c
c
Lời Ðầu Sách
Lược Khảo
Phẩm 1
Phẩm 2
Phẩm 3
Phẩm 4
Phẩm 5
Phẩm 6
Phẩm 7
Phẩm 7 (Tiếp Theo)
Phẩm 7 (Tiếp Theo)
Phẩm 8
Phẩm 9
Phẩm 10
Phẩm 10(Tiếp Theo)

 

c
PHÁP BẢO ÐÀN KINH
Giảng Giải
Thiền Sư Thích Thanh Từ
Thiền sư Chí Ðạo: Tăng Chí Ðạo, người quê ở Nam Hải, Quảng Châu đến thưa hỏi, thưa rằng: "Học nhân từ xuất gia, xem kinh Niết-bàn hơn mười năm chưa rõ được đại ý, cúi mong Hòa thượng thương xót chỉ dạy." Tổ bảo : "Chỗ nào ông chưa rõ ?" Thưa rằng: "Chư hạnh vô thường, làpháp sanh diệt, sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui, nơi đây con nghi ngờ."

Tổ hỏi : "Ông nghi như thế nào ?"

Thưa rằng: "Tất cả chúng sanh đều có hai thân gọi là sắc thân và pháp thân. Sắc thân vô thường có sanh có diệt, pháp thân có thường không tri không giác. Kinh nói: Sanh diệt diệt rồi tịch diệt là vui, chẳng biết thân nào tịch diệt, thân nào thọ vui ?

Ðây là ngài Chí Ðạo hỏi Tổ ý nghĩa bài kệ trong kinh Niết-bàn:

Chư hạnh vô thường,

Thị sanh diệt pháp ,

Sanh diệt diệt dĩ,

Tịch diệt vi lạc.

Tịch diệt là vắng lặng, là mất hết. Ngài Chí Ðạo hỏi: Nếu sắc thân chết rồi thì làm sao vui ? Còn nếu pháp thân tịch diệt thì pháp thân là vô tri, lấy cái gì mà vui ? Vì sao nói: Tịch diệt là vui ?

Nếu là sắc thân, khi sắc thân tịch diệt, bốn đại phân tán, toàn là khổ, khổ không thể nói vui; nếu pháp thân tịch diệt tức đồng cỏ cây gạch đá, ai sẽ thọ vui? Lại pháp tánh là thể của sanh diệt, năm uẩn là dụng của sanh diệt, một thể?nbsp;năm dụng, sanh diệt là thường, sanh thì từ thể khởi dụng, diệt thì từ dụng nhiếp về thể, nếu cho lại sanh tức là loài hữu tình không đoạn không diệt.

Nếu từ thể khởi dụng, từ dụng trở về thể, như vậy mãi thì sanh lại sanh tức là gặp cái lỗi vô cùng.

Nếu chẳng cho lại sanh tức là hằng trở về tịch diệt thì đồng với vật vô tình, như thế ắt tất cả pháp bị sự ngăn cấm của Niết-bàn, còn chẳng được sanh, có gì là vui ?"

Khi dấy lên là sanh, khi lặng xuống là diệt; khi lặng xuống không sanh trở lại nữa tức là Niết-bàn, đó là bị cấm chỉ không cho sanh, còn gì mà vui, sao kinh lại nói tịch diệt là vui ?

Tổ quở: "Ông là Thích tử sao lạitậptheo ngoại đạo về đoạn kiến và thường kiến mà luận nghị về pháp Tối thượng thừa. Cứ theo lời ông nói, tức là ngoài sắc thân riêng có pháp thân, lìa sanh diệt để cầu tịch diệt, lại suy luận Niết-bàn thường lạc nói có thân thọ dụng, đây là chấp lẫn về sanh tử, đắm mê cái vui thế gian; nay ông nên biết, Phật vì tất cả người mê nhận thân năm uẩn hòa hợp làm thể tướng của mình, phân biệt tất cả pháp cho là tướng ngoại trần, ưa sanh, ghét chết, niệm niệm đổi dời, không biết là mộng huyễn hư giả, luống chịu luân hồi, lấy thường lạc Niết-bàn đổi thành tướng khổ, trọn ngày tìm cầu. Phật vì thương những người này, mới chỉ dạy Niết-bàn chân lạc, trong sát-na không có tướng sanh, trong sát-na không có tướng diệt, lại không có sanh diệt có thể diệt, ấy là tịch diệt hiện tiền. Chính ngay khi hiện tiền cũng không có cái lượng hiện tiền, mới gọi là thường lạc. Vui này không có người thọ, cũng không có người chẳng thọ, há có tên một thể năm dụng, huống là lại nói Niết-bàn ngăn cấm các pháp khiến hằng chẳng sanh. Ðây là ông chê Phật hủy pháp.

Chúng tôi giải thích phần trên để quí vị hiểu rõ. Ngài Chí Ðạo có chỗ nghi: Theo như Ngài hiểu thì con người chúng ta có hai thân, sắc thân và pháp thân. Sắc thân là tướng sanh diệt, còn pháp thân là không sanh diệt, cho nên sắc thân là vô thường mà pháp thân là thường, sắc thân có tri giác mà pháp thân là vô tri giác. Vì ngài Chí Ðạo hiểu như vậy nên khi nghe nói "tịch diệt là vui", Ngài liền nghi: Nếu nói "tịch diệt là vui" là sắc thân này đến khi lặng mất là vui, lặng mất tức là hoại rồi, làm sao gọi là vui được ! Còn nếu tịch diệt là vui là nói về pháp thân, thì pháp thân là vô tri thì làm sao biết vui? Như vậy trong kinh nói "tịch diệt" là "vui" là cái nào vui ? Ðó là cái nghi thứ nhất.

