Dẫn
nhập
Ngay cả vào
thời đại của ngài, pháp thiền của Bankei cũng được xem
như một sự cố bất thường, không giống bất cứ giáo lý
nào người ta đã từng biết đến. Lúc đầu, điều này làm
họ hoảng sợ vì họ không biết những gì ngài giảng dạy
có phải là đạo Phật hay không, khoan nói có phải thiền
hay không. Thời ấy nhà nước ra hình phạt nghiêm khắc những
ai có quan hệ đến bất cứ người nào giảng đạo Chúa hay
bất cứ tà đạo nào khác. Tuy vậy, vào cuối đời ngài,
Bankei đã trở thành một nhân vật có thể nói là nổi tiếng.
Nhiều người hành hương đến từ mọi góc của nước Nhật
để nghe ngài nói chuyện, thính chúng tràn ngập đến độ
phải được sắp xếp thành từng đoàn riêng vào nghe giảng.
Đồ chúng của ngài bao gồm hầu hết mọi tầng lớp của
xã hội Nhật: giới hiệp sĩ cùng với gia quyến họ, thương
gia, thủ công nghệ, nông dân, tôi tớ, và cả đến những
tay cờ bạc và các băng đảng, cũng như tăng ni thuộc mọi
tông phái Phật giáo, tất cả đều tụ tập đến những ngôi
chùa ngài nói chuyện. Phần đông đến để lắng nghe, học
hỏi giáo lý lạ thường của Bankei, nhưng cũng có những người
đến với những vấn đề đặc biệt của riêng họ để
xin ngài ý kiến. Dù đó là một thầy tu gặp rắc rối về
thiền định, hay một cư sĩ mắc bệnh sợ sấm sét, hay một
điền chủ nóng tính, hay người có kẻ thù trong cùng gia tộc...
cách giải quyết của Bankei chỉ có một. Dù vấn đề gì,
đối với Bankei cũng chỉ có một lối giải quyết, đó là
xử lý mọi sự trên một căn bản hoàn toàn mới mẻ: hãy
buông xả, hãy phóng khoáng tự nhiên, hãy tin tưởng vào cái
tâm thực sự nguyên ủy của ta. Ngài gọi đây là giáo lý
về Bất sinh, hay về cái Tâm Phật Bất Sinh. Theo Bankei, ai
cũng có cái tâm bất sinh này, nó không huyền bí xa xôi gì
cả mà ở ngay tại đây và bây giờ, đang vận hành, đang
sống, chiếu sáng một cách kỳ diệu và giải quyết êm đẹp
mọi sự. Không cần gì phải kiếm cho được cái tâm Phật,
vì nó vẫn luôn ở ngay đấy. Người ta chỉ có việc an trú
trong tâm ấy, sử dụng nó, mở mắt ra. Việc ấy rất dễ
nếu họ biết cách, và thiền sư cốt ở đấy để chỉ cho
họ. Đấy là thông điệp mà Bankei mang lại cho chúng ta.
Vào năm 1622,
lúc Bankei ra đời, nước Nhật vừa mới ra khỏi một thời
gian dài nội chiến. Suốt phần lớn thế kỷ mười sáu, những
chủ tướng tranh chấp nhau đã xâu xé xứ sở này, và chiến
thắng quyết định của các lực lượng Tokugawa cùng đồng
minh vào năm 1600 đã mở ra một thời hòa bình kéo dài suốt
hai rưỡi thế kỷ, để lại một dấu ấn khó phai trên phần
lớn đời sống người Nhật. Mặc dù họ vẫn rêu rao cai
trị theo nguyên lý đạo đức Khổng giáo, kỳ thực chính
quyền Tokugawa là một chế độ độc tài quân phiệt mà sự
quan tâm chính yếu là làm sao duy trì sự kiểm soát chặt chẽ
mọi mặt trong xã hội Nhật bản. Họ thiết lập một chế
độ đẳng cấp xã hội mà trên hết là giới hiệp sĩ samurai
hay giai cấp chiến sĩ, kế đến là nông dân, tiểu công nghệ
và thương gia, những người thuộc thành phần đa số. Kỷ
luật xã hội rất khắt khe được thi hành ở mọi cấp bực
theo lối trách nhiệm tập thể. Sự chống đối là điều
không thể có, hình phạt có thể thực hành nhanh chóng và
tàn bạo ngay cả đối với một hiệp sĩ.
Những tông
phái Phật giáo cũng được tổ chức thành cơ cấu có tính
cách độc tài, mỗi tổ chức chịu trách nhiệm trực tiếp
với chính phủ. Mặc dù Phật giáo bị những viên chức Khổng
giáo đả kích, xem những thầy tu là giới ăn bám và hủ hóa,
song chính quyền Tokugawa vẫn là những tay bảo trợ quan trọng
đối với Phật giáo, và suốt thời đại này (1600-1868), chính
phủ xem chùa chiền như những công cụ vô giá để bài trừ
đạo Thiên chúa bị xem như một tà giáo ngoại lai. Muốn chứng
tỏ mình không phải là những kẻ bí mật theo đạo Chúa,
mọi gia đình Nhật bản bắt buộc phải gia nhập hội đoàn
trong một ngôi chùa nào đó, giáo sĩ chùa này sẽ cấp phát
đều đặn cho họ những chứng chỉ xác nhận họ có giúp
đỡ chùa. Chế độ giáo khu này quả là một vận hên cho
đạo Phật, vì nhờ đó các chùa chiền có được một nguồn
lợi tức bảo đảm. Nhưng cái độc quyền của giáo sĩ trong
giáo khu về việc cấp chứng chỉ hay rút chứng chỉ - chứng
chỉ mà nhà nước đòi hỏi - đương nhiên dễ bị lạm dụng,
và không phải là không có những trường hợp bị giáo sĩ
bóc lột.
Cũng như
mọi tông phái PG khác, thiền tông được hưởng lợi do sự
bảo đảm kinh tế của chế độ giáo khu, nhưng với nhiều
thiền sư, thời kỳ đầu của chế độ Tokugawa là một giai
đoạn khủng hoảng, buộc phải tự xét gắt gao. Mặc dù về
vật chất, nhiều chùa đã thịnh vượng nhờ những năm nội
chiến, song giáo lý Thiền lại suy đồi trầm trọng. Trong
những thế kỷ 15 và 16, sự học thiền đã thoái hóa thành
một loại khẩu truyền bí mật nặng ảnh hưởng mật tông.
