A. CHÁNH VĂN
a-01-01 Lời Tiểu Dẫn
a-01-02 Tựa
KỆ KIẾN TÁNH
a-03-01 Ðoạn 1 
a-03-02 Ðoạn 2 
a-03-03 Ðoạn 3 
B. GIẢNG GIẢI
b-01 Lời Tiểu Dẫn
TỰA
b-02-1 Ðoạn 1
b-02-2 Ðoạn 2
b-02-3 Ðoạn 3
KỆ KIẾN TÁNH
b-03-1 Ðoạn 1
b-03-2 Ðoạn 2
b-03-3 Ðoạn 3 
b-03-4 Ðoạn 4 
b-03-5 Ðoạn 5 
b-03-6 Ðoạn 6 
b-03-7 Ðoạn 7 
b-03-8 Ðoạn 8 
KẾT THÚC
b-03-9 Kết Thúc
cx
KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT
Biên Soạn: Thiền Sư Chân Nguyên 
Dịch Giải: Hòa Thượng Thích Thanh Từ
A.CHÁNH VĂN
III- KỆ KIẾN TÁNH 

(Ðoạn 2)

Cho nên Tổ sư Ðại Huệ nói: "Học đạo vốn không nhiều pháp, chỉ lấy tin ngộ tự tánh làm khuôn phép. Ðời nay nếu chẳng lãnh ngộ cũng gieo được trí Bát-nhã trên đất tánh, đời đời chẳng rơi vào đường ác, kiếp kiếp chẳng mất thân người, chẳng sanh vào nhà tà kiến, chẳng vào loài quân ma, mầm linh giống trí, đồng tử đi xuất gia, theo Phật tu hành, một nghe ngàn ngộ". Giả sử tham học như trên mà chưa triệt, vẫn kết chủng duyên Phật; tu mà chưa thành, còn hơn quả trời người. Chúng sanh phải gắng sức tự độ, Phật chẳng thể độ. Nếu chẳng thật tâm tu hành, bền giữ trai giới, mà ngưỡng trông Phật đến cứu độ, không có lẽ ấy. Nếu tự mình chẳng đoạn trừ nghiệp ác, cứ đợi Phật khác đến cứu độ, thì chư Phật quá khứ đã thành đạo, ứng hiện nơi đời số như vi trần, sao chẳng độ hết tất cả chúng sanh ? Vì sao chúng ta còn trôi nổi nơi biển khổ sanh tử đến nay, chẳng thể thành Phật ? Phải biết tự tu, tự độ, Phật chẳng thể độ. Nên biết, phân nửa ở Phật, phân nửa ở ta, xét cho tường tận lý này. Hãy gắng sức tự tu chớ ỷ lại vào tha lực.

Xưa đức Phật Bổn Sư Thích Ca Thế Tôn đinh ninh dặn dò: Phật còn tại thế, lấy Phật làm thầy, Phật vào Niết-bàn lấy Giới làm thầy. Phật tức là tâm, tâm tức là Phật. Tự tánh xưa nay rỗng lặng tròn sáng, trong lặng nhiệm mầu, như như đó là chân Phật của ta, dẫu Phật ở đời cũng không có lý khác. Nên biết người có trí phải lập chí, phước huệ song tu, chân như riêng chứng. Niệm niệm từ bi, cửa cửa lợi ích, thường nói diệu pháp Bát-nhã, phương tiện tiếp dẫn người sau. Người chưa ngộ thì chỉ bày cho tỏ ngộ, nếu chưa thành mong khiến cho chóng thành. Kinh nói: tài thí như ngọn đèn chỉ soi sáng một căn phòng, pháp thí như mặt trời sáng đầy khắp mười phương. Tự tánh nếu mê, phước làm sao cứu ? Thân người khó được, Phật pháp khó gặp, Thánh tăng khó thấy, chánh pháp khó nghe, lòng tin khó sanh, bạn lành khó hội ngộ. Phước duyên kim cải, mừng đã hợp nhau. May thay như rùa mù gặp được bộng cây. Chúng ta bỏ sự nghiệp đi xuất gia nên cầu việc gì ? Chớ tham đắm danh lợi, phải chọn bạn tìm thầy, vì pháp quên mình, lô? nước trèo non, kính lễ thưa hỏi.

