Vượt Khỏi Giáo Điều
(
Beyond Dogma)
Nguyên
tác: His Holiness Dalai Lama
Việt dịch Tâm Hà Lê Công Đa
---o0o---
PHẦN THỨ TƯ
VƯỢT QUA GIÁO
ÐIỀU
LỜI NÓI ÐI ÐÔI VỚI VIỆC LÀM
Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Ngài có những lời
hướng dẫn nào cho chúng tôi, những người hiện đang hoạt động nhằm phát
triển những cộng đồng và những tổ chức Phật giáo liên hệ trong xã hội Tây
phương?
Như tôi vẫn thường bảo các thân hữu Phật tử
quen biết rằng, nếu chúng ta muốn những giá trị tốt đẹp của truyền thống
Phật giáo đã phát triển lâu đời tại Tây Tạng được tồn tại mãi, tất cả đều
tùy thuộc vào việc Tây Tạng có được tự do hay không. Bởi vì các bạn hiện
đang chung sức làm việc cùng nhau, thế nên để đạt đến cứu cánh này, tôi
xin các bạn hãy tiếp tục cộng tác với tất cả những người đã và đang hoạt
động cho nền tự do của Tây Tạng.
Chúng tôi cố gắng để phân biệt hai tiếng
“tự do“ và “độc lập”. Cách sử dụng tiếng độc lập có phần nào tế nhị. Rõ
ràng là chúng tôi đang nỗ lực để thiết lập mối liên lạc với nhà nước Trung
Cộng và bắt đầu những cuộc thương thảo một cách nghiêm chỉnh với họ. Suốt
mười bốn năm qua, tôi đã kiên trì làm hết sức mình theo hướng này, tin
tưởng rằng những nỗ lực của tôi sẽ mang lại những thành quả tối hậu, thông
qua những cuộc thương thuyết trực tiếp với nhà nước Trung Cộng.
Nhân đây tôi cũng xin được chia xẻ những ý
nghĩ của tôi cùng tất cả qúy đạo hữu anh chị em Phật tử đang tụ họp ở đây.
Trước hết, Phật giáo là một truyền thống tâm linh mới, một tôn giáo chưa
hề có mặt tại phương Tây trước đây. Thế nên, quả là một điều rất bình
thường nếu tất cả những ai yêu thích Phật giáo, cụ thể là Phật giáo Tây
Tạng, đồng thời cũng nên được đón nhận những thông tin hoặc học tập,
nghiên cứu các tôn giáo, truyền thống khác. Ðây là một điều hoàn toàn tự
nhiên. Tuy nhiên, đối với những người đang có ý định thật sự muốn quy y
theo đạo Phật, tức là muốn cải đạo, điều quan trọng là họ cần nên cân nhắc
kỹ lưỡng. Vấn đề này không nên thực hiện một cách hời hợt. Bởi vì một
người cải đạo nếu không suy nghĩ chín chắn thường chỉ tạo ra những nỗi khó
khăn cho chính mình dẫn đến tình trạng bất ổn nội tâm. Thế nên tôi xin
được khuyên tất cả những ai muốn cải đạo qua đạo Phật, hãy nên suy nghĩ kỹ
lưỡng trước khi hành động.
Thứ đến, khi một người tin chắc rằng giáo
lý Phật giáo phù hợp với căn tánh của mình hơn, có tác dụng hơn, lúc đó họ
sẽ có một chọn lựa đúng đắn. Tuy nhiên đặc tánh chung của người đời là sau
khi cải đạo, để biện minh cho việc làm của mình, họ thường có khuynh hướng
lên tiếng chỉ trích đạo cũ của họ. Tinh thần này cần phải được loại bỏ
bằng mọi giá. Cho dù đạo cũ có vẻ như không mang đến những hiệu quả thực
tiễn mà họ mong muốn (đó là lý do của sự cải đạo,) đây không phải là lý do
đủ để cho ta khẳng định rằng đạo cũ không có tác dụng đối với tâm linh con
người. Tôn giáo đó vẫn tiếp tục mang lại những phúc lợi cho hàng triệu con
người khác. Bởi vậy, là một Phật tử ta phải kính trọng những quyền căn
bản của kẻ khác, những tôn giáo khác. Ðặc biệt là Phật tử, chúng ta cần
phải nỗ lực hơn trong tiến trình tạo dựng và gìn giữ mối cảm thông hoà
đồng tốt đẹp giữa các tôn giáo. Trong mọi tình huống, điều tuyệt đối cần
thiết là ta nên nhận thức rõ nhu cầu tôn trọng các tín ngưỡng khác.
Thứ ba, truyền thống Phật giáo Tây Tạng
luôn luôn chú trọng đến sự kết hợp hài hoà giữa học và hành. Dĩ nhiên vẫn
có thể có chuyện là bạn thích học nhiều hay ít. Có người theo đuổi công
cuộc học tập nghiên cứu một cách sâu xa nhưng cũng có người tự hài lòng ở
một mức độ giới hạn nào đó. Dù trường hợp nào đi nữa, vấn đề cốt tủy là
bạn không thể tách rời ba yếu tố học tập, quán chiếu và thiền định. Bạn
cũng cần phải bảo tồn cái truyền thống tu tập trong đó học tập, quán chiếu,
thiền định như là một thể thống nhất không thể tách rời.
Thứ tư, tôi cũng thấy cần phải nhấn mạnh
đến tinh thần không thiên vị, bè phái. Ðiều thỉnh thoảng vẫn xảy ra trong
đạo Phật là đã có nhiều người đặt nặïng trọng tâm vào một tông phái,
truyền thống nào đó so với các tông phái khác mà hậu quả có thể đưa đến
tình trạng tích lũy những hành động cực kỳ tiêu cực đối với Chánh Pháp.