Kết quả thiền chỉ còn là những công thức vô hồn, trong
đó không còn gì là kinh nghiệm chứng ngộ. Tình trạng cũng
tương tự như thế đối với các tông Thiên thai và Tào động,
những tông phái chính của Thiền Nhật bản được thành lập
vào thời Trung cổ.
Vào đầu
thời đại Tokugawa, một phản ứng đã khởi sự, lối khẩu
truyền bí mật dần dần bị dẹp bỏ. Tuy thế trong thời
đại mới mẻ này, chưa có một thỏa thuận nào về phương
cách tốt nhất để phục hưng Thiền tông. Nhiều phương pháp
khác nhau được đề ra, và suốt thế kỷ mười bảy, cuộc
đối thoại không mấy đặc sắc vẫn tiếp diễn trong hai
tông phái. Nhiều người cho rằng nên trở lại quá khứ, phục
hưng giáo lý của những nhà sáng lập lớn thời Trung cổ.
Ví dụ Tào động tông tìm cách lập thuyết căn cứ những
tác phẩm của tổ sư sáng lập là Dògen Kigen (1200-1253- Hoa
ngữ là Đạo nguyên), người mà vào cuối thời Trung cổ có
phần nào đã bị quên lãng. Về tông Thiên thai, trung tâm phục
hưng là Myòshinji, ngôi chùa lớn của nó nằm ở Kyoto với
những chi nhánh khắp Nhật bản. Ở đây cũng không có một
khuôn mặt nào khả dĩ so sánh với tổ Dogen, nên người ta
hăng hái trở lui về lối thiền công án mà những bậc thầy
đầu tiên về tông phái này đã thừa hưởng của thiền Trung
hoa đời Tống. Phong trào khởi từ chùa Myòshinji đưa đến
tột
đỉnh của nó trong việc giảng dạy giáo lý của thiền sư
Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn, 1686-1769) và môn đệ của ngài, những
người đã sáng tạo hệ thống tham cứu công án mà ngày nay
vẫn còn sử dụng trong các thiền viện Nhật thuộc tông Thiên
thai. Sự tôn kính đối với những tổ khai sáng tông phái
còn đi kèm với sự đề cao tính thuần túy của những hệ
truyền thừa, sự dùng tâm ấn tâm để mật truyền tâm giác
ngộ là một điểm then chốt của thiền tông. Sự trao truyền
thường được xác nhận bởi ấn tín (inka) của bậc thầy,
một bản thừa nhận thành văn của bậc thầy về kinh nghiệm
giác ngộ của môn sinh, những tài liệu này được giữ gìn
cẩn thận trong các thiền viện Nhật bản. Cả hai tông Thiên
thai và Tào động đều bắt đầu trở lại quan tâm đến
lối học đa văn, nhiều người tưởng nó có thể giải quyết
ngõ bí hiện tại bằng cách cung cấp những mẫu mực tương
tự trong quá khứ.
Tuy nhiên
cũng có những người cho rằng những vấn đề mà thiền gặp
phải thực là quá thâm căn, không thể nào giải quyết bằng
những cuộc canh tân như vậy. Đối với những tu sĩ này,
thì điều thiếu sót quan trọng trong thiền học đương thời
chính là kinh nghiệm giác ngộ. Họ lý luận rằng, vì trong
hai thế kỷ cuối khi thiền Nhật bản suy tàn, không còn được
bậc thầy giác ngộ nào để tiếp tục truyền trao giáo lý,
nên bây giờ chỉ còn nước mỗi người tự giác ngộ lấy
mình, tự phê chuẩn kinh nghiệm tu chứng của mình. Những
người độc lập này, như Suzuki Shòsan (1579-1655), Ungo Kiyò
(1582-1659) và Daigu Sòchiku (1584-1669), đều là những người
tự tôn thành bậc thầy, những cá nhân đủ mọi sắc thái
mà bản thân chưa từng thờ một bậc thầy nào cả. Shòsan
đến già mới học thiền, sau khi thành công trong sự nghiệp
võ nghệ của giới hiệp sĩ, ông cạo tóc làm thầy tu, nhưng
vẫn tiếp tục chủ trương rằng làm chiến sĩ thích hợp
với thiền hơn là làm tu sĩ. Ông cho rằng chỉ có một nền
Phật giáo chân chính, đó là Phật giáo thực hiện trong đời
sống, giữa chiến trận hay ngoài đồng áng. Ông gạt bỏ
lối hành thiền theo truyền thống, và dạy môn sinh phải kỷ
luật thân tâm với tư thái hung tợn của những tượng thần
hộ pháp thường đứng hai bên cổng chùa. Trái lại, Ungo và
Daigu vốn là những giáo sĩ đã được thầy mình chứng nhận
làm thiền sư, nhưng chưa hài lòng với những sở đắc, họ
lại khởi hành đi tìm giác ngộ vào tuổi trung niên. Cả hai
đều thành công toàn nhờ tự lực, sau khi đã từng trải
nhiều phấn đấu gian nan. Giáo lý của Ungo nặng về đức
tin, trong khi của Daigu thì rất kỳ quái, nhưng cả hai vị
này cũng như Bankei, đều cảm thấy rằng ở Nhật bấy giờ
không có bậc thầy nào đủ tư cách để ấn chứng cho sự
giác ngộ của mình, nên họ buộc lòng phải tự ấn chứng
kinh nghiệm giác ngộ.
Những tu
sĩ thiền khác thì trông ngóng làn sóng mới từ những bậc
thầy ở lục địa Trung quốc tràn sang. Mặc dù trở ngại
ngôn ngữ - không vị thầy Trung quốc nào nói được tiếng
Nhật, mọi giao thiệp đều bằng bút đàm - vẫn có những
bậc thầy như Tao-che Ch'ao-yuan (mất năm 1662) và Yin-yuan Lung-chi
(1592-1673) đã nhanh chóng thu hút một số lượng đông đảo
tín đồ đến với chùa của họ trong vùng thương mại Trung
quốc tại thành phố Nagasaki. Nhưng thiền Trung hoa đã thay
đổi khá nhiều từ khi du nhập Nhật bản vào những thế
kỷ 12 và 13. Vào triều nhà Minh (1368-1644), pháp thiền ở các
tu viện Nagasaki chứa đựng nhiều yếu tố hỗn tạp ngoại
lai mà những bậc thầy theo truyền thống hết sức phản đối,
những bậc thầy như thiền sư Gudò Tòshoku (1579-1661) của
tu viện Myòchinji, những người duy trì pháp thiền thuần túy
của các vị tổ khai sáng. Cuối cùng chỉ có Yin-Yuan thành
công thiết lập được hệ phái thiền của mình tại Nhật
bản, ở đấy nó vẫn còn là một ngành nhỏ của Thiền Nhật
bản được biết dưới tên phái Obaku nổi tiếng về ảnh
hưởng trong ngành hội họa và thuật viết chữ Hán, cùng
cách nấu chay gọi là shòjin ryòri.