Hỏi: Thế gian không việc khó, thế gian có hai việc khó. Thế nào là hai việc khó ?

Dạy rằng : Sanh từ đâu đến ? Chết rồi đi đâu ? Ðây là hai việc thật rất khó. Song này các người, do hai việc này mà bỏ sự nghiệp đi xuất gia, lội suối trèo non, tham tìm minh sư, bạn tốt, cúi đầu lễ bái thưa hỏi: Kính mong Ðại đức từ bi, mở rộng phương tiện chỉ bày cho sáng tỏ lý này, sớm được ngộ đạo.

            Hỏi: Trước khi trời đất và cha mẹ chưa sanh, cái thân người này sanh từ đâu đến ?

Ðáp: Vốn từ vô vi đến.

Lại hỏi: Người sanh ra ở đời, đến khi số hết, chết đi về đâu ?

Ðáp: Lại từ vô vi đi.

Gượng nói đến đi, mà thật không có đến đi. Thế nào là thật không có đến đi ? - Chỉ kinh Bát-nhã làm chứng, nói: "Tướng không của các pháp đó, chẳng sanh chẳng diệt". Sanh diệt đã không, thì đến đi đâu có. Ðây là khí âm dương biến hóa, ngưng tụ thành hình mà người sanh ra. Sắc thân bốn đại dụ như hòn bọt nổi, có sanh có diệt. Còn Pháp thân tròn sáng thì rỗng rang, rộng lớn, đích thực là biển tánh Tỳ-lô, không có lay động, vốn không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, tánh đồng với hư không, biết khắp mọi nơi. Vì vậy gọi là xưa nay vô vi, vẫn hằng thường trụ, chân không lồ lộ, thật tướng rành rành, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, sáng thông bát ngát, trong lặng như như, đối diện ngay trước mắt, tại sao chẳng hội ? Kinh nói: "Chân Phật pháp thân giống như hư không". Ðây thật là Pháp thân tức hư không, hư không tức Pháp thân. Hư không cùng với Pháp thân không có tướng khác, chư Phật cùng với chúng sanh không có tánh khác. Chẳng ngộ tự tánh tức gọi chúng sanh, giác biết tự tánh nên gọi chư Phật. Ðó là chân Phật vốn không hình tướng, đầy khắp cả hư không, thế giới, đâu có đến đi ? Song pháp thân viên dung rỗng thênh, trong lặng vô vi, trọn không một vật, chẳng rơi vào các số. Tuy vô vi, chẳng rơi vào các số, mà cũng hay ứng vật hiện hình, ẩn hiện cùng bày, sắc và không chẳng hai, đầy đủ mọi lý, làm ra muôn việc. Ðó chính là mọi người trong mười hai giờ đi đứng nằm ngồi, thấy nghe hiểu biết, nhướng mày chớp mắt, ứng cơ tiếp vật, giơ tay động chân, một thể tròn sáng, sáu căn vận dụng, ứng với tiếng với âm, hay thấy hay nghe, biết nói biết bàn, biện rõ phải quấyNói năng đó là gì ? Cái gì biết hỏi đáp ? Ðây chính là Pháp thân của mọi người, là tự tánh chân không, hay ứng ra âm thanh, miệng lưỡi mà hỏi đáp. Ðấy là tánh chân không người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành, ở Thánh chẳng thêm, ở phàm chẳng bớt, không đổi khác, không cũ mới, không quá khứ hiện tại vị lai, rỗng rang bình đẳng, trong lặng tròn sáng, từ vô lượng kiếp đến nay đặc biệt hiện tiền, gió thổi chẳng động, mưa rưới chẳng ướt, lửa đốt chẳng cháy, mặt trời rọi nóng chẳng khô, chùy nhọn dùi chẳng phủng, đao cắt chẳng đứt, thuốc nhuộm chẳng đen, đá mài chẳng mòn, sương rét chẳng lạnh, nước tưới chẳng thấm, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, không một vật, không thể nắm bắt, lồ lộ trước mắt, rõ ràng soi khắp. Ðây là Pháp thân thanh tịnh chân không, không hình không tướng, tròn đồng thái hư, nghiễm nhiên thường trụ. Song hư không rộng lớn, bao trùm cả trời đất, xuyên suốt núi sông, tột cả xưa nay, vững mãi như vậy. Nên biết, núi sông, quả đất trọn là hoa đốm trong hư không, sắc thân bốn đại là âm dương huyễn hóa, "phàm cái gì có tướng đều là hư vọng". Chân không thì khôngtướng, muônkiếp còn mãi, đó là thân vô vi, là thân chân Phật. Bởi thật tướng của chân Phật vốn là chân không diệu hữu, thật tướng của chân không là thật tướng vô tướng. Không tướng chẳng tướng, đó gọi là thật tướng. Thật tướng của pháp thân ấy, trong lặng tròn sáng, rỗng rang rộng lớn, bao gồm một thể, tròn đồng thái hư trùm cả mười phương đủ khắp muôn vật.