Những lợi ích của tinh thần không bè phái là sau khi nhận được sự truyền
thụ về những giáo huấn, điểm đạo, và chú giải của từng truyền thống, ta sẽ
có khả năng nhận thức rõ hơn tính chất cá biệt của những giáo lý này. Và
theo kinh nghiệm cá nhân của tôi, điều này sẽ mang đến rất nhiều lợi lạc.
Thế nên, nếu giữ được cho mình một thái độ không bè phái,khi ta nhận được
những giáo huấn của những truyền thống khác nhau, ta nên chiêm nghiệm kỹ
và rồi mang chúng ra thực hành, chắc chắn là ta sẽ nâng cao được tầm hiểu
biết của mình đối với Chánh Pháp. Ðó là lý do tại sao tinh thần không bè
phái rất quan trọng trong vấn đề tu học.
Trong truyền thống Tây Tạng có hai đường
lối tiếp cận thường được dùng bởi các vị thiện trí thức và các bậc thầy đã
chứng đạt. Bên cạnh những vị chỉ chuyên tâm vào việc học hành và tu tập
theo truyền thống, di sản tâm linh riêng của môn phái mình, ta cũng thấy
có rất nhiều vị đã khai mở tinh thần học hành tu tập đạo Phật trên quan
điểm không tông phái. Truyền thống này đã hiện hữu tại Tây Tạng với những
bậc thầy vĩ đại, và tôi nghĩ rằng tinh thần không tông phái này rất đặc
biệt quan trọng trong thời đại hiện nay và là tập quán Tây Tạng hay nhất
cần nên được theo đuổi, duy trì.
Một điều thứ năm mà tôi cũng muốn được đề
cập đến ở đây, đó là chỉ trong vòng chưa đầy ba mươi năm qua, Phật giáo
Tây Tạng đã phát triển ra khắp cùng đại lục. Lạt ma, chu-cô (tulkus: hóa
thân), và geshes cùng với sự tiếp tay của hàng trăm ngàn môn sinh, đệ tử
đã góp phần rất lớn vào sự nở rộ của Phật giáo Tây Tạng trên toàn thế giới.
Tuy nhiên cùng một lúc, những tình trạng bệnh hoạn cũng đã được phát hiện,
tạo nên những nỗi khó khăn cho chúng ta. Tình trạng này thoạt tiên gây ra
bởi lòng tin mù quáng quá mức ở một số môn sinh cũng như do một số các vị
thầy đã lợi dụng, khai thác những nhược điểm này của đệ tử mình. Ðã có
những vụ tai tiếng về tiền bạc cũng như sách nhiễu tình dục. Những chuyện
tệ hại như vậy đã xảy ra! Thế cho nên tôi thấy cần phải nhấn mạnh ở điểm
này, là cả thầy lẫn trò tuyệt đối cần thiết phải giữ mục tiêu tối hậu
trong tâm mình, đó là bảo vệ sự trong sáng, tinh khiết của Chánh Pháp! Như
vậy, bổn phận chung của tất cả chúng ta là phải chấm dứt các tệ đoan đó.
Ðức Bổn sư đã chỉ ra tứ nhiếp pháp để mang
các môn đệ của Ngài lại gần nhau cũng như để đảm bảo phúc lợi cho kẻ khác.
Lục độ Ba la mật (paramita) là phương thức thực hành để ta đạt đến thánh
quả và tứ nhiếp pháp giúp các môn sinh đệ tử gắn bó mật thiết với nhau
nhằm mang lại lợi lạc cho tha nhân. Ðó là, trước tiên bằng cách tặng dữ
những quà biếu vật chất, tiếp đến là dùng những lời chánh ngữ, rồi sau đó
ta tìm mọi cách để giúp đỡ họ, và cuối cùng là phải cho thấy rằng lời nói
của mình luôn đi đôi với việc làm. Trên tất cả, điểm cuối cùng này là điểm
rất quan trọng mà ta cần phải lưu tâm. Bởi vì nếu ta không làm chủ được
tâm mình, thì làm gì có thể nói đến chuyện điều tâm cho kẻ khác. Có thể
chúng ta không biết chắc là mình điều tâm cho kẻ khác được hay không,
nhưng đó chính là nhiệm vụ phải làm của chúng ta! Dù bất cứ trường hợp nào
đi nữa, khi một người tự cho là mình có ý hướng muốn giúp đỡ tha nhân,
điều trước tiên là họ phải kiểm soát được tâm của mình. Ðể thực hiện được
điều này, một điều rất quan trọng đối với các vị thầy là phải không ngừng
tự nhắc nhở mình về những giáo lý của Ðức Thế Tôn trong việc làm thế nào
để giúp đỡ kẻ khác một cách hữu hiệu và đồng thời phải biến mình thành một
tấm gương của lời nói đi đôi với việc làm.
Còn đối với các môn đồ đệ tử, tôi xin đưa
ra một ngạn ngữ Tây Tạng: Người đệ tử không bao giờ nên đặt mình trước một
vị tôn sư như là “một con chó nhào tới trước miếng thịt.” Ðiều này có
nghĩa là người đệ tử không nên hấp tấp đặt trọn niềm tin của mình vào một
vị thầy nào mà cần phải có thời gian để chiêm nghiệm kỹ lưỡng, xem xét
những phẩm chất của vị thầy đó trước khi xây dựng mối quan hệ tinh thần
thầy trò qua việc chấp nhận những lời giáo huấn của họ. Cách tốt nhất để
nhận những giáo huấn của một vị thầy là trước tiên ta nên xem họ như là
một người bạn tinh thần. Chúng ta không nên quá vội vàng vừa nghe những
lời dạy của họ và đồng thời cùng một lúc xem họ như là bậc tôn sư của mình.
