A. CHÁNH VĂN
a-01-01 Lời Tiểu Dẫn
a-01-02 Tựa
KỆ KIẾN TÁNH
a-03-01 Ðoạn 1 
a-03-02 Ðoạn 2 
a-03-03 Ðoạn 3 
B. GIẢNG GIẢI
b-01 Lời Tiểu Dẫn
TỰA
b-02-1 Ðoạn 1
b-02-2 Ðoạn 2
b-02-3 Ðoạn 3
KỆ KIẾN TÁNH
b-03-1 Ðoạn 1
b-03-2 Ðoạn 2
b-03-3 Ðoạn 3 
b-03-4 Ðoạn 4 
b-03-5 Ðoạn 5 
b-03-6 Ðoạn 6 
b-03-7 Ðoạn 7 
b-03-8 Ðoạn 8 
KẾT THÚC
b-03-9 Kết Thúc
cx
KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT
Biên Soạn: Thiền Sư Chân Nguyên 
Dịch Giải: Hòa Thượng Thích Thanh Từ
A.CHÁNH VĂN
III- KỆ KIẾN TÁNH 

(Ðoạn 3)

              Chư Phật giáo hóa chúng sanh, ví như bà dạy cháu, tùy cơ mà ẩn hiện. Phương tiện có nhiều thứ. Cho nên nuôi cơm là thương con trẻ, nước uống là ngừa nó khát. Gượng gọi tên là Phật, là Tổ, là Thiền tông, là chỉ thú, là hư không pháp thân, là thật tướng vô tướng. Thật tướng vô tướng, là vượt lên tên gọi và hình tượng, thể vốn vô sanh, nhưng vì gượng nêu tên để chỉ bày cho người sau. Vì vậy nói: Pháp thân lồ lộ, thật tướng rành rành, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, bao gồm cả trời đất, suốt thấu cả núi sông, đối diện ngay trước mặt, chân thật rỗng rang mênh mông, viên dung cả pháp giới, trong lặng như như, không tướng không tên, không lời không nói, chẳng sanh chẳng diệt, không đến không đi, ứng vật hiện hình như trăng trong nước. Tùy duyên ứng ra hình chất, thì mượn sắc mà thành hình; nương theo loại mà hóa thân, thì quán âm thanh nói rộng giáo pháp. Nói năng bày tỏ nơi lá bối, là chân ngôn mà chẳng phải chân ngôn; tướng hiển hiện nơi hoa sen, nếu có tướng thì đâu từng có tướng. Xưng Phật xưng Tổ, trị kẻ dưới mà tạm mượn tên; rất diệu rất huyền, tối thượng vô tướng; thường lạc ngã tịnh, tột lý mà chứng biết; pháp thân vô vi, vượt lên trên Phật Tổ; tên Phật hiệu Tổ cũng là giả danh; pháp tánh chân không, trọn không một vật. Người học tham Thiền thấu đến tột cùng, nên nói đã thấu đến chỗ ruộng đất cố hương, đã được chỗ an thân lậpmạng, chỗ thường lạc ngã tịnh, chỗ sanh tử chẳng dính dáng. Ruộng đất cố hương, là chỗ rỗng thênh bát ngát, đến ruộng đất ấy, thì một chữ Phật cũng là vật ở bên ngoài căn trần. Như vậy, Phật còn không đắm trước, huống nữa là chân như Phật tánh, Bồ-đề Niết-bàn, chỗ nào có được ? Thấu tột, thấu tột rành rành không một vật, thì không phàm Thánh, không thứ lớp, không danh tướng, không thềm bực, không số kiếp, không giờ khắc, không tôn ti, không xưa không nay, không được không mất, không một không hai, không phải không quấy, không tịnh không loạn, không sanh không tử, không Phật không chúng sanh, không bờ mé không làm ra, không tu không chứng; không thường không trụ và chẳng không thường trụ, vốn không Niết-bàn, chẳng phải chẳng không Niết-bàn, vốn không thành Phật và chẳng không thành Phật; cũng không tỏ rõ trong cái tỏ rõ, cũng không trong lặng trong cái trong lặng, cũng khôngcáithểtronglặng, cũng không cái dụng trong lặng; cũng không thế ấy nói cái trong lặng, cũng không thế ấy thọ cái trong lặng; ba cái không đều không, chỉ một cái trong lặng tròn đầy, mà một cũng chẳng một, nguồn trở lại nguồn. Nên biết trong không vốn chẳng hoa, Vì kẻ mê, quyền hiện Thích Ca.

