Truyền
Tâm Pháp Yếu
TỰA
CHÁNH
VĂN:
Có
vị Đại Thiền sư pháp hiệu Hy Vận ở dưới ngọn Thứu
Phong, núi Hoàng Bá huyện Cao An, Hồng Châu. Ngài là đích tôn
của Tào Khê Lục Tổ, là pháp điệt (con cháu) của Bách Trượng,
Tây Đường. Ngài riêng mang ấn tối thượng thừa, rời văn
tự, chỉ truyền dạy một tâm, không có pháp gì khác, tâm
thể cũng không, muôn duyên đều lặng, như mặt trời lên
trên hư không sáng suốt chiếu soi không có một mảy bụi.
GIẢNG:
Bài
tựa này do ông Bùi Hưu viết. Ông là vị cư sĩ đắc pháp
nơi Thiền sư Hoàng Bá, nên rất mực qui ngưỡng Sư. Thiền
sư Hy Vận ở núi Hoàng Bá, chúng ta gọi Ngài là Hoàng Bá
tức gọi theo tên núi, vì quí kính Ngài nên gọi tránh như
thế. Ngài là đích tôn của Tào Khê Lục Tổ tức cháu lớn
của Lục Tổ. Dưới Lục Tổ có Nam Nhạc Hoài Nhượng, dưới
Nam Nhạc Hoài Nhượng có Mã Tổ Đạo Nhất, dưới Mã Tổ
Đạo Nhất có Bách Trượng Hoài Hải, Ngài là đệ tử của
Tổ Bách Trượng. Như vậy Ngài là cháu đời thứ tư của
Lục Tổ, nên gọi là đích tôn, là pháp điệt của Bách Trượng,
Tây Đường, tức cháu của Thiền sư Tây Đường Trí Tạng.
Ngài
riêng mang ấn tối thượng thừa, rời văn tự, chỉ truyền
dạy một tâm, không có pháp gì khác. Chỗ này nói đến lý
rời văn tự. Duyên do vì ông Bùi Hưu tới chùa Khai Nguyên,
gặp Ngài đang ẩn nghỉ nơi đây. Tướng quốc Bùi Hưu bấy
giờ là một vị đại quan đời Đường, nên thầy Trụ trì
đón tiếp rất đàng hoàng. Bùi Hưu tới nhà Tổ thấy hình
các vị Cao tăng vẽ trên vách, ông hỏi thầy Trụ trì:
- Hình
Cao tăng ở đây, mà Cao tăng ở đâu?
Thầy
Trụ trì không có câu trả lời. Bùi Hưu hỏi tiếp:
- Trong
đây có Thiền sư không?
- Mới
có người tới, dáng vẻ giống như Thiền sư.
Bùi
Hưu bảo:
- Xin
Thầy mời vị đó ra cho.
Thầy
Trụ trì mời ngài Hoàng Bá ra. Thấy Ngài, Bùi Hưu thưa:
- Khi
nãy tôi có một câu hỏi Hòa thượng Trụ trì, nhưng Ngài
tiếc lời không đáp, giờ xin hỏi Thiền sư: “Hình Cao tăng
ở đây mà Cao tăng ở đâu?”
Ngài
Hoàng Bá gọi:
- Bùi
Hưu!
Bùi
Hưu ứng thinh:
- Dạ.
Ngài
Hoàng Bá hỏi:
- Ở
đâu?
Ngay
đây, Bùi Hưu biết chỗ ở của Cao tăng.
Ở
đây nói “rời văn tự”, vì câu đáp trên của ngài Hoàng
Bá không có trong kinh văn nào cả. Chúng ta ngày nay phần nhiều
giải thích, rồi dẫn kinh làm chứng. Còn Ngài kêu “Bùi Hưu”,
cư sĩ ứng thinh “dạ”, Ngài hỏi “ở đâu” liền xong.
Có kinh nào dạy câu đó không? Không. Cho nên nói “giáo ngoại
biệt truyền” là nghĩa này vậy. Nói rời văn tự, chỉ truyền
dạy một tâm, tức không có văn tự mà chỉ thẳng tâm, chớ
không có gì khác. Giai thoại này cho chúng ta thấy rõ thêm
tướng quốc Bùi Hưu và Tổ Hoàng Bá có liên hệ với nhau
như thế.