Từng tí một, sau khi có đủ thời gian quan sát và tin chắc được rằng họ
đúng là một bậc chân sư, đầy đủ phẩm chất và đáng tin cậy, chúng ta lúc đó
mới có thể chấp nhận những lời dạy và xem họ là vị tôn sư của mình. Chớ
nên vội vã, hấp tấp.
Ðiểm thứ sáu mà tôi muốn đề cập cùng qúy vị
liên quan đến một lời cầu nguyện rất thông thường của chúng ta tại các
trung tâm hoằng Pháp: “Xin nguyện cầu cho tất cả mọi chúng sanh tìm thấy
được hạnh phúc và cứu cánh của đời mình.” Tôi nghĩ là lời nguyện cầu này
cần phải được chúng ta mang ra áp dụng vào đời sống thực tiễn bằng cách
thực hiện một điều gì đó có lợi ích cho xã hội, cụ thể như dấn thân vào
những hoạt động xã hội trong cộng đồng mình, cố gắng giúp đỡ tất cả những
ai đang gặp phải hoàn cảnh khó khăn, những người đang có vấn nạn tinh thần,
hoặc những khổ đau khác. Ðiều này không có nghĩa là chúng ta nên đến để
thuyết pháp, giảng đạo cho họ mà thay vào đó là sự giúp đỡ thiết thực do
ta đã thông hiểu được giáo lý đạo Phật. Những hoạt động trực tiếp hướng
đến tha nhân như thế cần phải được phát triển. Một lời nguyện cầu rất
thông dụng khác cũng được xem như là một kết luận tự nhiên: “Xin nguyện
cầu cho tất cả mọi chúng sanh đều đạt được hạnh phúc và giải thoát khỏi
mọi khổ đau.” Trên căn bản của lời nguyện này, nếu chúng ta có thể mang
lại được điều tốt đẹp dù chỉ cho một người duy nhất, chúng ta cũng đã hoàn
thành được một phần của hạnh nguyện này. Hơn thế nữa, toàn thể cộng đồng
Phật giáo thuộc những trung tâm này nên tham dự vào các công tác phụng sự
xã hội bằng cách giúp đỡ kẻ khác, và điều này tôi nghỉ sẽ phải là những
hoạt động quan trọng của tất cả các trung tâm.
Vấn đề ăn chay cũng không phải là điều hoàn
toàn bắt buộc đối với người Phật tử. Nó chỉ quan trọng đối với những ai
trong chúng ta đang tu tập theo giáo lý Ðại Thừa. Tuy nhiên những giáo lý
của Ðức Thế Tôn rất là cởi mở và uyển chuyển đối với vấn đề này, và mỗi
hành giả đều có quyền chọn lựa ăn chay hay không. Tuy nhiên nếu thỉnh
thoảng có những lễ lạc lớn, những ngày hội, những buổi thuyết giảng giáo
lý quy tụ đông người tại các trung tâm hoằng Pháp, tôi nghĩ rằng một điều
rất quan trọng là chúng ta chỉ nên phục vụ thức ăn chay trong suốt các
buổi gặp gỡ như thế.
Ðiểm thứ bảy: Chúng ta cũng thường hay
nguyện cầu, “Xin cầu nguyện cho Phật Pháp được truyền bá khắp nơi.“ Nếu
Tây Tạng dành lại được tự do, điều này chắc chắn sẽ giúp ích rất lớn cho
việc bảo tồn những giáo lý uyên áo, thậm sâu của Ðức Bổn Sư, trong đó kể
cả các tông phái Tiểu Thừa, Ðại Thừa cũng như Mật Tông. Thế cho nên mối
liên hệ giữa việc giải phóng Tây Tạng và việc bảo tồn giáo lý của Ðức Phật
trên thế giới này là một điều khá hiển nhiên. Ngược lại nếu vấn đề cốt lõi
của việc giải phóng Tây Tạng chỉ thuần túy là một vấn đề chính trị, thì
với tư cách là một tăng sĩ, một đệ tử của truyền thống Phật đà, tôi không
có lý do gì để phải quan tâm đến chuyện này. Thế nhưng như mọi người đều
thấy, cả hai phạm trù này đều quan hệ rất mật thiết với nhau.
Ngay cả khi tôi cổ xúy cho việc giải giới
Tây Tạng, biến quốc gia này thành một vùng đất hòa bình, cho dù danh từ
“giải giới” không phải là một danh từ có trong Phật Pháp, thế nhưng dự án
này đã rất liên quan gần gũi với Chánh Pháp. Ða số các bạn ở đây, những
đại diện và thành viên của các trung tâm khác nhau, đều là những người đã
góp phần rất lớn vào công cuộc đấu tranh cho chính nghĩa tự do của Tây
Tạng. Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn và mong mỏi các bạn hãy tiếp tục
theo đuổi những nỗ lực này, hãy luôn tâm niệm đến mối tương quan giữa việc
bảo tồn giáo pháp và nền tự do của Tây Tạng, đó cũng là cách thức thực
hành hạnh nguyện bảo tồn và phát huy Phật Pháp.
Ðiểm cuối cùng - các bạn nên giữ cho tâm
hồn mình luôn vui vẻ và phải biết mĩm cười!
MỘT CẢM QUAN CHUNG
CHO CÁC TÔN GIÁO KHÁC BIỆT
ÐỨC ÐẠT LAI LẠT MA THĂM VIẾNG
TU VIỆN DÒNG KÍN GRANDE CHARTREUSE
Khi bạn mô tả cuộc thăm viếng tu viện dòng
kín Grande Chartreuse của tôi trên báo chí, tôi hy vọng là bạn sẽ nhấn
mạnh đến tầm quan trọng mà tôi luôn hết lòng gắn bó, đó là việc xây dựng
và bảo tồn tinh thần hoà đồng giữa các tôn giáo. Tôi vẫn luôn tin tưởng
rằng những truyền thống tâm linh lớn nhất đều chia xẻ một thông điệp chung
về lòng thương yêu, từ bi và tha thứ. Chúng cũng có tiềm năng phục vụ
nhân loại và góp phần vào việc tiết giảm bầu khí căng thẳng và xung đột
giữa con người. Tôi tin tưởng rằng từ những mẫu số chung này người ta có
thể tạo nên một chỗ dựa vững chắc để qua đó xây dựng mối cảm thông hoà
điệu giữa các tôn giáo và hệ thống hoá một thông điệp chung: thực hành tín
ngưỡng trong mục tiêu làm gia tăng ưu điểm cá nhân góp phần vào việc
chuyển hóa và cải thiện đời sống con người.