Ðến cái nghi thứ hai: Ngài Chí Ðạo nghĩ thân của mình đây là thân năm uẩn, nó là cái dụng, pháp tánh là thể. Từ pháp tánh khởi ra ngũ uẩn, tức là từ thể dấy dụng, rồi ngũ uẩn diệt trở về pháp tánh. Trở về pháp tánh là chỗ lặng yên, nếu cho sanh nữa tức nhiên diệt rồi sanh, sanh rồi diệt không cùng. Nếu đến chỗ lặng yên đó ngăn không cho sanh nữa gọi là Niết-bàn, tức là từ chỗ diệt rồi yên lặng, bị cấm chỉ không cho sanh nữa, làm sao vui được ? Cho nên ngài Chí Ðạo nói diệt rồi sanh mới vui, nếu diệt rồi diệt luôn, kềm giữ cái diệt đó mãi thì khổ, đâu có gì là vui ! Vì sao trong kinh lại nói "tịch diệt là vui", nghĩa đó khôngthể được.

Tổ quở ngài Chí Ðạo, nếu hiểu như vậy là chấp có hai mặt rõ ràng, một là sắc thân là vô thường, hai là pháp thân là thường, tức là chấp hai bên, chấp cái thường ngoài cái vô thường nên nói cái tịch diệt ngoài cái sanh diệt, như vậy là chấp lầm lẫn. Phật thấy tất cả chúng sanh, ngay nơi thân sanh diệt có cái vô sanh, nhưng chúng ta không nhận được điều đó nên mãi chịu luân hồi. Phật bảo thân năm uẩn là hư giả để chúng ta nhận ra cái chân thật ngay trong năm uẩn, chớ không phải rời năm uẩn mà riêng có pháp thân. Ngay trong năm uẩn này nhận ra được pháp thân bất sanh bất diệt, mà pháp thân là cái lặng lẽ thường vui, chớ không phải diệt hết sắc thân này rồi mới gọi là vui. Ngay nơi sắc thân này mà nhận được cái tịch diệt lặng lẽ thường hằng của mình, đó gọi là "tịch diệt là vui" tức là vui ngay khi nhận được cái tịch diệt, chớ không phải đợi hoại thân này rồi mới riêng có cái vui Niế?-bàn. Nếu chúng ta cứ mải chạy theo sanh tử rồi chấp sanh tử là thật, đó là chúng ta quên đi cái chân thật của mình, vì vậy Phật mới bảo thân sanh tử này là tướng năm uẩn hư giả, đừng lầm nó, phải bỏ cái giả để hướng về cái thật. Nhưng thật ra cái giả với cái thật không phải là hai, nó không rời nhau, không chạy theo cái giả thì cái thật hiện tiền; cho nên nói rằng sanh diệt khi diệt rồi tức là tâm niệm sanh diệt của mình được lặng rồi, thì tịch diệt hiện tiền. Chính ngay khi nó hiện tiền cũng không khởi niệm tịch diệt hiện tiền, tức là không có cái lượng tịch diệt hiện tiền thì ngay đó tịch diệt là vui. Nói một cách khác là sống với cái hiện lượng nghĩa là sống ngay trong hiện tại mà không có niệm nghĩ đến hiện tại, hay nói theo ngài Vĩnh Gia ngay nơi chỗ đó (đương xứ)mà không có niệm ngay đó, đó mới gọi là chân thật. Sống được như vậy mới gọi là thường lạc. Nếu còn một niệm chen vào đều không phải là thường lạc.

Tổ lại bảo rằng nếu chấp riêng có cái sanh ở ngoài cái vô sanh, hay có cái sanh diệt ở ngoài cái tịch diệt, là chấp hai bên, gọi là chấp thường chấp đoạn, đó là ngoại đạo chớ không phải Phật pháp. Chúng ta ngày nay học đạo vẫn còn lầm lẫn, cứ nghĩ ngoài sắc thân này còn có thân Phật, cho nên khi ngồi tu mà mong thấy thân Phật mình phóng quang v.v... đó là quan niệm sai lầm.

Hãy nghe ta nói kệ:

Vô thượng Ðại Niết-bàn,

Viên minh thường tịch chiếu,

Phàm ngu vị chi tử,

Ngoại đạo chấp vi đoạn.

Ðại Niết-bàn vô thượng tròn sáng,thường lặng lẽ mà chiếu soi, phàm ngu gọi đó là chết, còn ngoại đạo chấp là đoạn, tức ngang đó là hết, chớ không ngờ chính ngay nơi mình có Ðại Niết-bàn tròn sáng và thường chiếu soi, ai ai cũng đều sẵn có không riêng người nào.

Chư cầu nhị thừa nhân,

Mục dĩ vi vô tác,

Tận thuộc tình sở kế,

Lục thập nhị kiến bản.

Những người cầu nhị thừa cho đó là vô tác, vô tác là chỗ không có tạo tác, trọn thuộc về chỗ tình chấp, đó là cái gốc của sáu mươi hai kiến chấp ngoại đạo.

Vọng lập hư giả danh,

Hà vi chân thật nghĩa,

Duy hữu quá lượng nhân,

Thông đạt vô thủ xả.

Dối lập ra tên hư giả, hư giả làm sao đạt được nghĩa chân thật. Chỉ có người quá lượng tức là người vượt qua những cái tầm thường, mới thông suốt được mà không có thủ và xả.

Dĩ tri ngũ uẩn pháp ,

Cập dĩ uẩn trung ngã,

Ngoại hiệnchúng sắc tượng,

Nhất nhất âm thanh tướng.

Do biết pháp năm uẩn, và cái ngã ởtrong uẩn, ngoài hiện các sắc tượng, mỗi mỗi tướng âm thanh.

Bình đẳng như mộng huyễn,

Bất khởi phàm thánh kiến,

Bất tác Niết-bàn giải,

Nhị biên tam tế đoạn.

Khi biết rõ rồi thì bình đẳng, thấy những cái đó đều như mộng như huyễn, không khởi chấp là phàm là thánh, cũng không khởi hiểu là Niết-bàn. Như vậy hai bên và ba mé đều dứt.

Thường ứng chư căn dụng,

Nhi bất khởi dụng tưởng,

Phân biệt nhất thiết pháp,

Bất khởi phân biệt tưởng.