Song từ thuở ban sơ chưa có trời đất, chưa có cha mẹ, một thể chân không, thái hư bình đẳng, lặng lẽ sáng rỡ như vậy, tự tại viên dung. Trạng thái đó, không hình không tướng, không đầu không đuôi, không trong không ngoài, không nhỏ không lớn, không một không khác, không sáng không tối, không thô không tế, chẳng phải không chẳng phải có, chẳng phải mở chẳng phải đóng, chẳng phải tụ chẳng phải tan, chẳng phải thành chẳng phải hoại, chẳng phải động chẳng phải tịnh, chẳng phải lại chẳng phải qua, chẳng phải sâu chẳng phải cạn, chẳng phải ngu chẳng phải trí, chẳng phải trái chẳng phải thuận, chẳng phải thông chẳng phải bít, chẳng phải giàu chẳng phải nghèo, chẳng phải mới chẳng phải cũ, chẳng phải tốt chẳng phải xấu, chẳng phải cứng chẳng phải mềm, không sanh không diệt, không qua không lại, không đi không đứng, không ngồi không nằm, không già không trẻ, không cao không thấp, không tên không hiệu, không mặt không mày, không nam không nữ, không sắc không thanh, không gan không phổi, không thịt không máu, không xương không tủy, không tóc không da, không xanh không vàng, không đen không trắng, không xuân không hạ,không thu không đông, không thời không tiết, không số không kiếp, không đầu không cuối, không trước không sau, không trên không dưới, không giữa không bên, không trong không ngoài, không kia không đây, không sanh không tử, không động không lay, không dài không ngắn, không vuông khôngtròn, khôngtội không phước, vô lậu vô vi, không tâm không tánh, không lẻ không đôi, không được không mất, bởi lược bày tướng đối đãi mà tạm nói, đâu thể nói tột hết ý nghĩa kia. Lìa tất cả tướng rõ một chẳng một, gọilà "một vật" lại chẳng trúng lý. Rõ vô trụ chẳng phải một, nhận pháp môn chẳng hai. Pháp thân chân thật vốn không hình tướng, tròn sáng rộng lớn, trong lặng như thái hư, rộng thì pháp giới chẳng thể chứa, hẹp thì một mảy lông không chỗ lập. Nếu y cứ nơi thật tế thì vốn không có sắc thân, người ngộ được thì hư không chẳng sanh hoa. Người rõ suốt thì hoàn toàn không một điểm che mờ. Vô vị chân nhân rành rành đối trước mắt, chớ chấp vào sắc thân, thân như điện chớp; chớ tham đắm phước báo, phước tợ mây nổi, sanh tử toàn không, đâu có gì đến đi, giả gọi là chúng sanh thôi. Bỏ sự nghiệp đi xuất gia, ẩn náu nơi núi rừng giác ngộ gọi là tu hành. Tự giác, giác tha, và giác hạnh được viên mãn gọi là Phật.

Lại nói: thân ta hiện nay đây, là do bốn đại hòa hợp, dụ như bốn con rắn độc đồng nhốt chung một cái rương; hai con rắn đất và nước tánh nó nặng chìm xuống, hai con rắn gió và lửa thì tánh nhẹ bay lên, đến lúc tan hoại thì mỗi thứ trở về chỗ của nó. Nghĩa là tóc, lông, răng, móng, da thịt, gân xương, tủy não, cấu bẩn... đều trở về đất; nước mắt nước mũi, máu mủ, mồ hôi, nước miếng đàm dãi, tinh khí, đại tiện, tiểu tiện... đều trở về nước; hơi ấm trở về lửa; động chuyển trở về gió, bốn đại mỗi thứ rã tan, thì thân huyễn hiện nay sẽ ở chỗ nào ? Rõ biết sắc thân bốn đại, năm ấm nhóm họp rỗng mà nó hiện có ra; như đá nháng, điện xẹt, khởi diệt chẳng lìa ngay đây mà trở về không. Sóng to nước lặng, vốn tự như, đâu có đến đi. Sắc thân ngoại vật không thật, như mộng huyễn, không hoa; trong cõi chân tịnh thì pháp thân như vậy, lặng sáng chiếu khắp, thường trụ ở trước mắt.