Trong suốt bao nhiêu năm, mỗi lần có dịp
gặp gỡ các hành giả đang tu tập -tôi muốn nhấn mạnh đến chữ này- tôi cảm
nhận rằng, do công hạnh tu tập cùng với tầm hiểu biết sâu rộng về những
giá trị lớn lao của tôn giáo mà họ đang tu học, họ rất dễ dàng thông hiểu
những giá trị của các tôn giáo khác; và do đó họ cũng có khả năng tự nhiên
trong việc tạo nên mối cảm thông và hòa điệu. Giống như tôi, chắc hẵn bạn
cũng đã biết rằng trong quá khứ đã có biết bao nhiêu tấn thảm kịch xảy ra
trên trái đất này nhân danh tôn giáo, và kể cả ngay trong thời đại bây giờ
như những gì đã xảy ra tại Châu Phi, Bosnia. Cho dù đã có những sự kiện bi
thảm như thế, tôi nghĩ rằng tinh thần hợp tác tôn giáo đang ngày một cải
thiện. Sống theo tôn giáo mà mình chọn lựa cũng chẳng khác gì khả năng
chúng ta có thể ăn được trong khi đói, đó là một quyền căn bản của con
người mà tôi luôn lên tiếng biện hộ. Chúng ta ăn uống những thực phẩm bổ
dưỡng để mang lại sức khỏe cho cơ thể, thế nên thực phẩm càng đa dạng
chừng nào thì càng tốt chừng nấy! Ðiều này cũng được áp dụng cho tôn giáo,
tức là thức ăn tinh thần của con người. Do căn cơ trí tuệ và tâm tính của
mỗi cá nhân, người ta có thể lựa chọn cho mình một tôn giáo thích ứng. Mỗi
tôn giáo đều có những tinh túy, phẩm chất riêng biệt, và tiềm lực vô song
của nó, và đây là điều thật tuyệt diệu. Thế nên trên một quan điểm phóng
khoáng, tất cả mọi tôn giáo đều có những điểm chung, và trên căn bản này
chúng ta có thể ngồi lại làm việc với nhau.
Khi nghe đồn rằng trong vùng này có những
vị tu sĩ và nữ tu sống biệt lập trong tu viện, những người đã cống hiến
trọn vẹn đời mình cho niềm tin tôn giáo, tôi rất ao ước được gặp gỡ họ.
Ngay từ khi mới đặt chân vào mảnh sân của tu viện, tôi đã bị choáng ngợp
bởi bầu không khí tỉnh lặng và cảnh trí tươi đẹp của nơi này, tất cả như
toát ra những luồng sóng an bình và tâm linh mạnh mẽ. Lúc này ở đây cũng
khá lạnh! Tôi đã chia xẻ những suy nghĩ của tôi cùng với những vị tu sĩ mà
tôi gặp gỡ, đặc biệt liên hệ đến những điểm tương đồng giữa kinh nghiệm
tâm linh và đời sống suy niệm của từng truyền thống. Trong khi trao đổi
với vị tu viện trưởng, tôi đã khám phá ra rằng chương trình cầu nguyện
chặt chẽ hàng ngày của những vị tu sĩ này, những người chấp nhận đời sống
khổ hạnh, có nhiều điểm rất tương đồng với sự tu tập của các tăng sĩ và nữ
tu Phật giáo.
Ðiều đáng ngạc nhiên là những điểm tương
đồng này đã hiện hữu và đã không bắt nguồn từ những trao đổi lẽ ra đã có
từ lâu. Chúng ta đã bị cách chia hơn một thiên niên kỷ, thế nhưng hình như
vẫn có những ảnh hưởng siêu nhiên, hay nói một cách khác, một cảm quan
chung đã được chia xẻ giữa hai truyền thống. Tất cả đã cho tôi cảm giác
rằng mình đã nhận được một kinh nghiệm rất kỳ diệu, rất phi thường và điều
này đã tạo nên một tác động mạnh mẽ trong tâm trí tôi.
TÔN GIÁO
VÌ HẠNH PHÚC CỦA CON NGƯỜI
Hiện có đến khoảng năm tỷ người đang sống
trên quả đất này, trong đó tôi nghĩ rằng họ có thể được phân chia thành ba
thành phần chính. Trước tiên, khoảng một phần ba trong số này có đức tin
tôn giáo, và đang theo đuổi một hành trình tâm linh; như một đối cực, một
phần ba khác phủ nhận tôn giáo như là một thứ độc dược tinh thần và không
làm gì khác hơn ngoài việc miệt thị nó; và cuối cùng một phần ba còn lại
gồm những người vô thưởng vô phạt, không theo và cũng không chống tôn
giáo.
Nhân loại, bao gồm cả ba thành phần trên,
nói chung đều có một ước vọng giống nhau là xa lánh khổ đau và kiếm tìm
hạnh phúc. Trên phương diện này họ chẳng có gì khác biệt nhau -con người
ai cũng nỗ lực hết sức mình tìm mọi cách để gặt hái thành đạt và hạnh phúc
cũng như chạy trốn khổ đau. Bây giờ chúng ta hãy thử làm một sự so sánh
giữa một bên là những người chấp nhận tôn giáo, có đức tin vào một cuộc
sống tâm linh và một bên là những kẻ đã chống lại một cách triệt để.
