Quan Niệm Sử Học Của Duy Thức

Người giảng: Pháp Sư  PHÁP PHẢNG

Người dịch: HT Thích Thắng Hoan

 

CHƯƠNG IV 

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ÐỘ XEM DUY THỨC HỌC

 

I.- PHẬT GIÁO CĂN BẢN VÀ DUY THỨC HỌC:

 

A.- LỜI TỰ THUẬT:

 

Nơi Phật Học, ai cũng đều biết có một đạo học gọi là “Tiểu Thừa”. Danh xưng Tiểu Thừa thông thường đều cho rằng được xuất hiện vào khoảng sau Phật nhập diệt ba trăm năm khi Phật Giáo Ðại Thừa hưng khởi. Ðiều đó không đúng như thế, danh xưng Tiểu Thừa sao lại không thấy trong Ba Tạng văn Pa Li, không thấy trong Kinh A Hàm Hán dịch và cũng không thấy trong Luận Hữu Bộ. Cho đến danh xưng Ðại Thừa cũng không thấy đề cập đến trong các kinh luận nói trên. Tổng quát mà nhìn trước sau có thể nói, Phật Giáo Ðại Thừa xuất hiện vào khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch. Các học giả Phật Giáo Ðại Thừa trong thời kỳ này đều cho Phật Giáo căn bản nguyên thủy là Phật Giáo Tiểu Thừa và đồng thời tự cho mình là hạng Ðại Thừa. Những học giả Ðại Thừa nói trên lại “không có tên họ” trong lịch sử, nhưng sau này các nhân vật có thể đại biểu như là Mã Minh, Long Thọ và Vô Trước. Các nhân vật đây đều chống lại hạng Thinh Văn. Kinh giáo A Hàm được đánh giá, bất luận như thế nào đều không phải là ý của Phật. Danh xưng Tam Thừa, Ngũ Thừa hay Nhất Thừa cũng là do giáo đồ Ðại Thừa sau này phân biệt lập ra. Khi Phật Ðà còn tại thế và thời gian ba trăm năm đến bốn trăm năm sau khi ngài nhập diệt, chữ “Thừa” không bao giờ được thiết lập, mặc dù thời kỳ đó Phật Giáo bị phân hóa thành hai mươi Bộ Phái. Hai mươi Bộ Phái đều là những kẻ “uống nước nhớ nguồn”, “Vạn pháp quy về một mối” và họ không có phê phán cao thấp, lớn nhỏ, cũng như không có phân biệt Nhất Thừa, Tam Thừa,..v..v..... Vấn đề phê phán và phân biệt sở dĩ được thành lập quá nhiều nói trên là hoàn toàn do các học giả Ðại Thừa cố ý tạo nên.

 

Chữ “Thừa”, như Ðại Thừa, Tiểu Thừa, Nhất Thừa, Tam Thừa,..v..v..... là sử dụng để thí dụ giá trị Phật Giáo, bao gồm cả phê phán tư tưởng ở trong. Trước hết, Sử Phật Giáo Ấn Ðộ được xem là giáo pháp đầu tiên. Kế đến, sáu Tông và tám Tông lần lược được phân vị và sau này giáo pháp bị phê phán quá nhiều. Khi Phật Giáo đến Trung Quốc, học phong phán giáo lại càng được thạnh hành. Ðời Ðường có kẻ nói rằng “Người Hiền Triết thời xưa thiết lập Giáo Môn sai biệt không phải ít” [40] . Chữ “Thừa”, chữ “Tông” được phát sanh từ nơi tư tưởng, như “Thừa” như “Tông”,..v..v..... và chữ “Thời” được thiết lập từ nơi phê phán thời gian, như “Ba Thời” “Năm Thời”,..v..v.... Học thuyết Năm Thời, Tám Giáo,..v..v.... chúng ta không tin là có thể phù hợp với lịch sử. Khác nào học thuyết Ðại Thừa, Tiểu Thừa, Nhất Thừa, Tam Thừa cũng giống như thế đều do các học giả Ðại Thừa sau này sáng tác. Ấn Ðộ là quốc gia không có giảng lịch sử. Ðặc biệt nhất vào thời đại thượng cổ, trước khi Phật Ðà ra đời, Ấn Ðộ có thể nói một điểm tư chất khoa học lịch sử cũng đều không có. Mãi đến Phật Ðà lập giáo về sau, lịch sử Ấn Ðộ tính ra thì có chiều hướng sáng sủa, mặc dù vẫn chưa được tinh tường. Hôm nay, sự nghiên cứu tư tưởng Phật Giáo Ấn Ðộ kể từ Ðức Thế Tôn Kiều Ðạt Ma (Gotama) ra đời được trình bày như sau:

 

B.- PHẬT GIÁO CĂN BẢN:

 

Các học giả Phật Giáo Trung Quốc, từ xưa đến nay vẫn thừa nhận kinh điển, không luận kinh điển Ðại Thừa hoặc kinh điển Tiểu Thừa đều cho là của Phật nói. Phật Ðà sở dĩ được tôn vinh là Pháp Vương vì tất cả pháp môn khác đều y chỉ nơi giáo pháp của Ðức Phật để thuyết minh. Cho nên giáo pháp của Ðức Phật được xếp vào loại là chủ của tất cả pháp và cũng gọi là Phật Giáo Căn Bản. Nói rộng thêm, các bộ Luận của các đệ tử sau này sáng tạo cũng đều nương tựa nơi giáo pháp của đức Phật làm căn cứ và các bộ Luận đó cũng có thể được xếp vào loại Phật Giáo Căn Bản. Nói rõ hơn,  những giáo pháp trong đây được định danh là Phật Giáo Căn Bản đều chỉ cho những ngôn giáo chính của Phật Ðà Thích Ca và của các đệ tử của ngài ở thời đại đầu tiên sáng lập. Còn tất cả giáo pháp thuộc kinh, luật, luận của Ðại Thừa thảy đều y chỉ nơi tư tưởng ngôn giáo của Ðức Thế Tôn Kiều Ðạt Ma để thành lập và có mặt sau này, như Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Ðại Nhật,..v..v...... Tóm lại, những giáo pháp chính của Phật Ðà Thích Ca nói ra và của các đệ tử sau này sáng lập đều được gọi là Phật Giáo Căn Bản.