Chừng ấy
cũng đủ chứng tỏ thiền Nhật bản vào thế kỷ mười bảy
là một tập hợp nhiều dòng, nhiều lối khác nhau để cố
phục hồi tính nguyên vẹn của nền giáo lý sau hai thế kỷ
suy tàn. Trong khi giáo lý thiền của Bankei thực sự độc đáo,
ngài cũng rõ ràng là con người của thời đại, mang nhiều
sắc thái quan trọng như những người đồng thời với ngài.
Ngay cả tính độc đáo của Bankei, sự tự tin bạo dạn của
ngài, sự bài trừ thần tượng của ngài cũng tiêu biểu cho
trạng huống căng thẳng trong thế giới thiền thời ấy.
Tựu trung,
pháp thiền của Bankei là tự tu tự ngộ. Trọng tâm của giáo
lý Bất sinh là câu chuyện về cuộc đời ngài, mà Bankei thường
kể lại khi nói chuyện với thính giả, nhắc nhở họ đừng
lặp lại những sai lầm của ngài và cho họ biết họ thực
may mắn như thế nào vì đã được hưởng lợi từ kinh nghiệm
gian khó của bản thân ngài.
Bankei sinh
năm 1622 ở Hamada, một quận thuộc thành phố Aboshi, thời
bấy giờ là một hải cảng của Nhật. Thân phụ ngài theo
Khổng giáo, là một rònin hay hiệp sĩ tự phát không thầy,
xuất thân từ đảo Shikoku. Nhờ sự giúp đỡ của lý trưởng
Nakabori Sukeyasu ông ta được nhận làm con nuôi trong một gia
đình ở Hamada, ở đấy ông trở thành thầy thuốc, một nghề
thông thường của hiệp sĩ sau khi rửa tay gác kiếm. Bankei
là con út trong ba người con trai của ông, và khi ông chết
vào năm 1632, người anh cả Tadayasu làm chủ gia đình. Bankei
luôn gần gũi mẹ và có hiếu với bà suốt đời, nhưng lại
xung khắc với anh. Tadayasu hình như cũng theo Khổng giáo như
cha, một nhà luân lý đặt nặng sự tuân phục và việc học
hành nghiêm túc. Trái lại, chú bé Bankei thì có khuynh hướng
khiêu chiến bất trị, một kẻ đầu têu trong mọi trò tinh
quái, và giữ chức vô địch xóm làng về môn chọi đá.
Sự chạm
trán xảy ra là điều không thể tránh khi vào năm 11 tuổi,
Bankei được gởi đi học trường làng. Hầu như ngay buổi
đầu ngài đã phản đối sự thiếu sinh khí của chương trình
mẫu bấy giờ là tập trung vào việc học thuộc lòng sách
Đại học, một cổ thư quan trọng của Khổng giáo. Bankei
đã kể lại trong bài giảng của ngài rằng, trí tò mò của
ngài đã được khơi dậy bởi lời mở đầu bản văn: "Đường
lối của sự học lớn lao là cốt làm sáng cái đức sáng.
(Đại học chi đạo tại minh minh đức)."
Đức sáng
là một trong những khái niệm then chốt của sự học lớn
lao. Nó thường được giải thích là một cảm thức luân
lý theo trực giác rất năng động, vốn là bản chất nội
tại của con người. Có thể đấy là lối giải thích mà
Bankei nhận được khi hỏi các nhà nho trong làng. Nhưng khi
ngài hỏi dồn họ đức sáng là gì, thì dường như không
người nào giải đáp được, và Bankei đã một mình ôm mãi
sự thắc mắc ấy. Đầy thất vọng hoài nghi, cuối cùng ngài
khởi sự trốn học. Tadayasu rất tức giận vì em bỏ học,
và đời sống trong gia đình càng ngày càng khó thở. Nhưng
Bankei nhất định không trở lại trường làng, và vì không
tìm ra lối thoát cho ngõ bí, người ta kể Bankei đã trốn
vào khu nghĩa địa của ngôi chùa gia tộc mà tự tử bằng
cách nuốt một búng nhện độc. Có thể ngài đã bị lừa
về tính độc chết người của loài nhện ấy, vì hôm sau
ngài vẫn thấy mình còn sống để đối phó với viễn ảnh
đen tối trong gia đình. Mối căng thẳng giữa ngài và người
anh cả càng ngày càng tăng, cuối cùng Tadayasu đã đuổi chú
bé trốn học ra khỏi nhà.
Vấn đề
đức sáng vẫn tiếp tục ám ảnh Bankei, và sau khi tham vấn
những nhà nho không xong, cuộc tìm kiếm cuối cùng đã đưa
đẩy ngài đến Phật giáo. Năm13 tuổi, Bankei đã bắt đầu
học với giáo sĩ trong ngôi chùa gia tộc, nơi mà anh giữa
ngài đã xuất gia làm tăng. Năm sau, Nakabori Sukeyasu bạn cũ
của thân phụ ngài đã đến cứu vãn tình thế, dựng cho
Bankei một nơi nhập thất ẩn cư trên núi đằng sau ngôi nhà
ông. Tại đây ngài tu tập đơn độc một thời gian, nhưng
vẫn bị nỗi hoài nghi dày vò, liền lại ra đi tìm thầy học
đạo. Sau một thời gian ngắn học mật tông với một giáo
sĩ theo Chân ngôn tông, ngài đi đến thiền sư Umpo (1572-1653)
thuộc dòng thiền Myòchinji ở chùa Zuiòji gần Akò. Bấy giờ
Bankei đã 16 tuổi, và vẫn băn khoăn về bản tính nguyên ủy
của con người, về những vấn đề có thể được vo thành
một khối dưới đề mục đức sáng. Nhưng ngài đã xác quyết
chỉ có đạo Phật mới giải quyết được những thắc mắc
của mình, và trong tất cả các tông phái Phật giáo mà ngài
đã thử qua, thì thiền tông có vẻ đầy hứa hẹn. Do vậy,
năm 1638 ngài đã làm lễ thế phát xuất gia với Umpo, làm
đệ tử vị này với pháp danh là Bankei Yòtaku.