Chúng ta có thể ngạc nhiên tự hỏi giữa họ ai là người được hạnh phúc, có
tâm hồn thoải mái hơn -những người có tín ngưỡng hay là những người chống
đối lại? Phải đợi đến khi con người trực diện với những tình huống khó
khăn, sự khác biệt sẽ xuất hiện ngay như một bằng chứng. Những người không
tín ngưỡng sẽ cảm thấy tâm hồn họ lập tức bị rơi vào tình trạng giận dữ,
buồn bực bởi vì họ không có gì để chống đỡ lại những cảnh huống khó khăn
đó. Thế nhưng đối với những người được hổ trợ tinh thần bởi niềm tin tôn
giáo sẽ cảm thấy niềm tin của mình được củng cố thêm, tạo cho họ phương
tiện tốt hơn để có thể đương đầu với vấn nạn một cách trầm tỉnh.
Nếu bạn so sánh giữa người giàu và người
nghèo, hình như những người không có một đồng xu dính túi thường là những
người ít phải lo nghĩ hơn. Còn người giàu, có kẻ thì biết cách sử dụng tài
sản, sự giàu có của mình một cách thông minh, nhưng có kẻ không, và tuỳ
theo mức độ, điều mà ta dễ nhận thấy là họ bị chìm ngập trong những lo âu
bối rối thường xuyên, bị giày vò xâu xé giữa hy vọng và nghi vấn, cho dù
bên ngoài họ có vẻ như rất thành công trong mọi chuyện. Một điều chắc chắn
rằng cuộc sống tâm linh, tôn giáo quả rất là lợi lạc, hữu ích cho con
người mỗi khi phải trực diện với những nỗi khó khăn vượt ra khỏi năng lực
bình thường của cá nhân trong cuộc sống hàng ngày. Tôi thường bảo một số
thân hữu rằng nếu quả thật những người chối bỏ các truyền thống tâm linh
có một cuộc sống cực kỳ hạnh phúc thì chúng ta cũng nên từ bỏ tôn giáo đi
cho rồi, bởi vì chúng ta tu tập không ngoài mục đích tìm kiếm hạnh phúc
và an lạc.
Các tôn giáo lớn trên thế giới được liệt
vào trong hai truyền thống chính. Một số tin vào một Ðấng Sáng Tạo, một số
khác đặt trọng tâm vào sự chuyển hoá tâm linh. Nếu ta có thể chuyển hoá và
điều ngự được tâm mình, tức là ta đạt đến tình trạng được gọi là niết-bàn.
Ngược lại, nếu ta không thể kiểm soát được nó, ta sẽ là những kẻ nô lệ cho
chính tâm mình, và sẽ mãi đắm chìm trong luân hồi sinh tử. Ðó là hai sự
khác biệt lớn lao. Tôi tin rằng tất cả mọi người đều có những khát vọng
khác nhau, thế nên đa tôn giáo quả thật là điều rất tốt và rất đáng tán
dươ ng.
Phật giáo, Kỳ-Na giáo (Jain), một bộ phận
của trường phái triết học Số luận (Samkhya), truyền thống Ấn giáo, đều là
những truyền thống không tin tưởng vào một Ðấng Sáng Tạo. Thái độ bất bạo
động, không làm hại kẻ khác, và quan điểm về duyên khởi là hai phạm trù
chính nêu bật bản sắc đặc biệt của Phật giáo.
Nhưng thế nào gọi là bất bạo động? Có thể
nói một cách dễ hiểu rằng đó là thái độ không những không chấp nhận bạo
động mà còn thực hiện những điều tốt đẹp cho kẻ khác. Nếu không thể làm
được như vậy thì ít nhất ta phải tuyệt đối tránh làm những việc gây thiệt
hại cho kẻ khác.
Làm thế nào để thực hành bất bạo động, và
làm thế nào để đạt đến hạnh phúc, điều mà tất cả chúng ta đang tìm kiếm?
Những mục tiêu này đều tùy thuộc vào một số nguyên nhân và điều kiện, sự
cần thiết của khả năng kiểm soát, huấn luyện, và chuyển hoá tâm thức, tất
cả sẽ đưa ta đến tình trạng an lạc và hạnh phúc; ngược lại nếu ta không đủ
khả năng để thực hiện sự chuyển hóa này, ta sẽ rơi vào vòng đau khổ triền
miên. Chúng ta phải hành động theo một cung cách nào đó để cho những khát
vọng của ta, cũng là khát vọng chung của mọi con người -theo đuổi hạnh
phúc và xa lánh khổ đau- sẽ không trái nghịch với hậu quả gây ra bởi những
hành động của chính mình. Dĩ nhiên là chúng ta phải tận dụng mọi nguồn hổ
trợ để đạt đến mục tiêu này.
Khi chúng ta tìm cách diễn đạt cho một
người sơ cơ về cấu trúc của con đường dẫn đến giác ngộ, ta thường nói đến
ngũ đạo và thập địa (tiếng Phạn: bhumi). Và như thế, cứ lần hồi, tinh tấn
tiến bước trên con đường tu tập này sẽ đưa ta đến tình trạng nhất thiết
trí của Phật quả. Ta đồng thời cũng thường đề cập đến tam thân (kaya): Ðó
là Pháp thân (Dharmakaya), Báo thân (Sambhogakaya), và Hóa thân
(Nirmanakaya). Hai loại thân sau -Báo thân và Hóa thân- xuất hiện từ hư
không của tri kiến của Pháp thân, một mặt bằng tuyệt đối, được biểu hiện
bởi hình tượng của một vị Cổ Phật, Ðức Tổng Thể Phật (Samanta-bhadra), mà
màu xanh là dấu hiệu tượng trưng cho tính chất bất biến của Ngài. Chúng ta
tắm gội trong ánh sáng của Ngài. Tổng Thể Phật còn được biểu hiệu dưới một
dạng nữ thân khác là Phật Mẫu Samantabhadri. Tổng Thể Phật tượng trưng cho
tình trạng nguyên thủy liên quan đến đại hoan hỷ, trong khi Samantabhadri
tượng trưng cho tình trạng tinh khiết nguyên thủy.