 

Phật Ðà Thích Ca Mâu Ni Kiều Ðạt Ma trước khi chưa thành Phật gọi là Tất Ðạt Ða, giáng sanh trong gia tộc Thích Ca tại thành Ca Tỳ La nơi Bắc Ấn Ðộ (nay là biên cảnh nam bộ của nước Nê Bạc Nhĩ “Népal”) vào năm 466 trước Kỷ Nguyên. Ngài xuất gia năm 437 trước Kỷ Nguyên (29 tuổi) và ngộ đạo năm 431 trước Kỷ Nguyên   (35 tuổi). Khi ngộ đạo, ngài thấu triệt chân lý của vũ trụ và trở thành triết nhân duy nhất của bậc Ðại Giác Ngộ. Khi thành đạo trở về sau, ngài được gọi là Thích Ca Mâu Ni Phật. Năm 386 trước Kỷ Nguyên, ngài nhập diệt lúc 80 tuổi. Phật Giáo trong 30 năm sau khi Phật Ðà nhập diệt được gọi là thời kỳ Phật Giáo Căn Bản. [41] Trong thời kỳ này, giáo pháp của Phật Ðà thuyết giảng đều nhắm vào đối tượng xã hội và tư tưởng đương thời. Giáo pháp của ngài phản đối tư tưởng Phệ Ðà, phản đối giáo sĩ Bà La Môn và phản đối chế độ xã hội của họ. Thời bấy giờ, tư tưởng Ấn Ðộ rất là phức tạp và sự phức tạp của tư tưởng Ấn Ðộ có thể tóm lược thành hai điểm chính sau đây:

 

 1/- Phương Diện Triết Học:

 

Tư Tưởng Triết Học Ấn Ðộ trong thời kỳ này là Nhị Nguyên Luận. Nhị Nguyên Luận gồm có:

 

a)- Nhục Thể và Linh Hồn:

Tư Tưởng triết học đương thời là học thuyết  của các Luận Sư Lục Phái. Lục Phái là sáu phái triết học. Các Luận Sư Lục Phái thiên trọng nơi sự mong cầu giải thoát khổ đau nơi Linh Hồn. Cho đến xã hội lại có một loại người thị tộc tức là các giáo sĩ Bà La Môn,..v..v..... thuộc giai cấp hưởng thụ tận lạc. Khi chí nguyện giải thoát khổ đau đã hoàn bị, các Luận Sư lại phát hiện: Tự Tánh và Thần Ngã.

 

b)- Học Thuyết Tự Tánh, Thần Ngã và Luận Lý Sanh Thiên:

 

Thần Ngã là ông chủ sáng tạo và chủ yếu của Thần Ngã là hưởng thụ. Tự Tánh là nhu yếu của Thần Ngã, có bổn phận phát khởi, biến hóa và sanh sản vạn vật để thích ứng với Thần Ngã. Nhân loại nếu như  đạt đến cùng với Thần Ngã hợp nhất thì không còn bị sanh diệt và lúc đó được gọi là giải thoát. Căn cứ nơi các pháp mà nói, vạn hữu vũ trụ đều là tổ hợp của Tự Tánh và Thần Ngã. Trước hết, Nhục Thể và Linh Hồn thì thuộc về hiện tượng luận. Sau đó, Tự Tánh và Thần Ngã thì thuộc về bản thể luận.

 

2/- Phương Diện Tôn Giáo:

 

Nói về vấn đề tu định và khổ hạnh [42] , Ấn Ðộ thuộc về vùng đất nhiệt đới. Khu vực sông ngòi trong đại lục là nơi phát triển vật sản phì nhiêu và phong phú. Nhân dân không còn phiền não về vấn đề sanh kế, cho nên tư tưởng xuất thế dễ phát sanh, tôn giáo tín ngưỡng phi thường rất phát đạt và giáo phái nẩy nở cũng rất nhiều. Chỉ một điều bất luận người trong giáo phái nào, họ không lìa khỏi hai thứ hành vi thực tiển là thiền định và thực hành pháp khổ hạnh. Ðặc biệt hơn cả là học phái Lục Sư và các tập đoàn Sa Môn, họ lại càng chú trọng hai thứ hành vi nói trên. Phật Ðà trước khi chưa xuất gia đều học tập pháp thiền của Bà La Môn Giáo.. Trước hết ngài tu tập thiền định và sau đó cùng với các giáo sĩ Bà La Môn hành trì khổ hạnh. Trong vài năm, ngài tham học ít nhiều với các danh đức đương thời. Cuối cùng ngài cảm giác lối tu khổ hạnh là một phương pháp khiến cho thân thể cũng như tinh thần trở nên thống khổ và lao tổn, tuyệt đối không có khả năng thành chánh quả. Lối tu khổ hạnh theo ngài không phải là pháp môn cứu cánh.  Ngài liền chuyển sang tu tập theo phương pháp thiền định. Thế là ngài theo hai vị tiên nhơn có công hạnh tu dưỡng rất cao, có danh tiếng bậc nhất đương thời để học tập pháp môn tu thiền. Một hôm ngài giác ngộ được rằng phương pháp tu thiền của hai vị tiên nhơn kia cũng chẳng cứu cánh, không thể mở bày được trí tuệ và cũng không thể thấu triệt được chân lý. Ngài lại bỏ hẳn phương pháp tu thiền của hai vị tiên nhơn kia. Trước hết ngài khiến cho thân thể khôi phục tráng kiện trở lại và sau đó tự mình mong cầu pháp môn ngộ đạo, gọi là Ngồi Tòa Bồ Ðề Hành Tư Duy.

 

Phật Ðà sau khi thành đạo liền đi thuyết pháp đó đây để hóa độ chúng sanh. Những giáo pháp của ngài nói đều là cảnh giới mà ngài đã chứng ngộ và những giáo pháp đó không ngoài ba Pháp Ấn. Ba Pháp Ấn tức là “Chư Hành Vô Thường, Chư Pháp Vô Ngã, Hữu Lậu Giai Khổ”. Ba thứ chân lý đây chính là lý tánh duyên khởi mà Phật Ðà Kiều Ðạt Ma đã giác ngộ nơi cội Bồ Ðề. Về sau ba thứ chân lý trên trở thành pháp môn tu quán. Tu quán vô thường, quán vô ngã và quán khổ đều là trí tuệ quán chiếu nơi nội tâm chúng ta. “Chư Hành, Chư Pháp, Hữu Lậu” là đối tượng để quán, để tu, tức là chỉ cho thế giới hiện tượng của chúng ta. Hành giả cần phải nương nơi ba phương diện đây để tu tập và từ ba phương diện đây phải trải qua sự thực hành tu quán, tức là phải trải qua sự kinh nghiệm thì mới có thể đạt đến quả vị an lạc của “Niết Bàn Tịch Tịnh”, nghĩa là đạt đến một thứ cảnh giới chứng lý tâm an. Ba Pháp Ấn trước là thuộc về nhân và một Pháp Ấn sau là thuộc về quả. Ba Pháp Ấn trên nếu cộng thêm Niết Bàn Tịch Tịnh vào thì trở thành bốn Pháp Ấn. Bốn Pháp Ấn được trình bày qua đồ biểu sau đây:

