Phụ
Lục II
KRISHNAMURTI
VÀ
THIỀN
ĐỊNH
Krishnamurti
là một nhân vật mang nhiều tính tiền định. Trọn đời
ông như một vở kịch được sắp saün để mà chơi. Năm
1909, khi ông mười bốn tuổi, bà Annie Besant, chủ tịch Hội
Thông Thiên Học, một vận động tổng hợp Triết học Tây
phương với giáo lý nhà Phật và Ấn Độ giáo, tuyên bố
Krishnamurti là hóa thân của Maitreya (Đức Từ-thị hay Phật
Di Lặc). Bà thành lập hội Ngôi Sao để chuẩn bị cho ông
- vị giáo chủ tương lai của thế giới đó - khi lớn lên
sẽ giảng dạy một giáo lý mới cho thời đại mới.
Năm
1929, Krishnamurti tuyên bố giải tán hội Ngôi Sao. Bấy giờ
ông tuyên bố "Truth is a pathless land," Chân lý là mảnh đất
không lối ngõ gì cả. Điều này có thể gợi nhớ tới ngôn
ngữ Thiền, con đường không đường, cửa không cửa (vô
môn quan). Từ đây, ông đi nhiều nơi trên thế giới để
nói về giảng dạy mới này. Ông nói chuyện về gần như
là tất cả mọi vấn đề của con người. Phương pháp thường
dùng nhất là đối thoại, ông thường đưa ra những câu hỏi,
chất vấn, khảo sát về Tâm (Thoughts and feelings) chỉ thẳng
cái tánh không thực của nó, sự lập đi lập lại giả tạo
của nó. Có thể nhớ tới kinh Phật nói: "Tâm như diễn viên,
ý như thằng hề." Ngôn phong của ông mang nhiều tính phủ
định (negation), cũng triệt để như ngôn phong của hệ thống
Bát Nhã.
Đức
Phật Sống Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14, người được dân
tộc Tây Tạng tin tưởng là hóa thân của Đức Quan Âm, đã
so sánh Krishnamurti với Nagarjuna (Tổ Long Thọ, người hình
thành 5 hệ thống giáo lý nhà Phật, trong đó có giáo lý Tánh
Không của Bát Nhã). Năm 1956, Đức Đạt Lai Lạt Ma và Krishnamurti
gặp nhau tại Madras, Ấn Độ. Không có sách nào tường thuật
buổi gặp nhau này một cách chi tiết. Hai hóa thân Phật này,
một Di Lặc và một Quan Âm, đã nói gì với nhau không ai biết,
có đấu phép để phân biệt bạn thù không cũng chẳng ai
hay. Trang 202-203 của sách Krishnamurti A Biography của bà Pupul
Jayakar chỉ ghi vài dòng, trong đó có một chữ "coexperience"
của Đức Đạt Lai Lạt Ma phê bình về cuộc nói chuyện đó.
Nói theo Thiền là đã ấn chứng cùng vào nhà Tổ, đi chung
lối chim bay, thở chung một lỗ mũi với Phật.
Bài
này trích dịch từ trong Krishnamurtís Notebook, sách ông viết
lúc gần cuối đời, năm 1961, gồm một số đoạn nói lên
quan điểm của ông về Thiền định. Nếu so sánh quan điểm
này về Thiền của Krishnamurti với pháp Thiền Tào Động,
Lâm Tế Tây Tạng, ta thấy rất nhiều điều giống nhau. Nói
rõ hơn là, khác chỉ là ở thủ đoạn khai ngộ, Pháp bảo
nhậm hoàn toàn như nhau. Nhưng than ôi, còn thấy có một pháp
vẫn còn là chưa được.
TRÍCH
VĂN
Trang
51:
Thiền
định là sự vắng mặt của tất cả những gì gọi là ý
thức, không phải để tiếp nhận, nhưng để làm vắng mặt,
để quét sạch, để trống không tất cả những gì gọi là
nỗ lực. Ở đó sẽ là chỗ cho sự vắng lặng, không phải
là chỗ được tạo nên bởi tư tưởng và các sinh hoạt trí
thức, mà là chỗ (cảnh giới) đó đến qua sự phủ định
và phá hoại, khi không còn chút gì của tư tưởng (niệm)
và các dự phóng của nó. Chỉ ở Tánh Không mới có Sáng
Tạo.