Vốn từ vô vi đến,

Lại từ vô vi đi.

Nay ngộ thân vô vi,

Thường trụ chỗ vô vi.

Âm :

Bổn tùng vô vi lai,

Hoàn tùng vô vi khứ.

Kim ngộ vô vi thân,

Thường trụ vô vi xứ.

*

Có vật trước trời đất,

Không hình vốn lặng yên.

Hay làm chủ muôn vật,

Chẳng theo bốn mùa dời.

Âm :

Hữu vật tiên thiên địa,

Vô hình bổn tịch liêu.

Năng vi vạn vật chủ,

Bất trục tứ thời diêu. 

Phó Ðại Sĩ

*

Có hình, giả chóng mất,

Không tướng, thật lâu bền.

Trời đất mặc tạo hóa,

Pháp thân thường trụ luôn.

Âm :

Hữu hình giả tốc vong,

Vô tướng thật cửu trường.

Càn khôn nhậm tạo hóa,

Pháp thân nguyên trụ thường.

*

Trước trời đất, mẹ cha chưa sanh,

Tịch quang tròn lặng ấy nguồn linh.

Rộng lớn vô vi trùm pháp giới,

Có duyên đáng độ ứng theo hình.

Âm :

Thiên địa phụ mẫu vị sanh tiền,

Tịch quang viên trạm thị linh nguyên.

Quảng đại vô vi chu pháp giới,

Ứng vật tùy hình độ hữu duyên.

*

Sáng siêu nhựt nguyệt vững như như,

Soi suốt càn khôn rực thái hư.

Phật với chúng sanh đều một tánh,

Tròn đồng không thiếu cũng không dư.

Âm :

Minh siêu nhựt nguyệt trấn như như,

Chiếu triệt càn khôn thước thái hư.

Phật dữ chúng sanh giai nhất tánh,

Viên đồng vô khiếm diệc vô dư.

*

Sáng ngời một kẻ chủ nhân ông,

Lặng yên chẳng động ở Linh cung.

Trong đây nếu được không ngăn ngại,

Bản thể thiên nhiên tự rỗng không.

Âm :

Hoàng hoàng nhất cá chủ nhân ông,

Tịch nhiên bất động tại Linh cung.

Ðản đắc thử trung vô quái ngại,

Thiên nhiên bản thể tự hư không.

*

Di Ðà tự tánh vốn như như,

Rỗng lặng sáng tròn rực thái hư.

Cha mẹ chưa sanh, mày mặt thật,

Trở về đâu chẳng gặp y ư ?

Âm :

Di Ðà tự tánh bổn như như,

Không tịch viên quang thước thái hư.

Phụ mẫu vị sanh chơn diện mục,

Ðông Tây qui khứ tất phùng cừ.

*

Quang minh lặng chiếu khắp hà sa,

Phàm Thánh đồng về chung một nhà.

Pháp tánh viên dung trùm sát hải,

Lặng trong thường trụ tát-bà-ha.

Âm :

Quang minh tịch chiếu biến hà sa,

Phàm Thánh đồng quy cộng nhất gia.

Pháp tánh viên dung chu sát hải,

Trạm nhiên thường trụ tát-bà-ha.

*

Một cái xưa nay, một cái không,

Trong không ẩn hiện thể lại đồng.

Không đầu không cuối không bờ mé,

Thường lặng sáng luôn thường biến thông.

Âm :

Nhất cá tùng lai nhất cá không,

Không trung ẩn hiện thể hoàn đồng.

Vô đầu vô vĩ vô biên tế,

Thường tịch thường quang thường biến thông.

*

Trong ánh tịch quang viên mãn giác,

Trên đảnh Tỳ-lô mặc tung hoành.

