MỤC LỤC
Lời nói đầu
1 Những bao rác
2 Cây cột điện
3 Giận
4 Thầy
5 Sở tri phân biệt
6 Văn Thù xin đi nhờ
7 Chuyện khó nói
8 Phụ nữ
9 Trách ai
10 Ông Địa
11 Thiền và Duy thức
12 Phước đức và chứng ngộ
13 Chuyện cái thất
14 Con khỉ bên trong
15 Hiểu và ngộ
16 Làm thế nào để có an lạc
17 Sai khiến được ba câu
18 Tam Tạng được kinh qua cái  nhìn Thiền tông
19 Năm pháp khiến chánh pháp trường tồn
20 Đậu Hũ tâm sự
.
Ý TỔ SƯ TRÊN ĐẦU NGỌN CỎ
Nhà xuất bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh 2007
Chân Hiền Tâm
Những bao rác

Thường thì những ngôn từ không hay, hay những kiểu cư xử được gọi là “thiếu văn hóa” chỉ xảy ra với những kẻ mà thiên hạ gọi là lưu manh, bất lương hay trong những khu vực nghèo khó. Nhưng hình như không phải. Đó chỉ là một trong các duyên khiến những thứ đó có điều kiện xuất hiện nhiều hơn mà thôi. Nhân duyên chính, vẫn từ ba thứ tham - sân - si trong chính mình.

Khi mọi thứ êm ả trôi đi, mình cũng hiền lành thánh thiện như ai. Nhưng một ngày đẹp trời nào đó, một cô nàng xuất hiện bám lấy anh chàng của mình. Lập tức, tam bành lục tặc trong mình nổi lên. Mình điên tiết phát ngôn. Loại ngôn từ phát ra, âm thanh khiến người nghe long óc, mình thì mất sức mệt nhoài, nhưng cứ thế mà hùng dũng lẫm liệt. Ré một cách khoẻ khoắn như còi xe lửa rú lên giữa đêm trường thanh vắng. Thế mới biết, cái gốc của những thứ đó không phải do nghèo khó hay thất học. Chính là từ tham - sân - si mà ra. Chả trách họp hội nghị cấp cao, toàn là dân trí thức, mà ôm nhau vật lộn như hai đứa con nít. 

Khu hẻm nhà tôi không phải khu vực nghèo khó. Chỉ toàn thứ dữ, có tôi là mạt nhất. Vậy mà chút nước đổ ra hẻm cũng có chuyện để ầm ĩ. Một con hẻm chia đều bốn nhà. Nhưng không ai muốn phần hẻm nơi nhà mình đọng nước. Người quơ qua bên này. Kẻ quét lại bên kia. Làm sao đó để mặt nhà mình khô ráo, còn thiên hạ ai chết mặc ai. Thế là cả ba chửi nhau chí choé. 

Mình không phải là đứa cao thượng, nhưng ồn quá thì không thể làm việc. Vì thế, đành cao thượng mở cửa xuống nước “Xin dồn hết qua nhà con, từ từ nó bốc hơi …”. Không ngờ, chiêu ấy lại có kết quả. Ba nàng lập tức bỏ cuộc. Không thấy ai quét lui quét tới gì nữa. Cũng không thấy ai to tiếng với nhau. Mình như chó táp phải ruồi, không ngờ chỉ một chiêu mà việc lại tốt như thế. Nhưng không phải khi nào những hành động thánh thiện cũng được đền đáp một cách xứng đáng.

Ngày nào, cũng có rác dồn qua trước nhà. Chư Tổ ngày xưa, vẫn khiêng đá làm đường cho mọi người đi qua, xá gì một vài bao rác. Thành anh nhà tôi miệt mài đổ rác thay người. Một lần, hai lần, ba lần, cho đến mấy chục lần … Thứ gì thành thói quen, nó trở thành việc tự nhiên. Mặt tiền nhà mình trở thành chỗ dồn rác chờ xe tới xúc, không phải chỉ một nhà mà hình như của khá nhiều nhà. Anh trở thành nhà đổ rác chuyên nghiệp.

Anh thay nghề đổ rác bằng công việc của một thám tử tư. Phần lớn là hàng của cô hàng xóm xinh đẹp. Vì nhà cô đẹp, nên rác được dồn qua nhà mình cho tiện. Đằng nào cũng đổ một lần, khỏi nhọc lòng anh đổ rác.

Rác được mang qua, thám tử lại âm thầm mang trở về. Nhà hàng xóm thấy rác chạy lại nhà mình, lại âm thầm trả về chỗ cũ. Cuộc chiến cứ thế mà diễn ra trong thầm lặng. Rác chạy qua rồi lại chạy về. Người nhất định phải mệt, không biết lũ rác có mệt không? Chắc mệt. Chỉ vì người người đi quá giới hạn của mình. 

Chuyện rồi cũng phải chấm dứt. Thế gian này có thứ gì mà thường hằng? 

Một ngày đẹp trời, bỗng dưng cô chủ về nhà sớm. Anh hốt rác chưa kịp tới. Rác không nằm bên đây mà lại nằm ngay trước mặt nhà cô. Chắc con bé bận làm cơm, nên chưa kịp tải nó lại bên này. Thấy rác choáng hết mặt tiền, cô hét toán “Rác nhà ai để đây?”. Con bé hoảng hồn chạy ra “Dạ nhà mình”. “Sao lại để rác đây”. “Dạ bình thường con để bên nhà chú Q. nhưng không biết mấy ngày nay ai cứ đem qua lại bên này. Con đem qua, nó lại chạy về …”. Cô chủ nhỏ tắt tiếng, bước nhanh vào nhà. Từ đó, rác không còn lang thang. Chỗ để mấy bao rác, bỗng dưng mọc lên hai cây bồ đề cao quá đầu gối. Chẳng ai trồng trọt cũng chẳng ai chăm sóc, cứ thế mà vươn lên.

Chuyện đời là thế, nhưng cái chuyện ấy lại khiến mình nghĩ đến những dấy khởi trong tâm. Những suy nghĩ lương thiện, mình nhẹ nhàng với nó, có làm tôi đòi nó chút đỉnh, cũng không sao. Nó vẫn dẫn lại cho mình cái quả tươi đẹp. Nhưng với những dấy niệm thuộc tham sân, nếu mình phục dịch chìu chuộng nó mà không tính pháp đối trị, thì cực với nó vạn đời. Nó sẽ khiến mình nhọc thân nhọc tâm hết sức. Thành phải tùy nghi mà đối trị. Trị mà cương, thì dễ sức đầu mẻ trán. Thành trị mà phải khéo : Không quá cương cũng không quá nhu. Cứ từ từ chậm rãi giải quyết từng tên một. Tên nào ló mặt, mình phải nhận dạng nó tức thì : Niệm thiện hay niệm ác? Niệm ác thì mời nó nhập niết bàn tức khắc. Nó chưa chịu nhập, mình phải có thời gian khuyên nhủ tỉ tê, khiến nó nhập cho lẹ. Đủ cơ duyên, nó cũng phải trở về đúng vị trí của nó : Không. Một lúc nào đó, những dấy khởi tham sân của mình không còn, thì cảnh giới ngoài tâm cũng được giải quyết. Duyên của chúng sanh là vậy. Không dám lạm bàn trong cái duyên là chư Phật và chư vị Bồ tát, là những vị hiện thân theo nguyện lực, không phải theo nghiệp lực như chúng sanh. 

Cây cột điện 

Cây cột điện nằm sát nhà tôi. Nó có nhiệm vụ chuyển điện cho hai nhà. Nhà tôi và nhà hàng xóm đối diện. Nó có mặt ở đó từ trước ngày giải phóng. Không có nó thì không có điện để dùng, nhưng nó nằm đó, phần tôn lợp bị khoét thủng một mảng, mỗi lần mưa, khoảng sân xe lủm bủm những nước là nước, lại còn cản không khí và ánh sáng phòng ngủ thằng con trai. Quá nhiều thứ bất tiện. Nhưng không ai làm gì. Cũng không ai có ý làm gì. Vì cái cột điện tọa lạc nơi mảnh đất chung nằm ở cuối hẻm. Một bên là nhà tôi, còn bên kia là nhà hàng xóm. Nó không thuộc quyền sử dụng của riêng ai. Không phải của mình, thành lo mà an phận. Lộn xộn sao được. Muốn lộn xộn cũng không ai cho. Bản thân mình cũng đủ khôn ngoan để biết không nên lộn xộn. Mọi việc cứ thế mà bình yên trôi đi.

Cho đến ngày …

Mảnh đất cuối hẻm được phân hai và hợp thức hóa, nhà hàng xóm một nửa và tôi một nửa. Nhưng cái cột điện thì không ai chịu thừa nhận, dù nó được sử dụng cho cả hai nhà. Đã vậy nó còn nằm sát vào vách nhà mình, như có ai lấy cây dí vào giữa hai mắt. Cả nhà quyết định xin phép dời cái cột ấy ra phía trước, để sinh hoạt được tiện lợi, mà cũng không làm ảnh hưởng bao nhiêu đến nhà hàng xóm đối diện. 

Cô hàng xóm trẻ người xinh xắn, chuộng cái đẹp, rất biết tùy duyên trong vấn đề áo quần, nhưng riêng khoảng này thì cô lại chuộng cái cổ cái xưa. Chỉ muốn cái cột đó bất biến ngay cái chỗ mà theo cô, nó đã trở thành di sản lịch sử qua bao thay đổi thăng trầm. Cô không muốn dời cái cột theo đúng cái duyên hiện tại, mà muốn nó an trụ nơi cái chỗ xưa nay cô vẫn thích. Cũng đúng! Cái gì bất lợi cho mình thì hãy thay đổi. Thay đổi càng sớm càng tốt. Còn như cây cột dời ra lề hẻm, dù nó không dính gì đến phần đường trước mặt, nhưng dây điện vào nhà, thay vì từ bên hông, giờ lại đâm thẳng từ ngoài vào … Nhà cô mất đi một phần thẩm mỹ, làm sao cô chịu cho được? Mình cũng hiểu điều đó, cũng thông cảm. Thành cô hét gì đó hét, mình cũng không buồn, chỉ thấy hơi lạ. 

Không dời cây cột, thì nhà không sửa được, mình không giải quyết được những ách tắc mà mấy lâu nay con cái đang chịu. Còn dời thì đụng chạm quyết liệt với cô hàng xóm xinh đẹp. Bởi cô đã quyết tâm “Còn một cái lai quần cũng đánh”. Không khéo phải đưa nhau ra tòa cũng nên. Đụng chạm như thế, kiếp sau gặp nhau, nhân duyên lại không thuận chiều. Không biết đời trước mình cắm cái gì trong đất cô, mà kiếp này cô không cho mình nhổ cái cọc đó ra khỏi đất mình. Đó là nói trên mặt nhân quả. Nói trên mặt tu hành, mình là Phật tử chứ cô đâu phải Phật tử. Mình tu mà còn tu thiền mới chết. Tùy duyên tiêu nghiệp cũ, tùy duyên tiêu nghiệp cũ … Nghe nát cả óc, muốn quên cũng không quên được. Thôi thì buông quách. Vừa khoẻ mình, vừa khoẻ người mà nghiệp cũ coi như trả xong. Nhưng buông thì mình khoẻ rồi, còn lũ con? Không lý, tu là chỉ để mình khoẻ thôi sao? A Di Đà Phật! Không biết ngày xưa Trúc Lâm cầm quân chống xâm lược, có phải suy nghĩ nát óc như mình bây giờ không nhỉ? 