Trang
81:
Thiền
định không với một công thức nào hết, không với một
động cơ và lý luận nào hết, không một nơi để đến và
mục đích nào hết, là một hiện tượng khó tin. Loại Thiền
định này không chỉ là một bùng nổ vĩ đại làm trong sạch
tất cả nhưng cũng còn là sự chết (1). Ở đây không còn
cái gì gọi là ngày mai nữa (Thời gian chấm dứt).
Trang
82:
Không
có cái ngày mai trong Thiền định, (vì) không có lý luận gì
được với cái chết. Cái chết của hôm qua và ngày mai không
để lại chút khoảnh khắc gì trong hiện tại, và thời gian
luôn là khoảnh khắc, nhưng sự hủy diệt (thời gian) này
là cái hoàn toàn mới. Thiền định là như vậy, không phải
là những con toán ngốc nghếch của bộ óc đi tìm sự an toàn.
Thiền định là sự hủy diệt cái an toàn, và có cái đẹp
tuyệt diệu trong Thiền định, không phải là cái đẹp của
những gì được tạo dựng nên bởi con người hay Thiên nhiên,
nhưng là cái đẹp của cái vắng lặng. Cái vắng lặng này
là cái KHÔNG, trong đó và từ đó tất cả (vạn pháp) lưu
xuất và hiện hữu (2).
Trang
142:
Thiền
định là cửa ngõ đi vào cái không vô tận (3). (Meditation
was an opening into immeasurable emptiness).
Trang
143:
Thiền
định sinh khởi ra cái Đó (4), nó thuộc về sự trong sạch
(thanh tịnh) bùng vỡ. Sự thanh tịnh của nó không để lại
chút manh mún nào hết, nó ở đó, nó là tất cả và không
có gì là từng hiện hữu. Khi không có gì hết thì là nó.
Nó (Thiền định) là sự thanh tịnh của tất cả các yếu
tính. Sự bình an này là cảnh giới vô tận, vô biên giới,
của Tánh Không bất khả tư nghị.
Trang
170-171:
Nơi
hàng hiên thoảng mùi thơm (nơi ông ở), khi bình minh chưa tới
và hàng cây vẫn còn vắng lặng, cái gì là bản chất chính
là cái đẹp (LND: essence dịch là bản chất hay yếu tính,
có nên dùng chữ Tánh của Thiền không?). Nhưng cái yếu tính
này thì không có thể kinh nghiệm. Kinh nghiệm phải chấm dứt,
phải chết đi, vì kinh nghiệm chỉ làm củng cố thêm cái
đã biết. Cái đã biết thì không bao giờ là bản chất, là
yếu tính (LND: nghĩa của chữ yếu tính thường được định
nghĩa cách Triết học là, cái gì làm cho nó là nó). Thiền
định không bao giờ là một kinh nghiệm xa hơn; nó không chỉ
là sự chấm dứt kinh nghiệm, mà sự chấm dứt này chỉ là
một đáp ứng tới sự thách thức, lớn hay nhỏ. Nhưng nó
(Thiền định) là sự mở ra cánh cửa của Pháp Tánh (the door
to essence), mở ra cánh cửa của một lò sưởi, trong đó lửa
đang đốt cháy hoàn toàn, không để lại chút tro bụi, không
gì còn sót lại nữa. Chúng ta là những cái sót lại, những
kẻ nói vâng của nhiều ngàn ngày hôm qua, một chuỗi liên
tục của trí nhớ không thôi, của sự lựa chọn và tuyệt
vọng. Cái gọi là Đại Ngã và Tiểu Ngã là khuôn mẫu của
hiện hữu, và hiện hữu là tư tưởng, và tư tưởng là hiện
hữu, với đau khổ không bao giờ chấm dứt. Trong ngọn lửa
của Thiền định, tư tưởng chấm dứt cùng với cảm xúc,
vì không có cái nào đã là tình yêu cả. Không có Tình yêu
thì không có yếu tính; không có Tình yêu thì chỉ có tro bụi
mà trên tro bụi này sự hiện hữu của chúng ta hình thành.
Chỉ ở trong Tánh Không, mới có Tình yêu (5).
