|
.
ÐẠI NIỆM
XỨ
Thiền
sư U Silananda - Tỳ kheo Khánh Hỷ dịch Việt
Như
Lai Thiền Viện, San Jose, Hoa Kỳ 1999
|
|
[02]
Quán
Sát Thọ Trong Thọ
Chúng
ta có nhiều loại cảm thọ: Lạc thọ, khổ thọ và vô ký
thọ. Cảm thọ ở đây phải được hiểu là cảm thọ về
tâm. Khi đau bạn cảm thấy đau, và tâm cảm thọ này tiếng
Paa.li gọi là "vedanaa". Mỗi khi nói đến vedanaa bạn phải
hiểu đó là lạc thọ, khổ thọ và vô ký thọ. Thiền sinh
quán sát hay ghi nhận sự khổ, sự lạc hay sự vô ký của
cảm giác là hành thiền quán sát cảm thọ.
Ðức
Phật dạy:
Và
này các thầy tỳ khưu, thầy tỳ khưu quán sát thọ trong thọ
như thế nào?
Ở
đây, này các thầy tỳ khưu, khi có lạc thọ, thầy tỳ khưu
biết: "Tôi có lạc thọ". Khi có khổ thọ, thầy tỳ khưu
biết: "Tôi có khổ thọ". Khi có vô ký thọ (cảm thọ không
khổ không lạc), thầy tỳ khưu biết: "Tôi có vô ký thọ".
Khi có thế tục lạc thọ, thầy tỳ khưu biết: "Tôi có thế
tục lạc thọ". Khi có phi thế tục lạc thọ, thầy tỳ khưu
biết: "Tôi có phi thế tục lạc thọ". Khi có thế tục khổ
thọ, thầy tỳ khưu biết: "Tôi có thế tục khổ thọ". Khi
có phi thế tục khổ thọ, thầy tỳ khưu biết: "Tôi có phi
thế tục khổ thọ". Khi có thế tục vô ký thọ, thầy tỳ
khưu biết: "Tôi có thế tục vô ký thọ". Khi có phi thế tục
vô ký thọ, thầy tỳ khưu biết: "Tôi có phi thế tục vô
ký thọ".
Cảm
thọ nào khởi sinh thiền sinh cũng đều phải ghi nhận và
quán sát. Ðó là lời giới thiệu của Ðức Phật về việc
hành Thiền Minh Sát. Khi bạn có cảm giác đau nhức hay tê
cứng trên cơ thể thì bạn phải chú tâm vào nơi có sự đau
và ghi nhận sự đau nhức hay tê cứng này bằng cách niệm
thầm: "đau, đau, đau", hay "tê, tê, tê". Khi bạn có cảm giác
tốt, cảm giác vui bạn niệm: "vui, vui, vui" hay "tốt, tốt,
tốt". Thiền sinh khó biết được cảm thọ vô ký. Cảm thọ
vô ký mà thiền sinh biết được khác với cảm thọ vô ký
mà người không hành thiền biết. Mặc dầu khi có cảm thọ
tốt thì bạn biết rằng bạn đang có cảm thọ tốt, và khi
có cảm thọ xấu thì bạn biết rằng bạn đang có cảm thọ
xấu. Nhưng như thế không hẳn là hành Thiền Minh Sát. Thiền
sinh hành Thiền Minh Sát thấy hay quán sát cảm giác chỉ là
cảm giác thôi, không phải cảm giác của một người, không
phải cảm giác trường cửu bất biến. Giống như trong khi
hành thiền quán sát sự đi, phải ghi nhận: "đi, đi, đi" ;
ở đây thiền sinh phải ghi nhận "cảm giác, cảm giác, cảm
giác". Sự hiểu biết của thiền sinh hoàn toàn khác biệt
sự hiểu biết của người không hành thiền. Tâm của người
không hành thiền không thể tách rời khỏi khái niệm về
một chúng sanh hay ý niệm về tự ngã; bởi vậy sự hiểu
biết của họ không phải là Thiền Minh Sát. Trong khi đó tâm
của thiền sinh có thể thấy rằng chỉ có cảm giác mà thôi.
