|
.
THIỀN
HỌC NAM TRUYỀN
Giác
Nguyên dịch Việt, 1996
|
|
Chương
15
Pháp
ứng dụng Thiền định vào đời sống thường nhật
Làm
thế nào để đưa cuộc tu của mình vào từng sinh hoạt trong
mỗi phút giây đời sống? Ðó là một câu hỏi vô cùng quan
trọng. Nó đòi hỏi ở chúng ta một sự tỉnh thức được
kết hợp nhuần nhuyễn với tất cả khả năng bản thân:
Từ những vận động sinh lý, những sinh hoạt lớn nhỏ, các
cảm giác tâm sinh lý cùng tất cả các mối đối giao quan
hệ,... mỗi thứ đều là những phút giây Thiền Ðịnh cả.
Quyển
sách này, thực ra là những ghi chép về các bài giảng thiền
định trong các thiền khóa, nên vấn đề trọng tâm được
đề cập ở đây chính là những bước đầu của quá trình
Thiền Ðịnh hướng nội, những chướng ngại tinh thần, những
biện pháp đối đầu với chúng cùng với những hiểu biết
và trí tuệ trong Thiền Ðịnh. Việc ứng dụng kiên quyết
Thiền Ðịnh vào đời sống và từng sinh hoạt của mình được
xem như là một nửa hành trình của con đường Thiền Ðịnh.
Ðể thực hiện đúng mức con đường này, đòi hỏi ta phải
có những tư liệu kinh điển đáng tin cậy, chấp nhận những
phép sống và ứng dụng một cách sinh động Giáo lý của
Ðức Phật vào đời sống thường nhật của mình. Trong bài
viết này, chúng ta sẽ bàn đến vấn đề đó.
Cho
dầu việc Thiền Ðịnh trong những giờ tĩnh tọa hay trong
từng hoạt động mang tính cách tu tập khác, chúng ta phải
nhớ rằng bất cứ hình thức tu tập nào cũng đều tuyệt
nhiên không phải là những kiểu cách, nghi thức mang tính mô
phỏng, bắt chước ai hết. Dĩ nhiên trong cuộc tu hành của
mình, chúng ta phải biết tôn trọng những luật tắc, nhưng
điều đó không có nghĩa là chúng ta tu tập ở thế bị động,
không thể tự tạo cho mình những bước nhảy vọt tự tập
và sáng tạo. Vấn đề đó thực ra chỉ đòi hỏi ở chúng
ta một sự can đảm đúng đắn cộng với tâm hồn thanh thản.
Don Juan cũng đã từng bảo rằng phải có một sự can đảm
của người chiến sĩ, ta mới có thể mạnh dạn dấn bước
trên hành trình tìm đến trí tuệ. Ông cố tình mô tả thế
giới này như là một miền đất huyền bí, khủng khiếp,
thậm chí là một chốn ma thiêng nước độc và khuyên chúng
ta phải có một thái độ sống thích nghi tương ứng để
đủ sức hiện diện. Dầu có phải hiện diện trong một thời
gian rất ngắn ở đó, ai cũng phải luôn nghĩ đến vấn đề
thời gian.
Một
đời sống tâm linh thật sự không bao giờ cho phép chúng ta
hiện hữu và hoạt động bất ý, vô tâm như một chiếc phi
cơ không người lái. Bằng mọi cách, chúng ta luôn phải có
thái độ nghiêm cẩn và tinh thần trách nhiệm trong đời sống
của chính mình bằng tất cả nguồn đạo lực mà bản thân
cho phép. Cuộc tu và lý tưởng giải thoát của chúng ta phải
luôn được giàn trải trên một thái độ thức tinh liên tục
và phát triển kịp thời.
Phải
nhận rằng hành trình tu tập không phải luôn dễ dàng như
ý ta muốn, mặc dù thật ra nó rất đơn giản: Ðó chỉ đơn
giản là cách học đối diện với tất cả thực tại vẫn
luôn đổi thay trong từng giây phút ngay trước mắt mình. Một
thiếu phụ phương Tây sau nhiều năm tìm sang Châu Á, bà đã
quay về với tư cách và trình độ của một Thiền sư. Một
hôm trong lúc đang rửa chén sau buổi cơm chiều, bà nhìn vào
mấy chiếc đĩa rồi nói về pháp môn Thiền Ðịnh: "Có là
lạ lùng lắm không, khi người ta cứ chọn một bãi cát lún
để an trí một món đồ như là trên mặt phẳng chắc chắn?"