Trang
175; Trong khi ông đang đi bộ:
Vừa
khi con đường rẽ về phía đông, cái Đó (otherness) hiện
đến. Nó đến chan hòa đổ xuống những làn sóng lớn dày
đặc của sự linh thánh vô biên. Như dường các tầng trời
mở ra cho cái không-gọi-tên-được hiện đến từ cái vô
lượng vô biên đó; Nó đã sống ở đó suốt ngày, tôi (ông
khiêm tốn dùng chữ One, ngôi thứ ba) đột nhiên nhận ra và
chỉ bây giờ, đang đi bộ một mình trong khi những người
bạn khác đã vào ngã quẹo khác, tôi nhận ra sự kiện đó.
Và cái gì làm cho sự kiện này khác thường chính là cái
đang xảy ra; nó là đỉnh cao của cái trước giờ vẫn đang
diễn tiến và không phải là một sự kiện riêng biệt (6).
Có ánh sáng, không phải ánh sáng mặt trời hay đèn nến gì
của con người, các loại ánh sáng này chỉ tạo nên bóng
(shadows) thôi. Nhưng có ánh sáng không tạo nên bóng và nó
là ánh sáng.
Trang
148:
Đang
đi bộ và nói chuyện, Thiền định vẫn đang tiếp tục trong
những lời và vẻ đẹp của đêm. Nó vẫn đang tiếp diễn
ở một chiều sâu rộng lớn, trôi chảy bên ngoài và cả
bên trong (Tâm). Nó đang bùng nổ và tỏa rộng ra.
Trang
212:
Thiền
định là lang thang xuyên qua thế giới của tri thức và xa
lìa khỏi nó để thâm nhập vào cái chưa từng được biết,
cái không biết (the unknown).
Trang
217:
Thiền
định là sự phủ định thuần túy nhất. Sự phủ định
này không là kết quả của mọi phản ứng. Để từ chối,
và duy trì ở trong sự từ chối này của phủ định đó là
hành động không với một động cơ, cũng là Tình yêu vậy.
Trang
219:
Thiền
định không phải là con đường của một nỗ lực nào hết.
Tất cả nỗ lực chỉ đưa tới mâu thuẫn, đối kháng. Nỗ
lực và chọn lựa luôn luôn là nguyên nhân của mâu thuẫn,
sẽ làm cho Thiền định trở thành một chạy trốn thực tại,
trốn cái đang làm. Thiền định chân chính sẽ đưa tới cái
Đó, làm vắng lặng hoàn toàn một bộ óc vốn đã yên tĩnh.
Bộ óc chỉ đơn giản là một hành lang cho cái vô lượng
vô biên đó, cũng hệt như dòng sông rộng và sâu giữa 2 bờ
dốc, cái Khác kỳ lạ này chuyển động với không một phương
hướng và thời gian.
Cũng
trang 219:
Thiền
định là ngọn lửa đốt cháy sạch tất cả thời gian và
khoảng cách, tất cả thành tựu và kinh nghiệm. Chỉ có cái
Chơn Không vô lượng vô biên nhưng trong đây chính là chuyển
động, là Sáng Tạo.
Trang
222:
Thiền
định tiếp tục (trong cơ thể ông) với sự vắng lặng đó,
và vắng lặng đó chính là Tình yêu. Nó không phải là yêu
một vật gì hay người nào, một hình ảnh hay biểu tượng
nào, chữ hay tranh. Nó đơn giản là tình yêu, với không một
cảm xúc (feeling). Nó tự hoàn toàn trong chính nó, trần truồng,
dầy đặc, không một nguyên nhân và phương hướng.
Cùng
trang 222:
Trong
Thiền định không có sự lập lại, không có sự tiếp nối
của thói quen; chỉ có cái chết của tất cả mọi cái đã
biết và có những trận mưa hoa của cái bất khả tri (unknown).
Ghi
Chú:
(1)
Có thể gợi nhớ tới một câu trong Thiền: "Đại tử nhất
phiên," một phen chết lớn. Ở đây, hai ý không hoàn toàn
trùng nhau. Đoạn này của Krishnamurti còn gợi nhớ tới bài
kệ trong Kinh Đại Bát Niết Bàn: "Sinh diệt dĩ diệt, tịch
diệt vi lạc." Tạm dịch là, tất cả những gì gọi là sinh
với diệt đều tiêu ma cả rồi, chỉ có cái Tánh Không Vắng
Lặng này mới là niềm vui thật thôi.