Hầu như
ta không biết gì về giáo lý của Umpo. Mặc dù luôn nhớ đến
lòng từ bi của thầy, Bankei dường như không xem ông đủ
tư cách làm thiền sư chính hiệu. Năm 1641 Bankei rời chùa
Zuiòji để đi hành cước bốn năm gọi là angya, một thời
gian du hành để tham học, vốn là truyền thống trong thiền
tông. Những thắc mắc cũ vẫn còn ám ảnh ngài, nên khi trở
về Umpo năm 1645, Bankei rút vào ở ẩn trong một gian chòi ở
làng Nonaka gần đấy, và khởi sự một chế độ hành thiền
ráo riết.
Trong hai năm
liền, Bankei dấn mình vào một loạt những thử thách nhừ
tử trong nỗ lực giải quyết dứt khoát những mối hoài nghi,
khám phá chân lý về bản chất nội tại của con người.
Bị dồn đến nước gần kề cái chết vì đói và kiệt sức
mà vẫn không thành công, mùa xuân năm 1647 Bankei nằm trong
chòi đau ốm gần chết, không còn nuốt được thức ăn do
người giúp việc mang đến. Một hôm, cảm thấy trong cổ
họng có vật lạ, Bankei thu hết tàn lực khạc ra một viên
đờm đen bắn vào bức vách. Thình lình toàn thể sức nặng
của cơn bệnh bỗng tan rã, ngài trực nhận được giải đáp
cho những thắc mắc của mình - đó là, câu trả lời vẫn
luôn ở nơi ngài, cái tâm bẩm sinh giải quyết xong mọi sự
một cách tự nhiên không cần dụng công nỗ lực. Ông gọi
người tớ đầy ngạc nhiên mang cháo đến, và ngài đã nuốt
liền mấy bát cháo còn sống, rồi nhanh chóng bình phục. Bankei
cho chúng ta biết đấy là lần đầu tiên ngài trực ngộ cái
Bất sinh. Nhưng không rõ ngài khởi sự dùng từ ngữ này vào
lúc nào, có lẽ rất lâu về sau, khi đã nổi tiếng. Nhưng
dù sao, ngài không bao giờ nhắc lại đức sáng nữa.
Vào năm 1651,
có tin đồn thiền sư Trung hoa Tao-che Chao-yuan đã đến chùa
Sufukuji do cộng đồng người Hoa sáng lập tại Nagasaki. Umpo
bảo Bankei nên đến viếng Tao-che. Vị sư này không nói được
tiếng Nhật, nhưng đã chú ý đến Bankei ngay, và cho ngài biết
sự giác ngộ của ngài mặc dù chân thực, nhưng chưa thấu
đáo. Bankei quyết định gia nhập hội chúng của Tao-che. Vào
một buổi chiều, khi đang ngồi trong một góc tối của thiền
đường Sufukuji, ngài kinh nghiệm sự chứng ngộ lần thứ
hai. Khi trình sự chứng ngộ cho Tao che, Bankei hỏi: Thế nào
là vấn đề sống chết? Tao-che trả lời bằng bút đàm: Sống
chết của ai? Bankei dang hai tay. Tao-che lại cầm quản bút lông
lên, nhưng Bankei giật phăng nó mà ném xuống đất. Ngày hôm
sau, Tao-che công bố Bankei đã hoàn tất việc học thiền và
cho ngài làm đầu bếp, một chức vụ chỉ dành cho những
thiền sinh cấp cao trong thiền viện.
Bankei ở
lại với Tao-che chừng một năm, được sự ấn chứng của
vị này. Tuy thế, ngài nhận thấy những giới hạn của Tao-che,
và than rằng vì không có những bậc thầy giác ngộ, ngài
đành phải chọn Tao-che là người khá nhất. Năm 1652 Bankei
trở về Harima, nhưng nỗ lực đầu tiên của ngài để giảng
dạy lại gặp phải nghi kî thù ghét, nên đành ẩn dật suốt
năm kế tiếp trong núi Yoshino. Tại vùng quê xa xôi hẻo lánh
này, Bankei được đón tiếp nồng hậu, và có lẽ chính nơi
đây ngài đã làm bài thơ được biết dưới nhan đề Bài
ca về Tâm bản lai, một kiểu giảng cho bình dân trong vùng.
Bấy giờ sức khỏe của Umpo đang suy sụp, và khi trở về
Akò mùa đông năm sau, Bankei chỉ còn kịp dự đám táng của
thầy mình.
Trong lúc
ấy ở Nakasaki tình hình đang rối ren. Yin-yuan Lung-chi, một
thiền sư Trung hoa nổi tiếng thuộc cùng môn phái với Tao-che,
đã đến Nhật năm 1654, và phe cánh theo ông ta đang cố bứng
Tao-che ra khỏi chùa Sufukuji. Tao-che muốn nhượng bộ hơn là
cố liều một cuộc chạm trán chỉ làm cho mọi người trong
cuộc thêm lúng túng. Do đó Bankei cùng nhiều thiền sinh khác
khởi công đi tìm một ngôi chùa khác cho vị thầy mình. Sứ
mạng này không thành công, nhưng trong khi vận động cho thầy,
Bankei gặp hai vị lãnh chúa về sau đã thành những đệ tử
và người bảo trợ ngài: Matsuura Shigenobu (1622-1703) lãnh chúa
vùng Hirado, và Kato Yasuoki (1618-1677), lãnh chúa vùng Iyo. Bankei
trở lại chùa Sufukuji một thời gian, nhưng liên hệ với nhóm
người của Yin-yuan tiếp tục xấu dần cho đến 1658 thì Tao-che
phải về Trung quốc sau một cuộc chia tay đẫm lệ với những
đệ tử Nhật bản.