Ðó quả là một câu nói hết sức ý nhị. Chính khả năng
mở rộng đôi mắt trong từng phút giây để nhận diện cái
bất toàn của vạn hữu là nguồn cội cho tất cả nguồn
Ðạo lực và sự tự do trong đời sống. Cái khả năng đó
cho phép ta đón nhận mọi sự, đối diện với tất cả để
tìm thấy những bài học trong tất cả thực tại mà tự chúng
luôn hiển hiện. Chỉ riêng mỗi phút giây thực tại, từng
tình huống của cuộc sống đều có thể là những vị thầy
cho chúng ta, mang lại cho chúng ta những cơ hội phát triển
tình thương và trí tuệ. Thái độ sống tranh thủ này sẽ
luôn giúp ích rất nhiều cho công phu Thiền Ðịnh của mỗi
người: Từ việc duy trì thời gian Thiền Ðịnh, cho đến
những khả năng phơi mở, thăng hoa, tra vấn và nhìn ngắm.
Hãy luôn tự tìm thấy cho mình những bài học qua các câu
tự vấn, điều đó chắc chắn sẽ giúp cho cuộc tu của chúng
ta ngày một nhiều ý nghĩa hơn.
Một
nếp sống trọn vẹn phải luôn mang ý nghĩa hồn nhiên, chúng
ta hãy liệm xác tất cả hồi ức quá khứ cùng những toan
tính trong tương lai để sống hết mình với mọi sự đang
xảy ra, những thực tại như thật và đang hiện hữu. Một
nếp sống như vậy rất có thể bị xem là khó chấp nhận,
nếu không muốn nói là đáng sợ. Bởi có lẽ ai cũng thấy
rằng một nếp sống chỉ luôn biết đối diện, thiếu đi
những hy vọng cùng kỷ niệm, thì quả là một nếp sống
vô cùng tẻ nhạt, lạnh lẽo, đơn diệu. Nhưng thật ra, cách
nghĩ đó sẽ không còn nữa ở bất cứ giây phút nào chúng
ta cảm nghiệm được cái khía cạnh kỳ thú của trí tuệ
về mọi phút giây thực tại ngay trong chính bản chất của
chúng. Ðó là cả một cuộc khám phá cần thiết mà chúng
ta phải thực hiện bằng tất cả niềm vui tự nguyện ngay
trong từng giờ thiền định, từng quan hệ đối giao với
thế giới chung quanh, trong mỗi mỗi tháng ngày. Mà tất cả
những thành quả vô giá vẫn trình bày nảy giờ luôn đòi
hỏi ở chúng một sự can đảm như Don Juan đã nói.
Ðến
một lúc nào đó, chúng ta sẽ thấy được những dư thừa
trong hình thức Thiền Ðịnh của mình, và chúng sẽ trở nên
rõ ràng hơn trong cả lúc ta chấm dứt Thiền tọa. Chẳng hạn
như những khi mới vừa thức dậy, chúng ta có thấy được
mình vẫn thường có những thói quen nào là không thật sự
cần thiết hay không? Hầu hết Thiền sinh sau các Thiền khóa
đều nhận ra rằng mình đã không còn tiếp tục giữ lại
được một nội tâm tĩnh lặng mà trước đó đã phải vất
vả thật nhiều để có được một cách chật vật. Ðối
với những giá trị tinh thần thì chúng ta, chua chát thay, lại
rất dễ dàng đánh rơi tất cả. Chẳng hạn khi phải có mặt
trong dòng đời tất bật, từ sự định tâm cho đến phong
thái tĩnh lặng, kể cả khả năng chánh niệm của chúng ta
thường có khuynh hướng bị thất thoát. Những khi đó, tất
cả công phu Thiền Ðịnh, chỉ còn là một mớ ký ức. Bởi
thế, đối với những thiền sinh Tây phương, những người
vốn đã từng lăn lộn với nhịp sống máy móc, khi họ đến
trình pháp thì các vị Thiền sư Châu Á thường chỉ khuyên
họ một câu thật đơn giản: "Tốt nhất hãy bỏ đi mọi
thứ!".