Hiện tại Như Lai luôn đối diện,

Tùy cơ cảm đến cứu quần sanh.

Âm :

Thường tịch quang trung viên mãn giác,

Tỳ-lô đảnh thượng nhậm tung hoành.

Ðương xứ Như Lai hằng đối diện, 

Tùy cơ phó cảm cứu quần sanh.

*

Tịnh độ rành rành ngay trước mắt,

Chẳng nhọc khảy tay đến Tây thiên.

Pháp thân trang trọng siêu ba cõi,

Hóa hiện Di Ðà ngồi chín sen.

Âm :

Tịnh độ phân minh tại mục tiền,

Bất lao đàn chỉ đáo Tây thiên.

Pháp thân nghiễm hỷ siêu tam giới,

Hóa hiện Di Ðà tọa cửu liên.

Hỏi: Ở trong ba cõi, trên trời dưới đất, cõi này phương khác, sáu đường bốn châu, quần sanh muôn loài, tất cả đều học Phật, chẳng biết thuở xưa Phật trước học ai mà chứng Bồ-đề, đời tôn là Phật ?

Ðáp: Phật vốn không học, do tỏ ngộ trí tự nhiên vô sư, pháp thân rộng lớn, tròn đồng thái hư, chân không trong lặng nhiệm mầu, lặng sáng không gì trên, cao vượt khỏi ba cõi, ngang khắp mười phương, suốt cả xưa nay, nghiễm nhiên thường trụ, vô vi vô tướng, chánh giác Bồ-đề, chẳng sanh chẳng diệt, ứng hiện còn mãi, tuyệt không gì sánh bằng, đời tôn là Phật. Lại nói: Phật là tánh giác, chúng sanh là tình mê. Phật giác ngộ pháp tánh tròn sáng, lóng trong, nhất như không tịch; chúng sanh thì mê tình vọng khởi mãi mãi thọ thân trong ba cõi. Nên kinh Lăng Nghiêm nói: "Thanh tịnh sẵn vậy, tại sao chợt sanh núi sông, quả đất ?".

Dạy rằng:

Chân tánh lóng trong, vốn không có mờ tối. Vọng từ không dấy lên mà cảm đến gió thức. Song do gió thức thổi cho tâm động, nhân tâm lay động mà kích phát thêm gió cảnh. Nhân gió cảnh nổi dậy mãnh liệt nên khởi vọng niệm. Do một niệm vọng sanh mà ba cõi bắt đầu thành lập. Ba cõi bên trong là sắc thân của ta; ba cõi bên ngoài tức là trời đất, thế giới, núi sông, quả đất, hết thảy muôn vật.

Giải rằng:

Thanh tịnh đến tột cùng thì sáng thông, đạt tịch và chiếu thì bao gồm cả hư không, rồi nhìn trở lại thế gian, giống như việc trong mộng. Pháp thân trong trẻo và lặng lẽ vốn không có nhơ sạch riêng khác, chân tánh lắng trong, đâu có Thánh phàm sai biệt. Ðều bởi có mê ngộ, đến nỗi khiến thành chẳng đồng. Kinh nói: Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có. Từ không mà khởi vọng, rồi vọng sanh mọi thứ sắc. Ðã trái với lẽ không sanh không hóa, lại hằng có hóa, có sanh. Trọn là buông tâm phóng chạy, hoàn toàn không giác tánh hồi quang, lấy huyễn làm chân, trái không theo sắc. Bản tánh chân như từ ban sơ, vốn tròn sáng, rỗng lặng vô vi, từ khi huyễn có sắc thân, vọng thức, mà kết nhân kết quả, vọng sự vọng lý, vọng tạo vọng làm, vọng nghiệp vọng duyên, vọng năng vọng sở, vọng tưởng vọng chấp, thấm thêm vào sự mê hoặc mà thành thân, đi đi lại lại, theo nghiệp thọ báo. Thức thần đã theo nghiệp, rồi theo nghiệp thọ thân, ra nơi này vào nơi kia, bỏ kia sanh đây, lên xuống trong sáu đường, qua lại nơi ba cõi lành dữ chẳng đồng, muôn loài sai khác, giàu sang nghèo hèn, tùyhạnhnghiệpsanh, chẳngphải không nhân mà mong được quả. Thế gian mộng huyễn, há được dài lâu ? Muốn chứng chân thường, hãy xuất gia theo Phật, học đạo vô thượng, vượt cao lên quả thù thắng. Ðạo vô thượng, tức là pháp tánh chân như. Nếu ngộ pháp tánh chân như, trong trẻo tròn đầy, rỗng rang vắng lặng, thì vọng tình dần dần dứt sạch, chánh giác trong sáng tròn thành, không xưa không nay, vượt cao lên ba cõi, chẳng sanh chẳng diệt, ngang khắp mười phương, tròn đồng thái hư, bình đẳng như vậy, hằng chứng Bồ-đe?