Chắc không! Vì chư vị không chiêm nghiệm cuộc đời như mình đã chiêm nghiệm, cái gì cũng thật. Thật vì không có thứ gì như huyễn với mình. Mọi thứ chi phối đời sống của mình quá nhiều. Có nó hay mất nó, mình đều bị ảnh hưởng. Vì thế mọi thứ với mình đều là thật, chưa có cái gì là mộng là mơ với mình. Dơ thật, sạch thật, thiếu không khí cũng thật, bệnh hoạn cũng thật. Thật hết, nên mới có cái này chướng, cái kia không chướng, cái này khiến mình bệnh hoạn, cái kia giúp mình mạnh khoẻ v.v...

Thứ gì cũng thật thì nhân quả với mình không thể như huyễn. Thấy nhân quả thật, so với các vị sáng tâm, không chính xác lắm, nhưng so với kẻ đầu trần chân đất tham sân, mình lại là kẻ có trí tuệ. Vì thế, làm việc gì cũng phải đắn đo. Cái nhân gây ra thì dễ, nhưng lãnh cái quả, mà không thấy cái quả đó như huyễn, thì khổ vô vàn không phải chuyện chơi. Một cây cột không đáng, nhưng nhân duyên không thuận thì dời đi cũng khó. May là có nó hay không, mình cũng chưa đến nỗi mẻ đầu sứt trán. Nếu là miếng ăn, là chỗ sống chết của gia đình, nếu không thuận chiều, chắc mình không thể ngồi yên. Cũng một phen đau đầu nhức óc, không khéo lại phải gây nghiệp. Lại như con tằm kéo tơ làm kén, càng nhả, càng buộc … không biết đời nào mới ra. Không cẩn thận sao được. Thành cái gì trong đời, nhắm mà buông được thì thôi buông quách, để cái quả tương lai còn được thuận chiều. 

Cuối cùng …

Hai đứa quyết định bắt chước Tổ Trúc Lâm. Mình không làm vua thì không có dân hay quân dể hỏi “đánh hay không đánh”. Mình chỉ làm dân, nên mình thuyết phục con cái và hỏi ý kiến của phường. Nhờ phường can thiệp trong tinh thần êm ấm hiểu biết. Nếu cô vẫn cương quyết giữ lập trường tới cùng, thì coi như … cây cột và mình chưa thể xa nhau. Một khi duyên nghiệp vẫn còn, đâu phải nói xa là đã xa được. Thôi thì nằm đó. Khi nào hết duyên, sẽ có người tự động bứng đi. Nhọc tâm chi cho cực. Ở đời, thứ mình được, chưa chắc đã tốt cho mình. Thứ mình không được chưa chắc đã xấu cho mình. Thành không thể tranh cãi hơn thua hay đưa nhau ra tòa thưa kiện chỉ vì một cây cột điện. Kiểu đó, kiếp sau lại oan oan tương báo nhiều hơn. Giờ chỉ một cây cột, không tỉnh, tiếp tục buộc thêm gút nữa, thì chưa biết kiếp sau oái ăm thế nào. Không gỡ được một lần thì gỡ từ từ cho xong. Buộc thêm chi cho cực. Cây cột điện thôi mà!

Đến giờ, cây cột vẫn nằm đó. Trơ thây cùng tuế nguyệt. Nhưng cuộc sống vẫn êm đềm trôi đi ... 

Giận

Lâu rồi không gặp. Gặp lại thấy già đi chút đỉnh nhưng chững chạc ra phết. Có điều nụ cười vẫn tươi, ánh mắt vẫn hiền hòa. Không đụng duyên thì thôi, đụng chút là soi ra, khởi đủ thứ chuyện. Sao mình không thể thấy tất cả mọi thứ mà không hề khởi lên so sánh già, vui ... Quen rồi! Một thói quen được huân tập qua bao đời kiếp. Đụng duyên, tâm liền khởi. Hiện tại luôn là thứ được so sánh với quá khứ. Lớn, nhỏ, già, trẻ … Tu hoài mà không thành Phật là vậy. 

- Mấy bữa nay đi mua đồ chắc mệt!

Uể oải gật đầu, không lên tiếng.

- Có mấy bữa thôi, đâu có suốt đời đâu!

- Thì cũng may là chỉ có mấy bữa. Ủa! Mà sao thầy biết.

 -Thì thấy cô chở đồ xuống.

- Sao con không thấy thầy.

- Biết! Đi sờ sờ ra đó. 

- Ờ! Nhiều khi hai con mắt mở zậy chứ không thấy. Hi hi, chắc lúc đó cái đầu đang vô ký. Để tâm kiểu đó cho khỏe. Soi ra mệt.

Lắc đầu ngao ngán. Hình như lần nào gặp nhau thầy cũng lắc đầu. Lắc hoài cũng thành quen. Quen rồi có khi không chủ định cũng cứ lắc lắc sao ấy … 

- Ông Q. chịu nổi cô cũng hay!

- Hi hi … thầy cũng thấm rồi hả?

- Thấm rồi.

Trưa gió thật mát. Nắng, nhưng không làm người mệt mỏi. Chắc tại nhiều cây. Nhưng hình như không phải chỉ có cây, gió hay sự yên tĩnh làm nên không gian thoải mái nhẹ nhàng. Mình đã từng lang thang qua khu nhà xác của một bệnh viện. Cũng nhiều cây, cũng thanh vắng yên bình. Một sự yên bình lạnh lẽo, khiến người ta không khỏi rùng mình sợ hãi. Không phải là sự yên ả thanh bình đầy sức sống như ở các tự viện thanh tịnh. Có lẽ, khí thế gian không lìa chúng sanh thế gian, thành cảnh tuy như nhau, nhưng do chúng sanh thế gian khác nhau, mà cái khí mình nhận được ở mỗi nơi cũng khác nhau? Chỗ thâm sâu của Phật pháp, khó mà bàn tới. 

- Thầy! Con nói thầy nghe cái này.

- Chuyện gì?

- Mấy bữa nay giận.

- Trời đất! Có giận nữa ha.

Khi nào cũng có thái độ diễu cợt. Người chứ phải ngựa đâu mà không biết giận. Cây cột còn biết mệt nữa là … Nhưng đang cần có chỗ trút giận thành xí xóa.

- Giận dữ lắm. 

Cũng vẫn thái độ diễu cợt không bỏ. Lại còn chong hai mắt lên. Nhưng đang cần có chỗ trút giận, thành xí xóa. 

- Biết giận ai? 

- Ai ?

- Ông thị giả chớ ai. 

- Trời đất!

- Giận đến nỗi sáng này mời nước không uống. Mấy bữa nay cũng không vô thất Thầy.

- Giận cá chém thớt hả? 

Chuyện bình thường của thiên hạ, có gì mà ngạc nhiên. Giận má nó, nó đi ngang cũng muốn đào đất lên đổ. Ghét người này mà người kia lên tiếng bênh vực thì cho người kia đi luôn. Giờ giận thị giả, không vô thất thầy, cũng là chuyện bình thường, có gì mà lạ. Bởi thất đó là chỗ mà thầy thị giả có mặt, qua lại, phục dịch … nó là phần ngã sở của cái ngã được mệnh danh là thầy thị giả. Không dính gì nhau mà còn ghét lan qua được, huống là có liên hệ mật thiết như thế? Vô mới là lạ. 

- Giận hết. Không muốn vô thất thầy luôn. 

- Sao zậy?

- Hôm sinh nhật thầy, con điện thoại hỏi “Sinh nhật thầy trụ trì ngày mấy hả thầy”. Biết trả lời sao? “Đâu có … À, khánh tuế … Phật tử cúng dường ngày sinh của Thầy …”. Nghe tới đó, ruột lên tới cổ. Đâu phải năm nay mới có. Từ năm ngoái năm kia … Tại bận nên không đi, đâu phải không biết. Nhưng chưa, hôm sau xuống tới nơi, nghe thiên hạ nói mới giận dữ “Đêm qua đông gớm lắm, ngoài nhà khách không có chỗ mà ngủ, đợt này còn được cho hát hò tặng Thầy”. 

- Đúng rồi! Trời ơi! Tối đó vui quá chừng luôn. 

Bây giờ mới hiểu, vì sao người đời hay nguyền rủa những kẻ gọi là đổ dầu vô lửa. Nguyền rủa là phải. À, mà không. Phật tử không được nguyền rủa. Tội lỗi, tội lỗi … 

- Thấy chưa! Thầy thấy có đáng giận không?

- Ừ ! Không giận mới là lạ.

Biết là lời diễu cợt, nhưng cũng mát lòng mát dạ. Cũng nguôi đi cơn giận trong lòng. Chí ít cũng có một người biết cảm thông cái giận của mình. Giận, dù là giận đúng hay sai thì một người khôn ngoan không bao giờ để nó hiện diện dù chỉ tích tắc. Nhưng khi người ta đang giận, không an ủi cảm thông được thì tốt nhất là nên im lặng. Lúc đó mà phải trái dạy khôn, phân tích đúng sai … thì không khác thêm dầu vô lửa, chỉ khiến lửa giận thêm bùng. Quả là chỉ có lòng từ mới hóa nổi cơn sân. 

- Thấy chưa! Giận là phải đúng không. Thành đâu có vô thất Thầy. Sáng nay mời nước, dỡ lơ coi như không nghe. Mấy bữa nay giận, không nói với ai. Bữa nay mới xì ra đó ...

Tâm thức con người thật buồn cười. Mười chuyện tốt không nhớ, nhớ đời một chuyện cỏn con. Cái ngày hai đứa mới đặt chân đến thiền viện, thầy thị giả vẫn còn là một cư sĩ học việc. Không nói, hiền hòa. Ngồi đâu, thầy cũng ra tận nơi mời vô cơm nước. Những ngày làm thị giả, cơm vẫn lo đầy đủ, nước vẫn rót cho uống. Đói, thầy ơi con đói. Đau, thầy ơi có thuốc không? Sách đem cúng dường mấy ngàn cuốn, Thầy ngồi phát từng cuốn chẳng quản mệt nhọc. Một lần giận ông xã, khóc hù hù. Thầy ngồi đó nhìn không nói. Cái nhìn của đứa trẻ lên ba ngồi nhìn mẹ. Thấy khóc mà không biết dỗ dành ra sao, cũng không dám bỏ đi vì sợ để mẹ một mình. Cái nhìn khiến hành giả đang khóc phải bật cười, thấy chuyện đời sao vô duyên, khóc ba thứ lẫn thẫn … 

Giờ mới một chút, giận mấy ngày chưa nguôi. Không biết vì được quan tâm quen rồi, bị phớt lờ mới ra cớ sự đó, hay người mình vốn có cái chủng vong ơn bội nghĩa, giờ đủ duyên mới phát ra? Tâm thức con người thật kỳ quái, không đơn giản chút nào! 