Trí
tuệ Thiền Dịnh không hề võ trang cho chúng ta một kiến thức
tư biện hay một sức mạnh tâm linh huyền hoặc nào đó. Bởi
điều rõ ràng là khi có một sự cố, một thực tại hiển
hiện, nó có thể bỏ mặc chúng ta tự đối diện bằng những
cảm nghiệm. Càng va chạm, tiếp xúc với đời sống thực
tế, chúng ta sẽ càng có nhiều dịp để nhận ra điều này.
Ðặc biệt đối với những Thiền sinh sau khi đã trải qua
một thời gian dài của các Thiền khóa gắt gao, nghiêm khắc
thì họ càng thấm thía hơn, để rồi sau đó thường thì
người ta bỏ cuộc.
Hành
trình đối đầu thực tại với tất cả những chát chua của
Trí tuệ Thiền Ðịnh như vậy luôn đòi hỏi ở chúng ta rất
nhiều nghị lực: Kiên gan bền chí liên tục cho đến khi nào
Trí tuệ Thiền Ðịnh đem lại cho ta những Thiền Lạc và
sự tĩnh lặng của nội tâm thay vì những vật vã nặng nề.
Bởi vì thực ra cái cay đắng không hề là thuộc tính duy
nhất và sau cùng của Trí Tuệ Thiền Ðịnh. Nó còn đưa ta
vào một cảnh giới khác sâu xa hơn, trong sáng và ổn định.
Cho đến khi nào sự phơi mở tâm hồn và đối đầu với
thực tại còn là những đắng chát cho chúng ta, thì như vậy
cũng có nghĩa là trong tự đáy lòng chúng ta vẫn còn có những
cái Tôi, của Tôi, những sợ hãi và tổn thương tâm lý. Mà
tất cả những cái này đều được khai sinh từ những hình
thái hết sức sâu kín và tế vi của tham dục. Mặc dù để
chấm dứt chúng, dĩ nhiên không phải là việc dễ dàng, nhưng
trong những nỗ lực Thiền Ðịnh của bản thân, chúng ta hy
vọng sẽ có đủ khả năng tỉnh thức để nhận diện chúng,
bắt đầu cho mình những trình độ thấu thị trong sáng hơn,
một khả năng nhìn ngắm mọi sự vô thường một cách dễ
dàng hơn.
Thường
thì những khái niệm bi quan về đời sống vẫn cứ hiển
hiện ngay trong giờ phút Thiền Ðịnh của chúng ta bởi chúng
ta càng tỉnh thức nhìn ngắm thì chúng càng trở nên hiển
hiện rõ ràng hơn. Và đó chỉ mới nói riêng về những nổi
khổ đau ngoại tại của tha nhân. Còn đối với riêng bản
thân chúng ta thì chúng lại càng cụ thể hơn nhiều. Chẳng
hạn như ngay trong những giây phút quan sát đầu tiên thông
qua Trí tuệ Thiền Ðịnh, những tập tính (những hình thái
ý thức mang tính tập quán) sẽ tự hiển lộ cho chúng ta ngắm
nhìn chúng một cách trọn vẹn. Chúng là những âu lo, ham muốn
cùng biết bao khía cạnh tâm lý phức tạp khác mà chúng ta
đã cố tình chối bỏ, vẫn cứ luôn chực chờ để trở
lại với chúng ta khi có cơ hội. Ðại khái, chúng cứ như
là những chiếc áo cũ mà mình vẫn thích mặc. Chúng ta phải
nhìn nhận rằng việc chấm dứt các tập tính không cần thiết
để tiếp thu những trình độ tâm linh khác cao cấp hơn, quả
là một điều vô cùng khó khăn.