 

 

 

 

Yếu nghĩa của Kinh A Hàm Thánh Ðiển tuy nhiều, nhưng cốt yếu quan trọng không ngoài ba Pháp Ấn nói trên. Ba Pháp Ấn đích thực là cứu cánh của Phật Giáo Căn Bản. Ba Pháp Ấn này quan hệ như thế nào với Duy Thức?  Trong ba Pháp Ấn, chúng ta nên biết yếu chỉ của đạo lý Chư Hành Vô Thường, theo Duy Thức chính là các pháp hữu vi hư  vọng phân biệt của Tâm, Tâm Sở và các pháp đó đều do Duy Thức biến hiện. Còn Các Pháp Vô Ngã cũng không khác Nhị Vô Ngã (Hai Vô Ngã) của Duy Thức đề cập. Nguyên vì người nghiên cứu Phật Học phổ thông đều công nhận đạo lý của Tiểu Thừa chỉ bàn luận về Nhân Vô Ngã mà không thấy nói đến Pháp Vô Ngã; Tiểu Thừa chỉ chứng được Sanh Không Chân Như mà không thể chứng đến Pháp Không Chân Như. Trái lại Ðại Thừa chẳng những bàn luận về Nhân Vô Ngã mà cũng lý giải về Pháp Vô Ngã và lại còn chứng đắc Nhị Không Chân Như (Chân Như của hai Không). Nhân Vô Ngã thì hẹp, Pháp Vô Ngã thì rộng và người phân loại hai thứ vô ngã đây chính là Ðại Thừa hưng khởi sau này phân biệt kiến lập. Ngày nay chúng ta mỗi khi đề cập đến “Các Pháp Vô Ngã” đều là hiển bày nghĩa lý Nhị Vô Ngã của Ðại Thừa. Hơn nữa Kinh A Hàm chỉ trình bày Các Pháp Vô Ngã mà không thấy đề cập đến Nhân Vô Ngã. Riêng tư tưởng Hữu Lậu Ðều Khổ và Niết Bàn Tịch Tịnh, cả Tiểu Thừa Phật Học và Ðại Thừa Phật Học đều phát huy giống nhau. Chẳng qua những tư tưởng trên biểu hiện rất sâu đậm trong Kinh A Hàm.

 

     C.- PHẬT GIÁO NGUYÊN THỈ:

 

Vấn đề Nguyên Thỉ thì không giống nhau với Căn Bản và cũng không giống nhau với thời gian. Nhưng tư tưởng của chúng thì không sai biệt với nhau cho lắm, có thể nói cùng nhất trí với nhau. Phật Giáo Nguyên Thỉ sở dĩ có sự sai biệt là do giới luật của Tăng Ðoàn. Thời kỳ Phật Giáo Căn Bản chấm dứt là khi Phật Ðà và các đệ tử trực tiếp của ngài đã nhập diệt. Còn Phật Giáo Nguyên Thỉ thì bắt đầu từ các đệ tử tái truyền của Phật Ðà, ước lượng vào khoảng 120 năm, từ 350 năm đến 270 năm trước Kỷ Nguyên. Khoảng thời gian này được gọi là thời đại Phật Giáo Nguyên Thỉ. Nguyên Thỉ sở dĩ được mang danh nghĩa là do trong khoảng một trăm mấy mươi năm, những tư tưởng cũng như những hành vi của các đệ tử Phật Ðà đại thể đều noi theo quy cũ của Thế Tôn di chúc lại. Nơi thời kỳ Phật Giáo Nguyên Thỉ, các đệ tử Phật lúc bấy giờ, nhất là Tăng Ðoàn, đặc biệt chú ý đến hai hạng sự tình: một hạng là duy trì truyền thừa Pháp Thống và một hạng là bảo trì tồn tại Giáo Quyền. Hai hạng sự tình này thường thấy nơi hành động của Tăng Ðoàn trong Luật Ðiển.

 

 a>- Phương Diện Duy Trì Truyền Thừa Giáo Thống:

 

 Duy Trì Truyền Thừa Giáo Thống nghĩa là duy trì thuyền thừa giáo pháp. Hiện tượng duy trì truyền thừa giáo pháp không khác hiện tượng duy trì chế độ Tổ Sư để truyền thừa nơi Trung Quốc. Như theo nghi thức quy định, Ðức Phật truyền cho ngài Ca Diếp, ngài Ca Diếp truyền cho ngài A Nan và cứ như thế mà tiếp tục truyền đến vị Tổ thứ 28. Mục đích Duy Trì Truyền Thừa Giáo Pháp chính là để duy trì Yếu Ðiển Khẩu Truyền của Ðại Chúng Kiết Tập và khiến cho lối truyền thừa đây được tiếp nối truyền xuống mãi từ đời này đến đời khác.

 

b>- Phương Diện Bảo Trì Tồn Tại Giáo Quyền:

 

Vấn đề bảo trì tồn tại Giáo Quyền là duy trì sự bảo thủ giới luật, đặc biệt là chế độ Yết Ma (Hội nghị). Thứ chế độ đây đáng chú ý nhất là Phật Giáo Nam Truyền và Phật Giáo Nam Truyền biểu hiện chế độ nói trên rất kiên cố. Cho đến ngày nay chế độ bảo thủ giới luật của Phật Giáo Nam Truyền vẫn còn quy mô. Riêng chế độ Tổ Sư sau này và chế độ Y Bát Truyền Pháp của Trung Quốc chỉ còn là biểu diễn hình thức. Trên hình thức, họ nghiên cứu và diễn giảng bằng cách bảo thủ, cũng như trên luận lý và tư tưởng, họ hoàn toàn không có chút nào tiến bộ cả.