Chỉ có cảm giác vui hay cảm giác không vui mà không có ai
cảm giác cả. Không thể nói rằng cảm giác này của ai hay
của chúng sanh nào. Thiền sinh cũng biết rằng cảm giác này
không tồn tại lâu dài.
Khi
bạn có cảm giác đau và bạn ghi nhận "đau, đau, đau" thì
bạn cần phải ghi nhận từ mười đến mười lăm phút. Có
thế thì bạn mới thấy rằng cái đau này không có gì hằng
cửu. Không phải chỉ có một khối đau. Một cái đau này
đến rồi đi; lại một cái đau khác đến rồi đi. Bạn thấy
sự đau không phải là cái gì liên tục mà sự đau biến đổi
không ngừng. Khi bạn đã nhìn xuyên thủng sự liên tục, nghĩa
là bạn không thấy gì có sự liên tục cả tức là bạn đã
thấy đặc tính vô thường của sự vật. Sở dĩ bạn không
thấy được sự vô thường vì ảo tưởng về sự liên tục
đã che dấu đặc tánh vô thường. Khi bị ảo tưởng về
sự liên tục chi phối thì bạn sẽ dính mắc vào quan niệm
trường cửu và vững bền của sự vật, cho rằng sự vật
trường cửu và vững bền. Khi ý niệm về sự liên tục bị
loại bỏ thì bạn sẽ thấy rằng sự vật hiện ra rồi biến
mất, sinh diệt không ngừng.
Bạn
có lạc thọ dính liền với sự vật mà bạn gần gũi hay
tiếp cận trong cuộc sống: hình sắc, âm thanh, mùi, vị, tư
tưởng và những gì mà bạn nghĩ rằng chúng là sở hữu của
bạn như: vợ chồng, con cái... Lạc thọ tùy thuộc vào các
sự vật thế tục nên được gọi là "thế tục lạc thọ".
Khi có loại lạc thọ này, bạn phải ý thức và ghi nhận:
"vui, vui, vui" hay "tốt, tốt, tốt".
Ðôi
khi bạn có khổ thọ như bạn cảm thấy buồn, xuống tinh
thần; khi bị mất mác, xa lìa những vật sở hữu hay đồ
đạc có giá trị, bạn cảm thấy tiếc nuối, buồn bực hay
nóng giận. Ðó là những khổ thọ thuộc về thế tục. Ðiều
này cũng có thể xảy ra cho thiền sinh khi thiền sinh nghĩ đến
những gì không tốt đẹp đang xảy ra cho mình. Khi có những
cảm thọ như thế xảy ra, thiền sinh phải chánh niệm và
ghi nhận: "tiếc nuối, tiếc nuối, tiếc nuối"; "buồn, buồn,
buồn" hay "giận, giận, giận".
Vô
ký thọ là cảm giác không vui, không khổ. Ðôi khi đang hành
thiền, thiền sinh tiếp xúc các đối tượng giác quan với
tâm không vui, không khổ và cũng không thể vất bỏ đối
tượng đó. Ðó là cảm thọ vô ký đi kèm với tham ái khởi
sinh trong thiền sinh. Cảm thọ như thế gọi là "thế tục
vô ký thọ" cũng còn gọi là tâm xả tùy thuộc vào sự vật
thế tục, hay tâm xả đi kèm với si mê. Tiếng Paa.li gọi
cảm thọ này là a~naanupekkhaa, có nghĩa là "bất tri xả" (xả
do không biết).
Bạn
cũng có thể có "lạc thọ, khổ thọ và phi thế tục vô ký
thọ". Ðó là những cảm thọ khởi sinh trong lúc bạn đang
hành thiền.
Thế
nào là "phi thế tục lạc thọ"? Khi hành thiền, bạn có thể
có tâm định tốt hay thấy được sự sinh diệt của sự
vật bạn bèn có cảm giác vui vẻ thích thú. Bạn cảm thấy
thật hạnh phúc đến nỗi bạn muốn đứng dậy nói cho mọi
người biết rằng mình đang có cảm giác thích thú như vậy.