Ðem sắc thanh cầu trọn chẳng thấy,

Xưa nay chân thật tự nơi ta.

Âm :

Tu tri không lý bổn vô hoa,

Quyền vị mê lưu hiện Thích Ca.

Dĩ sắc thanh cầu chung bất kiến,

Nguyên lai chân Phật bổn phi tha.

*
Vốn tự nhiên thành chẳng tạc điêu, Chống trời chỏi đất mặc tiêu diêu. Xưa nay Chánh giác không một vật,

Toàn thân chẳng dính mảy tơ hào.

Âm :

Bổn tự viên thành bất giả điêu, 

Trú thiên trú địa nhậm tiêu diêu.

Chánh giác bản lai vô nhứt vật,

Thông thân bất quải nhấ? ty hào.

*
Giơ hoa niêm cú gạt người thôi, Muôn pháp không hoa chẳng kéo lôi. Tông, giáo cùng quên đều chẳng đắm,

Nguồn linh tự tại mặc thảnh thơi.

Âm :

Niêm hoa niêm cú cộng tha man,

Vạn pháp không hoa tổng bất can.

Tông, giáo lưỡng vong câu bất nịch,

Linh nguyên tự tại nhậm thanh nhàn.

*
Theo rỗng tiếp vang đều chẳng thật, Không hoa mắt bệnh tùy vọng sanh. Cội nguồn diệu thể không chỗ trụ,

Chân như tự tại mặc tung hoành.

Âm :

Thừa hư tiếp hưởng giai phi thật,

Bệnh nhãn không hoa trục vọng sanh.

Diệu thể bản nguyên vô sở trụ,

Chân như tự tại nhậm tung hoành.

*
Trên đảnh Tỳ-lô vui quá chừ, Trong ánh tịch quang không vật dư. Tức sắc tức không thật rành rõ,

Chẳng tâm chẳng Phật tự như như.

Âm :

Tỳ-lô đảnh thượng lạc vô dư,

Thường tịch quang trung nhấ? vật vô.

Tức sắc tức không chân liễu liễu,

Phi tâm phi Phật tự như như.

*
Chư Tôn ứng hóa thảy vọng duyên, Pháp thân thanh tịnh rộng vô biên. Ngàn sông có nước, ngàn sông nguyệt,

Muôn dặm không mây muôn dặm thiên.

Âm :

Ứng hoá chư Tôn đẳng vọng duyên,

Pháp thân thanh tịnh quảng vô biên.

Thiên giang hữu thủy, thiên giang nguyệt,

Vạn lý vô vân vạn lý thiên.

Pháp kệ : Xem phá sắc tướng của Tam Giáo 

Chẳng Nho chẳng Phật cũng chẳng Tiên, Vò lại một viên rỗng lặng tròn. Chùy nhọn thân hùng thông một điểm,

Kiếm sắc huơi rơi rõ tam huyền. (Phật, Nho, Tiên)

Trong mơ hòn bọt chia ranh giới,

Giữa luồng điện chớp bày Thánh hiền.

Muôn pháp ngàn tông đều là huyễn,

Một thoi nát sạch Tổ sư Thiền.

Thân đồng cõi hư không,

Bày pháp bằng hư không.

Khi chứng được hư không,

Không pháp không phi pháp.

Pháp kệ: Lãm phá Tam giáo sắc tướng 

Phi Nho phi Phật diệc phi Tiên, Niết tựu nhất đoàn không tịch viên. Chùy dĩnh hùng thân thông nhất điểm,

Kiếm mang huy lạc liễu tam huyền.

Phù âu mộng lý phân cương giới,

Thiểm điển quang trung liệt Thánh hiền.

Vạn pháp thiên tông đô thị huyễn,

Nhất kình phá tận Tổ sư Thiền.

Thân đồng hư không giới,

Thị đẳng hư không pháp.

Chứng đắc hư không thời,

Vô thị vô phi pháp.

Hỏi: Thế nào là trên trời dưới đất, trong cõi nhân gian, quần sanh muôn loài, hết lòng cung kính, tôn xưng chư Phật, gọi là Giác Hoàng ?

Ðáp: Phật là bậc thầy trong ba cõi, cha lành nơi bốn loài, đức to vòi vọi, hùng tôn bát ngát, quả chứng ba vô số kiếp, ân thấm cả chín loài, ba thân tròn hiển, mười hiệu cùng bày, đến Thánh thì làm vua trong muôn Thánh, làm Phật thì sáu thông tự tại, chín loài tối tăm đều được thấm nhuần, ba cõi đều tôn quí, đại bi đại nguyện, đại lực đại hạnh, khắp tiếp cả trời người, sang hèn đều dẫn dắt, ứng hóa trên trời, cõi người, cứu độ cõi này phương khác, quần sanh đều lợi lạc, tất cả đều nương về, vì vậy tôn Phật là "Giác Hoàng".