   

Qua những thời kỳ nói trên, chúng ta có được một kết luận khả dĩ, Thời kỳ Phật Giáo Căn Bản trở về trước, trọng tâm của Phật Giáo là ở nơi Phật Ðà, nghĩa là Phật Giáo chỉ nương tựa nơi người mà không nương tựa nơi pháp luật. Ðến thời đại Phật Giáo Nguyên Thỉ, trọng tâm của Phật Giáo là nơi Giới Luật (Tăng Ðoàn), nghĩa là Phật Giáo chỉ nương tựa nơi Tăng Ðoàn và Giới Luật mà không nương tựa nơi người và cũng không nương tựa nơi giáo pháp. Về sau thời kỳ Phật Giáo Bộ Phái, trọng tâm của Phật Giáo là ở nơi giáo pháp, nghĩa là Phật Giáo chỉ nương tựa nơi Pháp mà không nương tựa nơi người và cũng không nương tựa nơi Giới Luật và Tăng Ðoàn. Cho nên giáo pháp Ðại Thừa cũng được phát sanh từ đó. Trọng tâm của Phật Giáo Ðại Thừa chính là ở nơi pháp lý và tư tưởng. Còn tư tưởng của Phật Giáo Nguyên Thỉ thì chỉ chú trọng ở nơi sự bảo trì giới luật và đối với giáo pháp thì lại chú trọng ở nơi ba Pháp Ấn. Vấn đề “Chư Hành Vô Thường, Chư Pháp Vô Ngã, Hữu Lậu Giai Khổ”, người đời sau nghiên cứu như thế nào?  Tư tưởng của ba Pháp Ấn trên được giải thích gồm có năm Uẩn. Trước hết, Sắc Uẩn của năm Uẩn thì thuộc về phương diện vật chất (nhục thể)  và Thọ, Tưởng, Hành, Thức, bốn Uẩn ở phía sau thì thuộc về phương diện tinh thần(tâm lý), do đó năm Uẩn được gọi là Chư Hành. Còn yếu chỉ của năm Uẩn Ðức Phật nói như thế nào? Ðức Phật chỉ vì sự mê tâm chấp ngã của chúng sanh cho nên mới nói năm Uẩn và phân tích tâm lý tường tận để chỉ bày chỗ gọi là Tâm thì thể của nó cũng vô ngã không tồn tại. Hơn nữa Ðức Phật vì sự mê chấp Sắc Pháp cho là ngã của chúng sanh, thế nên mới nói 12 Xứ và phân tích Sắc Pháp tường tận để chỉ bày sự vô ngã của vật chất. Tư tưởng Phật Ðà sở dĩ được tiến bộ là nhờ đạo lý của Pháp Tướng Duy Thức đều kiến lập trên năm Uẩn, mười hai Xứ, mười tám Giới làm học thuyết căn bản cho đời sau. Nhưng luận lý của Pháp Tướng Duy Thức không ngoài ba Pháp Ấn nói trên. Nhân chứng cho vấn đề này, Kinh A Hàm của Phật Giáo Nguyên Thỉ là bộ kinh hàm chứa tư tưởng Duy Thức ở trong. Tư tưởng về Duy Thức trong Kinh A Hàm xin được trình bày rõ sau đây:

 

Bốn bộ Kinh A Hàm có rất nhiều chỗ đề cập đến đạo lý của Duy Thức: như thuyết sanh tử luân hồi, thuyết nghiệp cảm duyên khởi, đều do tâm làm chủ để tạo tác; hơn nữa Kinh Tạp A Hàm lại nói đến các pháp tướng, như  Uẩn, Xứ, Giới, Duyên Khởi, Thực, Trụ,..v..v..... đều gọi là Pháp Tướng cả. Sách Duy Thức Pháp Tướng Nhập Môn gọi là Bách Pháp Minh Môn Luận là bộ luận chuyên giải thích nghĩa lý “Tất cả pháp vô ngã” của Kinh A Hàm để hiển bày nguyên lý Pháp Tướng Duy Thức [43] ; lại nữa Ngũ Uẩn Luận là bộ luận giải thích năm Uẩn của Kinh A Hàm để hiển bày nguyên lý Pháp Tướng Duyên Sanh [44] . Chỗ khác nhau của Phật Kinh Nguyên Thỉ và Duy Thức là ở điểm: Duy Thức thì nói có tám Thức và trái lại A Hàm chỉ nói có sáu Thức. Ðại Thừa Duy Thức trình bày sự luân hồi của chúng sanh là do các thứ nghiệp phiền não và lúc vào thai thức của mẹ chính là Thức A Lại Da thứ tám. Khác hơn Kinh A Hàm thì lại nói lúc vào thai của mẹ chính là Ý Thức thứ sáu. Riêng sự phân biệt danh tướng giữa Ngũ Uẩn của Phật Giáo Nguyên Thỉ và Bách Pháp của Duy Thức, cũng như sự quan hệ của chúng như thế nào thì sau này mới đề cập đến.

 

Phật Giáo Nguyên Thỉ trừ ngoài Kinh A Hàm còn có bảy bộ luận nữa, như A Tỳ Ðạt Ma Luận Tạng và Lục Túc Phát Trí Luận,..v..v..... của Hữu Bộ. Riêng Thượng Tọa Bộ thì cũng có bảy bộ luận, như Pháp Tụ Luận,..v..v..... Bảy bộ luận của Hữu Bộ là do các bậc Ðại A La Hán, đệ tử của Phật sáng tạo, nhưng bảy bộ luận này ra đời rất muộn. Bộ A Tỳ Ðạt Ma Luận Thích được gọi là Ðối Pháp Luận. Hình thức của bộ luận này giống hệt như  Khế Kinh và nội dung của nó là giải thích các loại giáo lý nơi Kinh A Hàm [45] . Những học thuyết trong bộ A Tỳ Ðạt Ma Luận Thích so với Duy Thức Học thì quan hệ rất nhiều, đồng thời đối với Phật Học đương thời, tư tưởng và danh từ Pháp Tướng thì được tổ chức cũng tương đương có hệ thống. Duy Thức Học chẳng qua chọn lấy học thuyết của A Tỳ Ðạt Ma Luận Thích và cộng vào sự tổ chức thêm nghiêm mật mà thôi. Như sự tổ chức của Duy Thức Ngũ Uẩn Bách Pháp đều căn cứ nơi Pháp Uẩn Túc Luận, Ngũ Sự Tỳ Bà Sa Luận, Câu Xá Luận,..v..v.... để kiến lập.