Ðến đây Tổ chỉ thẳng Ðại Niết-bàn thường ứng hiện ra dụng nơi các căn mà chẳng khởi tưởng dụng. Tỉ dụ trong khi ứng dụng, cảnh đến thì mắt tự thấy chớ không có tưởng là mình phải thấy; tiếng đến thì tai tự nghe chớ không có tưởng là mình phải nghe. Không dấy niệm không khởi tưởng mà hằng thấy hằng nghe, đó mới là chân thật; dấy niệm khởi tưởng mới biết, đó không phải là chân thật. Phân biệt tất cả pháp mà không khởi tưởng phân biệt. Tỉ dụ tôi nhìn tất cả quí vị, tôi biết mặt mày hình sắc của tất cả mà tôi không dấy niệm, đó gọi là phân biệt tất cả quí vị mà không khởi niệm phân biệt người hay người dở, người tốt người xấu v.v... Phân biệt tất cả pháp mà không khởi tưởng phân biệt, ngay đó là Niết-bàn hiện hữu. Vừa khởi niệm tìm Niết-bàn là mất Niết-bàn. Hiện nay chúng ta đang sống trong Niết-bàn mà không biết, nên phải chịu trầm luân sanh tử, cho nên Phật thường nói là đáng thương xót. Nếu chúng ta sống được với cái lượng thật, đó là Niết-bàn, nếu sống với thân ngũ uẩn, đó là sanh tử. Nhưng không phải bỏ thân ngũ uẩn riêng kiếm Niết-bàn, mà ngay nơi thân ngũ uẩn đã có sẵn Niết-bàn.

Kiếp hỏa thiêu hải để,

Phong cổ sơn tương kích,

Chân thường tịch diệt lạc,

Niết-bàn tướng như thị.

Dầu cho kiếp hỏa đốt cháy tất cả biển lớn đều khô cạn, gió thổi các núi chạm nhau tan vỡ cả thế giới, nhưng chân thường tịch diệt vui là tướng Niết-bàn vẫn như thế, không đổi thay. Ðây là dẫn trong kinh nói rằng thế giới chúng ta thường trải qua những giai đoạn từ không kiếp tức là lúc chưa có, đến thành kiếp khi được dựng lập, đến trụ kiếp thời gian an trụ, rồi đến hoại kiếp cuối cùng bị tan hoại. Trong hoại kiếp có chia ra thời thủy tai (hồng thủy) nước tràn lan cùng khắp, đến thời hỏa tai trái đất bị cháy, nước bể đều khô cạn, đến phong tai gió thổi, đất rung, các núi va chạm nhau vỡ tan cả thế giới. Trải qua những kiếp ấy, quả đất phải tan hoại mà cái chân thường chân lạc này chưa bao giờ bị đổi thay, huống nữa là bị hoại.

Ngô kim cưỡng ngôn thuyết,

Linh nhữ xả tà kiến,

Nhữ vật tùy ngôn giải,

Hứa nhữ tri thiểu phần."

Nay tôi gắng gượng nói với ông khiến ông bỏ tà kiến. Ông chớ theo lời tôi nói mà hiểu, thì tôi nhận ông biết được một ít phần. Nếu ông chấp theo lời tôi nói, thì ông bị kẹt trong lời nói của tôi mà không biết gì hết.

Chí Ðạo nghe kệ đại ngộ, vui mừng nhảy nhót, làm lễ rồi lui.

 

Thiền sư Hành Tư:

Dòng thiền được truyền bá đến ngày nay chưa dứt là do ngài Hành Tư và ngài Hoài Nhượng. Phái thiền của ngài Hành Tư được truyền đến nay là tông Tào Ðộng, của ngài Hoài Nhượng là tông Lâm Tế. Hai vị là đệ tử cự phách của Lục Tổ, và hai dòng thiền này được truyền dài lâu nhất, còn mãi cho đến ngày nay.

Thiền sư Hành Tư sanh tại An Thành,Kiết Châu, họ Lưu, nghe pháp tịch Tào Khê giáo hóa thạnh hành, Ngài thẳng đến tham lễ, bèn hỏi: "Phải làm việc gì mà không rơi vào giaicấp ?"

Tổ hỏi: "Ông từng làm việc gì đến ?"

Ngài thưa: "Thánh đế cũng không làm."

Tổ bảo: "Rơi vào giai cấp nào ?"

Ngài thưa: "Thánh đế còn chẳng làm thì có giai cấp nào ?"

Tổ thầm nhận đó, khiến Ngài Hành Tư thủ chúng.

Qua sự đối đáp trên, chúng ta thấy câu hỏi đầu tiên của ngài Hành Tư là "Phải làm việc gì mà không rơi vào giai cấp." Phần nhiều chúng ta tu thường nói là tu theo Ðại thừa hay Tiểu thừa, nếu còn thấy có đại có tiểu là còn có giai cấp. Khi hỏi: Làm sao khỏi rơi vào giai cấp, thì Tổ không trả lời, Tổ hỏi lại: Ông đang làm việc gì ? Ngài thưa Thánh đế con còn không làm, huống làm việc gì ! Trong kinh nói Thánh đế đệ nhất nghĩa là nghĩa tột cùng, nghĩa tột cùng đó Ngài còn không làm nữa, huống là giai cấp nào ? Cho nên Tổ nói: Nếu Thánh đế còn không làm, thì ông rơi vào giai cấp nào ? Ngài mới thưa: Còn có giai cấp nào mà rơi nữa ? Ngay nơi đó Tổ liền nhận. Như vậy chỗ cứu kính là không còn danh ngôn, dầu cho tên gọi là Thánh đế đệ nhất nghĩa hay là tên Tối thượng thừa đi nữa, nếu còn mang một danh hiệu thì chưa phải là cứu kính. Thánh đế cũng không làm, thì đâu còn kẹt trong giai cấp, nên Tổ thầm nhận.

Một hôm Tổ bảo Ngài Hành Tư: "Ông nên phân hóa một nơi, không khiến cho đoạn dứt."

Sau cùng Tổ dạy Ngài nên đến phân hóa một phương, không khiến đoạn tuyệt, tức là Ngài đã ngộ rồi nên đến nơi khác truyền bá, chớ để cho Phật pháp đoạn tuyệt.

Ngài Hành Tư đã được phápbèn trở về Kiết Châu, trên núi Thanh Nguyên hoằng pháp, nối tiếp giáo hóa. Sau Ngài tịch, thụy là HoằngTế Thiền sư.

