Hỏi:
Nếu có người dốc lòng cầu đạo, thì nên tu theo pháp nào
mới thực là cực kỳ tỉnh yếu?
Ðáp:
Chỉ nói pháp quán tâm thâu nhiếp trọn các pháp mới thực
là cực kỳ tỉnh yếu.
Hỏi:
Sao một pháp nhiếp trọn các pháp được?
Ðáp:
Tâm là gốc của muôn pháp. Tất cả các pháp, duy một tâm
sanh. Nếu hiểu được tâm ắt muôn pháp sẵn đủ trong đó,
ví như cây lớn có đủ cành nhánh trái bông, nhưng tất cả
đều do một gốc sanh ra, nếu chặt gốc ắt cây chết. Nếu
hiểu tâm tu đạo ắt được tỉnh lực nên dễ thành. Không
hiểu tâm tu đạo ắt nhọc công vô ích. Mới biết tất cả
việc lành dữ đều tự tâm. Cầu gì khác ở ngoài tâm, rốt
không đâu có được.
*
Hỏi:
Sao bảo quán tâm là xong hết?
Ðáp:
Ðại Bồ tát khi hành sau pháp Bát nhã Ba la mật đa thấy bốn
đại năm ấm vốn không vô ngã; thấy rõ do khởi dụng nên
có hai tâm sai khác nhau.
Thế
nào là hai?
Một
là tịnh tâm: tâm trong sạch.
Hai
là nhiễm tâm: tâm nhuốm bợn.
Hai
tâm ấy, pháp giới tự nhiên xưa nay vốn có, kết hợp bằng
những giả duyên đối đải nương vịn vào nhau.
Tâm
tịnh hằng vui nhân lành
Tâm
nhiễm mảng lo nghiệp dữ.
Nếu
không bị nhiễm, tức xưng là thánh, xa lìa được hết khổ
đau, chứng cảnh vui Niết bàn.
Bằng
cứ buông lung theo tâm nhiễm tạo nghiệp, ắt bị khuất lấp,
ràng buộc, tức gọi là phàm, chìm nổi trong ba cõi, chịu
mọi thứ khổ. Tại sao vậy? Vì tâm nhiễm ấy gây chướng
ngại cho bổn thể chơn như vậy.
Kinh
Thập địa nói: Trong thân chúng sanh có tánh Phật kim cương
ví như vầng nhật tròn đầy, rộng lớn sáng bao la, chỉ vì
lớp lớp mây ngũ ấm che lấp nên không lộ được, khác nào
ánh đèn bị nhốt giữa bình đất không chiếu hiện được.
Kinh
Niết Bàn lại nói: Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật;
chỉ vì vô minh che lấp nên không được giải thoát.
"Tánh
Phật" ấy, tức "tánh giác" vậy.
Chỉ
"tự giác giác tha", tri giác sáng tỏ, tức gọi là giải thoát.
Nên
biết mọi điều lành đều lấy giác làm gốc. Nhân gốc giác
ấy mới kết được đủ thứ trái Niết bàn của cây công
đức, đạo nhân đó mà thành.
Nói
quán tâm tức xong hết là vậy.
*
Hỏi:
Trên nói tất cả công đức của tánh chân như Phật đều
lấy giác làm gốc, còn tâm vô minh, chẳng hay lấy gí làm
gốc?
Ðáp:
Tâm vô minh có tám vạn bốn ngàn phiền não, tình dục, với
vô số điều dữ, đều do ba độc nên lấy đó làm gốc.
Ba
độc ấy tức tham, sân si vậy.
Tâm
ba độc ấy tự nó có đủ tất cả giống ác, ví như cây
lớn, gốc tuy chỉ có một mà lá sanh ra thì vô lượng không
cùng. Ở ba độc ấy từ mỗi gốc sanh ra các nghiệp dữ,
trăm ngàn vạn ức, gấp mấy cái trước, không thể ví với
gì được. Từ trong bổn thể của tâm ba độc ứng hiện
ra sáu căn, cũng gọi là sáu tên giặc, tức là sáu thức.