Bởi vì sao ? Vì nhân tu rộng lớn nên trăm ngàn công đức đã trang nghiêm, quả chứng chí tôn thì ở trên cả trăm ức hóa thân. Ðại nguyện của chư Phật, khi ra đời thường thị hiện làm vua. Làm Phật thì ba cõi đều tôn kính, làm vua thì muôn nước đều qui phục, là thảy do công phu tu hành từ nhiều kiếp, và nhân duyên phước huệ, lo cứu giúp cho mọi người.

Lại hội lý rằng:

Giác là rất to, rất rộng, pháp tánh tròn sáng, chánh giác Bồ-đề. Hoàng là rất tôn, rất quí, ngôi vị độc tôn hết mức, là bậc đế vương trang trọng. Trong các kinh vẫn thấy Phật Phật hiện làm vua, việc xưa cũng truyền nghe vua vua thành Phật. Nên biết, chư Phật số cát sông Hằng, mỗi vị cũng thường thị hiện làm thân đế vương. Và nên biết, ở cung vua mà ứng ra đời trong cửa Phật, thì nước Việt lại thấy triều Lê, niên hiệu Chính Hòa, Ðức Giác Hoàng trí Phật thiên nhiên, biển huệ tròn sáng, trang trọng ngự giữa đài hoa mà hiển dương Phật pháp. Cây Bồ-đề lớn cao, bóng che mát cả mười phương, hoa ưu bát nở ra, sáng rực đến muôn đời. Quần sanh đều được độ, khắp nơi thấm ơn sâu, đời tôn xưng là chân Phật Hoàng.

Rỗng toang Phật tánh tợ hư không,

Thị hiện thân vua thể cũng đồng.

Quyền thật sáng ngời gồm mọi lý,

Mở mang Phật pháp độ quần mông.

Âm :
Hoát nhiên Phật tánh đẳng hư không, Thị hiện vương thân thể diệc đồng. Quyền thật tinh quang bao chúng lý,

Hiển khai Phật pháp độ quần mông.

Trước kia, vua Ðường Thuận Tông hỏi Ðại sư Phật Quang:
Phật từ phương nào đến ? Diệt trở về nơi đâu ? Ðã nói thường trụ thế,

Nay Phật ở chỗ nào ?

Âm :
Phật tòng hà phương lai ? Diệt hướng hà phương khứ ? Ký ngôn thường trụ thế,

Phật kim tại hà xứ ?

Ðại sư Phật Quang đáp:
Phật từ vô vi đến, Diệt trở về vô vi. Pháp thân đồng hư không,

Thường ở chỗ không tâm.

Có niệm về vô niệm,

Có trụ về vô trụ.

Ðến vì chúng sanh đến,

Ði vì chúng sanh đi.

Biển chân như thanh tịnh,

Tròn lặng thể thường trụ.

Người trí khéo tư duy,

Lại chớ sanh nghi ngờ.

Âm :
Phật tòng vô vi lai, Diệt hướng vô vi khứ. Phật thân đẳng hư không,

Thường tại vô tâm xứ.

Hữu niệm qui vô niệm,

Hữu trụ qui vô trụ.

Lai vị chúng sanh lai,

Khứ vị chúng sanh khứ.

Thanh tịnh chân như hải,

Trạm viên thể thường trụ.

Trí giả thiện tư duy,

Cánh vật sanh nghi ngại.

Vua lại hỏi:
Phật từ vương cung sanh, Diệt về Song Lâm diệt. Trụ thế bốn chín năm,

Lại bảo không pháp nói ?

Núi sông và biển cả,

Trời đất với nhật nguyệt,

Thời đến đều tiêu tan.

Ai rằng không sanh diệt ?

Nghi tình còn như trên,

Người trí khéo phân biệt.

Âm :
Phật tù?g vương cung sanh, Diệt hướng song lâm diệt. Trụ thế tứ thập cửu,

Hựu ngôn vô pháp thuyết.

Sơn hà cập đại hải,

Thiên địa cập nhật nguyệt.

Thời chí giai qui tận,

Thùy vân bất sanh diệt ?

Nghi tình du nhược tư,

Trí giả thiện phân biệt.

Ðại sư Phật Quang đáp:
Thể Phật vốn vô vi, Tình mê vọng phân biệt. Pháp thân đồng hư không,

Chưa từng có sanh diệt.