(2)
Điều này lại gợi nhớ tới chủ trương Chơn Không Diệu
Hữu của Kinh Pháp Hoa. Trong cái Không chơn thật và tuyệt
đối đó mới lưu xuất và hiện hữu cái Có kỳ diệu.
(3)
Ngôn ngữ của Bát Nhã lại xuất hiện ở đây.
(4)
Chữ cái Đó tạm dịch từ chữ The Otherness. Chữ này trong
sách không được định nghĩa rõ ràng. Krishnamurti không có
thói quen định nghĩa điều gì cả. Nếu dịch là cái Khác
sợ không đúng theo văn mạch. Thấy được cái Đó phải chăng
là Thấy Tánh theo ngôn ngữ của Thiền? Xin ghi một phần nguyên
văn cho độc giả ghi nhận, chú ý có một chữ is ở thì hiện
tại trong toàn văn ở thì quá khứ: "Meditation yeilded to the
otherness; It was of shattering purity. Its purity left no residue; it
was there, that is all and nothing existed."
(5)
Đoạn này tương hợp với một đoạn kệ trong Kinh Lăng Già:
"Viễn ly đoạn thường, thế gian hằng như mộng, tri bất
đắc hữu vô, nhi hưng đại bi tâm."
(6)
Cái trước giờ vẫn đang diễn tiến (what had been going on),
không hiểu ý Krishnamurti ám chỉ điều gì. Trong văn mạch
có thể hiểu theo 2 cách. Chữ cái Đó (cái Khác - otherness)
ở đây có thể dịch, mượn chữ nhà chùa, là Tánh, một
cách tương hợp. Ở đây, Krishnamurti nhìn Thấy Tánh hiển
hiện trước mắt. Nghĩa thứ nhất của cái-trước-giờ-vẫn-đangđiễn-tiến
có thể là, ám chỉ cái Tánh đó trước giờ vẫn bất sinh
bất diệt bất tăng bất giảm... Nghĩa thứ nhì có thể có
là, ông ám chỉ cái trong sách, ông gọi là process. Cái process
này bắt đầu với ông từ năm hai mươi tám tuổi (năm 1922),
năm ông chuyển hướng giáo lý phủ định tất cả. Có thể
nói theo nhà chùa, giai đoạn này của ông là chuyển từ Như
Lai Thiền sang Tổ Sư Thiền. Từ đó, ông chịu những cơn
đau liên tục ở đầu và xương sống. Theo ông (?) đó là
do pháp môn Không có gì để tu hết, nói theo Thiền là pháp
bổn như vô pháp, nói theo ông là ở với cái Tánh Không Thường
Tịch (nguyên văn là stillness and emptiness). Cuốn Krishnamurtís
Notebook này được viết năm 1961, tức bốn mươi năm sau lần
Đại Tử Nhất Phiên đó, nhưng cơn đau do process vẫn liên
tục. Theo giải thích của bà Pupul Jayakar, tác giả quyển Krishnamurti
A Biography, cơn đau do process đó là sự tỉnh thức và đi lên
của luồng hỏa hầu trong người Krishnamurti. Bà Pupul Jayakar
là bạn thân của Krishnamurti, là phó chủ tịch Krishnamurti
Foundation, một triết gia lớn của Ấn Độ. Tuy nhiên, chúng
ta không hề nghe Krishnamurti hay một Thiền Sư nào hở môi nói
về con rắn đen hay đỏ gì hết. Còn chuyện nghe gì bên tai,
thấy gì trước mắt hay đau gì do process đó thì cũng chẳng
thấy ai bận tâm. Bởi vì hình như là khi đau quá, thì các
Thiền sư vẫn phải đi Bác Sĩ khám bệnh.
MEDITATIONS
(Bổ
túc cho ấn bản năm 2001)
Cuốn
Meditations của Krishnamurti, xuất bản bởi nhà Shambala năm 1991,
kết tập các lời nói về thiền định của nhà đạo sư
dị thường nhất thế kỷ 20, người đã tự giải tán tổ
chức tôn giáo mà ông được chọn làm giáo chủ từ khi còn
thơ ấu trong khi tổ chức này đã có tới hơn 5 triệu tín
đồ. Mặc dù phi bác hết tất cả những gì thuộc về tôn
giáo, Krishnamurti vẫn có ngôn ngữ và phong thái của một vị
Cổ Phật đi vào cuộc đời, đặc biệt là lời dạy của
ông luôn luôn chỉ thẳng vào tâm để hiển tánh. Đây chính
là pháp môn Thiền Đốn Ngộ không qua bất kỳ phương tiện
nào. Nơi đây tất cả những gì gọi là tông phái, kỹ thuật,
thẩm quyền, kinh điển, thần chú đều trở nên vô nghĩa.
