Pali-Việt
đối chiếu
Lời
Giới Thiệu của Ban Tu Thư Như Lai Thiền Viện
Những
bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên
những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối
nguồn trí tuệ. Lời kinh là những tiếng sấm rền vang chấn
động tâm thức chúng sanh đang chới với giữa những làn
sóng ưu phiền trong biển sanh tử. Kinh nghiệm giác ngộ của
bậc toàn giác được trao truyền ròng rã trong suốt 45 năm
để lại một kho tàng tư tưởng giải thoát, một sự trưởng
thành tột cùng của trí thông minh và cảm thức con người.
Mỗi lần đọc kinh là mỗi lần cảm nhận được sức mạnh
của phước báu đã cho tâm thức bay lượn một khoảng không
gian khá rộng trong bầu trời siêu thoát mênh mông.
Tuy
nhiên đối với thiền sinh hay ít ra những ai đang hướng về
chân trời rực rỡ ánh hồng giải thoát, có thể nói Kinh
Ðại Niệm Xứ là bài kinh thỏa thích nhất hay đúng hơn là
bài kinh tối cần, gần gũi nhất. Tối cần như cốt tủy
và gần gũi như máu chảy khắp châu thân. Những lời kinh
như những lời thiên thu gọi hãy dũng mãnh lên đường hướng
về bến bờ giải thoát cho chính mình. Trong phần mở đầu,
Ðức Phật dạy:
"Này
chư tỳ kheo, đây là con đường độc nhất để đem lại
sự thanh bình cho chúng sanh, vượt thoát sầu não, diệt trừ
khổ ưu, thành tựu chánh trí và chứng ngộ Niết Bàn. Ðó
là Tứ Niệm Xứ".
Lời
dạy thật minh bạch, rõ ràng như bầu trời xanh trong muà hạ
trắng không một áng mây. Ðây là con đường và là con đường
độc nhất. Con đường an lạc ẩn dấu tự nghìn xưa này
đã được Ðức Phật phơi bày ra cho tất cả chúng sanh và
tồn tại qua bao tháng trầm của lịch sử nhân loại.
Phải
có phước báu lớn mới sinh vào thời kỳ Ðức Phật còn
hiện tiền để được tu tập dưới sự hướng dẫn của
Ngài hay để được Ngài diễn giải những lời kinh, nhiều
khi tưởng dễ lãnh hội nhưng đi sâu vào là cả một vấn
đề. Bao nhiêu thế hệ đã qua đi, và ngày nay chúng ta còn
may mắn sống trong ánh đạo vàng rạng ngời của Ðức Thế
Tôn. Ðể hiểu những lời kinh cho chính xác hầu tu tập, chúng
ta phải nương tựa vào các bậc chân tu thông hiểu giáo pháp
và đầy kinh nghiệm thực chứng để thấy rõ con đường
thanh bạch cao thượng. Những vị này thật quá hiếm hoi trong
thời đại văn minh cơ khí ngày nay, một thời đại mà khoa
học đã đạt đến đỉnh cao nhưng sự đau khổ trầm kha
vẫn triền miên không hề thuyên giảm.
Như
Lai Thiền Viện có duyên lành theo học với Ngài Hòa thượng
Thiền Sư U Silananda từ năm 1987. Ngài thọ giới Tỳ kheo hơn
năm mươi năm, hoàn mãn văn bằng Phật học cao cấp nhất
tại Miến Ðiện và đã từng dạy tại đại học ở đó.
Trong kỳ Kiết Tập Kinh Ðìển Phật Giáo lần thứ sáu tại
Miến Ðìện vào năm 1954, Ngài là vị lãnh đạo việc soạn
thảo tự điển Miến-Pali và cũng là trưởng ban kiết tập
Kinh Ðiển Pali, Chú Giải, và Phụ Chú Giải lúc Ngài mới
vừa 26 tuổi. Ngài là tác giả cuả nhiều sách viết bằng
tiếng Miến và tiếng Anh, trong đó có cuốn "The Four Foundations
of Mindfulness" (Tứ Niệm Xứ), một cuốn sách căn bản giảng
dạy đầy đủ về Thiền Tứ Niệm Xứ. Năm 1979, Ngài được
sư phụ là cố Ðại lão Hòa Thượng Thiền Sư Mahasi Sayadaw,
một thiền sư lỗi lạc bậc nhất tại Miến Ðiện, lựa
chọn đi hoằng pháp tại các nước ngoài, đặc biệt là Mỹ
Quốc.