- Giờ hết giận chưa? 

- Hê hê, phun ra vậy chắc hết rồi. Thì vừa rồi, mới nói chuyện đó. 

Thấy cái kiểu chê nước rồi không nói như vậy, biết tỏng con nhỏ có … vấn đề. Đâu có tiếc gì vài lời để làm con nhỏ nguôi ngoi. Đi ngang, kêu nói vài câu… Con nhỏ quả tình hết giận thiệt. 

- Có zậy mà bạc đầu hết trơn. 

Bạc đầu nhuộm lại mấy hồi. Bạc tâm mới mệt. Vất vã vô ngần!
 

Thầy

Cha mẹ cho thân, thầy cho trí. TRÍ là thứ giúp mình chuyển hóa được những duyên nghiệp oan khiên trong đời, giúp mình vững vàng trong cõi vô thường tạm bợ. Cảm niệm ân đức cha mẹ mà không có vài dòng về Tổ Thầy thì thật thiếu sót. Nhưng nói chính xác về thầy thật là khó, khi duyên nghiệp của mình là người tại gia, không có điều kiện khuya sớm bên thầy như hàng tăng chúng. Dù có khuya sớm bên thầy thì nói gì về bậc tôn sư khi vạn pháp ở thế gian đều bị chi phối bởi DUYÊN KHỞI và DUYÊN NGHIỆP từ bao kiếp trước? Mọi thứ đều hạn cuộc trong vòng nghiệp thức của mình.

Tôi nói với bạn, thầy hiền từ, dễ chịu  … chắc có người phản đối. Vì với họ và ngay với tôi, thầy cực kỳ nghiêm khắc, khó ưa. Người ta than với tôi về thầy. Tôi gật đầu thông cảm. Bởi đó không phải là chuyện trên trời rơi xuống. Chỉ là chuyện thường tình tôi từng nếm trải qua. Nếm để trưởng thành. Nếm để hun đúc con người của mình ngày được cứng cáp. Nếm để bất động dần với mọi cảnh vật chung quanh. Gisho ngày xưa, gian nan vô cùng. “Kể từ Majaka, không ai bằng Gisho. Song vẫn còn nhiều cửa để Gisho vượt qua. Còn phải nhận nhiều cú đấm sắt của ta”. Thiền sư Inzan đã nói như thế về Gisho thân yêu. Tát và mắng để đánh thức bổn tánh trong chính cô. Tát và mắng để cô nguội dần cái ta đã huân tập trong bao đời kiếp. Thời nay, mình học đạo khó thành, vì mình không huân được sức chịu đựng như Gisho. Mình không bị mắng như Inzan đã mắng Gisho. Mình không bị tát như Inzan đã tát Gisho. Vì căn cơ của mình không được như căn cơ của Gisho...

Nếu tôi mô tả thầy như một hung thần khó chịu, cũng không xong. Sẽ có người không đồng tình, khi với họ và ngay với tôi, thầy rạng rỡ hiền hòa như đức Di Lặc. Không có những lúc nhẹ nhàng, tha thứ … mình khó đứng vững khi tinh thần xuống dốc quá độ, khi đường đời lắm chông gai, khi đường đạo khó tuyệt vời. Tuyệt vời! Nhưng đi sao mà vất vã. Bởi thói quen huân tập trong bao đời quá nặng. Đạo Cao Đài nói một câu nghe rất thấm thía “Tu thì cũng muốn mau thành Phật, theo Phật thì con lại tiếc đời”. Cái tiếc đó là đầu mối của mọi oan khiên và khó khăn. Không có thầy bạn bên cạnh giúp mình buông bỏ, một kiếp tơ tằm lại hoàn một kiếp tằm tơ. 

Mỗi duyên, thầy có một tướng khác nhau. Không biết tướng nào mới là tướng thực của thầy. 

Phật nói “Thực tướng vô tướng”. Nói về thực tướng, thì không tướng có thể nói. Ừ! Thực tướng của thầy, không tướng có thể nói. 

Thầy tôi
Không lão cũng không tăng
Thân dày  bụng bự 
Nụ cười hả hê 
Trẻ thơ
Một nửa trẻ thơ
Còn kia một nửa
Ngây ngô quê mùa

Thầy tôi, không lão cũng không không tăng … Thực tướng của thầy là như thế. Thứ gì có tướng, đều là hình thức hư vọng tùy duyên. Thân dày, bụng bự, nụ cười hả hê … Ừ! Hình thức đó chỉ là thứ hư vọng tùy duyên qua lăng kính nghiệp thức của mình. Bởi liên quan trực tiếp đến lăng kính nghiệp thức của từng người, nên trên cùng một người, mà mình và người có các cảm nhận khác nhau. Rồi tùy lúc, tùy thời, cảm nhận trong chính mình cũng khác nhau.

Tướng thực của Phật, không tướng có thể thấy. Nhưng ứng với tâm chúng sinh ở cõi nhân gian mà Phật có nhiều tướng khác nhau. Hàng Bồ tát thấy Phật không thân, với báo thân tròn sáng thanh tịnh trùm khắp. Người hữu duyên ở nhân gian, thấy Phật với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Các cõi địa ngục, ngạ quỉ thấy Phật như chân voi đen dài ba thước.[2]  Một mảnh trăng trong mà bóng hiện ngàn sông khác nhau, chỉ vì nó liên quan trực tiếp đến duyên nghiệp của từng loài. Nước trong trăng tỏ. Nước đục trăng mờ. Nước chao trăng vỡ. Nước lặng trăng nguyên. Vì thế, hiện tướng của Quán Thế Âm, khi thanh thoát nhẹ nhàng, lúc lưỡi dài mắt đỏ.[3]  Mọi tướng tuy khác, nhưng đều là SUỐI TỪ bao la khơi dậy từ CỘI KHÔNG trùm khắp.

Đã là SUỐI TỪ bao la từ CỘI KHÔNG trùm khắp thì không có tướng nào không giúp mình bước lên con đường thượng thừa. Không có tướng nào không giúp mình chuyển hóa những tâm niệm địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh trong chính mình. Thuận hay nghịch, chánh hay tà, đúng hay sai … tất cả đều là diệu dụng của mười phương chư Phật, đều là dụng dụng của Tổ Thầy giúp mình tiến dần về đạo vô thượng. Phu nhân Bàng Long Uẩn nói Ý TỔ SƯ TRÊN ĐẦU NGỌN CỎ là đó. 

Tổ và Thầy
Cùng những ai một lần hữu duyên trong đời … 
Xin thành kính tri ân.

Sở tri phân biệt

Những ngày đầu học đạo, tôi đọc được cuốn Cốt Tủy Đạo Phật của thiền sư Suzuki. Lối văn dịch và cách trình bày khá rõ ràng, nhưng ngay trang đầu, tôi không hiểu ông đã viết gì. Đọc nó như đọc thần chú. Mấy năm sau, tình cờ đọc lại tập sách ấy, tôi mới hiểu là do mình, không phải do ông. Mới biết, vạn pháp qua tâm thức của mình đều trở thành hạn cuộc.

Schopenhauer, một triết gia của thế kỷ 18, khi sách của ông, sau 16 năm xuất bản, hầu hết đều đem bán làm giấy loại, đã mượn câu nói của Lichtenberger để nói lên trình độ yếu kém của người đời đối với tác phẩm của mình “Những tác phẩm như vầy, giống như một chiếc gương. Một con khỉ nhìn vào thì bạn không thể nào chờ đợi một thiên thần nhìn ra”. Tác phẩm của ông có đúng là một chiếc gương để soi không, đây mình không bàn đến. Nhưng một con khỉ nhìn gương thì quả tình chỉ thấy một con khỉ xuất hiện, không thể là một thiên thần hay một thứ gì khác. Học trò với trình độ lớp hai, chỉ có thể đọc và hiểu toán lớp một hay lớp hai, không thể hiểu toán lớp ba hay hơn nữa. Tâm thức của mình là như thế. Thứ gì ngang với tầng số nhận định của mình, mình cảm nhận nó dễ dàng. Nhưng thứ gì vượt quá tầng số hiểu biết của mình, thì … thiên thần vỗ cánh bay xa. Vạn pháp trở thành muôn hình vạn trạng dưới mắt người đời. Kinh luận một nguồn mà nghĩa thành vô lượng cũng vì đó. 

Sự hạn chế đó, không phải chỉ nằm ở mặt kiến thức hay học hỏi, nó chi phối toàn bộ đời sống con người. Có quan niệm, có định kiến là có hạn chế. Một khi đã có sự phân chia hoặc xấu hoặc đẹp, hoặc thích hay không thích v.v… là ta đã bị quan niệm chi phối. Nhà Phật gọi nó là SỞ TRI CHƯỚNG. Gọi CHƯỚNG vì nó làm ngăn ngại trí bồ đề. Với người bình thường, sở tri là nền tảng để phiền não sinh khởi và nghiệp chướng xuất hiện. Một khi đã có quan niệm cơm nhão là ngon, thì đụng phải cơm khô, ít người bình thản. Từ cái không bình thản đó, khẩu nghiệp và thân nghiệp có cơ phát khởi, phiền não phát sinh. Khởi rồi, trí Phật càng xa, nghiệp đời càng nặng. Kinh Lăng Nghiêm nói “Thấy biết mà lập thấy biết là nền tảng của vô minh”. Cho nên, dù thuộc thiền phái nào, chủ ý của chư vị thiền sư cũng là giúp người tu phá bỏ phần sở tri phân biệt này. Chính là TRÍ PHÂN BIỆT đã nói trong luận Đại Thừa Khởi Tín. 

Tô Đông Pha là một học sĩ làm quan thời Tống. Quan trường thăng trầm nên ông thường đến chùa Kim Sơn học thiền và luận đạo với thiền sư Phật Ấn. Là một học giả có tài, nên ông tự hào luôn về trình độ hiểu thiền của mình. Một lần, nhà thơ hỏi thiền sư Phật Ấn : 

- Thầy thấy con tọa thiền ra sao?

Phật Ấn trả lời : 

- Trang nghiêm như Phật. 

Nhìn vẻ mặt phần khởi của Tô Đông Pha, thiền sư Phật Ấn hỏi lại : 

- Còn học sĩ, ông thấy tôi tọa thiền thế nào?

Tô Đông Pha trước giờ chưa hề bỏ qua cơ hội nào cho mình, liền mau mắn :

- Như đống phân bò! 

Không thấy Phật Ấn trả lời, Tô Đông Pha hí hững keo này mình đã thắng. 

