiếng dội, ánh sáng,
con dấu và sự phản chiếu của mặt gương.
Một văn hào hiện đại cũng giải
thích tiến trình tử-sanh ấy bằng một loạt những quả bi
da. [11]
"Thí dụ như, nếu một quả bi
da lăn đến đụng một quả khác đang ở yên một chổ, thì
quả lăn tới ngưng lại và quả bị đụng lại lăn. Không
phải quả banh lăn chuyển sang quả banh bị đụng. Nó vẫn còn
nằm lại phía sau, nó chết. Nhưng ta không thể phủ nhận
rằng chính sự di chuyển của nó, sức xung kích của nó, cái
kết quả dĩ nhiên, hay cái nghiệp lực của quả banh trước
phát hiện trong quả banh kế, chớ không phải một chuyển động
mới khác được tạo ra."
Cùng một lối ấy - để dùng những
danh từ thông thường - xác thân chết, và nghiệp lực tái
sanh trong một cơ thể khác mà không cần có cái gì di chuyển
từ kiếp sống nầy sang kiếp khác. Chúng sanh mới được
sanh ra, không thể hoàn toàn là một, nhưng cũng không tuyệt
đối khác hẳn với chúng sanh vừa chết, bởi vì cả hai cùng
nằm trong một luồng nghiệp. chỉ có sự liên tục của dòng
đời, triền miên thay đổi, tiếp diễn trong một thể xác
mới, bất di bất dịch, chuyển sang từ thể xác nầy sang thân
khác.
Chú thích:
[1] Religion and Science, trang 132.
[2] Bertrand Russell, The Riddle of the
Universe, trang 166.
[3] Religion and Science, trang 132.
[4] Religion and Science, trang 166.
[5] William James, Principles of Psychology,
trang 351.
[6] Watson, Behaviourism, trang 4.
[7] Principles of Psychology, trang 215.
[8] Theo các nhà chú giải kinh điển,
nếu chia thời gian của một cái nhoáng ra làm một triệu
phần thì thời gian của một chập tư tưởng còn ngắn hơn là
một phần triệu của thời gian một cái nhoáng.
[9] Xem Compendium of Philosophy -
Introduction, trang 12.
[10] Xem Warren, Budhism in Translations,
trang 234-235.
[11] Xem sách "Buddha and the Gospel
of Budhism", trang 106, của tác giả Dr. Ananda Coomasvami.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com