 

D.- PHẬT GIÁO BỘ PHÁI:

 

Thời đại Phật Giáo Bộ Phái xuất hiện kể từ sau Phật nhập diệt 120 năm (Năm 267 Kỷ Nguyên), Tăng Ðoàn bắt đầu phân hóa. Nguyên do tại Ấn Ðộ, nước Tỳ Xá Ly có vị tỳ kheo tên là Bạt Kỳ Tử vì thật hành mười thứ việc không phải luật pháp của Phật Giáo cho phép là nhân tố dẫn đến sự phản đối của đại chúng và cũng từ đó có cuộc kiết tập lần thứ hai. Chỉ vì ý kiến không đồng nhất, hội nghị kiết tập đi đến kết quả là bị phân hóa thành hai bộ phái: một là Thượng Tọa Bộ và hai là Ðại Chúng Bộ. Thượng Tọa Bộ là phái Chánh Thống Bảo Thủ và Ðại Chúng Bộ là phái Cách Tân Tiên Tiến. Về sau hai phái này, mỗi phái lại tự tiến hóa sanh thêm một số phái nữa, tổng cộng thành hai mươi Bộ Phái Phật Giáo. Thượng Tọa Bộ thì phát triển đến địa phận Tích Lan, Miến Ðiện,..v..v..... và thạnh hành cho đến ngày nay; Ðại Chúng Bộ thì phát triển thành Ðại Thừa và lưu hành nơi địa phận Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ, Tây Tạng,..v..v..... Trong Ðại Chúng Bộ, Duy Thức được phổ biến và được cho là thuộc về Ðại Thừa. Nơi các địa phận như Tích Lan,..v..v.... Thượng Tọa Bộ mãi đến hôm nay tuy không tin Phật Học Ðại Thừa, nhưng các học giả của họ nghiên cứu thì lại chẳng thiếu người nào. Lý do họ có một điểm dung thông với nhau đều là Phật Giáo và cũng đều thuyết minh pháp nhân duyên cả[46] .

 

Phật Giáo Bộ Phái thì chọn Phật Giáo của thời đại A Dục Vương làm trung tâm, nguyên vì vua A Dục đã từng ủng hộ Phật Giáo làm quốc giáo. Vua A Dục chánh thức lên ngôi vào năm 271 trước Kỷ Nguyên và sau đó, vào năm thứ 7, vua A Dục liền tổ chức hoằng truyền Phật Giáo đại quy mô. Nhờ sự bảo hộ của vua A Dục, học giả Mục Kiền Liên Ðế Tu thuộc Thượng Tọa Bộ đứng ra triệu tập đại hội kiết tập lần thứ ba. Lần kiết tập này nói cho đúng chỉ là kiết tập Luận Tạng và nhơn đó, đại hội suy tôn Thượng Tọa Bộ là hệ phái Phật Giáo thuần khiết chánh thống, đồng thời phê phán học thuyết của các tông phái khác [47]. Luận điển của Thượng Tọa Bộ cũng đã từng giảng Tâm Pháp, Tâm Sở Pháp, Sắc Pháp và Niết Bàn [48] . Về phương diện Tâm Pháp, Thượng Tọa Bộ thì có “Hữu Phần Tâm” và sau này học giả Duy Thức chính nương theo đó thành lập Thức A Lại Da. Xét đại thể, triết học của Thượng Tọa Bộ thực tế không có mạch lạc và cũng không có phát triển tiến bộ chút nào, nguyên vì họ quá chú trọng nơi sự bảo thủ. Họ còn cho rằng, giáo điển thuộc văn hệ Pa Li mới thực sự là Phật Giáo chân chánh. Ðến nỗi đối với những giáo điển này họ chỉ biết một mực là “tin tưởng, vâng giữ và thi hành”  mà không thể góp vào ý kiến của mình. Và đối với vấn đề giải thích Phật Âm,..v..v.... họ cũng chỉ biết làm theo như  con rùa soi gương mà không thể nghiên cứu và phê phán thêm.

 

 Còn Ðại Chúng Bộ: Ðại Chúng Bộ thì không có kinh luận nào truyền vào Trung Quốc, chỉ có một bộ duy nhất là Ma Ha Tăng Kỳ Luật. Tại Ấn Ðộ,  Ðại Chúng Bộ cũng không có bao nhiêu kinh giáo để lại sau này và chỉ có thể tìm thấy giáo nghĩa Ðại Chúng Bộ trong Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Hữu Bộ, cũng như trong điển tích của chính họ mà thôi. Giáo nghĩa của Ðại Chúng Bộ thì có đề cập đến Thức Căn Bản; nhưng Thức Căn Bản đây xem lại nơi Duy Thức Học chính là Thức A Lại Da. 

 

Ðặc biệt Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ thì lại phát sanh từ Thượng Tọa Bộ và bộ phái này có tất cả bảy bộ luận đều được truyền đến Trung Quốc. Phát Trí Luận, một trong bảy bộ luận nói trên, nội dung là giảng về Pháp Tướng. Ngoài ra, Lục Túc Luận đều có quan hệ với Phát Trí Luận. Cho nên Phát Trí Luận được xem như  là Thân (thân thể)  và sáu bộ luận kia được xem như là Túc (chân tay). Bảy bộ luận nói trên đều giảng về Pháp Tướng, như trong Pháp Uẩn Túc Luận và Giới Thân Túc Luận đều giảng Sắc Pháp,..v..v..... đều giảng 5 Ngôi Vị và 75 Pháp. Theo hai bộ luận này, hiện tượng các pháp là thuộc về Duy Vật Luận, nghĩa là do Sắc Pháp mà có Tâm Sở Pháp, Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp, Vô Vi Pháp hiện khởi và cho rằng, Sắc Pháp chính là căn bản, còn Tâm Pháp thì thuộc về chi nhánh; về sau tư tưởng của hai bộ luận này phát triển thành học thuyết Ðại Thừa Pháp Tướng Duyên Sanh. Ngoài ra các Bộ Luận còn lại đều thuộc về Duy Tâm Luận và họ chủ trương: hiện tượng các pháp là do Tâm Pháp  mà có Tâm Sở Pháp, Sắc Pháp,  Tâm Bất Tương Ưng Hành Pháp, Vô Vi Pháp hiện khởi và cho rằng, Tâm Pháp chính là căn bản, còn Sắc Pháp thì thuộc về chi nhánh; về sau những tư tưởng của những Bộ còn lại nói trên phát triển thành học thuyết Ðại Thừa Duy Thức Chuyển Biến [49] . Riêng học thuyết Hữu Bộ chuyên sưu tập tài liệu, tổ chức rất có tiến bộ và trở thành luận phái đổi mới của học phái Tiểu Thừa, được gọi là Cách Tân Luận Phái, nghĩa là học phái cải cách canh tân. Căn bản học thuyết của học phái này nếu như so sánh với Thượng Tọa Bộ thì có phần tiến bộ rất xa. Thành phần Ngũ Vị, Pháp Thể Thật Hữu,..v..v...., cũng như Tam Thế Thật Hữu, thành phần Hữu Vi và Vô Vi, tất cả đều có thể gọi là Nhị Nguyên Luận; học thuyết “ Cực vi (Nguyên Tử) là nguyên nhân sanh ra vạn pháp” của Hữu Bộ chủ trương có thể cho là Thật Tại Luận của Duy Vật.