Ngài Hành Tư vâng lời trở về quê ở trên núi Thanh Nguyên, người ta thường gọi Ngài là Thanh Nguyên Hành Tư. Thiền sư Hoài Nhượng:  Thiền sư Hoài Nhượng quê ở Kim Châu, con nhà họ Ðỗ, ban đầu đến yết kiến Quốc sư An ở Tung Sơn. Quốc sư An mới khuyến khích Sư đến Tào Khê tham vấn. Khi Ngài đến lễ bái Tổ, Tổ hỏi: "Ở đâu lại ?" Ngài thưa: "Ở Tung Sơn." Tổ bảo: "Ðem được vật gì lại ?"

Ngài thưa: "Nói giống một vật tức chẳng trúng."

Có chỗ khác nói rằng khi Tổ hỏi "đem được vật gì lại", Ngài không đáp được. Tổ bảo vào trong chúng ở, mải đến tám năm sau, một hôm Ngài phát minh được, mới thưa với Tổ con trả lời được rồi. Ngài thưa: "Nói giống một vật tức chẳng trúng."

Tổ bảo: "Lại có tu chứng chăng ?"

Ngài thưa: "Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được."

Tổ bảo: "Chỉ cái chẳng nhiễm ô này là chỗ chư Phật hộ niệm; ông đã như thế, ta cũng như thế. Tây thiên tổ Bát-nhã-đa-la sấm rằng: Dưới chân ông có một con ngựa tơ đạp chết người trong thiên hạ, ứng ở nơi tâm ông, không cần phải nói ra."

Tổ nhận cho là đúng và nói ông như vậy ta cũng như vậy, tức là ông cũng bằng ta rồi. Câu "Nói một vật tức chẳng trúng", phù hợp với câu "bản lai vô nhất vật" (xưa nay không một vật) của Lục Tổ. Nếu Lục Tổ hỏi chúng ta: "Ngươi có mang được vật gì đến", chắc chúng ta sẽ thưa: Dạ con đến có mang cái bị, dao cạo v.v... nhưng ngài Hoài Nhượng không đáp được, Ngài biết Ngài đến, còn vật gì đến nữa làm sao biết được ! Ngài phải ở chúng tám năm trời mới thưa: Con đáp được, "nói một vật tức không trúng". Tạisao ? Vì Tổ thấy "Bản lai vô nhất vật". Nếu nói một vật tức là có tướng mạo, mà có tướng mạo là sanh diệt, cho nên nói một vật là trật. Chúng ta hiện giờ thường lầm lẫn, nếu có người hỏi: "Ông có chân tâm không", thì đáp: "Có". Hỏi: "Chân tâm ông ở đâu", thì chúng ta sẽ lúng túng không biết làm sao trả lời ! Nếu nói có, thì phải biết ở đâu, nếu không biết ở đâu tại sao dám nói có?? Câu hỏi của Tổ: Ông có mang được vật gì đến hay không, vật gì là để thầm chỉ chân tâm hay Phật tánh, ngài Hoài Nhượng không biết làm sao trả lời, khi ngộ rồi Ngài mới thấy rõ: Nếu nói một vật là không trúng. Nếu có người hỏi: "Chân tâm ở đâu" là hỏi sai rồi, vì chân tâm không phải là vật, làm sao nói chỗ nơi. Tỉ dụ tôi hỏi: "Bao kiếng để ở đâu", đáp: "Ở trên bàn". Vì bao kiếng là vật nên có chỗ nơi, còn chân tâm hay Phật tánh không phải là vật, làm sao nói chỗ nơi, cho nên Ngài đáp: Nói một vật tức không trúng là đã có thầm ý nó không có chỗ nơi. Cái thấy của Ngài rất phù hợp với cái thấy "Xưa nay không một vật" của Lục Tổ khi xưa.

Cái thấy "Nói một vật tức không trúng" chỉ mới vào cửa thiền thôi, chưa đạt đế? cứu kính, cho nên Tổ mới hỏi thêm: "Lại có thể tu chứng hay không?" Không có một vật, ngang đó là đủ rồi, không còn tu chứng nữa phải không? Ngài liền đáp: "Tu chứng tức chẳng không, mà nhiễm ô tức không thể được." Ðây là một câu hay đáo để, đa số người học tu chúng ta không đến được chỗ này thường bị mắc kẹt chỗ "rỗng không". Tỉ dụ như chúng ta đang ngồi thiền, tâm khởi vọng, mà tâm vọng là tướng sanh diệt, là gốc của luân hồi, chúng ta thường nghe dạy như vậy. Cho nên muốn hết luân hồi, tâm vọng phải lặng xuống, khi lặng xuống thì thấy rỗng không. Cái thể rỗng không đó có phải là chỗ chân thật hay chưa? Nếu thấy cái rỗng không cho là cứu kính là đã kẹt ở cái không rồi ! Cho nên: Nói một vật tức không trúng, đó là vào cửa thôi chớ chưa đạt cứu kính, nếu ngưng ngang đó là mắc kẹt. Khi xưa lúc Lục Tổ trình kệ "Bản lai vô nhất vật" thì được vào cửa, nhưng phải nghe kinh Kim Cang rồi mới nói: "Ðâu ngờ tánh mình xưa nay vốn thanh tịnh, đâu ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ v.v..." Ðến lúc đó mới gọi là xong việc. Nếu thấy chỗ lặng lẽ rỗng không cho là cứu kính là lầm, là còn mắc kẹt, vì vậy có câu "Vô tâm du cách nhất trùng quan" tức là vô tâm còn cách một lớp rào. Thấy không có tâm dấy động tưởng là đủ, đó là lầm, cần phải đi đến giác ngộ viên mãn. Vì vậy Tổ mới hỏi thêm: "Lại có tu chứng hay không", Ngài thưa: "Tu chứng tức chẳng phải không", nghĩa là trên phương diện tu chứng không phải là không, nhưng mà nhiễm ô không thể được. Bởi nó không có tướng mạo, làm sao bị nhiễm ô ? Nhưngcái không nhiễm ô đó chưa phải là cứu kính mà còn phải giác ngộ viên mãn mới được. Tỉ dụ tâm mình như cái gương, bị bụi phủ mờ trăm ngàn vết, chúng ta phải lau chùi sạch hết những vết bụi, rồi mới gọi là gương trong, nhưng chưa đủ, mặt gương còn phải phản chiếu ánh sáng nữa mới được viên mãn. Chúng ta tu cũng như vậy, khi những vọng tưởng lặng hết rồi, tâm lặng lẽ gọi là tịch diệt, hay là "không một vật". Ðến khi đó chúng ta phải nhận được tánh giác hằng hữu của mình, đó gọi là tu chứng hay là giác ngộ thành Phật. Cho nên nói "Tu chứng chẳng phải không, mà nhiễm ô không thể được". Tổ mới bảo: "Cái không nhiễm ô này là chỗ chư Phật hộ niệm", tức là chỗ chư Phật hằng nhớ, hằng giữ. "Ông như vậy ta cũng như vậy", tức là giống nhau, đó là câu Tổ đã ấn chứng cho Ngài làm Tổ sau này. Ấn chứng không phải là làm lễ gì, mà chính câu "Ông như vậy, ta cũng như vậy", gọi là ấn chứng, tức là cái thấy biết của ông ngang bằng cái thấy biết của ta, cũng như ngang bằng cái thấy biết của chư Phật.