Với
sứ mạng này, Ngài đã hướng dẫn Thiền Tứ Niệm Xứ hay
Thiền Quán và giảng dạy Vi Diệu Pháp, môn Phân Tâm Học
cao siêu của Phật Giáo, tại Hoa Kỳ, Nhật Bản, Âu Châu và
Tích Lan. Với kinh nghiệm thực chứng thâm sâu và kiến thức
bao la về Phật Pháp, Ngài giảng giải giáo lý, hướng dẫn
thiền tập một cách súc tích và rành mạch trong tinh thần
từ bi và độ lượng của một bậc thầy đáng kính. Thiền
viện được tăng trưởng dưới bóng mát từ bi và trí tuệ
của Ngài.
Một
trong những bài kinh được Ngài Thiến Sư giảng khá đầy
đủ chi tiết là bài Kinh Ðại Niệm Xứ. Những lời dạy
của Ðức Phật trong bài kinh này đã được Ngài dựa trên
Chú Giải, Phụ Chú Giải và kinh nghiệm thực chứng giải
thích một cách rõ ràng để thiền sinh thực hành. Ðây là
công trình giảng dạy và hướng dẫn tận tụy. Nhận thấy
tầm mức quan trọng của Kinh Ðại Niệm Xứ và sự giảng
giải công phu của Ngài Thiền Sư, một đệ tử của Ngài
đã cố gắng hiệu đính và cho in thành sách "The Four Foundations
of Mindfulness". Như Lai Thiền Viện tiếp nối truyền thống
cao đẹp này bằng cách thỉnh cầu Ðại Ðức Khánh Hỷ (Aggasami
Trần Minh Tài) phiên dịch sang tiếng Việt để phổ biến
cho Phật Tử Việt Nam. Dù đa đoan với nhiều Phật sự, nhưng
Ðại Ðức một lần nữa đã hoan hỉ nhận lời yêu cầu
của Như Lai Thiền Viện và đã hoàn tất công trình soạn
dịch một cách viên mãn.
Nay
bản dịch đã hoàn thành chu đáo, Như Lai Thiền Viện xin được
đa tạ Hòa Thượng Thiền Sư U Silananda và Ðại Ðức Khánh
Hỷ đã cho thiền viện được đặc ân ấn tống bản dịch
sách giải thích Kinh Ðại Niệm Xứ. Như Lai Thiền Viện rất
lấy làm vinh dự được giới thiệu sách dịch đến quí thiền
sinh và Phật tử. Mong rằng quí vị sẽ tìm được nơi sách
những ánh sáng soi tỏ con đường tu chứng. Hãy là những
người lữ hành đơn độc tinh tấn bước đi trên con đường
độc nhất để khỏi uổng phi kiếp người quý báu hi hữu
có được trong dòng thời gian dài lê thê của kiếp luân hồi.
Với tâm nguyện lấy trí tuệ làm sự nghiệp, Thiền Viện
cầu mong quý vị đến được chân trời thênh thang đầy hoa
thơm và cỏ lạ và ghi dấu tâm chứng trên dòng hiện sinh.
Hiền
nhân thỏa thích nghe lời Phật,
An
trong Pháp Bảo những giấc say.