Khi chúng ta nói về Ngài Tổng Thể Phật hay
Phật Mẫu Samantabhadri, chúng ta không xem các Ngài như là những đấng
thượng đế sáng tạo. Chính từ hư không của tri kiến và sự chứng ngộ của các
Ngài mà vòng luân hồi sinh tử và niết-bàn đã được tuyên xưng và xuất hiện.
Dĩ nhiên quả là điều quan trọng khi ta biết
được những giai đoạn tiến triển khác nhau của tiến trình tâm linh, nhưng
đồng thời chúng ta cũng cần phải biết sống như thế nào trong cuộc sống đời
thường. Những vị đại sư của Cam-đan phái (Kadampa) đã nói rằng, nhiều
người trông có vẻ giống như những hành giả đang tu tập nghiêm chỉnh chánh
Pháp khi bao tử của họ căng đầy và được ngồi thoải mái dưới nắng ấm mặt
trời, nhưng rồi họ hoàn toàn đánh mất dáng vẽ này, trở nên giận dữ và cãi
lộn lẫn nhau, một khi họ bị bực mình trước những tình huống khó khăn. Ðó
là điều mà chúng ta cần phải tránh. Bởi vậy, điều quan trọng là ta phải
thực hành giáo lý của Chánh Pháp hằng ngày, ngày này qua ngày khác.
Những đức hạnh chủ yếu nào ta cần phải trau
dồi , tu dưỡng trong cuộc sống thường nhật? Trước tiên, đó là lòng nhân
ái, từ tâm, kiên nhẫn, và khoan dung; đồng thời cũng phải biết tri túc,
thỏa mãn với cuộc sống khiêm tốn, đơn giản -đó là những điểm được chia xẻ
bởi tất cả mọi tôn giáo.
Ðặc biệt, Phật giáo có giúp được cho chúng
ta phương cách nào để đạt đến mục tiêu thỏa mãn và an lạc? Ðể giải thích
điều này, thiết tưởng chúng ta cần phải nên biết đến luật nhân quả, nghiệp
báo, để hiểu rằng tình trạng bất toại ý được bắt nguồn từ vòng luân hồi
sinh tử, cũng như để biết cách làm thế nào để ta có thể chuyển hoá hạnh
phúc và nhận lấy những khổ đau của tha nhân làm của mình. Hận thù và ác
tâm là những mối nguy cơ lớn nhất cho hoà bình và hạnh phúc. Ðể có thể
ngăn ngừa hận thù và giận dữ có cơ hội mọc rễ trong ta, trước tiên ta phải
tìm cách loại bỏ cho được lòng bất mãn,bởi vì đó chính là cội rễ của hận
thù và ác tâm. Ðể có thể thực hiện được việc này, ta phải làm cho tâm của
mình trở nên thanh thản, rộng mở và thư giản. Bởi vì một khi ngọn lửa thù
hận đã bùng cháy lên với tất cả sức mạnh của nó, ta khó mà tìm ra phương
thuốc để chữa trị. Cho nên điều quan trọng là ta phải phòng ngừa, ngăn cản
những gì có thể làm cho lòng hận thù phát khởi.
Sự thù nghịch, gây hấn và hận thù là những
sản phẩm chính của lòng bất mãn, và để ngăn ngừa cái tình cảm bất toại ý
này phát sinh, chúng ta phải giữ cho tâm mình ở trong trạng thái hoàn toàn
thanh thản, rộng mở, và bao dung, cũng như luôn luôn thoải mái với chính
mình. Trái lại, nếu tâm ta chật hẹp, khép kín thì cho dù chỉ một sự kiện
nhỏ xảy ra cũng sẽ làm cho ta bực bội, bất mãn và cảm thấy mình bị thương
tổn, bất toại ý mà hậu qủa sẽ dẫn ta đến giận dữ và oán thù. Thế nên điều
quan trọng là ta phải luôn giữ cho tâm mình ở trong trạng thái quân bình,
rộng mở, và thanh thản. Hạnh phúc của chúng ta luôn gắn chặt với hạnh phúc
của kẻ khác. Nó tuỳ thuộc sâu xa vào tất cả những người sống quanh ta. Thế
nên chúng ta phải luôn ý thức điều này để mỗi khi cảm thấy hạnh phúc, thỏa
mãn chúng ta phải nhận ra rằng mình đang mang một món nợ ân nghĩa đối với
lòng nhân ái của tất cả mọi người.