Ngài Hoài Nhượng hoát nhiên khế hội, liền hầu hạ Tổ mười lăm năm, mỗi ngày càng thâm được sự huyền áo. Sau Ngài đến núi Nam Nhạc, xiển dương Thiền Tông, khi tịch Ngài được sắc ban hiệu Ðại Tuệ Thiền sư.

Ngài ở lại hầu hạ Tổ mười lăm năm, và sau về núi Nam Nhạc xiển dương Thiền tông.
Người học đạo chúng ta ngày nay ở gần Thầy năm, ba năm rồi ngán, muốn ra lãnh đạo một phương để trụ trì giáo hóa thiên hạ, tưởng như ở lâu gần Thầy không có lợi, nhưng không ngờ chính càng lâu càng thêm thâm thúy, càng tăng thêmchỗ huyền áo.

Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác:

Thiền sư Huyền Giác ở Vĩnh Gia, họ Ðới, quê ở Ôn Châu, thuở nhỏ tập kinh luận, chuyên về pháp môn chỉ quán của tông Thiên Thai, nhân xem kinh Duy Ma Cật phát minh được tâm địa; chợt gặp đệ tử của Tổ là Huyền Sách thăm hỏi, cùng bàn chuyện sôi nổi, mà mỗi lời nói ra đều thầm hợp với chư Tổ. Huyền Sách hỏi: "Nhân giả được pháp nơi Thầy nào ?"

Huyền Giác đáp: "Tôi nghe kinh luận Phương đẳng mỗi vị đều có Thầy truyền thừa, sau nơi kinh Duy Ma Cật ngộ được Phật tâm tông mà chưa có người chứng minh."

Huyền Sách bảo: "Từ đức Phật Oai Âm Vương về trước tức được, từ Phật Oai Âm Vương về sau, không Thầy mà tự ngộ trọn là thiên nhiên ngoại đạo."

Huyền Giác nói: "Xin nhân giả vì tôi chứng minh."

Huyền Sách bảo: "Lời tôi nhẹ, ở Tào Khê có Lục Tổ Ðại sư bốn phương nhóm họp về đều là những người thọpháp. Nếuôngchịuđithì cùng tôi đồng đi."

Huyền Giác bèn đồng với Huyền Sách đến tham vấn.

Ðoạn trên đây là câu chuyện đối đáp giữa ngài Huyền Giác và ngài Huyền Sách. Ngài Huyền Giác trình bày chỗ sở ngộ của mình, do đọc kinh Duy Ma Cật mà ngộ. Ngài Huyền Sách nói trước đức Phật Oai Âm Vương thì được, còn sau đức Phật Oai Âm Vương thì không được, không thầy mà tự ngộ là thiên nhiên ngoại đạo. Bởi vì theo kinh nói ở thế gian chúng ta, tức là thế giới ta bà này, đức Phật đầu tiên là Phật Oai Âm Vương, trước Ngài thì chưa có đức Phật nào hết. Nếu chưa có Phật, không thầy mà tự ngộ thì được, nếu có Phật rồi mà ngộ thì phải có thầy.

Ðến đây chúng tôi muốn nói rộng hơn một chút. Hiện giờ tôi đang dạy thiền, có người công kích hỏi Thầy tôi là ai ? Theo lời ngài Huyền Sách, trước Phật Oai Âm Vương không thầy tự ngộ là được, còn sau Phật Oai Âm Vương không thầy tự ngộ, đó là thiên nhiên ngoại đạo. Như hiện giờ tôi đang truyền thiền mà không có thầy có phải là thiên nhiên ngoại đạo hay không ? Ðây là một câu hỏi rất khó trả lời. Nếu căn cứ theo sự truyền thừa từ Thầy đến trò thì đây là một khuyết điểm, còn nếu căn cứ trên những kinh luận hay ngữ lục v.v... thì lại khác. Ðương thời ngài Huyền Giác có Lục Tổ, nếu ngộ rồi mà không đến với Tổ để ấn chứng đó là ngã mạn, vì bất cần hệ thống Phật pháp. Thời Lục Tổ hoặc về sau có những vị được kế thừa, ngộ đạo hẳn hoi, nếu biết mà không đến trình là phạm lỗi. Còn trường hợp chúng tôi hiện giờ, nếu muốn trình là phải trình cho ai ? Không có ai để trình thì phải làm sao ? Chùa nào cũng bảo niệm Phật hay trì chú, vì vậy chúng tôi không trình được với ai. Tất nhiên chúng tôi phải căn cứ vào kinh luận và ngữ lục của chư Tổ để làm chứng cứ. Chúng tôi hiện giờ hiểu mà không có Thầy truyền riêng nên bị nghi ngờ, vì vậy khi nói Thiền chúng tôi phải lấy kinh, luận, sử của chư Phật chư Tổ làm chứng. Còn các vị trước đắc truyền có thầy, đâu cần giảng kinh, các đệ tử muốn hỏi gì cứ hỏi, các Ngài dùng diệu thuật nhà Thiền hoặc đánh, hoặc hét để chỉ dạy. Thành thử hoàn cảnh mỗi thời mỗi khác, nếu bắt phải có thầy ấn chứng là một đòi hỏi quá đáng, không thể thực hiện được. Hiểu như vậy rồi, mới thông cảm với chúng tôi.