 

Còn các học thuyết khác, như Sắc Tâm Hổ Huân, Vi Tế Ý Thức, Chủng Tử của Kinh Bộ, như Phi Tức Uẩn, Phi Ly Uẩn Ngã của Ðộc Tử Bộ, như Bất Thất Pháp của Kinh Lượng Bộ, như Cùng Sanh Tử Uẩn của Hóa Ðịa Bộ, những tư tưởng này được phát sanh trong thời kỳ đó xem ra đều có quan hệ mật thiết với Duy Thức Học.

 

Tóm lại, mọi người đều công nhận là có một Tâm Linh Thức Thể của mỗi cá thể liên tục nối kết sanh tử và danh xưng của nó xét cho cùng thì không giống nhau. Thật thể của Tâm Linh này thì chỉ có một và khắp đó đây. Quan niệm đó không riêng gì Phật Giáo nhận định có một thứ pháp nói trên, các giáo phái Ấn Ðộ cũng đều thừa nhận có một thứ vật tồn tại để làm thể cho sự luận chuyển. Như Bát Thức Quy Củ Tụng nói rằng: “Khứ hậu lai tiên tác chủ ông” (nghĩa là Tâm Thức chuyên làm ông chủ, khi đi thì đi sau và khi đến thì đến trước). Do đây xét lại, toàn bộ học phái Phật Giáo chỉ cần sử dụng trí tuệ của Phật Ðà làm điểm để đứng, tuy rằng chỗ kiến giải của họ không giống nhau, nhưng có thể dung thông với nhau, mặc dù các tông phái có những đặc điểm thù thắng riêng biệt.

 

II.- DUY THỨC HỌC VÀ PHẬT HỌC ÐẠI THỪA ẤN ÐỘ:

 

Phật Học Ðại Thừa phát sanh sau Phật nhập diệt 400 năm, khoảng từ thế kỷ thứ nhất trước Kỷ Nguyên. Phật Giáo Ðại Thừa tại Nam Ấn và Tây Bắc Ấn là những địa điểm lần lượt phát triển cho đến ngày nay. Căn cứ nơi truyền ký: học giả đầu tiên đề xướng Ðại Thừa chính là Bồ Tát Mã Minh. Có thuyết cho rằng Bồ Tát là người tiền phong đề xướng Ðại Thừa và cũng có thể nói ngài là vị Tổ Sư  đầu tiên của Ðại Thừa Giáo. Từ thời đại Mã Minh trở về trước, kinh điển Phật Giáo Ðại Thừa lẽ đương nhiên hoàn toàn đã được phát hiện và nhất định cũng có người đề xướng mà Bồ Tát Mã Minh chỉ là học giả phụ trách có nhiệm vụ phát huy tư tưởng Ðại Thừa trở thành nổi tiếng. Bồ Tát Mã Minh là một thiên tài rất giỏi về văn học được quốc vương kính trọng, cho nên dễ thu hút mọi người chú ý đến Ðại Thừa. Bồ Tát Mã Minh sanh vào cuối thế kỷ thứ nhất  của Công Nguyên, nhằm thời kỳ Vua Ca Nị Sắc Ca đương kim chấp chánh. Bồ Tát chính là người sáng tác bộ Ðại Thừa Khởi Tín Luận và có người cho đó là ngụy tạo, nhưng vấn đề đây đáng được nghiên cứu [50] . Ðại Thừa Khởi Tín Luận mặc dù trình bày nguyên lý Duy Thức, nhưng chỉ sử dụng  danh nghĩa “Tâm Chúng Sanh” làm nền tảng thâu nhiếp tất cả pháp và thuyết minh Như Lai Tạng Duyên Khởi làm chủ yếu để hiển bày Thể của Ðại Thừa Bất Cộng. Như học thuyết Nhất Tâm Nhị Môn của Ðại Thừa Khởi Tín Luận chủ trương. Nhứt Tâm Nhị Môn gồm có: Tâm Chân Như Môn và Tâm Sanh Diệt Môn. Tâm Chân Như Môn là Pháp Vô Vi không sanh không diệt (Lý); Tâm Sanh Diệt Môn là Pháp Hữu Vi (Sự). Nhứt Tâm Nhị Môn nói trên là Thể Ðại Tổng Tướng Pháp Môn của một pháp giới, nghĩa là Tổng Thể đây bao trùm tất cả Pháp Tướng và tất cả Phật Pháp. Những dữ kiện nói trên là căn cứ nơi Sử Ấn Ðộ và được xem thấy trong Phạn Văn của Bồ Tát trước tác lưu truyền cho đời sau [51] . Ngoài ra Bồ Tát còn là một thi nhân Phật Giáo nổi tiếng và Thi Phẩm bằng Phạn văn của Bồ Tát đã chiếm địa vị trứ danh trong Văn Học Sử Cổ Ðiển! [52]

 