Thời gian qua đi, tin đó tới tai Tô tiểu muội, em gái Tô Đông Pha. Tuy là nữ nhi nhưng tài hoa xuất chúng, trí tuệ hơn người. Nghe anh kể lại sự việc, cô lắc đầu: 

- Sư huynh ơi! Tâm thầy như tâm Phật nên nhìn sư huynh trang nghiêm như Phật. Tâm sư huynh như phân bò, chẳng trách sư huynh nhìn thầy như đống phân bò. 

Tô Đông Pha nghe xong, không mở miệng biện được nửa lời. Mắc phải cần câu sắt của lão thiền sư, trả lời gì nữa.

Nếu không có cái duyên là tâm thức thích hơn người của Tô Đông Pha và câu hỏi “Thầy thấy con tọa thiền ra sao?” mà Phật Ấn vẫn thấy tướng tọa thiền của Tô Đông Pha “Trang nghiêm như Phật”, thì tâm Phật Ấn không khác Đông Pha. Tuy được Tô tiểu muội phết mấy chữ “Tâm thầy như tâm Phật” nhưng thực chất không khác phân bò. Vì sao? Vì thiền sư nhìn cây gậy là cây gậy, không phân tích nó thành không, cũng không khởi niệm đó là cây gậy. Thử hỏi, cái gì “Trang nghiêm như Phật”? Song vì phần sở tri hoạt động quá mạnh, có dịp là … như đống phân bò, con ngồi ra sao v.v… mà Phật Ấn đành kê đơn cho thuốc “Trang nghiêm như Phật”. Tô tiểu muội nhân đó bốc thuốc, trị cái tật huênh hoang của Tô sư huynh. 

Nhìn cây gậy là cây gậy nhưng không khởi niệm đó là cây gậy, là chỗ đến của người tu thiền. Nói chỗ đến, không phải vì nó là mức cuối cùng, chỉ vì đó là chỗ mình có thể dùng lời nói diễn tả để hiểu mà tu hành. Cũng là chặn khó nhất mà người tu phải đến. Sống được với tâm thức đó, mới có thể “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”. Sanh tử đến đi không chút buộc ràng. Vì là chỗ đến, nên đến với thiền, nhất là vào thời mạt pháp hiện nay, ít ai có thể một bước nhảy liền vào đó. Tụng kinh, ngồi thiền v.v… thì đủ, mà ăn vẫn khởi niệm ngon, dỡ, mặn, lạt. Nhìn, liền thấy đẹp, xấu, thấp, cao. Nghe, liền thấy hay, dỡ, đúng, sai … Vì  cái hay, dỡ, đẹp, xấu so sánh phân biệt đó, dòng vọng niệm mới có cơ phát triển, thói quen sanh khởi càng có dịp huân sâu. Nhưng ít ai để ý đến điều đó. Thành tu lâu mà niệm vẫn chưa là vọng, thế gian vốn huyễn mà thảy đều như thật. Cho nên, biết cách mà tu thì trí phát, dụng có. Không biết cách mà tu thì trước chúng sanh, sau vẫn chúng sanh.

Để trị cái tật thâm căn cố đế đó, Hòa thượng Trúc Lâm đã lập phương tiện BIẾT VỌNG KHÔNG THEO. Ăn mà khởi niệm ngon dỡ thì biết cái ngon dỡ đó là vọng, không để nó sai sử mình. Nói thì đến bốn chữ, nhưng thật chỉ một động tác BIẾT. Biết được, nói rõ hơn là THẤY được cái niệm ngon dỡ đó xuất hiện, thì niệm ngon dỡ liền mất. Song không phải thứ gì BIẾT là nó liền mất. Thứ gì không phải là thói quen của mình, mình biết, nó mất. Nhưng những gì đã thành thói quen, không phải chỉ trong một đời, mà có thể đã được huân tập từ lúc Thích Ca thành đạo, nên biết rồi, nó không cho mình yên. Nó phản khán, nó gây áp lực với mình, nó bắt mình chạy theo, nó khiến mình căng thẳng. Không đủ lực để BIẾT và BUÔNG tới cùng thì công phu đành ngưng nửa chừng. Vì thế, Hòa thượng lại phương tiện “Thấy, biết là chân tâm. Nghe, biết là chân tâm v.v…”. Cái NIỆM CHÂN TÂM đó giúp mình thư giản hơn trong việc tu hành. Một lúc nào đó, mình sẽ nhận được thứ mà thiền sư Huyền Giác đã nói “Nói nín động tịnh, thể an nhiên”.  Sống được với thể an nhiên thì thấy cây gậy là cây gậy, không phân tích nó thành không, cũng không khởi niệm đó là cây gậy. Phần sở tri phân biệt đã bị phá. Không khởi niệm, không phân biệt, mà không lầm lẫn. Thiền sư Huyền Giác nói “Phân biệt mà không phải ý” chính là đó. 
 

Văn Thù xin đi nhờ 

Thiền sư Nhất Hưu có vị đệ tử làm tướng quân. Một lần, tướng quân mời Sư về nhà dùng cơm, nhưng thủ vệ thấy y phục Sư rách, nên không cho vào. Sư đành trở về thay y phục mới. 

Vào tiệc không thấy Sư phụ ăn, chỉ thấy ông gắp thức ăn bỏ vào tay áo, tướng quân bèn hỏi : 

- Bạch Thầy, ở nhà Thầy còn mẹ già hai trong chùa còn ai? Con sẽ sai người nấu thức ăn mang đến.

Nhất Hưu lắc đầu : 

- Hôm nay ông mời y phục ta dự tiệc. Ta cho y phục ta ăn còn gì.

Tướng quân không hiểu, Nhất Hưu giải thích : 

- Ta đến lần đầu, vì y phục cũ rách, thủ vệ ông không cho ta vào. Ta phải trở về thay y phục mới, mới ngồi được đây. Đã lấy y phục mới cũ làm tiêu chuẩn tiếp khách, không phải là mời y phục ăn sao? Ta cho y phục ăn vậy.

Tớ làm mà chủ phải gánh thì quả tình là tội cho chủ. Nhưng với chư vị thiền sư, không lời nào không vì chúng sinh khai ngộ. Y vào bề ngoài như áo quần, tiền bạc hay địa vị xã hội v.v… để đánh giá con người là thói chung ít ai tránh khỏi. Bởi quần áo hay địa vị bên ngoài biểu trưng cho thực lực bên trong. Thấy Tăng sĩ ngang qua, mình liền cúi đầu. Một người bình thường, chưa hẳn điều đó đã xảy ra. Thế gian, nếu không có những nghi thức tối thiểu đó, mọi thứ sẽ rối ren. Thành y cứ hình thức bên ngoài để đánh giá nội dung bên trong là chuyện thường tình ở cuộc đời. Có điều, không phải thứ gì bên ngoài cũng biểu tỏ được nội dung bên trong. Bằng tiến sĩ, có tiền còn mua được, huống là một chiếc áo nâu sòng, hay chỉ vài bộ quần áo sang trọng? Thành chỉ y cứ vào hình thức bên ngoài để quyết đoán hành xử, dễ sinh tội lỗi vô cùng. Chính vì vậy, Nhất Hưu mở lòng khai thị cho đệ tử. Cúng dường một bữa cơm, nhận liền một bài pháp, không phải là người có lòng, không dễ gì được vậy. 

Một lần, mời Tăng chúng về thọ trai, hậu sinh đã vướng phải một chuyện nhớ đời. Bởi tâm hướng về Tăng chúng lớn, nhất là đối với vị chủ đoàn, nên mọi thứ từ thức ăn, chỗ ngồi, cho đến nhà vệ sinh, đều tập trung cho Tăng đoàn. Bỗng ở đâu, một cụ bà xin vào đi tiểu. Thành phố không có chuyện này. Quán ăn hàng chợ thì có thể, nhưng nhà tư nhân thì không. Không ai cho người lạ vào nhà. Song bình thường vẫn có thể, nhưng hôm nay là ngày cúng dường Tăng chúng, làm gì có chuyện đó. Đang lu bu mà bị quấy rầy, hậu sinh ta quát lớn “Nhà đang có việc, đi đi cái gì”, rồi sập cửa không chút thương tiếc. 

Nhà vệ sinh hôm đó, không một vị tăng nào bước vào. Vì tiêu tiểu, không phải cứ chỗ tốt chỗ đẹp là nó đã ra. Sình lầy, gốc chuối, bụi cây mà tới cơn thì nín cũng không được. Vậy mà một chút không tỉnh, hậu sinh đã tống bà cụ ra ngoài. Nếu đủ công đức như vị Hòa thượng lập đàn bố thí kia, có lẽ hậu sinh đã thấy bà cụ hóa thành Văn Thù cưỡi mây ngũ sắc bay đi. [4] 

Biết đạo, mình ít bị những hình thức như giàu nghèo, bằng cấp v.v… chi phối, nhưng lại bị những thứ vi tế như thế dẫn chạy. Chẳng qua là làm thiện mà chấp thiện. Chấp là trạng thái nắm chặt. Nó biểu thị cho đầu óc cứng ngắt, mất tính tùy duyên của mình. Mình không phân biệt được thứ gì là tinh thần, thứ gì là hình thức. Tinh thần là thứ bất biến cần giữ. Hình thức là thứ có thể thay đổi tùy duyên. Thay đổi tùy duyên ra sao để tinh thần vẫn … bất diệt. Nhưng mình thì chỉ chú tâm nắm chặt hình thức. Cớ sự mới ra như vậy.

Thiền sư Vinh Tây, một lần vì sự đói cơm của một gia đình hành khất, đành phải cầm mớ vàng lá dùng tô tượng Phật đưa cho người hành khất mang đi đổi gạo. Đệ tử của ngài biểu lộ sự không vui. Thiền sư vui vẻ giải thích “Các ông không thể hiểu nổi việc ta làm. Chính vì tôn kính chư Phật mà ta làm như thế”. Các đệ tử  vẫn không bằng lòng. Sau cùng, thiền sư phải lớn tiếng mắng “Lúc đức Phật còn tu đạo, cắt thịt cho chim bồ câu, xả thân cho cọp đói còn không tiếc, huống chỉ vài miếng vàng lá. Phật đối với chúng sanh thế nào các ông biết không?”. Lúc ấy đệ tử mới hiểu việc làm của thiền sư là hợp với tâm Phật. 

Mọi nghi thức đối với Tăng chúng là cần thiết. Nó biểu tỏ lòng thành kính, qui hướng Tam bảo của mình. Nhờ cái bước đầu ấy, mình mới có cơ duyên nhận pháp tu hành với chư vị. Từ đó mới có thể phát huy được trí tuệ và lòng từ của chính mình. Đó mới là cốt lõi của sự tu hành. Cho nên, trong tất cả sự cúng dường, TRÍ TUỆ và LÒNG TỪ là pháp cúng dường lớn nhất. Trí tuệ hiển phát, thì tâm so đo phân biệt không có chỗ để dung thân. Không phải chỉ qui kính cúng dường Tăng chúng, mà đối với cụ bà, mình cũng có lòng cho bà … đi nhờ. Không đến nỗi ôm cứng cầu xí làm pháp cúng dường như thế. 

Chuyện khó nói 

Ở đời, sao có nhiều chuyện thật là khó nói ... 