Chúng tôi nương kinh luận mà ngộ, tất nhiên phải đem kinh luận làm bằng chứng để chỉ dạy cho người khỏi lầm lạc. Nếu không được truyền thừa, mà còn bỏ kinhbỏ luận để dạy Thiền tức thành ma thuyết, vì nói theo ý riêng của mình nên dễ lạc đường, đó là tai họa. Vì chúng tôi không được truyền cho nên đem kinh, luận, sử để giảng dạy, vì kinh luận sử là cái gương để soi đúng và sai, lấy kinh luận sử làm căn bản để giải các mối nghi ngờ.

Ðến giai đoạn hai là Ngài Huyền Giác tham vấn Lục Tổ.

Khi đến, Huyền Giác nhiễu Tổ ba vòng, chống tích trượng mà đứng. Tổ bảo: "Phàm là Sa-môn phải đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Ðại đức từ phương nào đến, sanh đại ngã mạn ?"

Huyền Giác thưa: "Sanh tử là việc lớn, vô thường mau chóng."

Tổ bảo: "Sao chẳng thể nhận cái vô sanh, liễu không mau ư ?"

Huyền Giác thưa: "Thể tức là vô sanh, liễu vốn không có mau."

Tổ bảo: "Như thế, như thế !"

Huyền Giác mớiđầy đủ oai nghi lễ bái, trong chốc lát liền cáo từ. Tổ bảo: "Trở về chóng vậy ?"

Huyền Giác thưa: "Vốn tự không động, há có mau ư ?"

Tổ bảo: "Ai biết chẳng động ?"

Huyền Giác thưa: "Nhân giả tự sanh phân biệt."

Tổ bảo: "Ông rất được cái ý vô sanh."

Huyền Giác thưa: "Vô sanh há có ý sao ?"

Tổ bảo: "Nếu không ý thì ai biết phânbiệt ?"

Huyền Giác thưa: "Phân biệt cũng không phải ý."

Tổ bảo: "Lành thay ! Hãy dừng lại một đêm."

Thời nhân gọi là Nhất túc giác. Sau Ngài có trước tác bộ Chứng Ðạo Ca, thịnh hành ở đời. Thụy là Vô Tướng Ðại sư, người đương thời xưng là Chân Giác.

Ðến giai đoạn này chúng ta sẽ lấy làm lạ, vì sao người đến hỏi đạo với Tổ, biết Tổ được truyền y bát mọi người đều quí kính, lại không chịu nghiêm chỉnh lễ bái ? Ngài đi vòng giường thiền của Tổ rồi chống gậy đứng nghiễm nhiên có vẻ ngạo mạn. Tổ liền quở: "Phàm sa môn phải đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Ðại đức từ phương nào đến mà sanh đại ngã mạn như vậy ?" Ngài bèn thưa: "Sanh tử là việc lớn, vô thường mau gấp", như vậy có rảnh đâu mà phải đầy đủ lễ nghi. Vì phải giải quyết sanh tử, vô thường gấp lắm rồi, không còn thì giờ đâu mà hình thức lễ nghi nữa. Ngay lời nói đó Tổ liền bảo: "Tại sao không ngay đó mà thể nhận cái vô sanh đi, liễu chẳng mau chăng ?" Ngài liền đáp: "Thể tức vô sanh, liễu không có mau." Cái thể là vô sanh, còn liễu ngộ không có mau chậm, đó là Ngài bẻ lại ý của Tổ. Tổ liền khen: "Như thế, như thế !" Ngài Huyền Giác mới đầy đủ oai nghi lễ bái Tổ.

Người xưa đi hỏi đạo có những cái đặc biệt, vì gấp giải quyết sanh tử, nên không theo nghi thức, đến không còn sợ nó nữa, mới đầy đủ oai nghi, lễ xong rồi cáo từ ra về. Tổ bảo: "Như thế, như thế" là đã ấn chứng rồi, ngài Huyền Giác xin ra về. Tổ thấy Ngài ra về mau quá sợ không thấu đáo, nên bảo: "Sao trở về mau vậy ?" Ngài liền bẻ: "Thể vốn tự không động, há có mau chậm." Tổ liền gạn lại: "Ai biết chẳngđộng ?" Ngài thưa: "Ngài tự sanh phân biệt." Tổ nói: "Ông rất là được ý vô sanh." Ngài bẻ lại Tổ: "Vô sanh có ý sao ?" Tổ liền nói: "Không ý thì cái gì phân biệt ?" Ngài liền trả lời: "Phân biệt cũng chẳng phải ý." Câu này hay đáo để! Như trước đã nói, chúng tôi thấy tất cả quí vị mà không dụng ý gì hết, thấy nam biết nam, thấy nữ biết nữ, thấy cái nào rõ cái nấy mà không dụng ý, đó gọi là "phân biệt mà không phải ý". Như vậy hằ?g ngày cái đó lồ lộ ở mắt tai đâu có giấu giếm. Tổ mới khen: "Lành thay, lành thay, hãy ở lại một đêm." Thời nhân gọi là nhất túc giác; nhất túc là một đêm, giác là giác ngộ, tức là ở lại một đêm mà được giác ngộ.
  Thiền sư Trí Hoàng: Thiền giả Trí Hoàng, ban đầu tham học nơi Ngũ Tổ, tự cho đã được chánh thọ(tức là chánh định), mới cất am ngồi thiền mãi, trải qua hai mươi năm. Ðệ tử của Tổ là Huyền Sách du phương đến Hà Sóc nghe danh ngài Trí Hoàng, liền đến am hỏi: " Ông ở đây làm gì ?"  Trí Hoàng nói: "Nhập định.". Huyền Sách hỏi: "Ông nói nhập định là có tâm nhập hay không tâm nhập ? Nếu không tâm nhập thì tất cả vô tình cỏ cây ngói đá nên được định; nếu có tâm nhập thì tất cả loài hữu tình hàm thức cũng nên được định."