Có duyên Phật ra đời,

Hết duyên Phật nhập diệt.

Nơi nơi độ chúng sanh, 

Giống như trăng trong nước.

Chẳng thường cũng chẳng đoạn,

Chẳng sanh cũng chẳng diệt.

Sanh cũng chưa từng sanh,

Diệt cũng chưa từng diệt.

Tỏ ngộ chỗ không tâm,

Tự nhiên không pháp nói.

Âm :
Phật thể bổn vô vi, Me?tình vọng phân biệt. Pháp thân đẳng hư không,

Vị tằng hữu sanh diệt.

Hữu duyên Phật xuất thế,

Vô duyên Phật nhập diệt.

Xứ xứ hóa chúng sanh,

Du như thủy trung nguyệt.

Phi thường diệc phi đoạn,

Phi sanh diệc phi diệt.

Sanh diệc vị tằng sanh,

Diệt diệc vị tằng diệt.

Liễu ngộ vô tâm xứ,

Tự nhiên vô pháp thuyết.

Vua nghe Sư giảng hoát nhiên ngộ đạo, tôn trọng Thiền tông.

Kinh nói: "Tâm ta như nước, Di Ðà như trăng, nước trong thì trăng hiện, chẳng cần người khác nói". Trăng dụ Pháp thân, bóng dụ Hóa thân, trong và đục dụ nhiễm và tịnh. Nước trong trăng hiện, trăng cũng chẳng đến. Nước đục trăng ẩn, trăng cũng chẳng đi. Chỉ do nước có trong đục, chẳng phải bảo trăng có đến đi. Trong pháp cũng như vậy, tâm sạch thì thấy Phật, chẳng phải là Phật đến, tâm nhơ thì chẳng thấy, chẳng phải là Phật đi. Bởi do chúng sanh có nhơ sạch, chẳng phải bảo chư Phật có ẩn hiện. Lý rốt ráo tột cùng, cực tắc tuyệt diệu thì Pháp thân vốn rỗng lặng, tròn đồng thái hư, không đi không đến, không nơi không chốn, tùy cơ mà cảm đến, ứng hiện tự tại, nên gượng gọi là Như Lai.

Chánh giác không nơi đến,

Ði cũng không chỗ nào.

Thân thanh tịnh diệu sắc,

Do thần lực hiển hiện.

Phật thân rỗng lặng trùm pháp giới,

Rõ ràng trước mắt quần sanh loại.

Tùy cơ cảm đến khắp mọi nơi,

Tự do ứng hiện đều vô ngại.

Âm :

Chánh giác vô lai xứ,

Khứ diệc vô sở tùng.

Thanh tịnh diệu sắc thân,

Thần lực cố hiển hiện.

Phật thân không tịch biến pháp giới,

Ðường đường đối nhãn quần sanh loại.

Tùy cơ phó cảm mỵ bất chu,

Tự như ứng hiện lực vô ngại.

Kinh nói: "Thân pháp giới thanh tịnh vốn không có ra vào, sức bổn nguyện đại bi thị hiện như hoa trong không". Bởi thị hiện có ra vào là ở cơ duyên, cơ duyên ứng thì hiện ra trong cung vua Tịnh Phạn, cơ duyên hết thì ở dưới gốc Sa-la(1) vào Niết-bàn. Do vì nước trong sạch vô tâm mà không hình tượng nào chẳng hiện. Hình tượng chẳng phải là ta vốn có, đây là hoa đốm trong không thuộc vật bên ngoài. Tướng chẳng phải là thân Phật, há Như Lai có ra vào ?