Tuy
nhiên, ta cũng phải hiểu thêm rằng đây chính là cơ hội,
thậm chí một lợi khí để chúng ta ứng dụng pháp môn Thiền
Ðịnh. Cuộc tu của chúng ta rất cần đến những hiểu biết
và cảm thông thay vì là những thành kiến, để chúng ta có
thể nhìn ngắm vạn sự với một tình thuơng và khả năng
tỉnh thức. Bởi yêu cầu cao nhất của lý tưởng Phật giáo
chính là một sự giải thoát, một sự chính xác cần được
khám phá và thể hiện mà chúng ta phải luôn học cách thực
hiện bằng tất cả chính mình. Nhưng hãy nhớ rằng con đường
đó không chỉ đơn giản được thăng hoa qua số lượng thời
gian của các Thiền khóa hoặc một hình thức Thiền Ðịnh
thiếu nội dung. Nó phải là một cuộc dấn thân và đối
diện với tất cả những tập tính vớ vẩn, những âu lo
ngu ngơ, những nghi hoặc nông nổi mà chúng ta cần phải biế
vận dụng Chánh niệm một cách đúng mức để loại trừ
tất cả trong đời sống Thiền Ðịnh của mình.
Lần
đó, có một vị sư mới tu mà cũng là một tân Thiền sinh
tìm đến gặp Ngài Thiền sư Achaan Chaa (một Thiền sư người
Thái trứ danh) rồi thưa với Ngài đủ thứ chuyện, từ đời
sống bản thân cho đến các bè bạn đồng tu trong tự viện,
mà đáng kể nhất là vị này đã có một nhận xét trực
tiếp về Ngài:
- Con
thấy hình như Ngài chẳng giúp được gì cho con cả. Con chẳng
biết phải làm sao với những lời hướng dẫn của Ngài.
Bữa nay, Ngài nói thế này, hôm sau Ngài lại nói thế khác.
Con nghĩ rằng một người như Ngài, vẫn được xem là một
Thiền sư sở hữu được một trí tuệ khác người, mà tại
sao lúc nào cũng tự mâu thuẫn với mình như vậy?
Ngài
Achaan Chaa bật cười rồi giải thích:
- Những
hướng dẫn Thiền định của tôi chỉ luôn có một ý nghĩa
là giúp người khác ổn định tâm hồn của mình. Tôi vẫn
xem các Thiền sinh ở đây là những người khách bộ hành
đang từng bước dò bước trên những con đường đầy những
sương mù mà tôi là một hướng dẫn viên có chút ít kinh
nghiệm về con đường đó. Tôi thấy ai trong đoàn sắp lạc
bước qua bên phải hoặc bên trái một cách nguy hiểm thì
tôi lập tức lên tiếng cảnh báo. Tất cả chỉ có vậy thôi.
Vấn
đề cơ bản của thiền Ðịnh là ổn định hóa thân tâm.
Một khi nhận ra được rằng mình đang ở vào một trường
hợp thiếu ổn định nào đó do sự tác động của các phiền
não, đặt biệt là một ham muốn, thì lập tức buông bỏ
nó đi để quay lại chính mình, nhìn ngắm mmọi thực tại
đang diễn ra bằng tất cả sự ổn định nhất. Hãy để
mọi sự trôi qua một cách đơn giản, có gì là rắc rối
đâu! Một thái độ tỉnh thức trong mỗi tình huống đều
có thể là một cơ hội để nuôi dưỡng sự quân bình của
nội tâm. Tâm thái quân bình hay ổn định này chính là trọng
điểm của giáo lý Ðức Phật. Trình độ tâm linh này sẽ
dể hiểu hơn nếu ở đây ta gọi nó bằng một cụm hợp
từ mà xưa nay vẫn không xa lạ gì đối với Phật giáo đồ,
đó chính là "con đường Trung Ðạo".
Có
một vấn đề hết sức quan trọng là chúng ta đừng bao giờ
nghĩ đến việc rủ rê hay đồng hóa bất cứ ai đó đi theo
con đường của mình một cách nông nổi bởi điều đó đôi
khi bị phản tác dụng: Thay vì tiếp dẫn được người nhưng
rồi chúng ta lại bị chính họ níu kéo. Không ít những Phật
tử đã rơi vào tình trạng đó để rồi đánh mất chính
mình. Ðiều này xem ra giống như việc chúng ta đội trên đầu
mình chiếc bè gỗ thay vì sử dụng nó như một phương tiện
đi lại. Mục đích của Thiền Ðịnh không hề có lý tưởng
rủ rê, đồng hóa hay hứa hẹn một điều gì đó với ai
mà chính nếp sống Thiền Ðịnh, bản thân nó đã là những
lời thuyết giáo. Nói gọn lại, tu tập Thiền Ðịnh là dứt
bỏ mọi thứ.