Ban
Tu Thư
Như
Lai Thiền Viện
Vài
Lời Của Người Soạn Dịch
Nhận
thấy Kinh Ðại Niệm Xứ là một kinh rất quan trọng đối
với những người hành thiền; nếu không hiểu rõ kinh này
lại không được thiền sư hướng dẫn trực tiếp thì sẽ
thực hành sai lầm và việc hành thiền sẽ không gặt hái
kết qủa tốt đẹp. Từ khi chuyên tâm hành Thiền, chúng tôi
có ý muốn dịch và soạn thảo một tài liệu thật đầy
đủ về lý thuyết cũng như thực hành Tứ Niệm Xứ, tức
Thiền Minh Sát, để giúp đỡ những Phật tử muốn thực
hành đạo giải thoát. Trong khi chưa có tài liệu thuận duyên
để soạn thảo thì may thay, vào năm 1983, chúng tôi được
tham dự một khóa thiền tại Lafayette, California dưới sự
hướng dẫn của Hòa Thượng Thiền Sư Silananda. Trong khoá
thiền này, Thiền sư đã dành trọn mười buổi pháp thoại
để giảng giải Kinh Ðại Niệm Xứ. Hòa Thượng Thiền Sư
trong khi diễn giảng đã căn cứ vào Chú Giải, Phụ Chú Giải,
và chú giải của Hòa Thượng Thiền Sư Mahasi (một vị Tam
tạng pháp sư, hội chủ Ðại hội Kết tập Tam Tạng lần
thứ sáu). Là một học giả thâm cứu Phật Pháp, một Thiền
sư kinh nghiệm thực chứng, có tinh thần của một luật gia,
một sử gia, nên Hòa Thượng Silananda đã giảng giải Kinh
Ðại Niệm Xứ môt cách khúc chiết, rõ ràng, hợp theo nguyên
tắc luận lý và khoa học, không chủ quan, thiếu căn cứ...
Ðọc
Kinh Ðại Niệm Xứ do Hòa Thượng Silãnanda giảng giải chúng
ta sẽ hiểu rõ ràng những lời dạy thực hành của Ðức
Phật. Các bạn sẽ tìm thấy ở đây những lời giảng giải
chính xác, rõ ràng theo đúng kinh đìển nguyên thủy, nghĩa
là vào thời kỳ mà Phật giáo chưa chia thành bộ phái, chưa
bị người sau, vì lý do này hay lý do khác, thêm vào. Ðây
là một bản Kinh nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất mà
các nhà nghiên cứu Phật học khách quan đều thừa nhận.
Trong cuốn sách này nhiều điểm được giải thích rõ để
tránh thực hành sai lầm. Chẳng hạn như trong phần niệm hơi
thở các điểm sau đây được sáng tỏ:
1)
Chánh niệm Tỳ khưu thở vào, chánh niệm Tỳ khưu thở ra.
Câu
này giảng giải cách hành thiền. Khi hành thiền bạn giữ
tâm trên hơi thở vào và hơi thở ra. Thực ra, bạn để tâm
ở cửa mũi và quan sát hơi thở "vào ra", "vào ra"... Tâm phải
đặt ở cửa mũi trong khi theo dõi hơi thở vào và ra. Nghĩa
là không cố ý theo hơi thở và tưởng tượng hơi thở đang
đi vào trong cơ thể hay nghĩ rằng hơi thở giai đoạn đầu
ở mũi, giai đoạn hai ở tim và giai đoạn ba ở rốn như nhiều
người đã dạy và thực hành. (Thanh Tịnh Ðạo có nói rõ
là thiền sinh sẽ bị loạn tâm ở ba giai đoạn mũi, tim và
rốn. Phải để tâm ở cửa mũi như người gác cửa quan sát
kẻ ra người vào, hoặc như người thợ mộc khi cưa một
khúc gỗ thì phải chú tâm vào nơi lưỡi cưa tiếp xúc với
gỗ chứ không theo dõi lưỡi cưa chạy tới chạy lui).
2)
Thở vào một hơi dài, Tỳ khưu biết: "tôi đang thở vào dài";
thở ra một hơi dài, Tỳ khưu biết: "tôi đang thở ra dài".
Trong
suốt thời gian quán sát hơi thở; đôi lúc thiền sinh bỗng
nhiên thở một hơi dài, thiền sinh phải nhận biết "tôi đang
thở một hơi dài". Ðìều này không có nghĩa là thiền sinh
phải cố ý thở ra một hơi dài để biết rằng mình đang
thở một hơi dài. Chữ "biết" ở đây, có nghĩa là biết
một cách trọn vẹn chứ không phải chỉ biết hời hợt bề
mặt.
3)
"Nhận thức rõ toàn thể hơi thở vào (khởi đầu, kéo dài
và chấm dứt), tôi sẽ thở vào", tỳ khưu tinh tấn như vậy
(nghĩa là thầy Tỳ khưu tự huấn luyện như vậy). "Nhận
thức rõ toàn thể hơi thở ra (khởi đầu, kéo dài và chấm
dứt), tôi sẽ thở ra", tỳ khưu tinh tấn như vậy.