Học giả thứ hai là Bồ Tát Long Thọ. Bồ Tát ra đời sau Bồ Tát Mã Minh, có chỗ nói là đồng thời với Bồ Tát Mã Minh, người Nam Ấn (nay thuộc Mạn Ðức Lạp Tư, nơi phía bắc núi Kiết Tường), ước định sanh vào khoảng 150 năm đến 250 năm Công Nguyên. Truyền thuyết rằng, Bồ Tát thỉnh Kinh Hoa Nghiêm nơi Long Cung và thỉnh Kinh Ðại Nhật nơi Nam Thiên Thiết Tháp,..v..v.... Nếu quả đúng như thế đích thực là thần thoại, nhưng trên thực tế Bồ Tát là một học gia khảo cổ. Vào khoảng thế kỷ thứ nhứt trước Kỷ Nguyên, Kinh Ðại Thừa Bát Nhã,..v..v..... bắt đầu xuất hiện tại Tây Bắc Ấn Ðộ và cũng là tư tưởng đối lập của Hữu Bộ. Còn Nam Ấn Ðộ là chỗ căn cứ của Ðại Chúng Bộ và cũng là nơi tư tưởng Không của Bát Nhã rất phát đạt. Vào khoảng thế kỷ thứ nhứt Kỷ Nguyên,  Kinh Bát Nhã đã tồn tại nơi Nam Ấn Ðộ và Trung Ương Á Tế Á. Tư tưởng Long Thọ sở dĩ được đại biểu cho Phật Học Ðại Thừa của thời kỳ thứ nhất là vì Bồ Tát trở thành học giả đánh dấu của thời đại [53] . Nếu như so sánh giữa Bồ Tát Long Thọ và Bồ Tát Mã Minh, học thuyết của Bồ Tát Mã Minh thì bao gồm Tánh Tướng dung thông lẫn nhau và Có Không cùng nhau hiển bày. Còn Bồ Tát Long Thọ thì thiên về phương diện nguyên lý Không của Pháp Tánh; sau đó Bồ Tát Vô Trước,..v..v..... xuất hiện thì lại thiên về phương diện sự thật của Pháp Tướng; riêng con sông học thuyết trước kia của Bồ Tát Mã Minh thì đầy đủ cả hai tư tưởng nói trên. Từ khi Bồ Tát Long Thọ khởi xướng, Phật Giáo Ðại Thừa rất nên phát đạt, có thể nói Bồ Tát Long Thọ là Tổ thứ hai của Ðại Thừa Ấn Ðộ và cũng là bậc Thánh thứ nhất sau này của Phật Ðà. Bồ Tát chính là ngọn đuốc to lớn của Phật Học Ðại Thừa và giáo nghĩa Ðại Thừa do Bồ Tát phát huy thì soi sáng rộng xa ngàn trượng. Học thuyết lớn của Bồ Tát có chỗ siêu việt tợ hồ như những ngôn từ khí khái của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni và do đó cổ nhân đều tôn vinh Bồ Tát là Tổ Sư của tám Tông Phái [53] . Bồ Tát chính là nhà triết học, nhà tư tưởng và nhà phê bình vĩ đại của Triết Học Ấn Ðộ thời bấy giờ. Bồ Tát đề xướng học thuyết Bát Nhã, chuyên môn phát huy giáo nghĩa Tánh Không Duyên Khởi của Phật Ðà, dùng Tánh Không làm giáo học của Trung Ðạo Liễu Nghĩa. Phật Học tại Ấn Ðộ từ Bồ Tát Long Thọ trở về sau đều chạy trên con đường Hình Nhi Thượng Học hoàn toàn cực đoan. Học thuyết Không cốt yếu của Bồ Tát như thế nào? 

 

Căn cứ nơi lời dạy của Phật sau khi diệt độ, người Tiểu Thừa luôn luôn chấp trước cho tất cả pháp đều có, chấp rằng Pháp thì thật tại của ngã, cho nên Bồ Tát Long Thọ căn cứ nơi Kinh Bát Nhã,..v..v..... đả phá sự chấp có của họ. Bồ Tát nói: Ðức Phật dạy các pháp đều do nhân duyên sanh và đã duyên sanh tức là Tánh Không. Bồ Tát đối với Mười Hai Nhân Duyên phát huy rất tường tận và sử dụng nghĩa Trung Ðạo của Tánh Không Duyên Khởi đây phê bình tất cả học thuyết đến chỗ rất linh hoạt. Bồ Tát Mã Minh mặc dù đề xướng Ðại Thừa đầu tiên, nhưng thực sự chỉ là thi nhân mà không phải là nhà triết học và lại cũng không phải là nhà phê bình, cho nên trên bình diện học Phật, tiếng tâm vang rộng lớn lao của Bồ Tát không bằng Bồ Tát Long Thọ. Trong Tạng Luận, những tác phẩm của Bồ Tát Long Thọ sáng tác ước lượng có thể phân thành năm loại:

 

1)- Trung Luận, Bách Luận, Thập Nhị Môn Luận, Thất Thập Không Luận, đây là những kinh điển giải thích hệ Bát Nhã để hoằng dương tư tưởng Không.

 

2)- Hồi Tránh Luận, Lục Thập Như  Lý Luận, là phê phán các học thuyết ngoại giáo để xương minh nghĩa Không.

 

3)- Ðại Trí Ðộ Luận là chú giải Ðại Phẩm Bát Nhã.

 

4)- Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Ðại Thừa Nhị Thập Luận, trước hết là chú giải Thập Ðịa Kinh và sau đó là thuyết minh Duy Thức Chánh Lý.

 

5)- Tư Lương Luận, Vương Chánh Pháp Luân, Khuyến Vương Tụng,..v..v..... là thuyết minh pháp môn tu hành của Bồ Tát.

 

Sở học của Bồ Tát Long Thọ không chỉ nằm trong phạm vi cái “Không” mà thôi. Bồ Tát đối với các học thuyết của ngoại đạo và Tiểu Thừa, tuy nói là chỉ đả phá mà không kiến lập, nhưng kỳ thực trong đó bao gồm cả kiến lập, như học thuyết Tánh Không Duyên Khởi của Bồ Tát gồm có Bát Bất Trung Ðạo ở trong (Lý học), và Bồ Tát Hạnh,..v..v.... đều là những tác phẩm do Bồ Tát kiến lập. Rất nhiều người truyền thừa học thuyết của Bồ Tát như, Ðề Bà, Thanh Mục, Thanh Biện, Nguyệt Xứng,..v..v.... đều là những nhân vật nổi tiếng sắc sảo và bén nhọn của học phái Long Thọ.

 