Một
nữ Thiền sinh sau khi trở về với gia đình từ tự viện
Naropa, đã có những rắc rối với người thân trong nhà về
vấn đề tư tưởng. Bởi vì gia đình cô ấy vốn là những
con chiên Gia Tô giáo chính thống nên họ đã xem cô ngoài tình
máu mủ, là một người xa lạ. Sau một thời gian đấu tranh
với gia đình và tự giải quyết bản thân, cô đã tự chọn
ra một hướng giải quyết thật tuyệt vời để có thể dung
hòa với mọi người trong gia đình, đồng thời giàn xếp
mọi tình huống có liên quan đến vấn đề tư tưởng mà
bấy lâu nay đôi bên vẩn khổ tâm, với tư cách của một
người thầy mà chỉ có mỗi một mình cô biết. Cô đã viết
những dòng chữ sau đây như là những lời nhắn gởi cho tất
cả mọi người: "Gia đình chằng ưa gì tôi khi tôi là một
Phật tử, nhưng họ lại vô cùng yêu mến tôi khi tôi là một
vị Phật." Ðúng ra thì chúng ta cũng chẳng cần gì đến cái
danh xưng Phật tử cả, bởi vấn đề duy nhất quan trọng
là chúng ta tự biết khám phá ra một nếp sống hết mình
cho tình thương, hiểu biết và sự thanh thản trong tâm hồn
mình, thì điều đó cũng có nghĩa là một vị Phật đang hiển
hiện trong chính tâm hồn chúng ta rồi đó.
Có
dịp được đọc trực tiếp các kinh điển nguyên thủy, chúng
ta mới thấy rằng Ðức Phật ngoài những trường hợp hết
sức cần thiết, Ngài thường trình bày giáo lý của mình
đơn giản và ngắn gọn mà nội dung tất yếu dĩ nhiên phải
là cô đọng. Lần đó có một vị du sĩ tìm đến yết kiến
Ðức Phật nhưng ông lại gặp Ngài ngay trên đường khất
thực. Vị du sĩ thưa rõ với Ðức Phật mục đích tầm đạo
giải thoát của mình, người mà theo ông, vẫn thường được
nghe tôn xưng là một bậc A-La-Hán Ðạo sư của các vị La
Hán khác. Vì đang trong giờ khất thực (cùng nhiều lý do khác
không thể nói hết ở đây), nên Ðức Phật từ chối cuộc
nói chuyện và hẹn ông một dịp khác. Do một tiền duyên
quá khứ, vị du sĩ một mực cầu thỉnh Ðức Phật hãy nói
cho ông một lời thuyết giáo nào đó thật ngắn gọn cũng
được. Sau ba lần năn nỉ của ông, Ðức Phật vẫn với
bình bát trên tay, nói với ông một bài kệ thật ngắn gọn:
"Thấy
chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, ngửi chỉ là ngửi, nếm chỉ
là nếm, đụng chỉ là đụng và suy nghĩ chỉ là suy nghĩ."
Vừa
dứt lời, Ðức Phật lặng lẽ tiếp tục con đường khất
thực của mình. Tương truyền rằng, sau khi Ðức Phật đã
ra đi không bao lâu, vị du sĩ nọ đã tìm vào một gốc cây
gần đó để trầm tư về những câu nói ngắn gọn của Ngài
khi nảy. Trong thoáng chốc, ông đã trở thành một bậc A-La-Hán.
Nội
dung của Phật giáo là như vậy đó, như thật và đơn giản,
khởi điểm và đích đến nếu cần, chỉ trong một câu nói!