CHÁNH
VĂN:
Người
chứng đó, không mới cũ, không sâu cạn. Người nói đó,
không lập nghĩa giải, không lập tông chủ, không mở cửa
nẻo, thẳng đó là phải, động niệm liền trái, nhiên hậu
mới là bổn Phật. Cho nên lời nói kia rất gọn, lý ấy chỉ
thẳng, đạo cao vót, hạnh này riêng biệt.
GIẢNG:
Người
chứng đó, không mới cũ, không sâu cạn. Sao không mới cũ,
không sâu cạn? Bởi vì tâm thể không hai, nó vốn có sẵn,
không phải cũ cũng không phải mới, không sâu cũng không cạn.
Biết được tâm thể thì tâm thể là vậy thôi.
Người
nói đó, không lập nghĩa giải, không lập tông chủ, không
mở cửa nẻo, thẳng đó là phải, động niệm liền trái,
nhiên hậu mới là bổn Phật. Như trường hợp ngài Hoàng
Bá chỉ cho Bùi Hưu Cao tăng ở đâu, là chỉ bằng tông chỉ
nào? Ngài gọi một tiếng, Bùi Hưu liền dạ, Ngài hỏi ở
đâu là rồi. Cho nên nói không lập tông chủ, không mở cửa
nẻo, thẳng đó là phải, ngay nơi chỗ vừa thốt lên,
dạ đó là phải. Động niệm liền trái, dấy niệm là trật
rồi, nhiên hậu mới là bổn Phật, thấy được như vậy
mới là ông Phật gốc của mình.
Cho
nên lời nói kia rất gọn, lý ấy chỉ thẳng, đạo cao vót,
hạnh này riêng biệt, vì vậy lời nói quá gọn, lý thì chỉ
thẳng, đạo lại cao vót, hạnh chẳng riêng biệt.
CHÁNH
VĂN:
Học
giả bốn phương trông núi này đua nhau đến, nhìn thấy tướng
là ngộ, hải chúng tới lui thường hơn ngàn người.
GIẢNG:
Dưới
hội ngài Hoàng Bá chúng hơn một ngàn. Đó là nói đạo đức
và lối chỉ dạy của ngài Hoàng Bá cảm hóa được rất
nhiều người.
CHÁNH
VĂN:
Hội
Xương năm thứ 2 (842 TL), tôi trấn nhậm Chung Lăng (Hồng Châu)
đích thân lên núi rước Ngài đến bổn châu, nghỉ ở chùa
Long Hưng, sớm chiều hỏi đạo. Đại Trung năm thứ 2 (848
TL), tôi đổi đến Uyển Lăng (Tuyên Châu) cũng đi lễ thỉnh
Ngài đến sở bộ an cư ở chùa Khai Nguyên. Tôi sớm chiều
đến thọ pháp, trở về ghi lại mười phần được một
hai, đeo làm tâm ấn không dám bày ra. Nay sợ e tinh nghĩa nhập
thần đời sau không được nghe, bèn trao nó cho môn hạ tăng
Đại Châu, Pháp Kiến trở về núi xưa chùa Quảng Đường,
hỏi Trưởng lão pháp chúng những ngày trước gần gũi được
nghe, đồng khác thế nào.
GIẢNG:
Tướng
quốc Bùi Hưu thỉnh ngài Hoàng Bá đến Uyển Lăng, rồi về
chùa Khai Nguyên v.v… tức những nơi Ngài trực tiếp giảng
dạy cho ông. Ông nghe nhận và ghi chép, cho đó là tinh nghĩa
nhập thần của ông, nhưng sợ cái nghe của mình không được
trọn vẹn, không sáng sủa, nên đưa cho đệ tử của Tổ
Hoàng Bá coi lại, tức các Trưởng lão trong Pháp chúng, so
sánh với những lời của các vị này được nghe, có đồng
với lời của ông đã nghe hay không. Các vị Trưởng lão thấy
lời ông ghi chép rất hay, rất đúng nên đưa vào phần Ngữ
lục, gọi là “Pháp yếu truyền tâm Thiền sư Đoạn
Tế Hoàng Bá”. Như vậy quyển luận Truyền Tâm Pháp Yếu
này ra đời là do ông Bùi Hưu ghi chép lời dạy của Tổ Hoàng
Bá.