Ngài Huyền Sách đưa ra hai câu hỏi rồi tự Ngài khóa cửa luôn, như vậy biết làm sao trảlời ! Có tâm nhập cũng không được, không tâm nhập cũng không được.

Trí Hoàng bảo: "Tôi chính khi nhập định chẳng thấy có cái có tâm và không tâm."

Huyền Sách nói: "Chẳng thấy có tâm và không tâm tức là thường định, sao lại (nói) có xuất nhập, nếu có xuất nhập tức là không phải Ðại định." Hoàng không trảlờiđược. Giâylâu mới hỏi: "Thầy kế?thừa ai ?"

Huyền Sách nói: "Thầy tôi là Lục Tổ ở Tào Khê."

Trí Hoàng hỏi: "Lục Tổ lấy gì làm Thiền định ?"

Huyền Sách đáp: "Thầy tôi nói: Diệu trạm viên tịch, thể dụng như như, năm ấm vốn không, sáu trần chẳng phải có, chẳng ra chẳng vào, chẳng định chẳng loạn, tánh thiền không trụ, lìa trụ thiền tịch, tánh thiền không sanh, lìa sanh thiền tưởng, tâm như hư không cũng không có cái lượng của hư không."

Trí Hoàng nghe lời nói ấy bèn đi thẳng đến yết kiến Lục Tổ.

Ngài Trí Hoàng, sau khi ngài Huyền Sách chinh phục được rồi, đến tham vấn Lục Tổ.

Lục Tổ hỏi: "Nhân giả từ đâu đến ?"

Trí Hoàng liền thuật lại đầy đủ duyên trước.

Lục Tổ bảo: "Thật như lời đã nói. Ông chỉ tâm như hư không mà chẳng có kiến chấp không, ứng dụng không ngăn ngại, động và tịnh đều không tâm, tình phàm thánh đều quên, năng sở đều dứt, tánh tướng như như, không có lúc nào mà chẳng định."

Trí Hoàng ngay nơi đây liền đại ngộ, hai mươi năm đã được tâm, trọn không ảnh hưởng. Ðêm ấy ở Hà Bắc, dân chúng nghe trong hư không có tiếng nói: "Thiền sư Hoàng ngày nay được đạo." Trí Hoàng sau đó lễ từ trở về Hà Bắc, khai hóa bốn chúng.

Trong đoạn trên, ngài Trí Hoàng đến tham vấn Lục Tổ. Tổ không gạn hỏi nhiều, chỉ thẳng cho Ngài thấy cái chân thật. Tổ bảo: "Ông chỉ tâm như hư không", đó là giai đoạn đầu, tâm như hư không tức là bản lai vô nhất vật, mà chẳng chấp cái thấy không. Tuy tâm như hư không mà đừng bám vào cái không đó thì ứng dụng liền không ngăn trệ, động tịnh đều là vô tâm. Trong khi động tịnh đều như như, tình chấp phàm thánh đều quên, năng sở đều bặt, khi đó tánh tướng như như, không có lúc nào chẳng phải định. Ðây là Lục Tổ muốn chỉ thẳng chỗ chân thật là tâm, không dấy động, rỗng rang không còn mắc kẹt ở hai bên, tức là lúc nào cũng định. Vừa có niệm kẹt bên này bên kia là động, là mất định rồi. Ngài Trí Hoàng đã tu lâu năm, nên khi được Tổ chỉ thẳng liền đạingộ.

Có vị Tăng hỏi Tổ: "Ý chỉ Huỳnh Mai người nào được ?"

Tổ đáp: "Người hiểu Phật pháp được !"

Tăng thưa: "Hòa thượng lại được chăng ?"

Tổ bảo: "Ta chẳng hiểu Phật pháp."

Vì sao Tổ lại phủ nhận như vậy ? Ý chỉ Huỳnh Mai tức là ý chỉ Ngũ Tổ, người nào được ? Lục Tổ là người được truyền y mà ngài không nói vậy, chỉ trả lời: Người nào hiểu Phật pháp thì được. Tăng lại hỏi: Hòa thượng hiểu hay không ? Ðược hay không ? Tổ đáp: Ta chẳng hiểu Phật pháp. Tại sao Tổ lại đáp như vậy, có phải là Ngài chối bỏ chỗ truyền y của Ngũ Tổ hay không ? Chúng ta nên nhớ trong kinh Kim Cang đức Phật nói: "Nếu ta thấy có pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác thì Phật Nhiên Ðăng không thọ ký cho ta thành Phật." Vừa thấy có pháp để được, đó là không được. Còn ở đây vừa khởi hiểu thì không phải là người được truyền y, vừa dấy niệm hiểu là đã sai rồi, bởi vì chỗ đó cho mình nhận mà không cho mình hiểu. Cho nên Tổ nói Ta không hiểu Phật pháp.

Một hôm Tổ muốn giặt lá y đã được truyền trao nhưng không có suối tốt để giặt, nhân Ngài đến sau chùa khoảng năm dặm, thấy trên núi cây cối um tùm, khí tốt xoay quanh,Ngài liền cắm cây tích trượng sâu xuống đất, nước liền phún lên theo tay Ngài, chứa lại thành cái ao, Ngài liền quì gối giặt y trên đá. Chợt có một vị Tăng đến lễ bái thưa rằng: "Phương Biện là người Tây Thục, vừa rồi ở nước Nam Thiên Trúc, thấy ngài Ðạt-ma Ðại sư dạy Phương Biện phải chóng đến nước Ðường là nơi tôi truyền Chánh pháp nhãn tạng và y Tăng-già-lê của Tổ Ca-diếp, thấy truyền đến đời thứ sáu nơi Thiều Châu ở Tào Khê, ông nên đến đó chiêm lễ. Phương Biện từ xa đến, cúi mong được thấy y bát đã được truyền." Tổ bèn đưa ra cho ông xem, liền hỏi: "Thượng nhân làm nghề gì ?"