Tivi là thứ rất thường trong cuộc đời. Nhà ai cũng có một cái để xem ca kịch hay ít nhất là tin tức. Thời buổi, chỉ cần chưa đến một chỉ vàng, đã có thể mua được một chiếc ti vi khá tốt, thì việc không có ti vi trong nhà hay không xem tivi là chuyện rất lạ. Nhưng với chốn thiền viện hay am thất thanh tịnh thì khác. Có một chiếc tivi xuất hiện trong liêu thất của tăng chúng, hay trong am thất của một cô ni để coi thời sự hay những tuồng tích mùi mẫn, là chuyện không thể chấp nhận. 

Người ta phàn nàn với tôi, hiện nay trong chốn thanh tịnh, đương nhiên không phải trong chốn thiền viện chính qui, mà trong cái khu bộc quanh thiền viện, có vài chiếc ti vi nằm không đúng chỗ. Có người hỏi “Sao không lên sách những chuyện như thế?” Trời đất! Đâu phải dễ nói mà hở cái là lên sách? 

Bản thân tôi, không ưa cái màng đem đời vào đạo theo kiểu như thế! Bởi đã mặc áo tu, lại nhận của cúng dường, mà cứ thoải mái đắm chìm trong những hoạt cảnh lùng bùng thì cũng hơi kỳ. Thí chủ làm lụng cực nhọc dâng cơm mời nước để mình có thời gian chăn con mắt, giữ cái tai v.v…  Nhờ vậy tập khí dong duỗi dừng bớt, trí tuệ đạo lực tăng trưởng. Đó là cái nhân để mình có khả năng cứu họ trong hiện đời và mai sau. Đâu ai cúng dường để mình làm cái mốc áo, đi tới đi lui, học cũng không học, tu cũng không tu, chỉ mỗi một việc là … nhìn. Không kỳ sao được! 

Giới luật đã thọ đâu có cấm coi ti vi. Ừ, giới luật không có khoảng nào cấm coi ti vi. Vì thời đức Phật không có ti vi để cấm. Giới luật không cấm, nhưng đức Phật lại lệnh cho hàng Tỳ kheo phải chăn con mắt, giữ cái tai v.v… không cho dong duỗi theo cảnh giới bên ngoài. Pháp trần[5]  bên trong mới không có cơ phát triển. Có vậy, định lực mới phát, trí  tuệ mới có. Của tín thí mới tiêu. Cứu nhân độ thế mới tròn. 

Bởi cớ sự đó mà tôi không thích người tu mãi miết với chiếc tivi. Nhưng mở miệng nói không phải chuyện dễ. Bởi duyên mỗi người mỗi khác, mình không tận mắt thấy cái ti vi nằm ở chỗ nào, làm sao mà nói. Giả như có cái tivi, nhưng coi cái gì mình đâu có biết. Nhỡ nghe băng giảng hay để chiêm ngưỡng dung nhan Hòa thượng thì sao? Nếu coi cái khác, cũng có cái khổ mình không thể nói. Biết đâu nhỡ cái ti vi, thoát được một phút buồn rầu không làm chuyện dại. Mình đỡ một phần phúng điếu thì sao? Quả có nhiều chuyện để bàn, chung qui vẫn là … khó nói. Mà cái khó nhất là chính ta đây. Vẫn coi ti vi mới chết! Mở miệng sao đặng? Chi bằng dỡ lơ, coi như mở lòng thông cảm là hơn. Phản quan tự kỷ bổn phận sự! Đạo lực một khi đã có, trí tuệ một khi hiển phát, ti vi không còn giá trị. Bật tới bật lui mà thấy đài nào cũng như đài nào, trơ trơ như chốn không người, dính mắc chi nữa đúng không? 

Ở đời, sao có nhiều chuyện thật là khó nói …

Tôi ít gặp được Sư ông. Gặp rồi, cũng không có gì để nói. Mỗi lần có ý vô thăm Sư ông, cảm giác Sư ông đang trông lại rõ mồn một. Lần nào cũng vậy. Không biết vì sao cứ có cảm giác Sư ông đang trông. “Đúng là vọng tưởng!” Lão chồng đã nói như thế. Chắc cũng đâu đó. Nhưng gặp được rồi, thấy ông thôi ngóng. Chỉ dõi mắt cười. Cũng không thấy nói vô chùa đi con.

Cho đến Sư phụ, hình như khuyến khích con nhỏ tu ngay ngoài đời hơn là vô chùa. Tu ngay ngoài đó cho yên. Đợi nó vô chùa, thế giới tan hoang, cửa nhà nát hết. Kêu nó vô chùa, nhỡ vô không được bồ đề thêm thối. Không chừng Ta bà cuốc thêm mấy vòng thì tội thiên hạ. Cho nên, “Cạo đầu vô chùa” không thấy xuất hiện trên miệng Sư phụ bao giờ. 

Nghiệm cho cùng, tu là ở tâm, không phải ở chùa mà cứ phải vô hay ra. Vô chùa tuy có điều kiện tu hành hơn đó, nhưng vô tới nơi mà chỉ có … ăn, thì cùng đề huề. Sao bằng ở ngoài mà tu tinh tấn. Cho nên, vô thì quá tốt, không vô thế giới cũng chưa thay đổi. Quan trọng vẫn là chịu tu hay không mà thôi.

Nghiệm cho cùng, tu là ở tâm, không phải đổi áo thay đầu, hay thọ các giới với chức Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni mới gọi là tu. Cái chính là phải nhiếp tâm thọ trì kinh kệ, thông hiểu những gì Như Lai đã nói, mang lại lợi ich cho người. Tu thiền càng khó. Yêu cầu đặt ra không phải chỉ GIỚI là đủ, mà phải làm sao MINH TÂM KIẾN TÁNH. Tâm phải sáng rồi, tánh mới hiện được. Tâm còn tối thui, tánh hiện sao nổi. Vô chùa, quả tình điều kiện sáng tâm dễ dàng hơn nhiều. Nhưng ngoài nếu tánh vẫn kiến, khác gì trong chùa? Thành vô hay không, thế giới vẫn còn, thiên hạ chưa chết. Quan trọng vẫn là kiến tánh hay không mà thôi.

Lý của sự tu vốn là như thế, không phải ở chùa hay phải thay hình đổi dạng mới gọi là tu. Nhưng khổ, mỗi lần ai hỏi sao không đi tu cho rồi, mình đành lặng thinh. Thật ra, đi thì chưa đi nhưng tu thì … cũng có. Lão chồng vẫn nói “Bà này tu … hú”. Hú là tập khí, biết làm sao được. Nhưng lỡ bất giác hú to một tiếng, sực tỉnh im liền, khoảng cách lần sau cách xa lần trước, mỗi ngày mỗi xa. Cho đến cái lúc chưa hú đã tỉnh, trông em hiền như ma soeur … là đã có tu. Tu rất số zách, đâu cần phải đợi vô chùa. 

Nói chung, “vọng” hiện liền biết, biết rồi đừng theo … Cứ thế mà làm đến khi sáng tâm. Tu kiểu như thế, so với vô chùa, vọng không nhận ra, tâm cũng không sáng, kinh kệ không thông, lợi ích cho người như vệt chỉ mành, mà thấy thiên hạ cần phải lạy lễ cúng dường cho mình. Cái đó mới họa. Phước đức hiện đời trở thành cái nhân cho một cái quả không tốt về sau. Vô chùa như vậy, tính ra không bằng ở nhà mà lại chịu tu.

Tu là như vậy. Ngay tâm không phải ở chùa. Chùa chỉ là duyên. Song ai nói mình vô chùa tu đi, chỉ biết cười trừ không nói nên lời. Rất là khó nói! Người ta nhiệt tình chăm chút cho mình, mở miệng sao đặng. Vả lại, đâu phải ngoài đời, ai cũng dễ tu? Cần có chùa chiền, môi trường thanh tịnh, thời khóa đủ đầy, mới tạo cái duyên để mình thiền tập, trí tuệ phát triển, lòng từ trùm khắp. Điều kiện vô chùa phải nói rất là thiết yếu đối với người tu. Chỉ cảnh tỉnh lặng, chịu được cũng đáng bái phục lắm rồi. Đừng nói thời khóa đủ đầy, tu tập, lao động. Hòa thượng tí ti của xóm con nít, thân bằng cây chổi, xe đất cũng đẩy phăng phăng, tọa thiền tụng kinh nhất cử nhất thiện … Kiểu đó gặp mặt không lạy không đành. Chừng đó, chưa làm trụ trì, cũng đã lợi ích cho đời. Thành ra, nghĩ tới nghĩ lui, im lặng là vàng. Nói ra, không chừng tưởng mình dỡ trò biện minh cho thói lang thang. Mọi thứ đâu còn giá trị. 

Ở đời, sao có nhiều chuyện thật là khó nói … 

Phụ nữ 

Schopenhauer, sinh năm 1788 tại Dantzig. Thân phụ là một thương gia có tài. Mẹ là một tiểu thuyết gia phổ biến đương thời, nhưng rất nóng tính. Bà hình thành đời sống tự do luyến ái sau khi chồng chết. Schopenhauer chống đối việc này hệt như Hamlet chống đối mẹ mình tái giá. Những cuộc gây gổ liên tiếp diễn ra với mẹ, cộng thêm những thất bại trong tình trường, đã khiến ông có cái nhìn không mấy tốt đẹp về phụ nữ : 

“Chỉ một người đàn ông bị mờ mắt vì sự thúc đẩy xác thịt, mới có thể tặng danh từ phái đẹp cho một giống người thấp bé, vai hẹp, mông rộng, chân ngắn. Để đảm bảo hơn, thay vì gọi họ là phái đẹp, hãy nên tả họ như một giống thiếu thẩm mỹ …”

“Trong một vài năm thiên nhiên cho họ một tài sản nhan sắc và vẻ kiều diễm để có thể chộp lấy cơn bốc đồng của một gã đàn ông, đến độ chàng vội vàng đảm nhận cái vinh dự săn sóc họ suốt đời, một bước đường mà dường như không có một bảo đảm nào để biện minh nếu lý trí chịu điều khiển tư tưởng con người một chút …” 

 “Những bộ óc đặc sắc nhất trong toàn thể giống này chưa bao giờ sản sinh được một công trình nào về mỹ thuật độc đáo thuần túy hay hiến cho thế giới một tác phẩm có giá trị trường cữu thuộc bất cứ lãnh vực nào …”

“Mọi phụ nữ, gần như không ngoại lệ, đều thiên về sự quá lố, chỉ biết sống cho hiện tại. Môn thể thao chính của họ là đi mua hàng …”. [6]