Trong đời sống này có thể là chúng ta sẽ có
kẻ thù, những người có ý muốn hoặc đang thật sự hảm hại ta. Tuy nhiên yếu
tính căn bản của Phật giáo, đặc biệt Phật giáo Ðại thừa, là lòng nhân ái,
từ bi và bồ đề tâm, tâm thức của giác ngộ. Thế nên nếu sự giận dữ và thù
hận phát khởi trong ta, sức mạnh của lòng từ và tinh thần giác ngộ của ta
phải có đủ năng lực để chống lại chúng. Bởi vậy nhẫn là một đức tính cần
thiết mà mỗi người Phật tử cần phải có. Không có hạnh nhẫn nhục không thể
thực hành được Bồ Tát Ðạo. Nếu chúng ta chịu khó suy nghĩ về điều này, thì
vấn đề chính yếu là làm thế nào để cho nhẫn nhục được thực hiện và phát
triển trong cuộc sống đời thường? Nhẫn nhục cần sự có mặt của kẻ thù -một
điều rất rõ ràng là chúng ta không cần phải thực hành nhẫn nhục đối với
Ðức Phật, vị tôn sư, hay người bạn tinh thần của mình. Ngược lại, nhẫn
nhục chỉ có thể được thực hiện đối với những kẻ muốn hảm hại ta, những kẻ
mà ta gọi là “kẻ thù”, qua đó nhẫn nhục mới thực sự được nuôi dưỡng và
phát triển. Chính kẻ thù đã giúp ta một cơ hội duy nhất để thực hành hạnh
nhẫn nhục và qua đó phát triển được tất cả những phẩm chất qúy giá của Bồ
Tát Ðạo. Như vậy thay vì xem kẻ thù như là một cái gì đó rất khó ưa, ta
ngược lại phải đối xử với họ bằng lòng kính trọng và sự biết ơn, bởi vì họ
đã cho ta cơ hội duy nhất này để thực hành Bồ Tát Ðạo.
Một khi đã chứng tỏ được lòng nhân ái và vị
tha của mình, ta đồng thời cũng sẽ trở nên can đảm và vững tâm trước mọi
chuyện; thế nên những ngày đi qua trong đời ta sẽ thắm đượm với hạnh phúc,
thanh thản và thỏa mãn. Mặc dù cá nhân tôi không có nhiều kinh nghiệm trên
lãnh vực này, tôi vẫn luôn cố gắng thực hiện những điều nhẫn nhục nhỏ
nhất có thể có được.
Chúng ta sẽ không bao giờ ngưng tiến bộ và
nhận thức rằng nếu ta thực hiện được điều này ngày này qua ngày khác,
tháng này qua tháng nọ, năm này đến năm kia, đời này sang đời khác ta sẽ
đạt đến nỗi hạnh phúc vô bờ.
Theo Ngài, Phật Pháp có thể giúp ích được
gì cho Tây Phương?
Trong xã hội Tây phương, nói chung những
anh chị em huynh đệ của tôi, những tu sĩ hay nữ tu Cơ Ðốc giáo, hoặc là
những tín đồ đang tu tập, Phật giáo có thể mang lại cho họ những trợ giúp
cần thiết để phát triển thêm tình yêu thương, từ ái, được coi như là những
phẩm chất cốt lõi của bất kỳ tôn giáo nào. Ðồng thời nó cũng giúp phần nào
trong vấn đề cải thiện thiền tập.
Thưa Ngài, làm thế nào để đời sống tâm linh
và thế tục có thể hoà điệu cùng nhau?
Khi nói đến những sinh hoạt thế tục, chúng
ta thường đề cập đến tám vấn đề quan tâm chính yếu của người đời: đó là
những ý tưởng liên quan đến tầm mức quan trọng mà chúng ta thường gắn bó
với niềm vui và đau khổ, sự được thua thành bại, tăm tiếng và vô danh,
việc được ca tụng hay bị chỉ trích. Tám mối quan tâm này có những mức độ
khác nhau mà tuỳ theo trường hợp có thể hoàn toàn trở nên tiêu cực, trung
hoà, hay rất mực tích cực. Trong những trường hợp cực đoan nhất, tâm của
người đời nặng về đời sống thế tục thường bị tràn ngập bởi những tình cảm
hận thù, hoặc tham vọng muốn chiếm hữu mọi thứ về cho mình cho dù phải gây
tổn hại hay dối lừa kẻ khác. Trong trường hợp như thế dĩ nhiên nó đã đi
quá xa đối với những đòi hỏi về tâm linh. Ngược lại trong những trường
hợp mà những hoạt động thế tục được thúc đẩy bởi những tình cảm cao qúy,
chẳng hạn như những người có ý hướng muốn tham gia vào việc điều hành
kinh tế cho một quốc gia, hay khu vực nào đó mà động cơ chính là lòng nhân
ái hoặc vì quan tâm đến phúc lợi của kẻ khác, thì vấn đề hoà điệu giữa
đời sống tâm linh và thếù tục quả là một vấn đề rất đơn giản.
MỘT Ý THỨC TRÁCH NHIỆM PHỔ QUÁT
NHAÂN CUỘC THĂM VIẾNG LỘ ÐỨC
Hôm nay tôi vô cùng hoan hỷ được viếng thăm
một thánh địa hành hương nổi tiếng, mà bây giờ đã trở nên một trung tâm
cho những kẻ tín ngưỡng do những phép lạ đã được ban bố. Thông điệp của
chúng ta hôm nay được gởi đến mọi con người -không quên lời cảm tạ về cơ
hội gặp gỡ của tất cả mọi tôn giáo và dân chúng tại đây, là một thông điệp
của hoà bình và yêu thương phổ quát. Thế cho nên tôi rất hân hạnh được có
một cơ hội tốt đẹp để cùng với qúy vị cầu nguyện cùng nhau tại thánh địa
này. Một lần nữa tôi xin cảm tạ về những gì mà qúy vị đã làm trong việc
tổ chức cuộc gặp gỡ cũng như đã chào mừng tôi đến đây ngày hôm nay.
Chúng ta đã được nhắc nhở ở đây về những
nỗi kinh hoàng không diễn tả được của chiến tranh, cụ thể như hiện đang
xảy ra tại thành phố Sarajevo, nơi mà hàng ngàn người dân vô tội đã bị tàn
sát hoặc đang tiếp tục sống trong khổ nạn. Chúng ta không được quyền quay
lưng lại với vấn nạn này. Những thảm trạng như thế cho thấy một điều rất
rõ ràng rằng thật khó mà làm vơi đi những tham vọng của con người, mà một
khi được buông lỏng ra thường không do một nguyên nhân chính đáng nào,
cũng như thật khó mà tìm ra một giải pháp khi tình cảm của con người không
còn chế ngự được nữa. Dĩ nhiên trí thông minh sẵn có của con người có thể
giúp ta phân biệt được giữa lợi ích tạm thời và lợi ích tối hậu, thế nhưng
cái khả năng phán đoán này đôi khi cũng bị lu mờ đi bởi những tình cảm
xung động một khi tham vọng xâm chiếm tâm hồn ta.