Dưới
đây là bản Việt dịch do Nguyên Giác thực hiện. Có một
điều nên ghi chú, Krishnamurti đôi khi tránh xưng "tôi" (ngôi
thứ nhất), và đã dùng chữ "one" (một người, ngôi thứ
ba) để tự gọi như cách đứng ngoài mình và nói về mình,
có lẽ vì ông không còn thấy có cái gì gọi là tự ngã nữa;
người dịch chuyển nghĩa chữ "one" sang Việt ngữ là "bạn"
(ngôi thứ hai). Trường hợp này sẽ lẫn lộn với khi dịch
chữ "you" cũng là "bạn," nhưng sẽ tạo một văn phong thống
nhất. Thêm nữa, bởi vì người dịch thấy rằng trong pháp
môn này thực sự không có gì ngăn cách giữa các ngôi "tôi,
người, bạn" chi cả. Bản dịch như sau.
LỜI
ĐẦU
Con
người, với mục đích trốn thoát các mâu thuẫn, đã phát
minh ra nhiều hình thức thiền định. Những hình thức này
dựa vào khát vọng, vào ý chí và vào thúc giục tới thành
tựu, và gợi mở mâu thuẫn và cuộc chiến đấu để tới.
Nỗ lực tận tình đầy ý thức này thì luôn luôn nằm trong
giới hạn của một tâm bị điều kiện hóa, và trong này
thì không có tự do. Tất cả mọi nỗ lực để thiền định
đều là chối bỏ thiền định.
Thiền
định là sự chấm dứt các niệm. Chỉ tới lúc đó mới
có một chiều kích khác, nơi vượt ra ngoài thời gian.
Tháng
3.1979.
***
Những
đoạn văn dưới đây trích từ các tác phẩm sau:
Krishnamurti’s
Notebook, Beginnings of Learning, The Awakening of Intelligence, Beyond
Violence, You Are the World, The Flight of the Eagle, The Impossible Question,
The Only Revolution, Freedom from the Known, Meditations 1969, Talks with
American Students.
***
Tâm
thiền định thì vắng lặng. Đó không phải sự vắng lặng
mà tư tưởng có thể nhận thức được; đó không phải sự
vắng lặng của một đêm im vắng; đó là sự vắng lặng
khi niệm—với tất cả hình ảnh, lời và khái niệm của
nó—đã hoàn toàn chấm dứt. Tâm thiền định này là một
tâm tôn giáo—cái tôn giáo mà không một giáo hội nào, thánh
đường nào, hay bài ca nào có thể chạm xúc được.
Tâm
tôn giáo là sự bùng nổ của tình yêu. Đó là tình yêu không
hề biết tới chia cách. Với nó, xa chính là gần. Đó không
phải là một hay nhiều, nhưng là trạng thái tình yêu trong
đó mọi chia chẻ đều chấm dứt. Hệt như vẻ đẹp, nó
không thuộc về thước đo của ngôn ngữ. Từ riêng cái vắng
lặng này, tâm thiền định hoạt động.
***
Thiền
định là một trong những nghệ thuật lớn nhất của đời
sống—có lẽ là nghệ thuật lớn nhất, và người ta không
có thể học từ bất kỳ ai. Đó là vẻ đẹp của nó. Nó
không có cái gì gọi là kỹ thuật, và do vậy không có cái
gì gọi là thẩm quyền. Khi bạn biết về chính bạn, nhìn
chính bạn, nhìn cách bạn đi, cách bạn ăn, những gì bạn
nói, những tán gẫu, những căm ghét, những ghen tị—nếu
bạn biết hết tất cả những điều đó trong tâm bạn, với
không một lựa chọn, đó là một phần của thiền định.
Như
vậy, thiền định có thể hiện hữu ngay cả khi bạn đang
ngồi trên xe buýt, hay đang đi bộ trong rừng đầy những ánh
sáng và bóng mát, hay đang nghe chim hót, hay đang nhìn khuôn
mặt của vợ hoặc con bạn.