Nhưng chính
Bankei bây giờ cũng sắp nghiễm nhiên thành một thiền sư
dạy đạo. Theo lời trối trăn của Umpo trước khi mất- lúc
ấy Bankei vắng mặt- người kế vị Bokuò Sogyù (chết năm
1694) đã truyền ấn tín cho Bankei. Đây là một tục lệ thông
thường trong các thiền viện Nhật. Mặc dù Bankei được lập
làm người thừa kế Bokuò, đây là một kế thuận lợi để
thừa nhận Bankei làm hậu duệ của Umpo, thuộc chi nhánh Shotaku-ha
môn phái Myòshinji.. Năm 1659 Bankei nhận địa vị cao trong thiền
viện Myòshinji khi thừa nhận quy chế mới của mình. Nhưng
vẫn còn mang tính ươn gàn, ngài đã làm bất mãn những người
theo truyền thống vì không chịu tuân theo quy luật của buổi
lễ là phải nhận một công án để tham.
Trở về
Hamada, mọi sự cũng đang thay đổi với Bankei. Đã từ lâu
ngài giảng hòa với anh cả Tadayasu chết năm 1661, cũng năm
ấy một người bạn từ tấm bé trong trường làng tên Sasaki
Nobutsugu (1625-1686) cùng các anh em ông ta xây cho Bankei một ngôi
chùa ở Hamada gọi là Ryòmonji, hay Chùa Cửa Rồng (Long môn
tự). Xuất thân từ giới hiệp sĩ như gia đình Bankei, dòng
họ Sasaki cũng đến lập nghiệp ở Hamada, chuyên đóng tàu
đi biển với gian hàng Nadaya thời ấy nổi tiếng khắp Nhật
Bản. Gia đình anh em Sasaki là những thí chủ cốt cán của
Long môn tự, những người bảo trợ trung thành nhất của
Bankei. Chùa này chỉ là ngôi chùa đầu tiên trong nhiều ngôi
chùa quan trọng mà Bankei tiếp nhận. Khi danh tiếng Bankei lan
truyền, nhiều tín đồ giới hiệp sĩ thuộc đẳng cấp thượng
lưu tranh nhau thỉnh ngài. Những lãnh chúa cúng cho ngài những
ngôi chùa trong lãnh địa và trong những thủ phủ Kyoto và
Edo.
Những năm
sau đó, Bankei thường xuyên nhập thất tại một trong những
nơi mà các thí chủ cung cấp, để tu tập một mình hoặc
chỉ dạy một số môn sinh chọn lọc, hoặc dưỡng bệnh,
một chứng bệnh thường tái đi tái lại. Những phấn đấu
khắc nghiệt đầu đời đã khiến sức khỏe ngài sa sút thậm
tệ, những năm cuối ngài bị chứng đau bụng kinh niên và
những trận ho dữ dội cần tịnh dưỡng để khôi phục.
Cũng có thể trong thời gian nhập thất vào những thập niên
1660 và 1670, ngài đã có cơ hội để tìm một phương pháp
giảng dạy, đưa đến nền giáo lý vững vàng về Bất sinh.
Về vấn đề này, tài liệu còn lại quá ít ỏi không cho
phép ta làm gì hơn ngoài việc ức đoán.
Dù sao, năm
1679 cũng đánh dấu một thay đổi lớn trong lối giảng dạy
của Bankei, khởi sự những kỳ kiết thất ba tháng hành thiền
tập thể, giảng dạy cho công chúng. Từ đấy cho đến khi
mất, Bankei tiếp tục hướng dẫn những kỳ huấn luyện quan
trọng mỗi năm một lần, du hành đến những tu viện do ngài
coi sóc ở nhiều nơi. Đôi lúc một ngày ngài giảng đến
ba thời Pháp.
Rủi thay,
chúng ta không biết chi tiết về cách tu hành trong những kỳ
kiết thất ấy hoặc trong những tự viện của Bankei nói chung.
Ít nhất trong vài khía cạnh, sinh hoạt tại những hội chúng
do Bankei hướng dẫn khác hẳn các nơi khác. Chẳng hạn, Bankei
không chấp nhận hành vi đàn áp như đánh đập hoặc la rầy
mà hiện nay vẫn còn áp dụng tại nhiều thiền viện. Ngài
cũng không cho phép chư tăng đi xin, mặc dù khất thực là
việc phổ biến ở các tu viện, và hoàn toàn hợp pháp. Tuy
vậy, như phần đông thầy tu phái thiền, thiền sinh của Bankei
cũng tuân giữ những thời tọa thiền tụng kinh hàng ngày,
và chính Bankei như các thiền sư thời ấy, cũng nhận cho thiền
sinh tham vấn riêng, cử hành tang lễ và cầu siêu cho những
thí chủ, cùng tuân giữ nghiêm túc những giới luật Phật
giáo trong đời sống cá nhân. Nói chung, bầu không khí tu học
mới là điều làm cho chúng hội Bankei khác biệt với các
thiền viện.
Vào những
năm cuối đời, Bankei thường du hành đến các tự viện do
ngài điều khiển và đến các nhà thí chủ. Năm 1680 ngài
bị một mất mát lớn lao là mẹ chết - bà đã đi tu ẩn
cư trong một tịnh thất không xa chùa Long môn. Bankei rất có
hiếu với mẹ, ngài vẫn thường khẳng định rằng điều
thúc đẩy ngài tìm đạo cốt yếu là để san sẻ với mẹ
chân lý ngài chứng đắc.
Vào năm 1690,
sự nghiệp Bankei lên tột đỉnh. Giáo lý ngài dạy về cái
Bất sinh đã thu hút một số tín đồ đông đảo, và ngoài
danh dự mà chùa Myòshini trang tặng, ngài còn được hoàng
đế trao tước hiệu Butchi Kosai zenji, nghĩa là vị thiền sư
có tuệ giác đầy lợi lạc. Vào mùa thu, Bankei được thỉnh
cầu giảng cho công chúng tại chùa Hòshinji ở Marugame, thành
phố lâu đài thuộc quyền lãnh chúa ở Sanuki là Kyogoku Takatoyo
(1655-1694) thí chủ của Bankei. Cuối năm ấy, ngài hướng dẫn
kỳ kiết thất vĩ đại ở chùa Long môn thu hút gần một
ngàn bảy trăm tu sĩ đủ các giáo phái tham dự, có những
người đến từ những đảo xa xôi như Ryukyu. Thiền đường
tại chùa Long môn hết chỗ, phải dựng những thiền đường
tạm thời để chứa làn sóng người mới đến. Kỳ kiết
thất được sự tài trợ của anh em gia đình Sasaki, nhưng
số lượng tu sĩ tăng quá nhiều làm Sasaki đâm hoảng, yêu
cầu Bankei đừng nhận thêm, song vô hiệu. Mặc dù vậy, kỳ
kiết thất này đã thành công mỹ mãn, chỉ có một điều
đáng tiếc là cái chết của Soen, đệ tử thân tín của Bankei.