Cái nhìn của ông, xem ra vẫn còn nhân nhượng hơn nhiều so với cái nhìn của Phật, được ghi trong kinh Bửu Tích : “Ổ bịnh hoạn máu mủ tanh hôi, mũi dãi thường chảy như cảnh dơ bẩn ở bãi tha ma”. Không biết với nhà hiền triết, đó là cái nhìn muôn đời bất diệt hay chỉ là phút tạm thời? Nếu như mọi thứ thay đổi, trong vòng thương yêu êm ấm, thấy được phụ nữ chân dài eo nhỏ ngày nay, với những cái đầu không khác nam nhi … không biết ông còn chịu giữ cái nhìn như thế? Song với đức Phật, “Ổ bệnh hoạn máu mủ tanh hôi …” chỉ là cái nhìn tùy duyên. Nó được nhắc đến, chỉ khi nam nhi chìm sâu trong biển ái dục. Sự chìm sâu có nguy cơ mang đến khổ đau và tội lỗi. Trong cái duyên như thế, phụ nữ mới có hình tượng đặc sắc như thế. Trong một duyên khác, phụ nữ không còn hình dáng thế nữa. Hãy nghe đức Phật nói về Hà Thượng, một nữ cư sĩ trong pháp hội của ngài “Ta nhớ xưa kia, cũng tại nơi này, có ngàn Như Lai thuyết pháp như vậy. Ở trong các chúng hội đó, mỗi mỗi đều có tín nữ Hằng Hà Thượng làm thượng thủ”. Cũng nói với Văn Thù Sư Lợi về đồng nữ Vô Úy Đức “Đồng nữ này, trong quá khứ đã phát bồ đề tâm, trải qua 30 kiếp, ta mới phát tâm hướng về vô thượng bồ đề. Đồng nữ ấy cũng đã làm cho ông trụ vô sanh nhẫn”. Những phụ nữ như thế, trí tuệ không phải chỉ để “sản sinh được một công trình nào về mỹ thuật độc đáo và thuần túy, hay hiến cho thế giới một tác phẩm có giá trị trường cữu” ở thế gian, mà nó tồn tại phi thời gian. Điều đó cho thấy, không thể lấy một TƯỚNG NHẤT ĐỊNH nào làm chất thực cho giới phụ nữ. Nếu đúng là chất thực của người phụ nữ thì nó không xấu cũng không đẹp, không ngu dốt cũng không trí tuệ… như Trung Luận hiển bày “Không sanh cũng không diệt, không đến cũng không đi …”. Chỉ tùy duyên mà lúc thấy xấu lúc thấy đẹp, lúc trí tuệ, lúc ngu dốt v.v… 

Cho nên, với cái nhìn Duyên khởi, “Ổ bệnh hoạn máu mủ tanh hôi …” không phải là nhãn mark độc quyền dành cho phụ nữ. Nếu đối tượng là một phụ nữ đang chết chìm trong biển ái dục, có nguy cơ thiêu sống mọi người vì lửa ghen bộc phát, thì hình tướng kia sẽ được dùng để chỉ cho phái mày râu, dù đó là một vị đại đức thanh tịnh chăng nữa. Song nói như thế, không có nghĩa là với bất cứ đối tượng nào vướng sâu vào ái dục, Phật Tổ đều sử dụng phương thức đó. Tùy nghi mà lúc thì đưa khía cạnh này, lúc thì nói khía cạnh kia, miễn sao “bệnh tật” của đối phương được thuyên giảm. Duyên khởi là vậy. Tùy duyên mà có pháp, không cố định ở một pháp nào. Khi đọc kinh học luận, nhớ chú ý đến mặt tùy duyên. 

Quan niệm của thiền gia đối với phụ nữ thì sao?

Thiền sư Vân Môn đưa cây gậy lên dạy chúng “Phàm phu thấy nó là thực. Nhị thừa phân tích nó thành không. Viên Giác cho nó là huyễn có. Bồ tát thì thấy đương thể tức không. Thiền gia thấy cây gậy là cây gậy. Đi chỉ đi. Ngồi chỉ ngồi. Không được động đến”. 

Không phải chỉ với cây gậy mà tất cả pháp ở thế gian đều như thế. Thiền gia thấy phụ nữ là phụ nữ. Tức không lộn nữ thành nam hay ra một cái gì khác. Cũng không khởi niệm đó là phụ nữ. Thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, không khởi niệm xấu, đẹp, hay, dỡ. Quan trọng là … KHÔNG ĐƯỢC ĐỘNG ĐẾN. Vì sao? Vì động đến, coi chừng sinh chuyện. 

Bạch Ẩn thường ca tụng với đệ tử về trình độ thiền của một lão bà có tiệm trà gần đó. Chư vị không tin lời ông, muốn tự mình khám phá. Bất cứ người nào đến tiệm trà, bà đều hỏi đến uống trà hay hạch thiền. Uống trà, bà tiếp đãi tử tế. Hạch thiền, bà đưa họ vào nhà sau và tặng một nhát đủa bếp vào đầu. Chín phần mười bọn họ không thoát khỏi tay bà. 

Nói chung, với tăng sĩ, phụ nữ dù già hay trẻ … KHÔNG ĐƯỢC ĐỘNG ĐẾN là một lời khuyên đầy kinh nghiệm và khôn ngoan. 

Trách ai?

Mèo con là con mèo mẹ. Phải đến chục lứa, tôi mới có thể gần gũi chăm sóc con nó như lũ mèo nhà. Có vậy mới mong chích ngừa chấm dứt sinh sản. Nuôi mèo đem cho thì không còn chỗ để cho. Nuôi tiếp thì nuôi không nổi. Xua đi, thấy dạ không đành. Thành phải tính chuyện chấm dứt sinh sản. Không thì mèo khẩu cứ tăng. Mình đâu tính chuyện sản xuất cung cấp cho các tiệm ăn mà hứng với việc như vậy. 

Mèo con giỏi hơn mèo mẹ rất nhiều, chỉ phải cái tội đêm đêm lại kêu, không ai ngủ được. Thành dù thương nó, mình cũng tìm đường cho nó ra riêng. 

Gởi nó cho cô xong rồi, mình mừng hết lớn. Vậy là mình vẫn có thể chăm sóc chích thuốc cho nó. Xuống tới nhà cô, nó không kêu nữa. Nó nhảy tung tăng hưởng khí mát lành, tươi tắn vui vẻ. Nó không ăn cá ăn thịt, chỉ cần một chút thức ăn làm sẵn cho mèo, là nó đã no. Gặp cô, nó sa vào lòng không chút lạ lẫm. Mình cũng yên lòng. Vậy là những gì dự định coi như tạm xong. 

Hai mươi ngày nữa, đến ngày mang nó chích ngừa. Nói là nói vậy, ngày đó không bao giờ tới. Bởi nó đã bị con Ki hàng xóm xơi tái …

Mới biết, không phải muốn lo là đã lo được. Mình dù có lòng để lo mà người không phước để hưởng, mọi thứ cũng không. Không phải chỉ với con mèo, thiên hạ chung quanh, ngay bản thân mình, cũng thấy như thế.

Cái khoảng thời gian đi tới đi lui ngoài chợ. Có rất nhiều chuyện để mình chiêm nghiệm. Bà chủ vừa nuôi người làm, dự định cho cô nhiều thứ. Nào sắm cái này, nào lo cái kia. Không phải chỉ việc nuôi mẹ, bà tính luôn việc giúp đỡ lũ con. Mỗi tuần, bà cho cô nghỉ một ngày thăm con ... 

Chưa được ba ngày, cô nói nóng ruột nhất định đòi về. Bà cho ít quà và tiền rồi để cô về. Tôi lấy làm tiếc cho cô. Con người, có khi vì chút nhẫn lực không có, bỏ mất cơ hội ngàn vàng. Nhưng rồi một việc xảy ra để hiểu vì sao cô không hưởng được những gì bà chủ dự định : Người ta mang biếu cho bà một số bưởi quí. Bà đã dự định cúng dường Tăng Ni. Thấy cô thích thú, bà dành cho cô một trái. Nhưng hôm cô đi, cô mang đến hai. Đi thế, nên không một lời từ biệt. 

Cho tới giờ này, cô vẫn không biết, chỉ vì tham một trái bưởi, cô đã bỏ mất số tiền tương đương đến 50 trái, con gái bà chủ muốn cho sáng đó. Bà chủ bận việc trên lầu, cứ nghĩ cô chào bà sẽ đưa tiền luôn thể. Không ngờ cô đi âm thầm. Người sống như vậy, làm sao đủ duyên ở gần bà chủ? Bà dù muốn lo, cũng không đủ duyên để hưởng. Ở được với bà mới là chuyện lạ.

Trong đời, chỉ vì không đủ nhẫn lực, không biết mình đã bỏ đi bao nhiêu cơ hội ngàn vàng như cô người làm của bà chủ kia? Không nhẫn được với miệng, không nhẫn được với thân, không nhẫn được với lòng tham, không nhẫn được với tính đố kỵ, kiêu mạn … mà mọi việc trở thành đáng tiếc. Đó là cái nhân để mình gặt phải cái quả bất toàn trong tương lai. Nhiều cái nhân bất thiện cho ra lắm cái quả bất toàn. 

Suy cho cùng, cái chính vẫn là nhẫn không dược với những suy nghĩ của mình. Ý NGHIỆP. Không phải chỉ Ý mà còn đi kèm chữ NGHIỆP. Nghiệp, nói đủ là nghiệp tập. Chỉ cho thói quen mình đã huân tập trong bao đời kiếp. Chính vì chữ NGHIỆP, Ý mới có lực khiến mình chạy theo. Quên mất việc đó nói ra có lợi hay không. Quên làm như thế thiệt hại những gì. Thứ gì đụng đến cái TẬP hay TÔI của mình, lập tức mình mất nhẫn lực, mình liền phóng theo. Mình phát huy cái miệng, mình động đậy cái thân. Phật nói điên đảo là vậy. 

Mới thấy 4 chữ BIẾT VỌNG KHÔNG THEO Hòa thượng Trúc Lâm đặt ra lợi hại vô cùng. Chỉ cần BIẾT được cái gì vừa hiện trong tâm, là mình đã có thời gian để thấy NÊN hay KHÔNG NÊN tiếp tục những việc đã nghĩ. Nhưng thường, thứ gì rơi trúng tập nghiệp của mình, mình đành bó tay. Cái BIẾT của mình bị LỰC CỦA NGHIỆP đè chết. Mình quên tất cả, chỉ theo nghiệp lực như thuyền phăng trên dòng thác, không chút nghỉ ngơi. Giả như có chút công phu, có ít trí tuệ, còn biết hồi tâm quay đầu, không đi quá xa. Nếu không trí tuệ, công phu cũng không, thì cứ theo nghiệp mà đi. Ta bà thế giới đâu hề từ chối những kẻ nhiệt tình với nó? Cái khổ, cái nghèo, hoạn nạn, tai ương, bất toàn theo đó mà hiện. Trách trời sao được? Muốn lo, lo cũng không xong. 