Thân Phật siêu ba cõi,

Tịch quang đầy thái hư.

Hiện hình trăng trong nước,

Mãi làm thầy trời người.

Âm :

Phật thân siêu tam giới,

Tịch quang mãn thái hư.

Hiện hình thủy trung nguyệt,

Vĩnh tác thiên nhân sư.

            Hỏi: Hai ngôi Phật và pháp, ngôi nào trước, ngôi nào sau ? Nếu nói Phật có trước, Phật này nương theo pháp nào mà được thành đạo nên gọi là Phật ? Nếu bảo pháp có trước, pháp này do Phật nào nói nên gọi là pháp ?

            Lại hỏi: Thế nào là Phật pháp trước sau ?

Ðáp: Phật vốn có trước pháp, cũng có sau pháp.

Hỏi: Thế nào là Phật pháp trước sau ?

            Ðáp: Nếu y cứ chân như thật tế, thì chân Phật không hình, tròn đồng thái hư, đối diện ở trước mắt, lặng sáng không gì trên, đây là Phật thật không hình tướng, Phật có trước.

            Lại nói:

Ta có một thân Phật,

Người đời ít kẻ biết.

Không một giọt tro bùn,

Không một điểm màu sắc.

Vàng ròng khó đúc thành,

Gỗ đá khó chạm khắc.

Thợ trời tạo chẳng nên,

Trộm đất trộm chẳng được.

Nước lửa chẳng can chi,

Nghiễm nhiên gió chẳng khác.

Lặng sáng đầy thái hư,

Ðoan nghiêm rất kỳ đặc.

Tròn sáng có một thân,

Hóa thân ngàn trăm ức.

Âm :
Ngô hữu nhấ? khu Phật, Thế nhân thiểu giả thức. Vô nhấ? trích hôi nê,

Vô nhấ? điểm thái sắc.

Hoàn kim nan đào dung,

Mộc thạch nan tạc khắc.

Thiên công tạo bất thành,

Ðịa đạo thâu bất đắc.

Thủy hỏa bất thường can,

Nghiễm nhiên phong bất thắc.

Tịch quang mãn thái hư,

Ðoan nghiêm thậm kỳ đặc.

Viên minh hữu nhấ? khu,

Hóa thân thiên bá ức.

Nên Thiền sư Xuyên Lão nói: "Phật vàng chẳng độ lò đúc, Phật gỗ chẳng độ lửa, Phật đất chẳng độ nước".

Ba Phật hình nghi chẳng phải chân,

Con ngươi trong mắt trước mặt xem.

Nếu hay biết được trong nhà báu,

Hoa núi chim kêu một dáng xuân.

Ứng Phật, Hóa Phật, đều không thật,

Bóng hình muôn thứ thảy là quyền.

Cái gì có tướng đều hư vọng,

Chân Phật không hình vốn tự nhiên.

Âm :
Tam Phật hình nghi tổng bất chân, Nhãn trung đồng tử tiền diện nhân. Nhược năng thức đắc gia trung bảo,

Ðề điểu sơn hoanhất vạn xuân.

Ứng Phật, Hóa Phật giai vô thật,

Ảnh tượng thiên bang tổng thị quyền.

Phàm sở hữu tướng giai hư vọng,

Chân Phật vô hình bổn tự nhiên.

            Hỏi: Thế nào Pháp có trước ?

Ðáp: Nếu y cứ pháp tánh tịch diệt, thì chân kinh không quyển, rỗng trơn bặt dấu vết, nghĩa ấy như sao trời sáng rực, lặng lẽ quên lời, biển chân giáo sóng bủa mênh mông, bao la pháp giới, lặng lẽ sáng soi tự tại, suốt tột xưa nay, dọc ngang khắp trời đất, đây là chân kinh không quyển, pháp có trước. Nếu y cứ pháp tịch diệt, đó là pháp trước Phật sau.

