Chuyện
cái thất
Thiên
hạ không tu, cũng có đất quanh Thường Chiếu. Có đất đã
xây thất. Có đất để đó không xây. Tôi thấy thiên hạ
có đất, dù có thất hay không, thảy đều rất thích. Cái
thích ấy giờ mới toại nguyện. Đất rồi cũng có. Không
lớn cũng không nhỏ. Đương nhiên phải xây liền một cái
thất.
Thất
vừa tính xây, ngay đúng tháng 7. Thiên hạ bàn vô “Tháng
7 xây nhà cô hồn quậy phá. Tính kiểu chi đó?” Nghe cũng
động tâm. Nhưng ngẫm cho cùng, nếu qua tháng 7, vật giá leo
thang kiểu này, nhất định nhà còn … nửa cái. Coi ra đáng
sợ hơn cả cô hồn. Thôi thì khởi công ngay rằm tháng 7 cho
xong. Tiền yên mà tâm cũng yên. Cô hồn kệ nó.
Thất
vừa xây xong, Ni viếng vội qua. Nhìn quanh nhìn quất, ngẫm
tới ngẫm lui, Ni phán :
- Cái
cửa nhỏ quá!
- Dạ
thưa, đồ cũ tận dụng.
- Làm
sao khiên cái hòm ra?
Trời
đất! Nhà mới xây xong, chưa ở đã tính chuyện chết.
-
Dạ đâu đã ở mà tính khiên ra?
Như
vừa ngộ ra điều gì, Ni cười như hoa :
- À
không. Sư phụ đã làm cái nhà phúng điếu. Có gì để ở
ngoài đó, không cần vô đây.
Mô
Phật! Xin bái thiền ni.
Hôm
nay vừa xuống tới nơi, nhận được tin mới :
- Dạ
thưa, Sư cô LB có cho bó nhan.
- Để
ăn tân gia?
- Chắc
vậy.
Coi
như gần đủ. Xoay qua, thấy nhỏ cầm cái máy ảnh canh tới
canh lui, mới nhớ còn thiếu tấm hình. Chụp đây một tấm,
có gì còn có để … thờ.
Vậy
là đủ bộ. Có quà tân gia.
Con
khỉ bên trong
Cô
em ngày nào cũng chửi cô chị. Bởi cô chị tưng tửng
mà cô em thì không tỉnh. Cô chị làm duyên cho cô em. Cô em
lại làm duyên cho cô chị. Vô minh duyên hành, hành duyên thức
… Hai chị em cứ thế mà chửi nhau. Nghiệp miệng càng tăng.
Sân giận càng nhiều. Vòng trói buộc theo đó nối tiếp.
Mình
không tửng nên không động miệng vô cớ như cô chị, nhưng
không tránh khỏi như cô em khi đời sống không thuần
một màu hồng. Khó mà không sân khi người ta nói ngang. Khó
mà yên ổn khi người ta nói ngược. Song người ngược thì
người lỗi. Mình nổi sân chửi lại, lỗi đó lại thuộc
mình.
Mình
lớn tiếng, vì mình không biết việc đó đem lại tổn hại
cho mình. Mình không biết mọi suy nghĩ hành động của mình
đều khắc sâu trong tâm thức như những vết hằn trên lưng
ngựa hoang. Thứ gì mang hơi hướm vị tha, nhẹ nhàng … nó
như con trai ngậm cát, một hạt trai xuất hiện trong tương
lai. Thứ gì mang hơi hướm tham lam, sân giận … đều
để lại vết hằn nhức nhối không chỉ trong hiện tại.
Đó là đứng trên mặt quả báo phước đức mà nói. Trên
mặt tâm thức, một khi mình thực hiện quen thứ gì,
nó có lực bắt mình theo nó như nước theo dòng. Không chửi
không chịu được. Không lên tiếng thở không trôi. Mình nghiện
chửi nghiện la như nghiện xì ke ma túy.