Bạn khó có thể chế ngự những cảm giác này. Cảm giác
như vậy có thể đến với thiền sinh, đặc biệt là lúc
thiền sinh đạt đến tầng mức có thể thấy rõ sự sinh
diệt của các hiện tượng. Thiền sinh không nên có các cảm
thọ đi kèm với tham ái. Thiền sinh phải ý thức và chánh
niệm trước các cảm thọ này. Nếu dính mắc vào cảm thọ
này thì thiền sinh sẽ đứng mãi ở đây mà không tiến bộ
thêm được nữa.
Thế
nào là "phi thế tục khổ thọ"? Ðôi khi thiền sinh không thể
hành thiền tốt đẹp theo ý muốn. Mặc dầu đã cố gắng,
nhưng tâm thiền sinh không thể nằm trên đề mục được.
Lúc bấy giờ thiền sinh cảm thấy chán nản hay thất vọng.
Ðó là khổ thọ phi thế tục. Ðôi khi thiền sinh đạt được
một tầng thiền nào đó rồi lại bị rơi xuống nên có cảm
giác buồn bã hay tiếc nuối. Khi có các cảm giác này, thiền
sinh phải ghi nhận: "buồn, buồn, buồn" hay "tiếc nuối, tiếc
nuối, tiếc nuối" và chế ngự nó.
Câu
chuyện về vị trưởng lão sau đây cho thấy "phi thế tục
khổ thọ" là một trở ngại trong lúc hành thiền:
Một
vị trưởng lão rất thông thái kinh điển. Thầy dạy mười
tám nhóm học trò. Có đến ba mươi ngàn tỳ khưu thực hành
theo lời dạy của trưởng lão mà đắc quả Alahán. Một trong
những người học trò của thầy, một hôm, ôn lại những
đặc tính quí báu của mình rồi nghĩ đến thầy và tìm hiểu
xem thầy mình đã giác ngộ chưa. Thấy thầy vẫn còn là người
thế tục nên người học trò đến gặp thầy để giúp đỡ.
Thấy người học trò đến, vị thầy hỏi:
- Sư
đến đây có việc gì?
Người
học trò đáp:
- Con
muốn nghe thầy thuyết pháp.
- Thầy
không có thì giờ. Thầy rất bận.
- Con
chỉ hỏi pháp khi thầy vào làng khất thực.
- Không,
sẽ có nhiều người cùng đến hỏi thầy vào lúc ấy nên
thầy không trả lời được.
Người
học trò tiếp tục xin thầy cho mình gặp vào những giờ khác,
nhưng những lời đề nghị của trò đều bị thầy từ chối
vì lý do bận việc. Cuối cùng người học trò nói với thầy:
- Bạch
thầy. Bộ thầy không có được một chút thì giờ ngay chỉ
vài phút thôi sao? Nếu thầy không có chút thì giờ nào thì
có lẽ thầy cũng sẽ không có đủ thì giờ để chết nữa.
Thầy luôn luôn bận rộn. Thầy chẳng khác nào chỗ tựa lưng
của chiếc ghế. Thầy chỉ để cho người khác dựa lưng
vào thầy mà thầy không dựa được chính mình.
Nói
xong người học trò bỏ đi. Vị thầy cảm thấy tâm rung động
và quyết định hành thiền. Thầy nghĩ rằng mình có thể
trở thành một vị Alahán trong vài ba ngày. Nghĩ vậy, nhưng
thầy không hề nói cho ai biết. Thế nhưng mấy ngày trôi qua
thầy vẫn chưa đạt đạo quả Alahán. Thầy để hết kỳ
hạ để hành thiền, nhưng cho đến cuối hạ thầy vẫn chưa
đạt được gì cả. Thầy cảm thấy buồn khổ nên thầy
khóc mãi. Thầy tiếp tục hành thiền trong hai mươi chín năm
nữa, nhưng đến cuối hạ thứ ba mươi thầy vẫn chưa thấy
được chân lý. Thầy rất buồn khổ và khóc lớn. Lúc bấy
giờ một vị địa tiên đến gần thầy rồi cũng khóc lớn.