Kinh nói:

Các pháp từ xưa nay,

Tướng thường tự vắng lặng.

Phật tử hành đạo rồi,

Ðời sau được làm Phật.

Âm :
Chư pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng. Phật tử hành đạo dĩ,

Lai thế đắc tác Phật.

Tất cả chư Phật đều nhân nơi pháp tánh tịch diệt mà được thành Phật. Nên kinh Lăng Già nói: "Lìa tướng văn tự, lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng tâm duyên, dứt mọi hí luận, mới có thể chứng Phật". Nên biết, pháp tánh tịch diệt là thầy chư Phật, đây là pháp trước Phật sau. Vì vậy kinh nói: "Có Phật không Phật, pháp tánh vẫn thường trụ. Có kinh không kinh, pháp thân vẫn hằng như vậy". Một pháp mà có ngàn tên, ứng với duyên mà lập hiệu, chân Phật, chân kinh, pháp tánh pháp thân vốn đồng một thể, không có tướng khác. Nếu có người huệ lớn, trí bậc thượng, chóng ngộ chân không, pháp tánh như vậy, chân Phật không hình, chân kinh không quyển, chân đạo không lý, chân pháp không lời, sẽ sớm được viên chứng quả Bồ-đề.

Pháp thân thanh tịnh Phật vô tướng,

Tịch quang tròn lặng đồng hư không.

Hình nghi chẳng mượn dùng tiếng cầu,

Dung mạo dính gì với sắc pháp.

Muôn pháp đồng về biển tánh chân,

Một trần chẳng nhiễm vốn nguồn linh.

Rành rành hiển hiện chân thân Phật,

Lồ lộ Như Lai đối mặt luôn.

Âm :
Thanh tịnh pháp thân vô tướng Phật, Tịch quang viên trạm đẳng hư không. Hình nghi phi giả dĩ thanh cầu,

Dung mạo khởi quan ư sắc pháp.

Vạn tượng đồng qui chân tánh hải,

Nhất trần bất nhiễm bổn linh nguyên.

Ðường đường hiển hiện Phật chân thân,

Lộ lộ Như Lai thường đối diện.

Nếu luận về pháp văn tự đó là Phật trước, pháp sau. Vì sao ? Bởi chư Phật lúc tột ban đầu tu hành, là tự chứng căn bản trí tuệ, pháp tánh tịch diệt mà được thành Phật. Ðến khi thành Phật xong, mới nương nơi hóa thân trăm ức ở cõi biến hóa, vận dụng thần thông, thị hiện mọi thứ, sau đó nói rộng các thứ ngôn từ, các thứ thí dụ, các thứ cơ quan, các thứ nghĩa lý, sắn bìm lá bối, kết tập văn tự, nương sự mà đặt tên, kinh này luận nọ, sắp xếp thứ tự rồi gom lại làm từng quyển, thành tạng kinh mười hai bộ, rồi để lại lời dặn dò, lưu truyền ở đời, mở rộng phương tiện chỉ đường, chỉ lối mà tiếp hóa chúng sanh.Chúng sanh ban đầu nương theo kinh giáo mà xuất gia học đạo, minh tâm kiến tánh, thành công chứng quả, đây là Phật trước pháp sau. Nếu người lượng cao, đủ đại trí tuệ, liền chóng ngộ trí tự nhiên, không Phật, không kinh, không thầy, Pháp thân vốn rỗng lặng, cùng Phật bình đẳng, quán thật tướng của thân, quán Phật cũng vậy. Bởi, quán thật tướng của thân, tức là Pháp thân rỗng rang diệu hữu, Phật và ta đều vô tướng, trong lặng nhiệm mầu, nhấ? như, tròn đồng thái hư, chân không bình đẳng. Dù học ngàn kinh muôn luận, rốt ráo cũng không vượt ngoài lý này, cuối cùng là viên chứng Phật pháp thân.

Pháp giới bao trùm Cực lạc đường,

Ðến cùng biển giác sáng tròn chung.

Như như diệu trạm không thừa thiếu,

Bình đẳng Di Ðà chiếu mười phương.