Vài
tháng tôi lại bị một đợt nóng sôi sục thêu đốt ruột
gan. Cái nóng khiến mình tức tối, chỉ muốn hét cho hả hơi,
chỉ muốn bầm nát mọi thứ. Một đợt nóng có chu kỳ. Tôi
khám phá điều ấy khi thực hành pháp “Biết vọng không
theo” của Hòa thượng Trúc Lâm. Vì muốn không theo, phải
biết cái gì là vọng, phải biết tâm mình đang chất thứ
gì trong đó. Buồn, vui, suy nghĩ, nhớ nhung, đau khổ v.v…
Tất cả những gì hiện lên trong tâm, mình đều phải biết.
Nhờ quá trình đó, mới hay mẽ lửa trong tâm, nó có chu kỳ.
Nguyên do nào nó nằm đó, phát tán âm thầm, mình chưa thấu
được. Chỉ biết, việc bên ngoài là duyên để mẽ lửa
bên trong có cơ bùng phát, không phải bản chất sự việc
là thứ làm mình sân giận. Không có mẽ lửa âm ĩ kia, việc
bên ngoài dù bức bối bao nhiêu, cũng không khiến mình phải
hét hay la.
Mẻ
lửa tuy thấy có sẵn trong mình, nhưng là cái quả mình đã
huân tập từ bao kiếp trước. Nếu không huân tập thì nó
không có. Không chỉ với sân, tham dục, kiến thức v.v… tất
cả hiện diện trong mình đều theo qui luật huân tập. Thứ
gì quen nhiều, thứ đó có lực khiến mình thông thái giỏi
giang về nó khá nhiều. Chửi một lần, không ý thức việc
đó tai hại, chửi tiếp lần hai. Chửi lần hai thấy được
việc, chửi tiếp lần ba. Cứ vậy, một ngày một ít, tập
quen với nó lúc nào không hay. Một khi chửi đã thành quen,
cái chửi nó bắt mình chửi, không phải là mình làm chủ
cái chửi. Do mỗi ngày tập quen với nó mợt ít, nên hiện
đời nó sai sử mình. Đụng chuyện là hét. Nó chính là nhân,
khiến bất cứ chuyện gì bên ngoài cũng thành cái duyên để
mình nổi sân. Một khi đủ duyên bộc cháy, nó sẽ lan mãi
không ngừng. Nó có cái lực khiến mình hăng tiết. Hăng tiết
là duyên để lửa thêm nồng. Vết hằn xéo tâm càng đậm.
Ngưỡng
Sơn hỏi thiền sư Hồng Ân ở Trung Ấp : Làm sao thấy được
Phật tánh?
Sư
đáp : Ta vì ông nói một ví dụ. Như một nhà có sau cửa.
Trong có một con khỉ. Ngoài có một con khỉ kêu chóe chóe.
Con khỉ bên trong liền kêu chóe chóe đáp lại. Sáu cửa đều
đáp như thế.
Ngưỡng
Sơn lễ tạ thưa : Nhờ Hòa thượng ví dụ nên con đã rõ.
Lại có một việc. Như con khỉ bên trong ngủ, con khỉ bên
ngoài muốn gặp thì sao?
Sư
bước xuống giường thiền, nắm tay Ngưỡng Sơn múa : Chóe
chóe, ta cùng ông thấy nhau.
Hỏi
làm sao thấy được Phật tánh? Trả lời “một con khỉ”
kêu ra sáu cửa. Song CON KHỈ KÊU đó chưa phải là Phật tánh.