Chân
lý vốn luôn đơn giản nhưng chúng ta thường có thói quen
làm rắc rối mọi sự. Tất cả cảm nghiệm của đời sống
thực ra chỉ là từng phút giây tung hứng các ngoại cảnh
thực tại mà thôi. Ðó là những sắc, thinh, khí, vị xúc
và tư tưởng. Chỉ đơn giản có vậy. Trong toàn bộ các cảm
nghiệm cùng những đối tượng của chúng hoàn toàn không
có một cái Tôi, cái người nào cả - để chúng ta có thể
chán ghét hoặc chấp thủ. Có thấy được như vậy, nội
tâm chúng ta mới được tự do. Hãy tu tập Thiền Ðịnh bằng
một tinh thần đơn giản hóa vạn sự để chúng ta có thể
cắt đứt tất cả những ảo giác chằng chịt phức loạn
và nhìn thấy các pháp một cách rõ ràng và trực tiếp.
Có
tất cả bốn hình thức sống đơn giản để giúp ta hiểu
biết và tu tập các pháp một cách như thật và giản dị.
Trước
hết là sự đơn giản về sinh lý. Chẳng hạn như trong tư
thế ngồi, dù là để thiền định về bất cứ một đề
mục nào đó thì trước hết ta cũng cần phải tự giàn xếp
cho mình được yên tĩnh, tỉnh táo hơn. Khi nhận ra cảm giác
bức xúc ở một bộ phận nào đó trên cơ thể thì hãy tìm
cách giải quyết nó ngay: Ta có thể tạm thời lưu tâm đến
đôi vai, hơi thở, cổ, lưng hoặc các cơ bắp. Trong khi đang
tĩnh tọa như vậy ta hãy tự theo dõi tất cả những cảm
giác sinh lý nào xuất hiện ở nội thân mình, đưa nó vào
sự kiểm soát của khả năng tỉnh thức và thăng bằng của
nội tâm. Cứ thế trong mọi hoạt động lớn nhỏ ta cũng
đều luôn tỉnh thức như vậy, tức luôn chú ý đến mỗi
tình trạng sinh lý của mình. Sự tỉnh thức đối với tấm
thân sinh lý cũng giống như một tấm gương giúp ta có thể
nhìn thấy rõ ràng phản ảnh của những gì cần được lưu
tâm và cần được bỏ quên. Sự đơn giản hóa và lưu tâm
đến đời sống sinh lý của mình cũng là những bài học
cần thiết, đồng thời là điều kiện đảm bảo phần nào
tình trạng sức khỏe của mỗi người để công phu Thiền
Ðịnh của chúng ta có được có được nhiều hiệu quả
hơn. Nói một cách khác, vấn đề ở đây là hành giả phải
luôn biết trân trọng một cách hợp lý hình hài của mình
và lưu tâm đến những gì nó đòi hỏi, nhưng không vì thế
mà đáp ứng những đòi hỏi có phương hại cho sức khỏe.
Ở
đây ta có thể nhắc lại hình ảnh ví dụ vẫn được kinh
điển dùng để diễn tả một tình trạng sinh lý quân bình.
Ðó là một cây đàn mà người biết chơi không bao giờ để
dây nó quá chùng hoặc quá căng. Chúng ta cứ thử nghiệm ở
chính mình xem: Với môt sức khỏe tốt thì mọi khả năng
nội tâm sẽ dễ dàng phát triển hơn. Ðồng thời, đối với
các tân Thiền sinh, khi nhận thấy nội tâm mình đã vì tình
trạng sinh lý thế nào đó, mà lại xao lãng tâm điểm chú
niệm thì phải lập tức tỉnh thức nhận diện ngay thực
tại này và quay về với nội tại bằng tất cả khả năng
ổn định hóa tâm sinh lý.
Phép
đơn giản hóa cuộc tu trong trường hợp thứ hai, chính là
sự giàn xếp các nếp sinh hoạt, nói cụ thể hơn, là hướng
hành động. Con đường này được thực hiện bằng tất cả
sự chú niệm. Chỉ có thế thôi. Ở đây, vấn đề cốt lõi
là sự nghiêm trì năm học giới mà ta đã có dịp biết tới.