Trong kỳ kiết thất này, Bankei giảng tổng cọng sáu mươi
bài giảng, nhiều bài được những người nghe ghi lại. Những
bài này cùng với những bài giảng được ghi ở Marugame đầu
năm, làm nên toàn bộ những bài giảng còn sót lại của Bankei.
Năm 1693 sức
khỏe của Bankei đã khá suy, những tín đồ Long môn tự nhận
thấy không còn bao lâu nữa, vội vàng đóng góp công sức
để dựng cho Bankei một ngôi tháp. Tất cả nam phụ lão ấu
đều tham gia công tác, những viên chức tướng sĩ thì về
chiều khi xong việc công cũng đến chùa xây tháp dưới ánh
trăng. Tháng sáu năm ấy sau khi viếng Edo trở về, Bankei trở
bệnh nặng, nhưng ngài vẫn gắng gượng nói pháp lần cuối
suốt ba ngày liền. Tình trạng sức khỏe tiếp tục kiệt
quệ, vào cuối tháng chín ngài từ trần. Sau khi hỏa táng
nhục thân, tro được phân chia cho hai ngôi chùa chính của
ngài là Long môn tự và Nyohòji do lãnh chúa Katò xây ở Iyo.
Năm 1740 ngài được vua ban thụy hiệu là Quốc sư, một vinh
dự mà chỉ có sáu bậc thầy khác trong lịch sử chùa Myòshinji
có được.
Cái gì làm
cho giáo lý Bất sinh của ngài nổi tiếng? Trên tất cả, có
lẽ vì căn bản của pháp thiền Bankei thật rõ ràng và tương
đối giản dị dễ hiểu. Không cần phải là người uyên
bác, sống trong tu viện, ngay cả không cần phải là Phật
tử mới có thể thực hành hữu hiệu pháp thiền Bankei. Lại
còn không cần phải trải một thời gian dài tuân theo một
kỷ luật khắt khe để học đạo. Tự bản thân, Bankei quả
đã trải qua những gian khổ ghê gớm mới ngộ được cái
Bất sinh, nhưng ngài cho đó chỉ vì không tìm được một
bậc thầy có thể chỉ giáo cái điều cần biết. Sự thực
thì ta có thể dễ dàng đạt ngộ cái Bất sinh ngay tại nhà
mình, không cần vất vả khó nhọc. Bankei nhấn mạnh rằng
không cần và cũng không nên theo cái gương khổ hạnh của
ngài.
Toàn bộ
giáo lý của Bankei có thể rút gọn trong một lời duy nhất:
Hãy an trú trong Bất sinh, điều ngài luôn nhắc lại. Từ ngữ
Bất sinh rất thông dụng trong Phật giáo cổ điển, thường
ám chỉ cái gì nội tại từ nguyên ủy, cái chưa từng được
tạo tác. Nhưng Bankei là người đầu tiên sử dụng danh từ
ấy làm cốt lõi của giáo lý. Theo ngài thì người ta không
cần phải đạt được hay luyện tập cái Bất sinh, mà chỉ
việc ở trong đó, một cách đơn giản. Vì Bất sinh không
phải là một trạng thái cần phải tạo ra, nó đã có saün
đấy, toàn hảo và nguyên vẹn, đó là cái tâm như như. Không
có phương pháp nào đặc biệt để thực chứng cái Bất sinh
ngoài ra hãy là chính bạn, hoàn toàn tự nhiên như nhiên trong
mọi sự bạn làm. Đó là cứ để mặc cho những ý tưởng
tha hồ khởi và diệt, cũng vậy đối với những cảm giác
trên thân thể, như Bankei khuyên dạy về cách xử lý đối
với tật bệnh và nghệ thuật ném lao.
Tâm, theo
Bankei mô tả, là một cơ cấu năng động, nghề của nó là
phản chiếu, ghi lại và hồi tưởng những ấn tượng về
thế giới bên ngoài; nó như một loại gương soi sống động
luôn luôn vận hành, không bao giờ ở yên từ giây phút này
sang giây phút kế. Trong cái tâm như gương sáng này, những
ý tưởng và cảm giác cứ đến rồi đi, sinh, diệt rồi lại
tái sinh tùy hoàn cảnh, tự bản chất chúng không tốt cũng
không xấu. Nhưng khác với người an trú Bất sinh, người
hay phản ứng phải chịu khổ vì thói bám víu ràng buộc.
Người ấy không bao giờ tự nhiên thoải mái vì họ là một
tên nô lệ cho những phản ứng của mình, không nhận ra được
đấy chỉ là những cái bóng thoáng qua. Kết quả là người
ấy luôn luôn bị treo, vướng vào những ý tưởng hay cảm
xúc đặc biệt nào đó, làm trở ngại sự tuôn chảy tự
nhiên của cái tâm bình thường. Mọi sự sẽ vận hành suông
sẻ, Bankei nhấn mạnh, nếu chúng ta làm ơn xê ra để cho mọi
sự tự nhiên vận hành. Ngài chứng minh điều này bằng cách
chỉ cho thính giả thấy rằng, ngay dù trong khi tập trung lắng
tai nghe giảng, họ vẫn tự động ghi nhận được mọi sự
khác ở xung quanh, như tiếng quạ kêu, chim sẻ chíp chíp, những
màu sắc và mùi hương khác nhau, đủ hạng người đang ở
trong phòng giảng. Không ai cố tình làm vậy, chuyện ấy chỉ
xảy xa một cách tự nhiên. Bankei bảo, đó chính là cái cách
mà Bất sinh vận hành.