***
Thật
kỳ lạ về cách thiền định trở thành; nó không có chấm
dứt mà cũng không có khởi đầu. Nó hệt như giọt mưa: trong
giọt nước là tất cả những dòng suối, những sông cả,
những đại dương và những thác nước; giọt nước này nuôi
lớn trái đất và con người; không có nó, trái đất sẽ
là một sa mạc. Không thiền định, trái tim trở thành một
sa mạc, một vùng đất hoang.
***
Thiền
định là tìm xem tư tưởng, với tất cả những hoạt động
của nó, tất cả những kinh nghiệm của nó, có thể tuyệt
đối vắng lặng được hay không. Không được dụng tâm,
bởi vì ngay khi bạn dụng tâm thì đã vướng vào nhị nguyên
(hai đầu). Người nào nói rằng, "Tôi muốn đạt những kinh
nghiệm tuyệt diệu, cho nên tôi phải buộc tâm tôi vắng lặng,"
thì sẽ không bao giờ thiền định được. Nhưng nếu bạn
bắt đầu dò xét, quan sát, lắng nghe tất cả những chuyển
động của niệm, những điều kiện hóa của nó, những theo
đuổi của nó, những sợ hãi của nó, những niềm vui của
nó, nhìm xem cách tư tưởng vận hành, rồi bạn sẽ thấy
rằng tư tưởng của bạn trở thành vắng lặng dị thường;
sự vắng lặng đó không phải là ngủ yên nhưng chính là
tích cực mãnh liệt và do vậy mới thật vắng lặng. Một
máy phát điện lớn đang hoạt động hoàn hảo thì khó mà
gây nên tiếng động; chỉ khi nào có sức cản mới có tiếng
động.
***
Vắng
lặng và vô biên đi chung với nhau. Cái vô biên của vắng
lặng là cái vô biên của tâm, trong đó không hề có nơi nào
gọi được là trung tâm.
***
Thiền
định là một công trình gian nan. Nó đòi hỏi hình thức cao
nhất của kỷ luật—không phải tùy thuận theo, không phải
là bắt chước, không phải là vâng phục—nhưng là một kỷ
luật đến từ một tỉnh thức thường trực, không chỉ là
những gì ngoài bạn nhưng còn là trong tâm bạn. Như vậy,
thiền định không phải là một hoạt động của sự cô lập
nhưng là một hành động trong đời sống thường ngày và
đòi hỏi sự hợp tác, sự bén nhạy và trí thông minh. Nếu
không đặt nền tảng về một cuộc sống ngay chính, thì thiền
định trở thành một cuộc đào thoát và như vậy sẽ không
có chút giá trị nào. Một cuộc sống ngay chính không có nghĩa
là theo đuổi đạo đức xã hội, nhưng chính là tự do, xa
lìa khỏi những ghen tị, thèm khát và mong muốn quyền lực—tất
cả những thứ này chỉ sinh khởi mâu thuẫn. Cái tự do xa
lìa những trạng thái trên không đến từ hoạt động của
ý chí, nhưng chỉ bằng cách nhận biết chúng qua tự quán
sát.
Không
biết về các hoạt động của tự ngã, thiền định sẽ trở
thành một hứng cảm và như vậy thì chỉ có rất ít ý nghĩa.
***
Luôn
luôn đi tìm những kinh nghiệm siêu vượt, sâu hơn, rộng hơn
chính là một hình thức đào thoát khỏi hiện thực của "cái
đang là," cái tự ngã của chúng ta, cái tâm đã điều kiện
hóa của chính chúng ta. Một tâm tỉnh thức, thông minh, tự
do, tại sao lại thấy cần, tại sao lại phải có, bất kỳ
"kinh nghiệm" nào nữa? Ánh sáng là ánh sáng; nó không đòi
hỏi thêm chút ánh sáng nào.
***
Thiền
định là một trong những thứ dị thường nhất, và nếu
bạn không biết nó là gì, thì bạn chỉ hệt như một người
mù trong một thế giới của những sắc màu sáng chói, của
những bóng tối và của ánh sáng chuyển động. Nó không phải
là một vấn đề của trí thức, nhưng khi trái tim bước vào
tư tưởng, thì tư tưởng có một phẩm chất hoàn toàn khác;
lúc đó nó thực sự là vô giới hạn, không phải chỉ trong
khả năng suy nghĩ, hoạt động một cách hiệu quả, nhưng
cũng còn trong ý nghĩa của cách sống trong một không gian vô
tận nơi mà bạn là một phần của vạn pháp.