Không biết con mèo chết đi, nó có trách tôi “Tại bà đem tôi xuống đây, thành tôi mới bị chó ngoặm mà chết tức tửi …”. Có trách cũng không phải lạ. Thói đời là thế, ít ai tự trách lấy mình, chỉ hay đổ thừa thiên hạ. Hắn đã đổ thừa thì mình đổ lại “Giá con đừng kêu, con biết làm chủ cái miệng của mình, đừng phiền thiên hạ, thì dù bưng cứt đổ đái chịu khó chịu khổ với con như trước, ta cũng chịu được. Đằng này con không biết nhẫn, đêm nào cũng gào thiên hạ ngất ngư, ta làm gì được bây giờ? Ta đem con xuống chỗ tốt, không ngờ phước con không đủ, đâu phải tại ta mà con trách ta?”. Nói thì nói vậy, nhưng ngẫm cho cùng, như chính mình đây, cái phước làm người đã có, học đạo cũng không phải vừa, nhưng nhẫn vẫn tồi … số một. Hở cái là hú, tập khí vẫn chưa thắng nổi, nói là con mèo? Thật tội! Tính ra, chỉ vì nuôi nó mà mình không đủ nhẫn lực dạy nó chữ nhẫn hầu tải bớt nghiệp của thân, cớ sự mới ra như vậy. Mới thấy tiền bối Nguyễn Du, phát biểu một câu ngẫm ra chí lý :

Đã mang lấy nghiệp vào thân 
Cũng đừng trách lấy trời gần trời xa

Trách ai bây giờ? Phản quan tự kỷ bổn phận sự! Khắc dạ ghi tâm là tốt. 

Ông Địa

Ngày chưa đến chùa, nói chính xác là chưa đến thiền viện. Cái khoảng Đậu Hũ còn lang thang ngoài chợ đời phố thị, bầu bạn với đủ thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không thiếu món nào, thì bàn thờ có rất nhiều tượng để thờ. Đức Di Đà ở giữa. Quan Âm, Thế Chí hai bên. Trái, một cái hình Ấn độ cởi trâu. Phải, hình mẫu mẹ ngồi chiễm chệ. Phòng khách có Ông Địa nghênh tiếp tiền bạc. Bếp đã có ông Táo coi hộ. Không cho tiền lẻn ngã sau. 

Nói chung, bầu bạn với quá nhiều thứ, nên tâm không định, thấy chi cũng sợ. Mưa, Đậu Hũ sợ cây rơi trúng đầu, chết. Gió, Đậu Hũ sợ đổ cột điện đè lên người, tiêu. Phải nói, có quá nhiều thứ để sợ. Thành đến chỗ nào, thấy có thứ gì có thể bảo vệ được mình, Đậu Hũ liền thỉnh về thờ cùng Phật. Một người bảo vệ sao bằng năm người? 

Thờ nhiều nhưng buồn hay vui, có tiền hay không, Đậu Hũ chỉ nói với mình ông địa. Bởi bàn thờ ông có một bình xăm và cuốn sách bói. Có thể lắc xăm xin quẻ dễ dàng khi cần. Nhưng đó chỉ mới một phần. Cái chính là ông không như đức Phật, chỉ mới là thánh là thần gì đó, ông sẽ thông cảm với việc Đậu Hũ đang cần. Ông lại “cai quản” tiền bạc, hy vọng ông cho Đậu Hũ một ít, đỡ tủi.

Đến thiền viện rồi, bỗng nghe Sư phụ tụng tới tụng lui “Cái bàn thờ Phật sao thờ nhiều thứ”. Nghe giảng mà bụng phập phồng. Thôi thì hạ hết cho xong. Nhưng tới bàn thờ ông Địa thì bỏ không đành. Đậu Hũ không sợ “không thực không vực được đạo”, mà vì chút tình lưu luyến bấy lâu. Ông dạy nhân duyên, nhân quả cho mình. Chừng đó mà không đành lòng. Thành giờ vẫn còn cái bàn ông Địa để ở trước cửa trên lầu. Không ai nói chuyện. Tu thiền, miệng cần như quạt mùa đông. Nói gì?

Làm ăn suôn sẻ, gia đình êm ấm, ít ai nhớ đến Phật, thánh. Chỉ khi có gì xui xẻo, chèo quơ mái lật, Phật thánh mới có phần. Những ngày tiền bác thiếu hụt, Đậu Hũ lạy ông sói đầu. Mùng hai mười sáu, heo quay. Ngày thường, hết cho hút thuốc, lại cho ăn tỏi, trái cây. Nhưng tránh măng cụt, vì sợ tiền bạc thiếu hụt. Xam bu chê cũng không, vì sợ tiền chê không vô. Sầu riêng chẳng bao giờ cúng, vì sợ nỗi sầu không tiền đeo đẳng. Gai góc thế kia, tiền bạc rách hết. Thành gì thì gì, cúng kiến rất là kiêng kỵ. Kiêng hơn đàn bà non ngày non tháng. Sợ ông trúng thực, tiền mình không cánh mà bay. Ngẫm ra, chẳng tốt lành gì. Không cầu cạnh được, bàn thờ cũng không, đừng nói cúng kiến.

Ông từng một lần bị cho ra đường cùng với thần tài, chỉ vì số đề xin hoài không trúng. Cậu ghét cậu quăng ra đường. Không ngờ ông có thần thông, phi ngang cây nhãn bám trụ tòn ten trên đó. Chỉ ông thần tài là tội. Hình hài chẳng còn một mảnh, nát vụn như tương, không một mảnh đất chôn thân. Ngày đó, Đậu Hũ mang ông vô nhà thờ lại chứ ai. 

Vậy mà, lần nào lắc quẻ xin tiền, ông cũng trả lời “Chờ đủ nhân duyên”. Ngày ấy, hai chữ nhân duyên là gì Đậu Hũ không hiểu. Chỉ biết bốc phải quẻ ấy là coi như tiêu. Trắng tay vẫn hoàn trắng tay, không gì khả quan hơn được. Chỉ một điều lạ, mỗi lần cúng dường hay biếu tặng ai thứ gì, hoa ông nở rộ bàn thờ thấy tươi. Lão chồng vẫn nói “Vọng tưởng!”. Đời này có gì không phải là vọng, nói coi! Vọng thì mới dệt cho thơ, mới tô cho mới cuộc đời. Miễn đừng tưởng vọng thành chân là được, chứ gì! 

Giờ thì mới hiểu hai chữ nhân duyên ông nói ...

Đâu có gì lạ, nhân duyên là thực lý chi phối thế gian này. Sống trong cuộc đời, không gì không phải nhân duyên. Mỗi cái quả hiện nay, không phải tự nhiên xuất hiện, đều do cái nhân đã gieo trong thời quá khứ. CHƯA ĐỦ NHÂN DUYÊN, nghĩa là Đậu Hũ chưa gieo cái nhân bố thí cúng dường v.v… làm sao Đậu Hũ đòi có phước lộc? CHƯA ĐỦ NHÂN DUYÊN, thì dù Đậu Hũ đã gieo nhân rồi, mà duyên chưa đủ, phước lộc cũng không. Cầu xin sao dược? Phật đã từng nói “Dù chư Như Lai xuất hiện ở đời hay không, các pháp vẫn như thế, vẫn quyết định tánh ấy, vẫn theo duyên như thế”. Phật còn nói vậy, Địa làm gì được. Đậu Hũ phải chờ cho đủ nhân duyên là lẽ tất nhiên.

Thôi thì, Đậu Hũ đã có nhân duyên với Địa. Để ông lại đó làm bạn tu hành. Phật có hoa thì Địa cũng có hoa. Phật có trái cây thì Địa cũng có trái cây. Nhưng Phật không heo quay thịt vịt, thì Địa cũng không được dùng heo quay thịt vịt. Thuốc rượu cũng không. Cái đó Phật tử tại gia còn không được dùng, huống là thần thánh tu hành. Chấm dứt là tốt.

 Mới hay ở đời, đừng có dại dột mà nói sự thật cho chúng nó biết. Chúng biết mình không năng lực ban phát tài lộc cho chúng, chúng liền phủi tay. Nói chuyện cũng không, đừng nói cúng kiến. Chúng sanh là vậy. Bạc bẻo vô ngần! Biết mình chỉ là cái bóng không làm gì được, chúng liền quẳng ngay. Đừng nói là cung với kính hay những thứ khác. Chỗ này mới thấy thông cảm cho người. Có khi không phải người không muốn nói sự thật. Nhưng nói thẳng ra, chúng không chịu tin. Nếu tin được rồi, có khi mình … đói. Nên đành bấm bụng huyên thiên. Có vậy mới có cái ăn.
Ngẫm ra, Địa kia rất tội. Có sao nói vậy. Chỉ chút chừng đó không thương sao được. Đậu Hũ đâu thể hạ bệ đoạn tình đoạn nghĩa cho đi cái vù như mấy vị kia. Cho nên, hương hoa vẫn đủ, chỉ cùng chay lạt tu hành, mai sau Linh Sơn còn gặp ...
 

Thiền và Duy thức 

Nhìn con bé nhấc bổng con mèo mới thấy dễ thương. Tình cảm trên tay, thương yêu trong mắt. Nhẹ nhàng, nâng niu ... Song không phải khi nào nó cũng dễ thương như vậy. Cái mặt bạnh ra khi không vừa lòng mới thật đáng ghét. Một mụ phù thủy không kém không hơn. Tình cảm của mình theo đó như nước thủy triều, khi lên, khi xuống, khi ghét, khi thương. Ù ơ vậy đó, nên Tổ Long Thọ mới rằng :

Mắt, tai và mũi, lưỡi
Thân, ý là sáu tình
Mắt v.v...  sáu tình
Theo sắc ... là sáu trần 

MẮT vốn không tình, chỉ vì theo SẮC mà có thương ghét. TAI cũng không tình, chỉ duyên theo THANH bên ngoài mà hiện buồn vui. Với Duy thức, khi mắt thấy sắc, không phải chỉ có mắt và sắc, mà là duyên hội của rất nhiều thứ. Nói lược có ba : 1/Căn. 2/Trần. 3/Thức. Nói đủ đến mười : 1/Bản thức. 2/Chủng tử nhãn thức. 3/Mạt na. 4/Ý thức. 5/Nhãn thức. 6/Nhãn căn không hoại. 7/Tác ý muốn thấy. 8/Có cảnh làm sở duyên để duyên. 9/Khoảng giữa không chướng ngại. 10/Trong vùng có thể thấy. [7] 

Trong cái duyên là NGHIỆP THỨC CON NGƯỜI, phải đủ 10 duyên, mình mới thấy được cảnh giới trước mắt. Chỉ cần thiếu một, mình không thể thấy con bé nâng niu con mèo. 

Khi mắt thấy sắc, việc của nhãn thức chỉ là liễu biệt cảnh của riêng nó. Cảnh hiện thế nào, nhãn thức nhận biết đúng như thế ấy, như máy ghi hình không thêm không bớt. Khi nhãn thức sanh, ý thức sanh cùng. Ngay sát na đầu, ý thức cảm nhận hình tượng sự vật hiện lượng như chính nhãn thức. Nhưng qua sát na thứ hai, tất cả đều bị ý thức phân biệt chi phối.[8]  Do sát na đầu qua đi quá mau, nên mình không thể nhận biết. Chỉ lưu lại phần ý thức phân biệt, huân tập qua bao đời kiếp, rồi cho đó là tâm mình. Thấy, nghe, hiểu, biết đều bị quan niệm định kiến chi phối. Cho nên, cảnh này mới làm mình vui, lời kia mới khiến mình buồn. Cái này sao thấy quá lớn, lời kia sao không văn hoa v.v… 6 căn biến thành 6 tình, đánh mất cái khoảng ban đầu quí báu. 