Đối với
Bankei, điều quan trọng là buông xả, phá vỡ cái khuôn ngã
chấp và những thói quen xấu, những thành phần chính của
si mê. Ngã chấp hay sự tập trung vào tự ngã, là căn để
của cái tôi giả tạo. Chính ngã chấp khiến chúng ta phán
đoán mọi sự trên một quan điểm ích kỷ hẹp hòi. Chất
liệu nuôi dưỡng thái độ này là những thói quen xấu, những
tì vết trong nhân cách mà, cũng như sự chấp ngã, vốn là
hậu quả của hoàn cảnh. Theo Bankei, chúng ta hồi còn bé thường
bắt chước những người lớn xung quanh mình, và dần dần
tích tập một số thói xấu cuối cùng trở thành thâm căn
cố đế tới nỗi ta lầm cho đó là bản ngã đích thực của
mình. Tuy nhiên, khác với Phật tâm bất sinh, thói xấu hay
sự chấp ngã đều không phải bẩm sinh, cả hai đều được
hấp thụ về sau, do ảnh hưởng bên ngoài. Mỗi khi bị si
mê lầm lạc là chúng ta tạm thời bỏ rơi Tâm Phật mà ta
có từ khởi thủy để đổi lấy những phản ứng mới học
đòi này. Khi sự tình này xảy đến thì phát sinh đối đãi
nhị nguyên, từ tính nhất thể nguyên ủy, ta sinh vào những
cảnh huống khác nhau như ngạ quỷ (quỷ đói), a tu la (quỷ
chiến đấu), súc sinh, địa ngục, đi từ loài này đến loài
khác, bị vướng vào luân hồi bất tận. Cách duy nhất để
ra khỏi ngõ bí này, theo Bankei, là trở về theo con đường
từ đó ta đã phát xuất, trở về cái Vô điều kiện, cái
chưa từng được tạo tác, cái Bất sinh.
Cái mà ta
có được từ lúc mẹ sinh, chính là cái Tâm Phật Bất sinh
chứ không gì khác. Tâm Phật là bất sinh và chiếu sáng một
cách kỳ diệu, và với cái bất sinh ấy thì mọi sự đều
hoàn bị cả rồi. Hãy an trú trong Tâm Phật bất sinh. Đây
là căn bản của thiền Bankei, cương yếu của ngài về Bất
sinh. Ngài giải thích điều ấy nhiều lần bằng nhiều cách,
vì theo ngài thì chân lý Bất sinh thực quá đơn giản, quá
trực chỉ, ai cũng nắm được. Theo nghĩa ấy, thiền của
Bankei quả là rất phổ thông. Cũng có nhiều thiền sư khác
đã giảng dạy cho người thế tục, nhưng phần nhiều, thiền
chính cống được xem là quá khó đối với người thường,
nên giáo lý phổ thông của các thiền sư ấy, nhất là khi
giảng cho phụ nữ, không bao giờ nói đến thiền. Thay vì
thế, họ chỉ nói về giáo lý chung chung, đề cao những việc
công đức như lễ bái niệm Phật, và thảo luận về những
khái niệm trong các kinh Phật. Sự nghiên cứu nội tâm thường
chỉ hạn cuộc trong giới tu sĩ có hạng, và những thành phần
thượng lưu trí thức, những người có thể hiểu được
phần nào thứ Hoa ngữ rắc rối trong những bản văn về thiền
được nhập cảng từ Trung quốc.
Bankei hoàn
toàn ngược lại. Ngài cho rằng cốt tủy của thiền hoàn
toàn giản dị, trực tiếp, mà bất cứ ai có tâm hồn mở
rộng cũng có thể hiểu khi được chỉ cho. Bạn không cần
phải là một người học rộng hay thâm nho, những thứ ấy
chỉ tổ gây trở ngại. Kỳ thực, cái Bất sinh có thể được
giải thích dễ dàng nhất nếu dùng ngôn ngữ giản dị hàng
ngày. Tất cả cách nào khác đều hỏng. Bankei nhấn mạnh,
muốn dạy thiền, người ta phải đi ngay vào cốt lõi, lột
hết những gì màu mè che đậy bên ngoài - những thuật ngữ
khó hiểu, những danh từ nhập cảng lạ tai.
Đấy là
lý do chính khiến Bankei phản đối sử dụng công án trong
thiền. Mặc dù nguồn gốc của công án còn mơ hồ, thiền
công án phát triển mạnh vào triều đại nhà Tống, thời
mà những thiền sư Trung quốc ưa ra cho thiền sinh những công
án đặc biệt để tham cứu. Công án nguyên là những vụ
án điển hình làm mẫu mực chỉ đạo trong các phiên tòa
ở Trung quốc thời ấy. Công án thiền là những mẩu chuyện
ngắn gọn và thường có tính cách nghịch lý, phần lớn rút
từ ngữ lục của những thiền sư ngày xưa, nhất là vào
thời hoàng kim của thiền đời Đường (618-906) và thời Ngũ
Đại (907-960). Một vài thí dụ:
Một vị
tăng hỏi Yun- men (862-949): Phật là gi? Yun- men nói: Que cứt
khô. (Vô môn quan, 21)
Một vị
tăng hỏi Triệu châu (778-897): Ý của tổ sư đến từ phương
tây là gì? (Gì là chân lý tối hậu mà sơ tổ Bodhiharma, người
sáng lập đạo thiền ở Trung quốc, mang từ phương tây -Ấn
độ- đến?) Triệu châu nói: Cây bách trước sân. (VMQ, 37)
Dưới sự
hướng dẫn của bậc thầy, thiền sinh sẽ đào sâu vấn đề
mà công án đưa ra, tạo nên một khối nghi lớn rồi cố phá
vỡ nó để đạt giác ngộ. Một vài thiền sư sưu tập những
công án phổ thông kèm theo những giải đáp cho mỗi công án
dưới hình thức những bài thơ, bình giải và những giải
đáp thay vào. Những tác phẩm nổi tiếng nhất trong loại
này là Bích nham lục vào thế kỷ 12 và Vô môn quan thế kỷ
13.
Được du
nhập từ Trung quốc vào thế kỷ 12 và 13, lối tham công án
trở thành hình thức chính của pháp tu thiền ở Nhật. Tuy
nhiên, một phần do uy thế của nền văn hóa lục địa (Tàu),
những sưu tập công án kèm thơ và lời bình nói trên vẫn
được duy trì nguyên bản Hoa ngữ. Vấn đề lại càng rắc
rối thêm vì ngôn ngữ dùng trong các ngữ lục ấy chứa đựng
nhiều từ ngữ địa phương khó hiểu, nhiều lời, tiếng
chuyên môn. Những thiền sinh Nhật bản không những bắt buộc
phải nắm vững các thành ngữ này mà còn phải nhét nó đúng
chỗ trong lúc vấn đáp theo lối thiền (nghĩa là thật nhanh)
và trong các buổi gặp riêng bậc thầy.