Thiền
định là vận động của tình yêu. Nó không là tình yêu của
một hay của nhiều. Nó y hệt như nước mà bất kỳ ai cũng
có thể uống từ bất kỳ bình lọ nào, dù là bình vàng hay
bình đất: nó thì không cạn. Và một hiện tượng đặc biệt
xảy ra mà không một thứ ma túy hay phương tiện tự thôi
miên nào có thể mang đến: nó như dường là tâm đi vào trong
chính nó, bắt đầu từ mặt ngoài và càng lúc càng vào sâu,
cho tới khi chiều cao và chiều sâu mất đi ý nghĩa, và tất
cả những hình thức đo lường đều chấm dứt. Trong trạng
thái này, đó là hòa bình toàn diện—không phải sự êm dịu
đến từ việc làm cho khoái cảm—nhưng là một thứ hòa
bình, một hòa bình có trong nó trật tự, vẻ đẹp, và dầy
đặc. Nó có thể bị phá hủy toàn diện, hệt như bạn có
thể phá hủy một cánh hoa, và tuy vậy, mặc dù nó rất mực
mong manh, nó vẫn thực sự là bất khả hủy diệt. Thiền
định này không có thể học từ người khác. Bạn phải khởi
đầu mà không biết chút gì về nó, và phải đi từ ngây
thơ này tới ngây thơ khác.
Mảnh
đất mà tâm thiền định có thể bắt đầu chính là mảnh
đất của đời sống thường ngày, của tranh chấp, của nỗi
đau và của niềm vui nhanh chóng. Nó phải bắt đầu từ đó,
và mang đến trật tự, và từ đó sẽ chuyển động bất
tận. Nhưng nếu bạn chỉ quan tâm với chuyện làm cho trật
tự, rồi thì chính cái trật tự đó sẽ mang đến giới hạn
của chính nó, và bấy giờ thì tâm thức sẽ là tù nhân của
chính nó. Trong tất cả những vận động này, bạn phải cách
nào đó bắt đầu từ bên bờ bên kia, từ bờ sông bên kia,
và không luôn luôn quan tâm với bờ sông bên này hoặc là
quan tâm về cách nào để vượt qua sông. Và vẻ đẹp của
thiền định là, bạn không bao giờ biết nơi bạn đang đứng,
không bao giờ biết nơi bạn đang đi, và không bao giờ biết
điểm chấm dứt nơi nào.
***
Thiền
định không phải là cái gì khác với đời sống thường
ngày; đừng đi về một góc phòng và thiền định trong mười
phút, rồi lại trở ra và làm một tay đồ tể—nói trong
cách vừa ẩn dụ vừa thực tiễn.
Thiền
định là một trong những việc nghiêm trang nhất. Bạn có
thể thiền suốt cả ngày, trong văn phòng, với gia đình, khi
bạn nói với một người nào đó, "Bố thương con," khi bạn
đang quan tâm tới các con. Nhưng khi bạn giáo dục chúng trở
thành các quân nhân, để giết người, để được quốc gia
hóa, để thờ phượng lá cờ, giáo dục chúng bước vào bẫy
rập này của thế giới hiện đại.
Nhìn
tất cả thế đó, nhận thức phần của bạn trong nó, tất
cả đó là một phần của thiền định. Và khi bạn thiền
định như vậy, bạn sẽ thấy trong nó một vẻ đẹp dị
thường; bạn sẽ hành động đúng đắn trong từng khoảnh
khắc; và nếu bạn không hành động đúng đắn vào một khoảnh
khắc nào đó thì cũng chẳng hề gì, bạn sẽ làm đúng trở
lại—bạn sẽ không tốn thì giờ để ân hận. Thiền định
là một phần của đời sống, không phải là cái gì dị biệt
với đời sống.
***
Nếu
bạn sắp xếp để thiền định, nó sẽ không là thiền định.