(Nhiều
bản dịch là: "cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra" và giải
thích rằng hãy cảm giác toàn thân rồi mới thở ra)
Khi
quan sát hơi thở bạn phải cố gắng để thấy rõ ràng toàn
thể hơi thở. Nhận thức rõ có nghĩa là biết được hơi
thở, biết trọn vẹn, cố gắng ý thức được hơi thở một
cách sắc bén. Nhóm chữ toàn thể hơi thở tiếng Paali là
"Sabbakaaya" (sabba: là toàn thể, kaaya là cơ thể hay thân, hay
một nhóm). Nhưng Kaaya (cơ thể) ở đây không có nghĩa là
cơ thể hay thân của thiền sinh mà là thân hơi thở. Do đó,
Sabbakaaya ở đây không có nghĩa là "toàn thể cơ thể vật
chất" mà là "toàn thể hơi thở", và "toàn thể" ở đây có
nghĩa là sự khởi đầu, kéo dài và chấm dứt. Bởi vậy,
thiền sinh phải cố gắng ý thức trọn vẹn sự khởi đầu,
kéo dài và chấm dứt của hơi thở. Bạn cũng phải nên nhớ
rằng đây là mục nói về "quán sát hơi thở", bởi vậy đề
mục hành thiền ở đây phải là hơi thở mà không phải là
toàn thể cơ thể vật chất. Sách Thanh Tịnh Ðạo đã giải
thích như sau:
- Thầy
Tỳ kheo luyện tập như sau: "Tôi biết rõ, biết trọn vẹn
toàn thể, đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối (khởi
đầu, kéo dài và chấm dứt) của hơi thở tôi sẽ thở vào.
Tôi biết rõ, biết trọn vẹn toàn thể, đoạn đầu, đoạn
giữa và đoạn cuối của hơi thở ra tôi sẽ thở ra". Thầy
tỳ khưu luyện tập như vậy. Bằng cách này, thầy tỳ khưu
biết rõ, biết trọn vẹn hơi thở, thầy tỳ khưu thở vào
và thở ra với tâm có trí tuệ.
4)
An tịnh hơi thở vào (còn thô tháo) (nhân duyên bởi thân),
tôi sẽ thở vào, tỳ khưu tinh tấn như vậy. An tịnh hơi
thở ra (còn thô tháo) (nhân duyên bởi thân), tôi sẽ thở
ra, tỳ khưu tinh tấn như vậy.
Theo
Chú giải, câu này có nghĩa:
"Khi
hơi thở vào trở nên an tịnh, vi tế khó thấy, khó ghi nhận;
thầy tỳ khưu phải cố gắng chú tâm và tinh tấn nhiều hơn
để thấy rõ. Khi hơi thở ra trở nên an tịnh, vi tế khó
thấy, khó ghi nhận; thầy tỳ khưu phải cố gắng chú tâmvà
tinh tấn nhiều hơn để thấy rõ."
Nhiều
người giải thích là thiền sinh phải làm cho tâm mình an tịnh
hay chú tâm đến sự an tịnh của thân rồi thở ra. Ðây là
mợt lối giải thích không đúng theo tinh thần kinh Ðại Niệm
Xứ. Vì khi thực hành Tứ Niệm Xứ thì phải quán sát, theo
dõi chứ không tạo ra hay đặt định một điều gì cả.
Chữ
"thân hành" (Kaaya-sa.nkhaara) ở đây có nghĩa là hơi thở nhân
duyên bởi thân. Ở đây danh từ Kaaya-sa.nkhaara hàm nghĩa là
hơi thở. Hơi thở ở đây được xem là hơi thở "thô tháo"
bởi vì nó cần được "làm cho an tịnh".
Câu
"An tịnh hơi thở" không có nghĩa là thiền sinh phải cố ý
làm cho hơi thở an lạc, an trú, tĩnh lặng mà có nghiã là
khi hơi thở trở nên vi tế thiền sinh phải cố gắng chú
tâm và tinh tấn nhiều hơn để thấy rõ. Ðối với các đề
mục thiền khác, khi thiền sinh càng định tâm và hiểu rõ
đề mục thì đề mục càng rõ ràng (Như đề mục thiền
định, chú tâm vào cái đĩa bằng đất chẳng hạn, khi càng
chú tâm thì đề mục càng rõ ràng). Ðối với đề mục hơi
thở thì trái lại, càng tiến bộ thì đề mục càng vi tế
hơn.