Âm :
Pháp giới hàm dung Cực lạc đường, Ðáo đầu giác hải cộng viên quang. Như như diệu trạm vô dư khiếm,

Bình đẳng Di Ðà chiếu thập phương.

Kinh nói: "Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng". Ứng Phật, Hóa Phật, ba mươi hai tướng, trăm ức hóa thân, cho đến các duyên cảnh giới trang nghiêm, tất cả Như Lai thần thông thị hiện, quyền bày phương tiện tiếp dẫn chúng sanh, đều chẳng phải lý thật. Bởi lý rốt ráo chân thật tức là hư không, hư không tức là Như Lai, Như lai tức là không tịch, không tịch tức là Pháp thân, Pháp thân tức là Phật thân. Ðây chính là thân Phật, người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành.

Ứng, Hóa chư tôn chưa ra đời,

Pháp thân rỗng lặng sẵn vậy thôi.

Tự giác giác tha gọi là Phật,

Từ bi thuyết pháp lợi trời người.

Suốt tột xưa nay vốn như như,

Trong ánh tịch quang rực thái hư.

Trang trọng vượt lên danh tướng pháp,

Chân không đó Phật tự an cư.

Âm :
Ứng, Hóa chư tôn vị xuất tiền, Pháp thân không tịch bổn như nhiên. Tự giác giác tha danh viết Phật,

Từ bi thuyết pháp lợi nhân thiên.

Cùng kim tuyên cổ bổn như như,

Thường tịch quang trung thước thái hư.

Nghiễm hĩ việt siêu danh tướng pháp,

Chân không thị Phật tự an cư.

Vì vậy trong Chứng Ðạo Ca của Ðại sư Vô Tướng ở Vĩnh Gia nói:
Rành rành thấy không một vật, Cũng không người, cũng không Phật. Cõi cõi đại thiên bọt nổi trôi,

Tất cả Thánh hiền như điện chớp.

Âm :
Liễu liễu kiến vô nhất vật, Dã vô nhân dã vô Phật. Ðại thiên sa giới hải trung âu, 

Nhất thiết Thánh hiền như điện phất.

Chư Phật hiện ra đời là ứng hóa chẳng phải thật, chúng sanh huyễn khởi có danh tướng đều hư dối, phổ thỉnh đạo tràng thủy nguyệt, tỏ ngộ Phật sự không hoa. Thế nào là Phật sự không hoa ? Dạy rằng: Tướng không là thật tướng, thân không tức Pháp thân, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, không một vật, không thể nắm bắt, nếu gọi là một vật, lại chẳng trúng lý.

Có nói đều thành báng,

Không lời cũng chẳng dung.

Vì anh thông một lối,

Trời mọc núi đông hồng.

Âm :
Hữu thuyết giai thành báng, Vô ngôn diệc bất dung. Vị bỉ thông nhứt tuyến,

Nhật xuất lãnh đông hồng.
 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

Ông Bụt khóc Nghi lễ đời người theo Phật giáo vì sao tình yêu phai nhạt theo năm tháng ba giá trị đích thực của cuộc sống phật giáo đem lại lợi ích gì cho tuổi vì sao tình yêu phai nhạt theo năm tháng chưa giữ gìn tâm ý Hiếu hoÃƒÆ canh bi do ba gia tri dich thuc cua cuoc song ma chung ta can Tờ Đồng vi sao ta khong the dut ra duoc trong tinh yeu bình vì sao ta không thể dứt ra được trong thi盻 Người già o nghĩ tu trong tinh yeu quan the am bo tat la huynh de cua chung ta tinh yeu thuong danh cho ke thu Mùng tinh yeu chi co mot thất con nhung thu na na tinh yeu thi vo so còn những thứ na ná tình yêu thì vô số tình yêu chỉ có một thiên 無我 dong giac ngo la gi tinh yeu chan that la gi co hay khong bí quyết dạy con thông minh của người tình yêu chân thật là gì có hay không đừng quá dõi theo người khác mà đánh thảnh truyen thong xuat gia bao hieu trong phat giao nam tình yêu chân thật là gì có hay không tính truyền thống xuất gia báo hiếu trong chuong iii got đẻ NhÃƒÆ Sen mot cau chuyen dang suy ngam ve luc dao luan hoi một câu chuyện đáng suy ngẫm về lục