Ðó gọi là thân Phật vô vi, đầy khắp cả pháp giới, thanh tịnh tròn sáng, trong lặng thường trụ. Chân Phật thì vô tướng, vốn không có lý Niết-bàn. Quyền Phật thì giả hiện, huyễn có việc ứng hóa. Nghĩa Niết-bàn tức là Pháp tánh của chư Phật, chẳng sanh chẳng diệt, nên nói Niết-bàn không đi không đến, gọi là Pháp thân Như Lai thường trụ, trong suốt rỗng lặng, không dấu vết, không tạo tác, không uống ăn, không tóc da. Thân Như Lai tức là Pháp thân, rỗng lặng, linh thông, chân không tự tại, chẳng phải từ máu thịt, xương tủy làm thành. Nên biết, Phật tánh tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, chân không diệu hữu, không sanh không diệt, không đi không đến, chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai, ba đời đều bình đẳng, một thể rỗng rang, suốt tột xưa nay, vẫn hằng như vậy. Vì thế gọi đó là thường trụ chẳng đổi. Chân thân của Như Lai vốn không sắc tướng, tùy thuận chúng sanh mà thị hiện sắc tướng. Pháp thân Như Lai vốn không có Niết-bàn, tùy thuận chúng sanh mà thị hiện Niết-bàn. Việc ứng duyên đã xong thì bỏ thân hoa đốm trong không, như con ve lột xác, như con rắn lột da, quay về căn mệnh, trở lại cội nguồn, lặng lẽ không tiếng tăm, mé chân thật trong trẻo tròn đầy, rành rành soi khắp, đối ngay trước mắt, ẩn hiện cùng bày, sắc không chẳng hai. Do vì quần sanh ở mười phương thế giới, trên trời dưới đất, hình loại đều khác, ngôn ngữ chẳng đồng mà Như Lai đại bi dùng thần lực hóa thân, tùy loại thị hiện, tùy hình tướng, tùy ngôn ngữ, tùy âm thanh của chúng, mở rộng phương tiện để thuyết pháp giáo hóa, khiến cho họ sáng tỏ bản tánh, mỗi loài đều được giải thoát. Thật là thân Như Lai thì trong suốt rỗng lặng. Nên nói, chẳng thấy có không tức thấy chân thân Phật. Ðối với chân thân Phật thì trọn chẳng thể được. Chỉ cái tin tức ấy, ba đời chư Phật nói chẳng kịp, nhiều đời Tổ sư truyền chẳng đến. Ðã nói chẳng kịp, lại truyền chẳng đến, thì Thích Ca, Di Lặc cũng là tên suông. Thích Ca, Di Lặc đã là tên suông, gọi cái gì là chủ ? Gọi cái gì là khách ? Gọi cái gì là tông ? Gọi cái gì là chỉ ? Gọi cái gì là sanh tử ? Gọi cái gì là Niết-bàn ? Gọi cái gì là xưa ? Gọi cái gì là nay ? Ðã không sanh lại không diệt, trước không xưa, sau không nay, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, trong trẻo rỗng lặng, tròn đồng với thái hư, thân vốn là Phật, vẫn hằng như vậy. Thân Phật như vậy, thân ta cũng như vậy, ngay khi độ chúng sanh mà dứt trừ tưởng độ, xoay lại tâm vô vi hướng đến đường Niết-bàn, bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có, một tánh tròn sáng, còn mãi với trời đất, bản tánh trong lặng, ngang bằng với Phật, rốt ráo viên dung, đồng vào một thể.

Pháp tánh Như Lai không một vật,

Ứng độ quần sanh việc cả trăm.

Nếu ngộ chân không, luôn đối mặt,

Như Lai thường trụ ở Linh Sơn.

Âm :
Pháp tánh Như Lai vô nhất vật, Ứng độ quần sanh hữu bách ban. Nhược ngộ chân không hằng địch diện,

Như lai thường trụ tại Linh Sơn.

Khiến người người xuất gia theo Phật, lý nên chọn bạn tìm thầy, nếu không thầy bạn, lấy gì tiếp dẫn ? Xem kinh mà mê mờ lý thì luống tự nhọc nhằn, đếm chữ tìm hàng thì chẳng rõ tông chỉ. Chẳng rõ tông chỉ thì chẳng cùng tột văn lý, chẳng cùng tột văn lý thì đâu thể giải thoát !

Học đạo không tông chỉ,

Thấy nhiều chẳng bằng mù.

Tìm sáng chẳng biết báu,

Luống nhọc tròng mắt mình.

Âm :
Học đạo vô tông chỉ, Ða kiến bất như manh. Tầm quang bất thức bảo,

Ðồ lao tự nhãn tình.

*
Cửa không chẳng chịu ra, Quá ngu chui cửa sổ. Giấy cũ trăm năm dùi,

Bao giờ được ra khỏi.

Âm :
Không môn bất khẳng xuất, Ðầu song dã thái si. Bách niên tán cổ chỉ,

Hà nhật xuất đầu thì ?

*
Người nay học đạo chẳng rõ chân, Chỉ bởi từ lâu nhận thức thần. Vô lượng kiếp rồi gốc sanh tử,

Kẻ si gọi đó bổn lai nhân.

Âm :

Học đạo chi nhân bất thức chân,

Chỉ vị tùng tiền nhận thức thần.

Vô lượng kiếp lai sanh tử chủng,

Si nhân hoán tác bổn lai nhân.