Chỉ là DỤNG của Phật tánh. Sân là dụng hiện hành của
con khỉ đang kêu. Dụng này do mê mà có. Do mê nên cái quả
của nó là đau khổ và bất an. Vì được huân tập trong bao
đời kiếp, nên thấy cái gì gai mắt liền bực, nghe cái gì
không đúng liền sân, ăn nhằm hạt sạn nổi dóa, ngửi phải
mùi hôi phát khùng, dầu bắn vào người nổi điên, nghĩ đến
chuyện nó nói ngược mà cổ uất nghẹn. Con khỉ bên ngoài
làm duyên cho con khỉ bên trong lên tiếng. Nếu con khỉ bên
trong đã ngủ, tức mầm tham sân si được lắng yên, thì con
khỉ bên ngoài dù kêu bao nhiêu, mọi thứ vẫn bình yên. Mọi
động tác thi vi lúc đó đều là diệu dụng thanh tịnh của
tâm. Dụng thanh tịnh thì hiện tại an vui, tương lai cũng an
vui.
Mọi
đáng tiếc xảy ra hiện nay, con giết cha, vợ giết chồng,
nhân loại tàn sát lẫn nhau v.v… đều do không thấy được
con khỉ đang kêu này. Mình không ý thức được sự tai hại
của con khỉ đang kêu. Mình không nhận định được con khỉ
sắp kêu, con khỉ vừa kêu hay con khỉ đã kêu. Mình nhập
chung mình với nó nên cớ sự mới ra như vậy. Nếu nhận
định được con khỉ sắp kêu hay đang kêu, rồi dừng ngay
không cho nó kêu nữa, thì mọi thứ sẽ yên ổn hài hòa.
Việc
đâu tiên để con khỉ ngủ yên, là mình phải NHẬN DẠNG
được con khỉ của mình. Trước là nhận cho được HÌNH
TƯỚNG con khỉ đang kêu. Sau là nhận cho ra THỰC TƯỚNG của
con khỉ ấy. Nghe chuyện tâm nổi bực, thì phải nhận dạng
được cái bực đó. Thấy bực là biết con khỉ của mình
đã kêu. Kêu rồi thì bịt miệng nó lại đừng cho nó kêu
tiếp. Nó mở miệng là mình bịt. Bịt không xong, phải làm
công tác tư tưởng cho nó, để nó chịu yên. Từ từ nó chán
nó ngủ … Khi nó ngủ rồi thì sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp bên ngoài dù thế nào, tâm mình cũng an nhiên tĩnh lặng.
Tám gió thổi chẳng động là đó. Không phải con khỉ ngủ
yên hoàn toàn mình mới nhận được trạng thái an nhiên tự
tại. Việc nào con khỉ ngủ yên, mình nhận liền sự an nhiên
trong công việc đó. Khi tất cả thời, tất cả chỗ mà con
khỉ ngủ yên hoàn toàn, thì Thiền sư Hồng Ân cùng Ngưỡng
Sơn sẽ nói với mình “Ta cùng con thấy nhau”.
Hiểu
và ngộ
Thiền
sư Pháp Nhãn Văn Ích đến Mân Nam tham vấn. Giữa đường
gặp tuyết rơi, phải tạm tá túc trong viện Đại Tạng đàm
luận với thiền sư Quế Sâm mất mấy ngày. Tuyết dứt,
Văn Ích từ giã tiếp tục hành cước. Quế Sâm tiễn Pháp
Nhãn đến sơn môn, liền chỉ tảng đá bên đường hỏi :
- Đại
đức thường nói tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức, chẳng
hay tảng đá này trong tâm đại đức hay ngoài tâm đại đức?
Pháp
Nhãn không cần suy nghĩ, đáp liền :
- Theo
Duy thức, ngoài tâm không có pháp, đương nhiên là ở trong
tâm.
Quế
Sâm cười :
- Đại
đức là tăng hành cước, cớ sao để tảng đá trong tâm?
Pháp
Nhãn đớ lưỡi không biết trả lời, phải ở lại giải
quyết cho xong mối nghi.