Những học giả thứ ba là hai anh em Vô Trước và Thế Thân. Hai vị này ra đời ước lượng vào khoảng 310 năm đến 400 năm Công Nguyên. Kinh điển Ðại Thừa hưng khởi của thời kỳ thứ nhất trở về trước thì chỉ ẩn chứa nguồn gốc sâu xa của học hệ Long Thọ. Còn sau Long Thọ, Kinh điển Ðại Thừa thực sự được phát hiện chính là căn cứ nơi học hệ Du Già của Vô Trước và Thế Thân,..v..v.... Kinh điển Ðại Thừa của thời kỳ này đại lược trong khoảng thời gian kể từ Kỷ Nguyên 200 năm đến 400 năm, gồm có Kinh Thâm Mật, Kinh Thắng Man,..v..v..... Vô Trước và Thế Thân cũng như các đệ tử sau này của quý ngài đều tận lực phát huy kinh điển duy nhất của hệ phái mình. Vô Trước và Thế Thân trước đây theo xuất gia nơi Tiểu Thừa Hữu Bộ, nhưng về sau lại hoằng dương Phật Học Ðại Thừa và hai ngài đề xướng Pháp Tướng Duy Thức đều căn cứ nơi học thuyết Du Già của Bồ Tát Di Lặc, trình bày tất cả pháp đều “Có” (tồn tại diệu hữu). Học thuyết Có của Vô Trước và Thế Thân so với học thuyết Không của Long Thọ thì tương đối hơi xa, một bên thì Không và một bên thì Có, cả hai đều quan niệm Có một cách diệu lý, đó là nguyên do đưa đến hai đại học phái Ðại Thừa được thành lập. Cổ nhân cho rằng, hai đại học phái này cũng như hai bánh xe của một cổ xe. Thầy của Vô Trước có nói rằng, ngài là người đồng thời với Bồ Tát Di Lặc và theo truyền tuyết của Phật Giáo Cựu Sử: Ngài Vô Trước mỗi lần nhập định lên trời Ðâu Xuất thỉnh giáo với Ðức Phật Di Lặc đời vị lai và Ðức Phật Di Lặc vì lợi ích của giáo pháp liền thuyết giảng cho ngài nghe. Sau khi xuất định, ngài liền ghi lại những lời của Phật Di Lặc và lập thành 100 quyển mang tên là Du Già Sư Ðịa Luận. Du Già Sư Ðịa Luận là bộ luận căn bản của Duy Thức Học và bộ luận này chỉ thuyết minh “Diệu Hữu” mà không thuyết minh “Tánh Không”. Nguyên do mọi người lúc bấy giờ đều chịu ảnh hưởng của học phái Long Thọ, đại bộ phận đều chấp trước cho tất cả hoàn toàn là Không, những gì có liên quan đến nhân quả cũng đều thuộc về Không cả, cho nên cái Không trở thành ác thú, không chỗ nào là không lo sợ sẽ bị lọt vào đại tà kiến. Những người nghiên cứu Phật Học đều giống nhau như thế, lẽ dĩ nhiên đều có căn bệnh Không Kiến Ác Thú trở thành tư tưởng và căn bệnh đây cần phải gia công trị liệu bằng cách cải chánh: thứ tư tưởng này nếu như muốn cải chánh không cách nào khác hơn là phá trừ tà chấp, tà kiến của cái Không, mà muốn đả phá cái Không thì không ngoài thuyết minh cái Có để đối trị. Vì muốn phá trừ tà chấp, tà kiến của cái Không nói trên, Du Già Duy Thức Học nhân đây được phát sanh. Ðúng ra học phái của Long Thọ là nhân duyên trực tiếp giúp cho học phái của Vô Trước và Thế Thân hội đủ thời cơ thích ứng để trở thành một học thuyết.

 


 

------------------------------------------------------------------------------

[40] Hoa Nghiêm Nhứt Thừa Giáo Nghĩa Chương và Tham Huyền Ký đều nói rằng: “Các bậc Hiền xưa  nay thiết lập Giáo Môn sai biệt không phải một, tóm lược gồm có mười nhà, dùng làm soi gương”.  Học thuyết của mười nhà tham khảo gồm sách quyển 20, trang 3.  

[41] Niên đại của bổn chương đã nói đều căn cứ nơi Ấn Ðộ Triết Học Sử của Vũ Tỉnh Bá Thọ (chương 9, trang 81).

[42] Khổ hạnh là pháp tu như tuyệt thực,..v..v.... cho đến ngày nay Ấn Ðộ vẫn còn lưu hành.

[52] Tham cứu trong Phạn văn “Phật Sở Hạnh Tán Kinh” cùng với “Tôn Ðà La Nan Ðà” và “Cảnh” của  Tạng Văn Dịch Bổn tức là thi phú diễn tả tình ái rất vui.

[53] Giáo học của Long Thọ (Nhật Bản Tả Tả Mộc Nguyệt Tiều Trước, do Trương Ngã Quân dịch, Hải  Triều Âm xuất bản, quyển thứ 11, định kỳ thứ 12) nói rằng: “Ðặc biệt Long Thọ được tôn xưng là Tổ Sư của tám Tông...... Xưa nay Phật Học của Long Thọ cũng được tôn sùng là Tổ Sư của tám    Tông....”[54] Bộ luận này nguyên tên là Katha Vathu, có thể dịch trực tiếp là Thuyết Sự hoặc Luận Sự. Nguyên nhân chữ Katha phổ thông dịch là “Thuyết”, cũng có thể dịch là “Biện” (Vathu), hoặc dịch là “Biện Sự”; Katha Vathu cũng có thễ dịch là “Tông Chỉ” hoặc “Chủ Nghĩa”. Nhân đây, chúng tôi dịch là “Biện Tông Nghĩa Luận”. Nội dung của bộ luận này là thuyết minh tông chỉ kiến giải của các Tông Phái.

[54] Bộ luận này nguyên tên là Katha Vathu, có thể dịch trực tiếp là Thuyết Sự hoặc Luận Sự. Nguyên nhân chữ Katha phổ thông dịch là “Thuyết”, cũng có thể dịch là “Biện” (Vathu), hoặc dịch là “Biện Sự”; Katha Vathu cũng có thễ dịch là “Tông Chỉ” hoặc “Chủ Nghĩa”. Nhân đây, chúng tôi dịch là “Biện Tông Nghĩa Luận”. Nội dung của bộ luận này là thuyết minh tông chỉ kiến giải của các Tông Phái.

---o0o---

Mục Lục > 1 > 2 > 3 > 4 > 5

 

---o0o---

 

Trình bày: Nhi Tuong
Cập nhật: 01-11-2007

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

cau nguyen Kim lỗ VẠBuffet Vu lan Chay ngam lai de lon len p thiếu 10 mon chay vua ngon mieng vua dep mat se thay doi ba cau chuyen dang suy ngam ve triet ly song cua vai suy ngam ve khoan dung ton giao trong lich su thiên nghi ve tu thien tot cung cua phat phap la an lac Giữ sức khỏe khi ôn thi Ho thanh loai tru nhung thoi hu tat khái gs nghi hay tan dung phuoc bau dang co chuoi trung phat tu va van de thien tranh phat giao qua cach nhin nghe thuat dao tu nguyen tu ngam ve triet ly phat hap ky xin cho toi duoc khoc Lâm Đồng Lễ húy nhật Đại lão 佛教書籍 ð nu 2014 nam dieu dao duc nguoi phat tu chan chinh can thuc Hóa chất có thể làm giảm chỉ số IQ that li giai nguyen nhan tai sao can tho cung nguoi mat 5 Linh nghiep cung duong hoa qua Quảng Trị Lễ giỗ tổ khai sơn tổ phat トo may cai tao