*
Có pháp có tâm còn vọng thức, Không cầu không được chứng chân như. Chân vọng hai đầu đều phá sạch,

Một luồng sáng lạnh rực thái hư.

Âm :
Hữu pháp hữu tâm tồn vọng thức, Vô cầu vô đắc chứng chân như. Chân vọng lưỡng đầu câu đả phá,

Nhất đạo hàn quang thước thái hư.

Cho nên kinh Bát-nhã nói: "Không trí cũng không đắc; do vì không chỗ được". Nếu trí vô phân biệt thì làm hại cái thấy có thấy không. Trí vô phân biệt thì trọn chẳng thể được. Tại sao không thể dùng trí đoạn trí? Chẳng thể dùng kiếm lại chặt kiếm.

Hội rằng:

Kiếm tự hại kiếm, kiếm kiếm hại nhau, tức kiếm cũng chẳng thể được. Trí tự hại trí, trí trí hại nhau, tức trí cũng chẳng thể được. Mẹ con đều mất, cũng lại như thế.

Ðây là chỗ nói rằng chỉ thẳng rốt ráo, chân như thật tế, hướng thượng vô niệm, thành Phật làm Tổ, chỉ ngại kẹt nơi tên nhơ. Sao vậy ? Vì chẳng lìa tâm có. Nếu tình phàm Thánh hết, năng sở đều lặng, một niệm chẳng sanh, thẳng đến địa vị Như Lai trong lặng nhiệm mầu, biển giác lặng lẽ, là đất Cực-lạc vậy.

Nên Cổ đức nói: Trên chẳng thấy có chư Phật, dưới chẳng thấy có chúng sanh, ngoài chẳng thấy có núi sông, đất đai, trong chẳng thấy có cái thấy nghe hiểu biết tốt xấu, dài ngắn, nhồi thành một mảnh, mỗi mỗi đưa ra, trọn không cái thấy khác. Lý ấy vi diệu, sâu xa không gì trên, học giả tri âm thì có thể thông suốt. Chỉ Phật với Phật mới hay xét tột, thật tướng các pháp đến chỗ rốt ráo, thì văn tự cũng chẳng thể được, ngôn ngữ cũng chẳng thể được, thức pháp cũng chẳng thể được, đối đãi cũng chẳng thể được, bặt đường cơ quan nguy hiểm, cùng tột trí phân biệt bén nhạy, Bát-nhã cũng chẳng thể được, tịch chiếu cũng chẳng thể được, bèn chẳng phải vô sự sanh sự, liền là có cành vin cành. Ðến như ba đời chư Phật, chánh pháp lưu hành, lần lượt truyền trao cho nhau: chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, chẳng lập văn tự.

Nay lập văn tự là mở thông một lối để tiếp dẫn cho người hậu học. Niết-bàn không có hai lối, phương tiện thì có nhiều cửa. Do đó Phật nói Tiểu thừa, Ðại thừa, kinh có đốn giáo, tiệm giáo. Nên biết, ngàn kinh muôn kinh chỉ là một kinh, ngàn pháp muôn pháp chỉ là một pháp, ngàn lời muôn lời chỉ là một lời, ngàn câu muôn câu chỉ là một câu, ngàn thể muôn thể chỉ là một thể, ngàn tôngmuôn tông chỉ là một tông, ngàn phái muôn phái chỉ là một phái, ngàn nguồn muôn nguồn chỉ là một nguồn. Nếu thông suốt nguồn linh, thì rõ một chẳng phải một; thấu suốt chánh pháp thì gọi là đắc pháp. Huyền chỉ của Bát-nhã, lấy không chỗ được mà tự được, tạm vì giáo hóa chúng sanh mà nêu bày tên "đắc pháp" và để lời dặn dò: - Bậc tông sư đời sau hãy ngầm xem hàng môn đồ, lựa chọn trong các đệ tử, ai là người có đức hạnh, giống trí mầm linh, thật tâm xuất gia, kính nhận và vâng theo lời dạy, ngộ sâu lý tánh, hiếu thuận chân tu, được người như thế, có thể trao tâm ấn.

Thấy cùng thầy bằng,

Gần thầy bảy phần.

Ðược người như thế,

Mới đáng truyền trao.

Âm :
Kiến dữ sư tề, Á sư thất phần. Ðắc như thị nhân,

Nãi khả truyền thọ.