Hơi
thở tùy thuộc vào thân và tâm; do đó lúc không hành thiền,
nếu thân và tâm không an tịnh thì hơi thở sẽ trở nên thô
tháo. Khi bạn chuyên tâm hành thiền, thân tâm trở nên an tịnh,
tĩnh lặng, lúc ấy hơi thở trở nên vi tế khó nhận thấy.
Vào lúc nảy, phải nỗ lực chú tâm vào đề mục hành thiền
hơn nữa để nhìn thấy hơi thở vi tế này. Khi bạn hành
thiền với nỗ lực tinh tấn và đạt thêm nhiều hiểu biết
thì bạn sẽ thấy rõ hơi thở dù chúng nhỏ nhặt đến đâu.
Trong
lúc hành thiền, khi hơi thở trở nên quá vi tế không thể
nhận ra được thì bạn cũng đùng vội vã bỏ thiền. Bạn
phải tự khích lệ và tinh tấn để quán sát hơi thở nhỏ
nhặt vi tế ấy cho đến khi hơi thở rõ ràng trở lại. Ðó
là ý nghĩa của câu: "An tịnh hơi thở" hay "Tinh tấn chú tâm
vào hơi thở (khi hơi thở trở nên) vi tế khi thở vào".
5)
"Quán sát thân trong nội thân, quán sát thân trong ngoại thân
hay tỳ khưu quán sát thân trong nội thân và ngoại thân."
Quán
sát thân trong nội thân có nghĩa là thiền sinh quán sát hay
ghi nhận hơi thở vào và hơi thở ra của mình.
Khi
thiền sinh đã đạt được một số tiến bộ trong việc chú
tâm vào hơi thở của chính mình, bỗng nhiên thiền sinh nghĩ
đến hơi thở của người khác và tự nhủ: "Hơi thở của
ta có điểm khởi đầu và điểm chấm dứt, sinh và diệt,
thì hơi thở cuả người khác cũng vậy". Ðó là thiền sinh
đã "Quán sát thân trong ngoại thân".
Câu
"Quán sát thân trong ngoại thân" chỉ có nghĩa là trong khi quán
sát hơi thở mình bỗng nhiên "nghĩ" đến hơi thở của người
khác chứ không có nghĩa là "nhìn" vào người khác và quán
sát hơi thở của họ. Tuy nhiên khi bỗng nhiên quán sát hơi
thở của người khác thì bạn cũng phải chánh niệm nữa.
Ðôi
khi bạn quán sát hơi thở của chính mình rồi bỗng nhiên
lại "nghĩ" đến hơi thở của người khác, xong lại trở
về với hơi thở của mình, tiếp đó lại nghĩ đến hơi
thở của người khác... Ði đi lại lại giữa hơi thở của
mình và hơi thở cuả người khác đó là: Quán sát thân trong
nội thân và thân trong ngoại thân. Câu này không có nghĩa
là phải quán sát hơi thở của chính mình và hơi thở của
người khác. Trong khi hành thiền bạn chỉ chú tâm quán sát
hơi thở của chính bạn mà thôi.
-oOo-
Trên
đây chúng tôi nói đến một số điểm căn bản về phần
niệm hơi thở. Ðọc hết cuốn sách các bạn sẽ hiểu rõ
kinh Ðại Niệm Xứ hơn để thực hành một cách tốt đẹp
hơn. Bản soạn dịch Kinh Ðại Niệm Xứ này, phần lớn dựa
vào cuốn "The Four Foundation of Mindfulness", ghi lại những bài
giảng của Hoà Thượng Thiền Sư Silànanda về Kinh Ðại Niệm
Xứ. Rất tiếc là cuốn sách trên không được nhuận sắc
kỹ càng nên có nhiều thiếu sót và sai lầm. Rất may là trong
khi soạn dịch cuốn này chúng tôi có dịp gần gũi với Hòa
Thượng Tác giả, nên được Hòa Thượng giảng giải và chỉ
dẫn thêm những phần lầm lẫn và thiếu sót. Bản soạn dịch
này cũng được bổ túc thêm bằng những chi tiết rút ra từ
những bài giảng về Kinh Ðại Niệm Xứ đã được Hòa Thượng
giảng dạy tại Như Lai Thiền Viện, San Jose, California; tại
chùa Từ Quang, San Francisco, California; và tại Bát Nhã Thiền
Viện, Montréal, Canada. Tất cả những phần thêm vào, sửa
chữa cũng như sự sắp xếp thứ tự các đoạn văn đều
được chúng tôi trình bày và nhận ý kiến của Hòa Thượng.