Tảng
đá thì ai cũng thấy ngoài tâm. Song luận Duy Thức lại nói
ngoài tâm không có pháp. Tổ đã nói thì không phải chuyện
đùa. Vậy nó ở đâu? Với tâm thức hiện nay của mình thì
câu trả lời vẫn là trong tâm. Đó là cách suy nghĩ thường
tình của người đời : Không bên này thì bên kia, không trong
thì ngoài, không ngoài thì trong, không xấu thì đẹp, không
đẹp thì xấu v.v… không bao giờ thoát được sự chia chẻ
hai bên của trí phân biệt. Song nếu trong tâm, vì sao Quế
Sâm lại hỏi “Cớ sao để tảng đá trong tâm?”.
Tảng
đá ngoài tâm thì trái với lời Tổ. Tảng đá trong tâm thì
bị Thiện tri thức cười. Vậy nó ở đâu? Không trong cũng
không ngoài. Hội chăng? Một chút ngần ngừ … đã qua mất
rồi!
Ở
lại viện Địa Tạng, hằng ngày Pháp Nhãn đều đến trình
kiến giải với Quế Sâm, nhưng Quế Sâm đều lắc đầu,
cho cái thấy của Pháp Nhãn chưa thấu triệt. Lần nào Quế
Sâm cũng trả lời : Phật pháp không phải những thứ ấy.
Cuối
cùng Pháp Nhãn than :
-
Con đã cùng lời hết ý rồi.
Quế
Sâm nói :
- Nếu
luận bàn về Phật pháp thì mọi người sẵn đủ.
Ngay
lời nói ấy Pháp Nhãn đại ngộ.
Không
phải chỉ Pháp Nhãn mới biết cái mà mọi người đều sẵn
đủ đó. Mình thừa biết đó là Phật tánh. Song đó là hiểu
không phải ngộ. Vì sao? Vì trong đầu mình chỉ mới xuất
hiện hai từ Phật tánh chứ chưa thấy được cái Phật tánh
ấy hình dạng ra sao, mặt mũi thế nào. Ngộ chính là nhận
biết nó ra sao, hình tướng thế nào. Mình sẽ mau mắn “Nó
vô tướng”. Ừ! Nó vô tướng, nhưng nó vô tướng ra sao?
Nếu nó vô tướng thì dựa vào đâu để biết nó có? Nếu
đã có tướng để thấy, dù là tướng không, thì làm sao
nói nó vô tướng? Đã có tướng để thấy thì nó là cái
BỊ BIẾT, chỉ là tướng hư vọng, không phải là Phật tánh.
Phật tánh không rơi vào cái thấy năng sở. Nếu nó không
tướng, sao kinh Bát Nhã nói “Tướng không của các pháp không
sanh v.v…”. Rất nhiều thứ để mình lầm lẫn và nghi hoặc
khi chỉ dùng tri thức học hỏi để hiểu những thứ vượt
ngoài tri thức. Thành NGỘ và HIỂU tuy đồng chỉ cho sự thông
thấu, nhưng thật là cách xa một trời một vực.
Chính
vì HIỂU và NGỘ không giống nhau, hay nói thông thoáng một
chút, ngộ có nhiều lớp : Có cái ngộ chỉ mới là sự
thẩm thấu từ sách vở, hoặc do suy luận mà ra. Có cái ngộ
do chính mình bật ra, nhưng vẫn chỉ là một dòng kiến giải,
chưa thoát khỏi ngôn từ. Có cái ngộ là thể nhập một cảnh
giới. Có cái ngộ là chứng mà không có cảnh giới để chứng
v.v… Do ngộ có nhiều lớp nhiều lang như thế, mà trong nhà
thiền xuất hiện nhiều chuyện lý thú.