Sáu thức vào ra sáu căn, nhân đó có tham trước muôn cảnh,
tạo thành nghiệp dữ, che khuất bổn thể chơn như, nên gọi
là sáu tên giặc. Do ba độc sáu giặc, chúng sanh bị mê hoặc
và rối loạn thân tâm, chịu mọi nổi khổ. Cũng như sông
ngòi có tiếp nguồn thông mạch, dòng nước mới chảy mãi
không dứt và sóng mới muôn dặm cuộn giăng; nếu có ai bít
mạch lấp nguồn thì mọi dòng nước ắt đứt theo.
Người
cầu giải thoát có thể chuyển ba độc thành ba giới tụ
tịnh, chuyển sáu giặc thành sáu ba la mật, tức tự nhiên
vĩnh viễn lìa xa biển khổ.
*
Hỏi:
Sáu đường ba cõi rộng lớn bao la, nếu chỉ quán tâm thì
sao thoát được những khổ đau không cùng tận?
Ðáp:
Nghiệp báo trong ba cõi chỉ do một tâm sanh. Nếu từ gốc
đã vô tâm thì ở trong ba cõi mà như xa lìa ba cõi.
Ba
cõi ấy, tức là ba độc vậy.
Tham
làm ra cõi dục.
Sân
làm ra cõi sắc.
Si
làm ra cõi sắc.
Nên
gọi là ba cõi.
Do
ba độc ấy gây nghiệp nặng nhẹ, quả báo chẳng đồng,
chia ra làm sáu xứ, nên gọi là sáu nẻo.
*
Hỏi:
Thế nào là nhẹ nặng chia làm sáu nẻo?
Ðáp:
Chúng sanh chẳng rõ chánh nhân, mê tâm tu thiện, chưa
thoát ba cõi, thác sanh ở ba nẻo tội nhẹ.
Thế
nào là ba nẻo nhẹ?
-
Ấy là mê tu mười điều thiện, vọng cầu vui sướng, chưa
thoát cõi tham, thì sanh nẻo trời.
-
Mê giữ năm giới, vọng lòng thương ghét, chưa thoát cõi sân,
thì sanh nẻo người.
-
Mê chấp hữu vi, tin tà mong phước, chưa thoát cõi si, thì
sanh nẻo A tu la.
Ðó
là ba loại chúng sanh, gọi là ba nẻo nhẹ vậy.
Thế
nào là ba nẻo tội nặng?
Ấy
là buông lung theo tâm ba độc, toàn gây nghiệp dữ, rơi vào
ba nẻo nặng.
-
Nếu nghiệp tham nặng, thì rơi vào nẻo quỷ đói.
-
Nếu nghiệp sân nặng, thì rơi vào nẻo địa ngục.
-
Nếu nghiệp si nặng, thì rơi vào nẻo súc sanh.
Vậy
ba nẻo tội nặng hiệp với ba nẻo tội nhẹ thành sáu nẻo
luân hồi.
Mới
biết tất cả nghiệp khổ đều do tâm mình sanh, nên cần
nhiếp tâm, lìa hết tà ác, là mọi nỗi khổ của ba cõi sáu
đường luân hồi đều tự nhiên tiêu mất, tức là được
giải thoát.
*
Hỏi:
Như lời Phật dạy: "Ta đã trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp,
chịu vô số khổ nhọc mới thành được Phật đạo" sao nay
nói chỉ quán tâm thì chế được ba độc là giải thoát?
Ðáp:
Lời Phật nói ra không hề hư dối. A tăng kỳ kiếp
tức là tâm ba độc. Người Hồ (1) nói: "A tăng kỳ" (2), người
Hán nói "bất khả số", nghĩa là đếm không xuể.