Phương Biện đáp: "Chuyên nghề đắp tượng."

Tổ nghiêm sắc mặt lại bảo: "Ông thử đắp xem."

Phương Biện mờ mịt không biết. Qua mấy ngày, ông đắp được tượng của Tổ, cao bảy tấc, rất đẹp đẽ.

Tổ cười, bảo: "Ông chỉ giỏi tánh đắp mà chẳng giỏi tánh Phật." Tổ đưa tay xoa đầu Phương Biện nói: "Ông hằng vì người, Trời làm phước điền."

Như vậy khi Tổ nghiêm sắc mặt bảo: "Ông thử đắp xem", lý đáng Phương Biện phải thấy được cái gì Tổ muốn chỉ, đó là đúng ông nhận được Phật tánh; nhưng ông không biết, về nhà chỉ nhớ hình Tổ, ông đắp thành tượng, cho nên Tổ bảo: "Ông chỉ giỏi tánh đắp, mà chẳng giỏi tánh Phật."

Tổliền lấy y đền công, Phương Biện lấy y chia làm ba phần: một phần đắp vào tượng, một phần thì ông lưu lại, còn một phần thì gói chôn xuống đất, thề rằng: "Sau này, người nào đào được y này là tôi tái sanh để trụ trì nơi đây dựng lập lại chùa chiền." (Ðến đời Tống, niên hiệu Gia Hựu năm thứ tám, có vị Tăng tên là Duy Tiên, khi sửa chùa, đào đất được y như mới, còn tượng của Phương Biện đắp thì để ở chùa Cao Tuyền, cúng kính cầu nguyện đều được như ý.) 

Có vị Tăng đọc bài kệ của Thiền sư Ngọa Luân rằng:

Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng,

Năng đoạn bách tư tưởng.

Ðối cảnh tâm bất khởi,

Bồ-đề nhật nhật trưởng.

Tổ nghe qua liền nói: "Bài kệ này chưa rõ được tâm địa, nếu y đây mà tu, ấy là thêm trói buộc", nhân đó Tổ nói một bài kệ:

Huệ Năng một kỹ lưỡng, 

Bất đoạn bách tư tưởng,

Ðối cảnh tâm sổ khởi,

Bồ-đề tác ma trưởng.

Ðối chiếu hai bài kệ trên, chúng ta thấy chỗ thâm sâu khác nhau, nếu không khéo thì không làm sao thấy được. Bài kệ trước của Ngài Ngọa Luân thật ra không phải dở, đối với chúng ta Ngài rất giỏi, Ngài có khả năng dẹp hết tư tưởng. Nhưng "Hay đoạn trăm tư tưởng", đó là bệnh, tại sao ? Vì còn thấy tư tưởng là thật để đoạn; như vậy năng sở rõ ràng; tư tưởng là cái bị đoạn, Ngài là hay đoạn, có năng có sở là có hai rồi, đó là cái bệnh thứ nhất. Ðến cái bệnh thứ hai là "Bồ-đề càng ngày càng lớn". Nói lớn nhỏ là còn hình tướng, đó là bệnh rồi, vì còn kẹt trên hình thức. Cho nên Tổ nói nếu tu mà kẹt trên hình thức là bị trói buộc. Ðây thật là tế nhị, mới nghe qua bài kệ thấy dường như thật hay, nhưng xét kỹ một chút thì thấy bệnh, cho nên khi đọc bài kệ bài thơ, mình biết trình độ người làm thơ đang đến đâu.
Ðến bài kệ của Tổ: Huệ Năng không có tài nghệ gì hết, cũng chẳng đoạn trăm tư tưởng, vì tư tưởng có thật đâu mà đoạn ! Tư tưởng là hư giả như khói như mây, biết nó hư giả là nó hết, có gì mà đoạn. Ðó là không còn năng sở, tức đâu còn hai thứ đối đãi. "Ðối cảnh tâm thường khởi", tại sao ? Nếu thấy cảnh thật thì tâm mới thậ?, nếu biết cảnh giả tâm giả, cả hai đều giả dối thì không thành vấn đề, cho nên không thành bệnh. "Bồ-đề làm gì lớn": Bồ-đề là thể không sanh không diệt, không tướng mạo, nói gì có lớn nhỏ ! Khi thấy đến tột cùng thì chỗ nói mới tột cùng. Khi chưa thấy tột cùng, thì bài kệ của Ngài Ngọa Luân dường như hay mà sự thật Ngài đang chết chìm trong chỗ đè cho nó lặng, chớ chưa thấy được thật thể. Nếu nói "Bồ-đề càng ngày càng lớn" là còn hình tướng, tức chưa phải thật sự đạt đạo vậy.


 
   
 
 
[

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

Tiệc buffet chay thu được 8 tỉ xây chùa Và Thói dat me Tiếng chim mầu nhiệm đất mẹ que cha kheo thien su muso soseki tam thai yếu Nhóm Khai Tuệ tổ chức buffet chay xây quê thừa cũng đà là ai đà là ai long tu bi va con nguoi duc phat a đức phật a da la ai TÃ Æ tình thương sẽ không còn khi người ta ba i ho c y nghi a vê chuyê n bai yêu người xuất gia đúng hay sai tin tuc phat giao Ä á ƒ Sự khởi đầu củaTịnh Độ tông ở tổ tich trÃ Æ ra suy nghiệm lời phật xin ăn mà không ăn ô thẠp má Ÿ Thiếu vitamin cũng gây ra chứng đau nửa Thiếu vitamin D có thể gây ra đau đầu Giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng sức m Phật học Vườn Tâm trao giải Vượt 成住坏空 Phát hiện sớm Alzheimer bằng thiết bị quán Phụ nữ trẻ có nguy cơ đau tim cao hơn Rau cải thực phẩm làm giảm tác hại Vài suy nghĩ về hiếu trong đạo Nho và åº Giấc ngủ kém là dấu hiệu cảnh báo ý Những dấu hiệu cho biết cơ thể thiếu