THIỀN, là sống với khoảng ban đầu quí báu đó. Là khoảng pháp được nhận biết đúng như chính nó, không bị định kiến của ta chi phối. Đó là cửa vào thẳng tắt chư vị thiền sư muốn dạy cho các thiền sinh. 

Cư sĩ Hoàng Đình Kiên tự Lỗ Trực, theo thiền sư Hối Đường xin chỉ cho chỗ thẳng tắt. Hối Đường bảo : 

- Như Khổng Tử nói “Này các trò, cho ta là giấu diếm ư? Ta không có gì để giấu diếm”.

Lỗ Trực suy nghĩ. 

Thấy vậy, Hối Đường nói : 

- Không đúng, không đúng. 

Lỗ Trực càng thêm u tối. 

Một lần, theo hầu Hối Đường dạo núi, hoa quế đang rụng đầy, Hối Đường hỏi : 

- Ông có nghe mùi thơm hoa quế chăng?

Lỗ Trực gật đầu.

Hối Đường bảo : 

- Ta không giấu gì ông. 

Lỗ Trực chợt tỉnh, liền lễ bái : 

- Hòa thượng đúng là tâm lão bà tha thiết.

Hối Đường cười : 

- Chỉ cần ông về đến nhà.

Ngay cái chỗ nhận biết được mùi thơm của hoa quế, là cửa vào của người tu thiền. Song mình không nhận được cửa vào, vì còn bận chạy theo mùi thơm của hoa quế, còn bận dõi mắt thương ghét với những được, mất, hơn, thua trong hiện tại. Ngay đó mà không về. Rong ruỗi buồn vui cho giòng đời thêm bạt, đường về thêm xa. Nên mới bình rằng : 

Chẳng từng giấu, chẳng từng giấu
Đầy đường hoa quế ngát hương thơm
Hỏi ai chưa ngộ tìm đâu nữa
Nhà Tổ xưa nay cửa vẫn không 
Ôi! 
Ai đã từng nghe hoa quế thơm? 
Thế ấy,  chớ lầm! 
(Ngũ Đăng Hội Nguyên)
 

Phước đức và chứng ngộ 

Thầy tu rồi mà sao cực quá! Tôi thưởng thức lời nói đó như một làn gió thoảng. Vô tư không dấu vết. Chung quanh chỉ núi với núi, không cực sao được. Vậy mà mấy chục năm sau, ý tưởng đó lại đến với tôi. Tu rồi mình còn cực hơn. Tu là gieo thiện nhân, đáng lẽ mình phải sướng. Tu là chuyển nghiệp cũ, đáng lẽ mọi việc phải hanh thông. Nhưng công việc hình như thêm nhiều. Vẫn có nhiều chuyện để giải quyết. Bởi ngoài việc đời, giờ còn việc đạo. Ý nghĩ đó không chỉ dừng lại ở bản thân, mà bắt đầu soi chiếu thêm ra ngoài. Hắn tu, sao lại cực? Hắn tu, sao quanh hắn toàn chuyện rối ren? Hắn tu sao cực, hắn tu sao rối ren, là ám chỉ việc tu của hắn có vấn đề. Mình tu sao cực, mình tu sao ren rối, là ám chỉ nhân quả hình như không chính xác. Cứ vậy mà tâm càng rộn, việc càng nhiều. Chuyện mình, chuyện người theo đó cứ xoay quanh.

Xuất hiện ý tưởng đó, chỉ vì tu mà dính mắc vào phước hữu vi. Tu, nhưng chưa hiểu hết ý nghĩa của việc tu hành. Tu, đúng là chuyển nghiệp nhưng cần nhớ các việc sau :

1. Nhân quả không phải chỉ xảy ra trong tức khắc mà cả ba đời. Gieo nhân, ĐỦ DUYÊN mới có quả. Có nhân, CHƯA ĐỦ DUYÊN, quả cũng không thành. Nhân quá khứ quá xấu, quả hiện đời nếu chuyển cũng chỉ bớt xấu. Thành tu rồi mà cảnh hiện đời chưa vừa lòng là chuyện bình thường.

2. Cái gọi là phước và vô phước chỉ là những hình thức tương đối. Thứ thiên hạ gọi là phước, với mình chưa hẳn đã tốt. Thứ không phải phước, với mình biết đâu là cơ duyên tu hành? Vì thế, không nên CHẤP nhất trên những hình tướng bên ngoài, rồi soi rọi từ mình ra đến thiên hạ.

3. Tu tuy chuyển nghiệp, nhưng nếu là định nghiệp, thì cảnh không thể chuyển, chỉ có thể chuyển ngay tâm. Muốn chuyển ở tâm thì tâm phải bất động với ngoại cảnh. Tâm không, thì sự dù có cũng thành không. Bởi tâm tịnh thì cõi giới tịnh.

Cho nên, đến với thiền, trong việc tu hành mình cần có ý thức : Tu không phải để nhàn thân, không phải để mọi thứ chung quanh diễn biến vừa lòng, mà để TRỊ CÁI BỆNH CHẤP THỦ THÂM CĂN CỐ ĐẾ của người tu. Không chấp thì tâm đương nhiên bất động với ngoại cảnh. Sướng hay khổ không làm mình bận lòng. Cảnh đến, dù vừa lòng hay chưa vừa lòng cũng không làm mình thối tâm tu hành. Thân rồi sẽ nhàn, tâm rồi sẽ yên, không phải chỉ do cảnh bên ngoài đưa đến, mà do chính trí tuệ và lòng từ của mình hiển phát. 

Hành trạng của chư vị thiền sư, không phải vị nào cũng có một hoàn cảnh tuyệt hảo hay một thân tướng tuyệt mỹ. Đại Đăng, chân đau gối nhức quanh năm. Lai Toản, thân ngủ cây đậu, đầu kê núi đá. Thiêu Thủy, hành khất tham thiền, bán giày cỏ lấy tiền nuôi thân. Bạch Ẩn, chịu tiếng oan, xin sữa về nuôi trẻ. Không phải chỉ có chư vị thiền sư mà ngay cả Lục Tổ, nhận y bát xong, vẫn còn lưu lạc tỵ nạn cùng đám thợ săn mười mấy năm trời. Rõ ràng, phước hữu vi chưa hẳn là thứ biểu trưng cho công phu tu hành trong hiện đời của người tu. Không phải mà mình cứ chạy theo, vui mừng dính mắc, lấy đó làm công đức tu hành, thì tâm bồ đề dễ thối, tâm thỏa mãn dễ sinh. Tâm thỏa mãn đã sinh thì bệnh chấp trụ liền kề. Phước có khi thành họa.

Thiền sư Vân Cư, cất riêng một am nhỏ nơi chỗ Động Sơn tu hành. Có đến mười ngày không thấy Vân Cư đến dùng cơm, Động Sơn hỏi : Những ngày qua, sao không thấy ông đến trai đường dùng cơm?

Vân Cư thưa : Mỗi ngày đều có thiên thần đem cơm đến cúng dường. 

Động Sơn nghe xong liền nói : Ta bảo ông là kẻ vẫn còn tri giải. Ông rảnh, chiều lại.

Chiều Vân Cư đến. Động Sơn lớn tiếng gọi : 

- Am chủ! 

Vân Cư cung kính : 

- Dạ! 

Động Sơn hỏi : 

- Không nghĩ thiện không nghĩ ác là cái gì? 

Vân Cư trở về am ngồi lặng lẽ, thiên thần tìm mãi không thấy, trải qua ba ngày như thế mới thôi cúng dường. 

Tu hành chân chính, đương nhiên phải có cái quả tốt đẹp. Nên lỗi, không phải vì được thiên thần cúng dường. Lỗi, không vì một chút thọ nhận cúng dường. Lỗi, vì phước hữu vi chưa phải là chỗ mà kẻ tu Phật an trụ. Tâm chưa đủ không, thiên thần mới thấy để mà cúng dường. Vì thế, Động Sơn đã quát “Ngươi là kẻ vẫn còn tri giải”. 

Cho nên, với người tu thiền, có được quả phước hiện đời, không bằng thâm chứng được tánh phước đức. Phải nhận cho được thực tánh của mình cùng với chúng sanh đồng một cội nguồn không khác.

Đến với thiền, chỉ để cúng dường hộ Tăng hay nghiên cứu cho vui thì không có gì để bàn. Song đã phát tâm đi trên con đường thượng thừa, thì mình cũng cần suy nghiệm những gì Động Sơn đã nói. Được hay chưa, đều nên lấy đó làm chuẩn phải đến của mình, không kiếp này thì kiếp sau, không kiếp sau thì kiếp sau nữa. Nhờ cái chuẩn đề ra đó, mình mới không thối tâm vì hoàn cảnh bất toàn, cũng không có tâm an trụ vì hoàn cảnh quá toàn. Tu mà ngày càng rối ren bận lòng, thì việc tu hành cũng cần coi lại. Phải quẳng bớt những gì cần quẳng. Thứ gì không có không chết, có chỉ thêm nhọc thân hành tâm, thì cố gắng bỏ. Thứ gì không có, lại thiếu phương tiện vực đạo thì phải tạm dùng. Dùng mà không dính. Đó chính là tu. 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

cach cung ram thang bay tai nha hop ly va Bí quyết giảm nguy cơ đột quỵ lần Sắc Bí quyết ăn khuya giảm thiểu gây hại tạng thư sinh tử hon TÃ Tấm Chánh niệm có thể làm giảm sự chú chim se sẻ non cuoc tu trong moi hoan canh 9 thực phẩm giúp giảm căng thẳng Củ hãy nhớ lấy 6 câu Bia rượu tác động xấu đến giấc Chất xơ giúp tránh dị ứng thực phẩm Giảm nguy cơ Alzheimer từ thực phẩm Giải nhiệt cơn nóng với rau câu đậu thể 10 hoa quả dành cho người tiểu đường gieo mầm phật pháp chưa bao giờ là dễ Đổ xô ăn chay cầu may rằm tháng Giêng Ngày càng có nhiều người trẻ bị đột Có mục tiêu sống tốt ít nguy cơ bị ï¾ å cu si sÃÆ buoc Đêm hoa đăng nguyện cầu dưới tôn chang nhung dieu toi nhan duoc tu phat phap chuột hạch phap Gi Nấm đậu xào sả ớt rau răm xúc bánh d 大谷派 ï½ cuộc đời thánh tăng ananda phần 7 cuộc đời thánh tăng ananda phần 7 con dung hoc phat va tu phat phai luon song hanh y nghia cua nghi le loi ich cua nguoi biet an nan sam hoi duyen giac tìm thấy chính mình qua đạo phật nuoc tu bi nguyen nước từ bi