Từ
trong tâm ba độc ấy, có đủ thứ niệm ác nhiều như cát
sông Hằng. Ở mỗi mỗi niệm ấy là một kiếp, vậy là có
hằng ha số kiếp đếm không xuể, nên nói ba đại a tăng
kỳ.
Tánh
chân như bị ba độc che khuất. Nếu chẳng vượt lên tâm
đại hằng hà sa độc ác ấy thì làm sao giải thoát được.Nếu
nay chuyển được ba độc tham sân si làm ba món giải thoát,
đó gọi là vượt qua ba đại a tăng kỳ kiếp.
Chúng
sanh ở thời đại cùng mạt này, căn trí ngu si, cùn lụt,
không nhận được ý sâu kín của Như Lai trong câu nói "ba
đại a tăng kỳ", nên nghĩ Như Lai phải qua vô số kiếp như
cát bụi mới thành Phật, điều ấy hà chỉ khiến người
tu ngờ hão mà lùi bước Bồ đề sao?
*
Hỏi:
Các đại Bồ tát nhờ giữ ba giới tu tịnh thực hành sáu
độ, mới thànhPhật đạo. Sao nay nói người học chỉ cần
quán tâm chẳng tu giới hạnh, thì thành Phật thế nào được?
Ðáp:
Ba giới tu tịnh tức là tâm chế phục ba độc:
Chế
phuc tâm ba độc thành vô lượng thiện tụ.
Nói
"tụ" là nói "hội" vậy.
Pháp
lành vô lượng hội khắp ở tâm, nên gọi là ba giới tụ
tịnh.
Nói
sáu độ Ba la mật, tức nói tịnh sáu căn.
Người
Hồ nói "ba la mật" (3), người Hán nói "đạt bỉ ngạn", tức
đến bờ bên kia.
Sáu
căn thanh tịnh, chẳng nhuốm sáu trần, tức qua sông phiền
não, đến bờ Bồ đề, nên gọi là sáu ba la mật.
*
Hỏi:
Như kinh nói, ba giới tụ tịnh tức là "Nguyện thề đoạn
tất cả điều dữ, thề tu tất cả điều lành, thề độ
tất cả chúng sanh", nay nói chỉ cần chế ngự tâm ba độc,
há chẳng trái với nghĩa văn sao?
Ðáp:
Lời Phật nói kinh là lời chân thực. Nhân đối với ba độc,
chư Bồ tát tu hành trong thời quá khứ phát ba thệ nguyện
là:
- Nguyện
đoạn tất cả điều dữ, nên luôn giữ giới đối xử với
tham độc.
-
Nguyện tu tất cả điều lành, nên luôn tập định đối xử
với sân độc.
-
Nguyện độ tất cả chúng sanh, nên luôn tu huệ đối xử
với si độc.
Do
giữ ba tịnh pháp giới, định, huệ nên vượt được lên
ba độc mà thành Phật đạo.
-
Diều dữ dứt mất, đó gọi là "đoạn".
-
Ðiều lành sẵn đủ, đó gọi là "tu".
-
Ðã đoạn dữ tu lành, ắt muôn hạnh đều thành tựu; lợi
ta lợi người, cứu khổ khắp muôn sanh, đó gọi là "độ".
Mới
biết phép tu giới hạnh không thể lìa tâm. Nếu tâm thanh
tịnh, ắt cả nước Phật đều thanh tịnh. Nên kinh nói:
Tâm
đục ắt chúng sanh đục,
Tâm
tịnh ắt chúng sanh tịnh.
Muốn
được tịnh độ, trước cần tịnh tâm,
Tùy
tâm mình tịnh, xứ Phật tịnh theo,
Ba
giới tụ tịnh tự nhiên thành tựu.
Hỏi:
Như kinh nói, sáu ba la mật cũng gọi là sáu độ, tức là:
bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và
trí huệ. Nay nói sáu căn thanh tịnh gọi là ba la mật, thì
hiểu sao cho xuôi? Còn phép sáu độ, nghĩa ấy thế nào?