Xét tâm ấn của chư Phật hẳn chẳng lừa nhau, Pháp thân rỗng lặng tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, không được không mất, không thêm không bớt, không trao không truyền, vì đối ngoại duyên mà giả lập tên "ấn" đó thôi. Vì vậy trong kinh Pháp Bảo Ðàn, Tỳ-kheo Pháp Hải thưa hỏi Lục Tổ rằng: "Chư Phật ứng ra đời số được bao nhiêu ?". Lục Tổ Huệ Năng chỉ dạy Tỳ-kheo Pháp Hải: "Chư Phật ứng ra đời số như cát sông Hằng, danh tướng không cùng, khó thể tính  kể. Nay  đem  bảy  đức  Phật Tông  sư  làm  thủy  tổ  chúng  ta". Do đó, ba đời chư Phật, pháp ấn như thế, đến cuối cùng nơi hải ấn thì thầm trao đèn tâm, bốn mắt nhìn nhau, im lặng ấn chứng. Do được như thế mà nhiều đời Tổ sư bốn mắt nhìn nhau, im lặng ấn chứng. Do được như thế nên Truyền Ðăng Ngữ Lục ghi: Ðại sư Ðạt-ma ngầm nói lời dặn dò Tổ Huệ Khả rằng: "Xưa đức Thích Ca Như Lai đem chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm phó chúc cho Tổ Ca-diếp, lưu truyền mấy mươi đời, đến tôn giả Bát-nhã-đa-la truyền trao cho ta. Nguyên ta đã được pháp ấn ở Tây Thiên, vâng theo bậc trên đến truyền bá tâm tông nơi Ðông độ, nên đạp cành lau qua biển đến đây. Thấy ngươi một lòng tinh thành, có khí tượng đại thừa nên truyền tâm ấn cho ngươi. Ngươi hãy nối chí thuật lại việc này, thể nhận tâm ta mà bền vững hộ trì chớ để cho đoạn dứt. Lại trao cho ngươi một chiếc ca sa pháp phục, với bốn quyển kinh Lăng Già để làm pháp tín, che chở cho Thiền tông phát triển. Trong thì truyền pháp ấn để khế hợp tâm chứng, ngoài trao ca sa để định tông chỉ, tránh cho người đời sau khắt khe, sanh nhiều nghi ngờ, bảo rằng: - Ta vốn là người phương Tây, ngươi là kẻ ở phương Nam, từ đâu mà được pháp ? Lấy gì làm bằng chứng truyền trao tâm ấn cho ngươi ? Chính y bát, kinh pháp dùng để tiêu biểu mở mang giáo pháp, rộng độ chúng sanh. Sau khi ta diệt độ, khoảng hai trăm năm, y nên dừng chẳng truyền nữa. Lúc này pháp đã khắp giáp mọi nơi, người hiểu đạo thì nhiều, người hành thì ít, người nói lý thì nhiều, người thông lý thì ít, ngầm hợp thầm chứng có hơn ngàn muôn người, ngươi hãy xiển dương chớ khinh người  chưa ngộ, một niệm hồi cơ liền đồng với sẵn được.

Nghe ta nói kệ:
Ta vốn đến xứ này, Truyền pháp cứu mê tình. Một hoa nở năm cánh,

Kết quả tự nhiên thành.

Âm :
Ngô bổn lai tư độ, Truyền pháp cứu mê tình. Nhất hoa khai ngũ diệp,

Kết quả tự nhiên thành.

Kệ chứng cớ xưa:
Ca-diếp ban sơ y bát truyền, Bao đời Bát-nhã nhận dòng Thiền. Ða-la trao đèn truyền ta đó,

Ta gởi sáng thừa con tiếp duyên.

Âm :
Trưng cổ kệ 
Ca-diếp sơ ưng y bát truyền, Nguyên lưu Bát-nhã kỷ kinh niên. Ða-la phục bả đăng truyền ngã,

Ngã yết dư quang thác tử duyên.

Kệ truyền kinh:
Bốn quyển Lăng Già trao lại con, Như Lai tâm địa pháp mãi thơm. Chúng sanh dùng đó vì khai thị,

Khiến họ chóng liền tỏ ngộ sâu.

Âm :

Truyền kinh kệ
Thọ tử Lăng Già tứ quyển kinh, Như Lai tâm địa pháp môn liêm. Chúng sanh dụng thử vi khai thị,

Linh bỉ xâm xâm diệu ngộ thâm.

Song thường trụ ở thế gian, thể tánh như như, viên giác rỗng lặng, gọi đó là Phật. Sáng tỏ tâm tông của Phật, hiểu và làm ứng hợp với nhau gọi đó là Tổ. Phật Tổ chỉ một lý không sai khác.