Ðể
độc giả có dịp làm quen với tiếng Paa.li, ngôn ngữ chính
trong các kinh điển Phật Giáo, nên trong phần Paa.li -Việt
đối chiếu, những từ Paa.li được giải thích rộng hơn
và bổ túc thêm một số từ thông dụng.
Chúng
tôi xin thành thật cám ơn quí vị đã bỏ công sức vào việc
hoàn thành bản soạn dịch Kinh Ðại Niệm Xứ này; xin chia
đều phước báu pháp thí cao quí này đến tất cả quí vị.
Trước
hết, chúng tôi xin thành thật tri ân Hòa Thượng Thiền Sư
Silananda đã giảng giải cặn kẽ cho chúng tôi những phần
thiếu sót và lầm lẫn trong bản tiếng Anh. Tiếp đến, Hòa
Thượng Thiền Sư Kim Triệu đã hiệu đính, cho nhiều ý kiến
về việc thực hành và chỉ cho chúng tôi biết những sai lầm
mà các người dịch và dẫn giải kinh Ðại Niệm Xứ trước
đây đã gặp phải. Ðại Ðức Ngộ Không đã chép tay phần
lớn bản thảo. Ðạo Hữu Phạm Phú Luyện đã bỏ ra nhiều
ngày cùng chúng tôi duyệt lại nhiều lần toàn bản soạn
dịch. Cô Bội Khanh là người đã xem xét lại toàn bản soạn
dịch nhất là những phần chính tả từ khi bản soạn dịch
mới thành hình. Cô Tịnh Nguyên, Chị Du giúp chép tay và sửa
lỗi chính tả một số chương. Ðạo hữu Từ Sơn đã giúp
đỡ phần kỹ thuật Computer, trình bày sách và phụ dịch
phần Paa.li-Việt đối chiếu. Sư cô Candobhasi Huệ Minh và
Ðạo hữu Diệu Thu giúp đánh máy và giảng nghĩa một số
từ Anh Ngữ. Ðạo hữu Trần Minh Lợi và Trương Ðiền đã
giúp vé máy bay và phương tiện chuyên chở cùng các chi phí
khác trong những lần chúng tôi về Như Lai Thiền Viện để
hoàn thành cuốn Kinh Ðại Niệm Xứ này. Và rất nhiều vị
đã đóng góp ý kiến, khuyến khích, giúp đỡ, hối thúc và
ủng hộ tịnh tài để cuốn Kinh Ðại Niệm Xứ, sau chín
năm dài cưu mang (kể từ khi hai đạo hữu Khoát-Thúy gửi
sang Mã Lai tặng chúng tôi cuốn "The Four Foundations of Mindfulness"),
nay ra mắt độc giả.
Mặc
dầu đã hết sức cố gắng, nhưng vì bận tu học và nhiều
công tác Phật sự nên chúng tôi không có đủ thì giờ để
sửa chữa thật chu đáo, do đó bản soạn dịch này chắc
chắn còn nhiều đìểm không vừa ý độc giả. Chúng tôi
thành thật xin các bậc Trưởng Thượng hoan hỉ chỉ điểm
cho những chỗ sai lầm và rất hân hoan đón nhận những ý
kiến xây dựng của các bạn Phật Tử bốn phương để lần
tái bản được hoàn hảo hơn.
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Như
Lai Thiền Viện
Ngày
Tám Tháng Tư Năm 1999
Tỳ
Kheo Khánh Hỷ
(Aggasami
Trần Minh Tài)
Như
Lai Thiền Viện ấn tống, 1999
Như
Lai Thiền Viện - Tathagata Meditation Center
1215
Lucretia Avenue
San
Jose. CA 95122
U.S.A.
Ðiện
thoại: + (408) 294 4536
Trang
Web: http://www.tathagata.org/