Một
lần Tô Đông Pha đến thăm Phật Ấn, viết thư báo trước
rằng “Hãy như thiền sư Triệu Châu đón Triệu Vương, không
cần ra ngoài”. Ông cho mình có trình độ hiểu thiền thâm
cao, nên muốn Phật Ấn dùng lễ thượng thừa đón mình như
Triệu Châu từng đón Triệu Vương. Song vừa đến nơi đã
thấy Phật Ấn lù lù ở cổng. Ông trách “Đạo hạnh của
thầy xem ra không bằng Triệu Châu. Vẫn không thoát được
thói thường tình”. Không ngờ Phật Ấn dùng kệ đáp rằng
:
Triệu
Châu ngày ấy thiếu khiêm nhường
Không
ra tận cổng đón Triệu Vương
Đâu
giống Kim Sơn vô lượng tướng
Đại
thiên thế giới một gường thiền
Chỉ
hiểu Phật pháp qua chữ nghĩa sách vở, chưa có sự thực
nghiệm, nên xem kinh thì vướng kinh, thấy tướng liền dính
tướng, mà không thấu được thực chất của những thứ
ấy. Triệu Châu không ra nghinh tiếp Triệu vương vì cho Triệu
Vương là bậc thượng cơ. Nhưng không phải cứ bậc
thượng cơ là cứ theo cách đó mà nghinh tiếp. Có khi vì tâm
tâm tương đắc mới ra tận cổng đón nhau. Nghĩa là, tướng
bên ngoài chưa hẳn là thứ quyết định được bản chất
sự việc, dù có khi nó như thế. Khóc, thường biểu hiện
cho chất buồn. Nhưng có khi vui quá, nước mắt cũng rơi. Thành
cái tướng nước mắt đó, không dứt khoát là tướng biểu
hiện cho chất buồn hay vui. Cũng như không phải cứ ra tận
cổng như thế, thì cốt cách đã không bằng người xưa. Mọi
thứ đều lệ thuộc vào duyên. Hãy nghe Phật Ấn nói :
Đâu
giống Kim Sơn vô lượng tướng
Đại
thiên thế giới một gường thiền
Ối
trời! Trùm khắp Tam thiên đại thiên thế giới như thế thì
tướng gì ra tướng gì vào? Anh chỉ thấy được tướng ra
tướng vào mà không thấy được tướng “không ra không vào”,
bởi anh chưa thoát khỏi trí phân biệt. Chính vì trí phân
biệt đó mà mọi thứ thành phân chia khúc đoạn như hiện
nay.
Trong
kinh Lăng Nghiêm, Phật ví chúng sanh như những người bị nhặm
mắt thấy có vân tròn quanh bóng đèn. Vân tròn do mắt bệnh
mà có. Bệnh lành thì vân tròn cũng không. Tức ngoài mắt
bệnh không có vân tròn. Ngoài tâm không có pháp cũng vậy.
Thấy mọi thứ hiện diện, có đến, đi, trong, ngoài như hiện
nay, chẳng qua do tâm bất giác từ thời vô thủy mà thấy.
Không phải pháp vốn như thế. Vì cái nhìn của Tô Đông Pha
còn bị hạn cuộc trong trí phân biệt, nên Đông Pha thấy
Phật Ấn có đến có đi, nào phải Phật Ấn có đến đi.
Vậy
thì … tảng đá là ngoài tâm hay trong tâm? Luận thì cũng
ra, nhưng muốn thấu đáo thật sự, cần lìa ngôn luận, phá
thẳng vào trí phân biệt mới xong. Muốn phá vào trí phân
biệt thì làm thế nào? Chạm duyên xúc cảnh, tâm khởi liền
biết, biết rồi liên ngưng, không cho nối tiếp. Một lúc
nào đó, phân biệt cũng dừng. Còn, niệm khởi không biết,
biết rồi liền theo, thì … Giường thiền xơ xẩy, hụt chân
cổ gãy.
Làm
thế nào để có an lạc
Có
ba Phật tử thỉnh vấn thiền sư Vô Đức : Xin hỏi Thầy,
làm sao để có an lạc?
Thiền
sư Vô Đức không trả lời mà hỏi lại : Các ông nghĩ là
thế nào mới gọi là an lạc?
Ba
vị trả lời :
- Có
tiền bạc là an lạc.
-
Có tình yêu là an lạc.
-
Có danh vị là an lạc.