Đương nhiên
điều ấy tạo ra một số vấn đề khó khăn. Sự quá chú
trọng đến tài liệu cổ bằng ngoại ngữ ấy là một trở
ngại nghiêm trọng đối với những hành giả trình độ trí
thức trung bình, nó lại dễ làm mất hết tính tự nhiên trong
mối tương giao giữa thầy và môn đệ. Mặc dù những khuyết
điểm ấy, công án vẫn còn rất phổ thông trong thiền Nhật
bản, đặc biệt trong hai tông phái Thiên thai và Tào động.
Nội cái việc xác định một tuyển tập công án có phải
đúng nguyên bản hay không, cũng đã đòi hỏi trình độ chuyên
môn khá cao về Hoa ngữ, do đó chỉ có giới tăng lữ độc
chiếm lĩnh vực này vì họ có nhiều nhà chuyên môn về Hoa
văn.
Chúng ta không
rõ kinh nghiệm bản thân của Bankei về việc tham công án.
Có thể trong thời gian tham học, ngài cũng đã tiếp xúc ít
nhiều với Thiền công án, bằng cứ là thỉnh thoảng ngài
cũng sử dụng công án với môn đệ. Nhưng qua những Bài giảng,
ta thấy Bankei hoàn toàn loại bỏ công án vào những năm cuối
đời. Theo ngài, toàn thể phương pháp thiền công án thật
là gượng ép một cách thảm hại. Ngài thấy sự uyên bác
cổ văn Trung quốc là điều hoàn toàn không cần thiết (để
học thiền), lại còn là một sự vướng bận vô ích. Ngài
loại bỏ công án vì cho đấy là một kỹ thuật giả tạo.
Những công án nguyên ủy không phải là những mẫu mực mà
là những sự thật xảy ra trong đời sống. Những thiền sư
ngày trước chỉ đơn giản ứng phó với những tình huống
đặc biệt mà họ gặp, tùy theo nhu cầu của những môn đệ
đương thời. Bất cứ thiền sư nào cũng tùy cơ ứng biến
như vậy cả. Vậy không cần gì bắt người ta học lời những
thầy tu Trung hoa ngày xưa, trong khi chỉ cần bảo họ nhìn
vào những công án riêng của chính họ, cái cách mà tâm Bất
sinh đang vận hành ngay tại đây và bây giờ, trong những hoàn
cảnh sống hiện thực. Đây là điều mà Bankei gọi là lối
dạy trực tiếp, đối lại với lối tham công án mà ngài
gọi với vẻ nhạo báng là tham cứu giấy lộn. Bankei bảo
công án chỉ là một phương tiện, những bậc thầy nào còn
dựa vào đó hay vào bất cứ kỹ thuật nào khác, thì cũng
đều thực hành pháp thiền phương tiện. Tại sao cần phải
dựa vào phương tiện khi ta có thể dùng ngay thứ thiệt? Bankei
lập luận.
Theo nghĩa
ấy, Bankei lại là một người theo truyền thống. Ngài quay
về những thiền sư của thời hoàng kim - trước cả thời
vinh quang của công án - với những bậc thầy như Lin-chi I-hsuan
(Lâm tế Nghĩa Huyền) tổ sáng lập tông Thiên thai. Bankei nhấn
mạnh rằng giáo lý ngài cũng như của Lâm tế, và nhiều điểm
tương đồng giữa những Bài giảng của ngài với Lâm tế
ngữ lục cho ta thấy có lẽ bậc thầy Trung hoa đã có ảnh
hưởng quan trọng trong pháp thiền Bankei.
Nhưng nhìn
chung, giáo lý của Bankei vẫn có gì thực độc nhất vô nhị.
Một điều mỉa mai, sở dĩ giáo lý ấy không thịnh hành cũng
bởi chính những đức tính độc đáo của nó, những đức
tính đặc biệt đã lôi cuốn những người đến học Bankei:
đó là nó quá giống với cá tính ngài, không thỏa hiệp với
bất cứ phương pháp hay kỹ thuật nào. Cuối cùng, pháp thiền
Hakuin (Bạch Ẩn) khôi phục và hệ thống hóa thiền công án
ở Nhật, đã quét sạch những tu viện thuộc tông Thiên thai
và lại còn xâm nhập Long môn tự cùng các chùa khác thuộc
hệ thống Bankei. Hakuin cho rằng giáo lý Bất sinh của Bankei
là phạm thánh và cực lực đả kích. Nhưng thế kỷ hai mươi
lại bắt đầu chú ý đến thiền Bankei. Nhà Phật học D.T.
Suzuki (1886-1975) là người tiên phong hiện đại đã đề cao
giáo lý Bankei, hoan nghênh giáo lý này xem như một liều giải
độc cho pháp tham công án quá khô khan, và xem Bankei như một
trong ba thiền sư vĩ đại của Nhật bản, ngang hàng với Dogen
và Hakuin (Đạo Nguyên và Bạch Ẩn). Suzuki cùng những học
giả Nhật khác khởi sự sưu tập và ấn hành những ngữ
lục và giáo lý của Bankei, mà phần lớn còn nằm rải rác
bị bỏ quên trong các chùa ngoại ô - và hiện nay một lần
nũa Bankei lại được nhiều người biết đến.
Tính lôi
cuốn của Bankei cũng dễ hiểu. Mặc dù thế giới ngài sống
khác xa với thế giới hiện đại, song vẫn có cái gì rất
gần gũi với chúng ta trong nhiều điều ngài dạy. Cảm nghĩ
về tự do giải thoát, tính nhân hậu của ngài, cách ngài
đề cập những vấn đề tối hậu không tách rời với đời
sống hàng ngày của con người, dường như hoàn toàn ăn nhịp
với tinh thần thời đại. Và khi chúng ta lật xem những trang
Bài giảng, thì Bankei dường như vẫn còn đấy, sống động
một cách lạ lùng, và đang chiếu sáng một cách kỳ diệu.