Nếu bạn sắp xếp để tốt lành, những tốt lành sẽ không
bao giờ nở hoa. Nếu bạn tu dưỡng khiêm tốn, nó sẽ không
còn là khiêm tốn. Thiền định là ngọn gió thổi vào khi
bạn để cửa sổ mở; nhưng nếu bạn cố ý để nó mở,
cố ý mời gọi nó đến, nó sẽ không bao giờ xuất hiện.
***
Thiền
định không phải là một phương tiện cho một cứu cánh.
Nó vừa là phương tiện vừa là cứu cánh.
***
Thiền
định là cái gì cực kỳ dị thường. Nếu có bất kỳ loại
nào của cưỡng bách, của nỗ lực để buộc tư tưởng phải
vâng phục, bắt chước, thì nó trở thành một gánh nặng
mệt mỏi. Sự vắng lặng mà nó mong mỏi sẽ không còn rõ
nữa; nếu nó là cuộc theo đuổi các thị kiến và kinh nghiệm,
thì nó sẽ dẫn tới ảo vọng và tự thôi miên. Chỉ ở trong
sự bùng khởi các niệm, và như vậy trong việc chấm dứt
các niệm, thì thiền định mới có ý nghĩa; tư tưởng chỉ
có thể bùng khởi trong tự do, không phải trong những khuôn
mẫu luôn mở rộng của kiến thức. Kiến thức có thể cho
những kinh nghiệm mới hơn về các cảm xúc lớn hơn, nhưng
một tâm đi tìm kiếm kinh nghiệm thì chỉ là ấu trĩ. Trưởng
thành chính là sự tự do xa lìa tất cả kinh nghiệm; nó không
còn chịu bất kỳ ảnh hưởng nào để hiện hữu hay không
hiện hữu.
Trưởng
thành trong thiền định là giải thoát tâm ra khỏi kiến thức,
vì nó bóp khuôn và kiểm soát tất cả mọi kinh nghiệm. Một
tâm, mà là ánh sáng cho chính nó, thì không cần kinh nghiệm.
Ấu trĩ là nỗi thèm khát lo tìm các kinh nghiệm rộng hơn
và lớn hơn. Thiền định là lang thang xuyên qua thế giới
của kiến thức, và xa lìa các trói buộc của nó để bước
vào cái không biết.
***
Bạn
phải tìm ra cho chính bạn, không xuyên qua bất kỳ ai. Chúng
ta đã có các thẩm quyền của các vị thầy, các vị cứu
thế, và các đạo sư. Nếu bạn thực sự muốn tìm xem thiền
định là gì, bạn phải gạt qua một bên tất cả các thẩm
quyền một cách toàn diện và hoàn toàn.
***
Hạnh
phúc và niềm vui bạn có thể mua trong bất kỳ chợ nào với
một giá. Nhưng an lạc bạn không thể mua được—dù là cho
chính bạn hay là cho người khác. Hạnh phúc và niềm vui tùy
thuộc vào thời gian. Chỉ trong tự do hoàn toàn, an lạc mới
hiện hữu. Niềm vui, cũng như hạnh phúc, bạn có thể tìm,
và gặp, trong nhiều cách. Nhưng chúng đến và đi. An lạc—cái
cảm giác kỳ lạ của hân hoan—không có động cơ nào. Bạn
không có thể tìm nó. Một khi nó hiện ra đó, tùy thuộc vào
phẩm chất tâm bạn, nó vẫn ở đó—không thời gian, không
nguyên nhân, một điều không đo lường được bởi thời
gian. Thiền định không phải là cuộc tìm kiếm niềm vui hay
là tìm kiếm hạnh phúc. Ngược lại, thiền định là một
trạng thái của tâm trong đó không có một khái niệm hay công
thức nào, và do vậy hoàn toàn tự do. Chỉ với một tâm như
vậy, niềm an lạc này mới đến—không được tìm kiếm,
không được mời gọi. Một khi nó hiện ra đó, cho dù bạn
có thể sống trong thế giới với mọi tiếng ồn, với mọi
niềm vui và với mọi thô bạo, chúng sẽ không chạm xúc tới
tâm đó. Một khi nó hiện ra đó, mâu thuẫn ngưng lại. Nhưng
hành động chấm dứt mâu thuẫn thì không nhất thiết là
tự do hoàn toàn. Thiền định là vận động của tâm trong
tự do này. Trong cái bùng nổ này của an lạc, những con mắt
sẽ biến thành ngây thơ, và tình yêu lúc đó là ân sủng.