Thấy vị địa tiên khóc, thầy bèn hỏi:
- Ông
là ai?
- Tôi
là một địa tiên.
- Tại
sao ông khóc?
- Thấy
thầy khóc nên tôi nghĩ rằng chỉ cần khóc thôi thì tôi cũng
có thể đạt một hay hai quả thánh.
Thầy
tỳ khưu giáo sư nghe thế buồn khổ hết sức và tự nhủ:
"Bây giờ, ngay cả vị địa tiên cũng chế diễu ta. Vậy thì
ta không nên buồn khổ hay thất vọng quá". Thế là vị trưởng
lão vất bỏ mọi thất vọng buồn rầu. Vị trưởng lão tích
cực tinh tấn hành thiền với tâm thanh thản, thoải mái nên
chẳng bao lâu sau đắc quả Alahán.
Mặc
dầu vị trưởng lão này thuộc lòng Tam Tạng kinh điển, nhưng
thầy phải bỏ ra đến ba mươi năm mới giác ngộ đạo quả
Alahán. Sự thất vọng buồn khổ của thầy là "phi thế tục
khổ thọ". Phi thế tục khổ thọ này phát sinh trong lúc vị
trưởng lão đang hành thiền nên là một trở ngại trong sự
giác ngộ đạo quả của thầy.
Thế
nào là "phi thế tục vô ký thọ"? Ðó là vô ký thọ trong
khi hành thiền, còn được gọi là "phi thế tục xả thọ"
hay "chánh niệm phi thế tục xả thọ", xuất hiện khi thiền
sinh đạt được các tuệ giác cao hơn trong Thiền Minh Sát
và có được cảm giác xả thọ. Lúc bấy giờ thiền sinh
không cần phải nỗ lực tinh tấn mà vẫn quán sát đề mục
một cách tốt đẹp. Tinh tấn đến với thiền sinh một cách
tự nhiên nên thiền sinh có cảm giác không vui không khổ.
Cảm thọ này được gọi là "phi thế tục vô ký thọ" hay
"phi thế tục xả thọ". Khi "phi thế tục xả thọ" khởi sinh
thì bạn phải chánh niệm và ghi nhận: "xả thọ, xả thọ,
xả thọ". Bằng cách này, thiền sinh sẽ ý thức được sự
sinh diệt của mọi cảm thọ phát sinh. Tiếp theo đó thiền
sinh sẽ đạt được các tuệ giác cao hơn cho đến khi hoàn
toàn giác ngộ.
Thiền
sinh phải cố gắng ghi nhận mọi cảm thọ. Khi thiền sinh
ghi nhận các cảm thọ phát sinh, thiền sinh sẽ thấy được
sự sinh diệt của các cảm thọ này. Thiền sinh cũng đồng
thời thấy được rằng bởi vì có sự đau nên mới có cảm
giác đau. Bởi vì có sự thích thú thoải mái nên mới có
cảm giác thích thú, thỏa mái v.v... như thế là thiền sinh
đã nhận thức được "sự sinh khởi của cảm giác", "sự
diệt tận của cảm giác" hay nhận thức được cả hai "sự
sinh khởi và sự diệt tận của cảm giác". Thiền sinh có
thể "quán sát bên trong", trên cảm thọ của mình và "quán
sát bên ngoài", trên cảm thọ của người khác hay "quán sát
bên trong cảm thọ của chính mình và quán sát bên ngoài cảm
thọ của người khác". Ðó là phương pháp chánh niệm các
cảm thọ trong lúc đang hành thiền bằng cách ý thức và chánh
niệm các cảm thọ.
Một
khi đã thấy được sự sinh diệt của các cảm thọ thiền
sinh sẽ không còn tham luyến dính mắc vào các cảm thọ nữa.
Khi không còn tham luyến, dính mắc, thiền sinh sẽ giác ngộ
chân lý.
|