Lại nói:

Ðạt đạo lớn chừ quá lượng,

Thông tâm Phật chừ khó lường.

Chẳng cùng phàm Thánh chung nha?a NAME="_ftnref2" style="mso-footnote-id:ftn1" href="#_ftn2" title>(2),

Vượt lên gọi đó là tổ.

Âm : 

Ðạt đại đạo hề quá lượng,

Thông Phật tầm hề xuất độ.

Bất dữ phàm Thánh đồng miên,

Siêu nhiên danh vi viết Tổ.

Tôi (Chân Nguyên) xem trong kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng thuật: "Phật Phật chỉ truyền pháp tánh, sư sư thầm trao bản tâm, y bát thuộc vật bên ngoài, là đầu mối cho sự tranh giành, hãy dừng việc ấy chớ truyền nhau nữa". Lại thấy cơ thần ý mật, Ca-sa chia làm ba: một tấm thường mặc theo mình. Một tấm đắp cho ảnh tượng. Một tấm cất chứa kỹ trong chùa. Theo nguyện lớn lại nói lời sấm ký rằng: "Ðời sau này ai được tấm y, thì đây là đạo của ta trở lại nơi đời". Có vị tăng Duy Tiên ở trong chùa, sửa sang xây dựng lại điện vũ, tình cờ phát hiện được tấm Ca-sa, pháp phục vẫn được rực rỡ như ban đầu. 

Nên biết, trí lực của Phật Tổ rất rộng sâu, vận dụng cơ thần ẩn hiện khó lường, thường tự đối diện trước mắt, không sắc viên dung, ra đời độ sanh, ứng khắp mọi nơi, diệt và chẳng diệt thảy là phương tiện, tượng giáo hiển dương, Phật Phật đều như vậy.

Từ trước, Phật Phật Tổ Tổ, đời đời tiếp nối nhau đều cùng chung bốn mắt nhìn nhau, thầm trao tâm ấn, như thế mà được, ta cũng như thế mà được, chư huynh đệ thiện tri thức cũng như thế mà được, cho đến hữu tình, vô tình thảy đều cũng như thế mà được. Tỏ ngộ pháp tánh vốn rỗng lặng, chỉ trí chứng biết, nói năng chẳng kịp, tâm ấn như như, xưa nay một lý, người thấu suốt đồng như vậy. Trong Ngũ Ðăng Hội Nguyên, ngàn muôn Tổ sư đều dùng bốn mắt nhìn nhau, thầm trao tâm ấn mà truyền y thừa tiếp làm Tổ, mồi đèn tiếp lửa, nối Tổ truyền tông. Chính kinh Lăng Già là tâm ấn của Như Lai hiển lộ ở quyển hai. Bốn mắt nhìn nhau, Sơ Tổ Ðạt-ma vượt biển đem đến. Người học về sau có nghi ngờ, hãy quán rõ thật chứng.

Chân Nguyên kính vâng theo, mở mang tâm tông của Phật. Kinh nói: "Chẳng phải bậc Ðại Thánh vô cớ mà mở ra giáo pháp, bởi có duyên từ xưa mới có thể tỏ ngộ tông chỉ. Ai là người hội được tâm tông, thật chính là con Phật, mồi đèn nối pháp, tiếp độ quần sanh, diệu tâm Niết-bàn, đại ấn vô tướng".

*


(1) Bản chữ Hán là Bồ-đề thọ.
(2) Bản này là chữ miên, nếu dịch chung ngủ thì khó hiểu, nên dịch là chung nhà, tức là chung một chỗ.
c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

cúng dù 宗教法人解散認証申請 司法書士提出 願力的故事 妙蓮老和尚 放下凡夫心 故事 nhin thau la tri hue chan that phan 1 Các loại thực phẩm có lợi và hại cho Thở Bảo tây phương đã tiếp nhận đạo phật 五痛五燒意思 CÃƒÆ kho nét cua Quan điểm của Phật giáo về nghèo Lâm Đồng Lễ tưởng niệm Phật hoàng hạnh thanh kỷ trien cây khô héo mới là tốthay xanh tươi chậm với chính mình bí quyết dạy con thông minh của người ấm tuong phat tu co nen deo trang suc gan hinh phat hay Làm việc theo ca ảnh hưởng xấu đến góc Phật giáo day Linh tai sao doi tu an do giao sang phat giao lai la Hà Nội Tưởng niệm cố Trưởng lão la 首座 nÃu thành chuyến æ loi to su xử Chi Nụ VÃƒÆ Vị pháp vong thân Thánh tử đạo Thích ta mie 加持是什么意思