Ðó là một nếp sống cẩn trọng để tránh mọi xúc phạm
hay bức hại đối với thế giới chung quanh mình bằng tất
cả tình thương. Ta phải học được cách tỉnh thức kịp
thời khi nội tâm mình đang phơi mở hay khép kín để nó luôn
được trải rộng. Cũng giống như một đóa hoa, tân hồn
chúng ta luôn có những thời điểm phơi mở hoặc khép chặt,
với một số điều kiện nhất định nào đó. Ta hãy luôn
đặt biệt lưu tâm đến nhưng phút giây này, bởi với những
tuần hoàn bất trắc của nội tâm, vấn đề nghiêm trì ngũ
giới chắc chắn không dễ dàng lắm đâu.
Phép
sống đơn giản thứ ba là một sinh phong tự tại, thanh thản.
Phép sống này rất quan trọng nhất là khi ta hiểu được
rằng những bận rộn, ràng buộc, tạp loạn trong đời sống
luôn là những trở lực cho niềm tịnh lạc của chúng ta.
Càng ít rối ren tâm lý, đặc biệt là các ham muốn, thì cuộc
sống của chúng ta lại hạnh phúc hơn. Và chính nếp sống
đơn giản mà nhiều ý nghĩa này đã là sinh phong căn bản
cho các du sĩ tăng ni nói chung. Còn đối với hàng tu sĩ tại
gia thì nếp sống đơn giản như vừa nói trên đây không có
nghĩa là vất hết các công việc thực sự, nhưng ta vẩn có
thể thực hiện một kiểu sống đơn giản thích hợp bằng
cách loại bỏ những suy nghĩ không thật sự cần thiết với
một cái nhìn ngắm trung thực của bản thân. Nhưng cẩn thận
đấy, chúng ta luôn rất dễ dàng trở thành những cổ máy.
Ðừng nắm giữ một cách nông nổi bất cứ thứ gì trên
đời: Bởi kể cả tấm thân này còn không là của chúng ta
nữa mà! Dùng nó như một phương tiện, xử lý và nhìn ngắm
nó một cách cẩn trọng để cuộc sống của chúng ta có nhiều
nội dung hơn.
Phép
sống đơn giản thứ tư là sự đơn giản từ nội tại, tức
một tâm hồn dung dị, vô tư. Tư tưởng của chúng ta, từ
những lập trường kiến giải hay các suy nghĩ bình thường
nhất, cũng đều luôn thay đổi như thời tiết hay thủy triều.
Ðiều mà Trí tuệ Thiền định đòi hỏi ở chúng ta chính
là thái độ đối diện với những thực tại vô thường
đó một cách giản đơn và thông minh. Như đã nói, qui luật
vận động và tồn tại của các pháp luôn vô cùng đơn giản.
Mọi thứ luôn đổi thay. Hành động và tư tưởng hôm nay
của mỗi người sẽ tạo ra những thói quen và điều kiện
cho các hành động cùng tư tưởng, nói gọn là hình thức
hiện hữu của chúng ta mai sau. Hôm nay chúng ta có những tác
động thế nào đó đối với thế giới chung quanh thì trong
tương lai ta sẽ nhận lại những hậu quả phản ứng tương
xứng. Ðó chính là qui luật Nghiệp báo: Gieo giống nào thì
thu hoạch quả nấy. Sức mạnh của các ham muốn luôn cho ra
những đau khổ đối xứng.
Thiền
sư Achaan Chaa thường hỏi các học trò:
- Bữa
nay có thấy mình bị chút gì là đau khổ không?
Nếu
các thiền sinh trả lời rằng "không có" thì Ngài mỉm cười.
Còn nếu họ thưa là có ít hay nhiều, thì Ngài nói ngay:
- Vậy
là bị các ham muốn tấn công rồi đấy! Rồi Ngài lại cũng
mỉm cười.
Lòng
ham muốn cứ như ánh đèn tín hiệu vậy, nó giúp ta biết
được những đau khổ như là cái giá phải trả. Nhờ nó,
ta có thể học được khả năng dứt bỏ tất cả.
Sống
đơn giản, chỉ là biết nhìn thẳng vào những gì đang xảy
ra trước mắt mình. Một vị Thiền sư kia lúc đang hấp hối,
đã nhắc nhở học trò của mình: |