Ðó là lý do tại sao tôi cho rằng sự an bình
nội tâm, sự giải giới bên trong mới là điều cần thiết và tuyệt đối ta
không nên thờ ơ trước chuyện này. Sẽ là một điều rất khó khăn đểø đạt đến
một nền hoà bình thế giới thiết thực và vững chắc nếu chúng ta không thực
hiện được sự hoà bình ngay chính trong tâm mình. Thế nên tôi cũng mong mỏi
rằng các vị đang hoạt động trên các lãnh vực giáo dục, truyền thông, các
nhà chính trị cần nên chú trọng đến khía cạnh sau đây trong dòng tư tưởng
của nhân loại, đó là: tâm bình, thế giới bình. Dĩ nhiên nếu tâm ta loạn
động bị lôi kéo bởi những tình cảm hung hăng, ác độc, ganh tỵ, mầm hung
hăng tiềm ẩn sẽ bộc phát ngay khi mà những tình huống bên ngoài có vẻ như
đã chín mùi, thuận lợi.
Tôi tin rằng cuộc gặp gỡ hôm nay mang một ý
nghĩa rất trọng đại. Thực vậy, một điều rất khả tín là tất cả mọi tôn giáo
đều chia xẻ những giá trị chung về lòng nhân ái, về tình yêu tha nhân, và
tinh thần khoan thứ. Trên căn bản này chúng ta phải xây dựng được sự hoà
đồng tôn giáo. Trong tình hình thế giới hiện nay, một điều đã trở nên vô
cùng khẩn thiết là chúng ta cần nên đặt trọng tâm vào sự hòa hợp, gia tăng
mối hiểu biết sâu xa giữa con người và giữa đại diện của các tôn giáo. Tuy
nhiên một điều cũng nên lưu ý rằng lòng nhân ái, tình huynh đệ, và lòng
khoan dung không phải là những đức tính độc quyền của những người có tín
ngưỡng. Ðây là những đức tính căn bản của tất cả mọi con người.
Cuộc thăm viếng hôm nay cho tôi hai lý do
chính để hy vọng. Sự kiện những đại diện của tất cả các tôn giáo tập trung
tại đây, một thánh địa Thiên chúa giáo, để cùng nhau cầu nguyện, tôi hy
vọng sẽ góp phần rất lớn vào việc phát hiện ra sự cần thiết của việc triển
khai mối an bình nội tâm cho tất cả con người. Ðồng thời tôi cũng tin chắc
rằng cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay sẽ dẫn đến mối cảm thông sâu xa và
niềm tương kính giữa các tôn giáo. Ðây có thể là nguồn khích lệ lớn lao
cho tất cả mọi người, để từ đó họ có thể phát triển sự an bình, thanh thản
sâu xa hơn trong lòng mình do nhận thức được tinh thần hoà hiệp hiện đang
ngự trị giữa chúng ta. Thế cho nên tôi yêu cầu mọi người xin hãy noi gương
theo những vị đại diện của các tôn giáo khác nhau đang tụ họp tại nơi này
để cùng phát triển ý thức trách nhiệm và những gì cần thiết nhằm đạt đến
sự hoà đồng.
Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, theo ý kiến của
Ngài, có những giá trị phổ quát được chia xẻ bởi mọi tôn giáo và góp phần
vào việc tạo dựng nên một nền hòa bình lâu dài?
Tôi tin tưởng rằng không phải chỉ có những
giá trị được chia xẻ bởi tất cả mọi tôn giáo, mà còn bởi tất cả mọi con
người, mọi dạng thức của đời sống. Tình yêu đối với người láng giềng, lòng
yêu thương, trìu mến, nhân ái đều là những đạo lý phổ quát căn bản, và tôi
cho rằng mọi sinh vật, dù là thú vật hay con người, đều thích thú được
tiếp nhận sự yêu thương trìu mến. Như vậy thì vai trò của tôn giáo là gì?
Tôn giáo chỉ đóng vai trò giúp đỡ phương tiện để củng cố và phát triển
tình cảm nhân ái tự nhiên sẵn có của con người.
Tôi nghĩ là xã hội có thể sống trong an ổn
hoà bình, cảm ơn nhân loại đã phát triển được sự an bình nội tâm thông qua
trí óc thông minh của mình. Thế nên tôi hoàn toàn tin rằng để có được hòa
bình thế giới, trước tiên ta phải có được sự an bình nội tâm. Tất cả những
ai giữ được cho mình sự thanh thản tự nhiên, hoà bình với chính mình sẽ dễ
dàng mở rộng tâm hồn đối với kẻ khác. Và tôi cho rằng đây chính là nền
tảng căn bản của nền hoà bình phổ quát.
Tất cả mọi tôn giáo đều có những phương
thức, kỷ thuật tâm linh riêng để phát triển sự giải giới bên trong, sự an
bình nội tâm này. Chúng ta cần phải hiểu biết lẫn nhau và làm việc cùng
nhau trong tinh thần hoà điệu, bởi vì bổn phận của chúng ta là khai mở
trong mỗi con người bản chất yêu chuộng hoà bình tự nhiên của họ.
Như một câu hỏi thông thường mà người ta
thường hỏi vị bác sĩ là có thể có một ngày nào đó sẽ không còn bệnh tật
trên thế gian này, cũng thế, trải qua hàng tá hay hàng trăm các cuộc gặp
gỡ đại loại như thế này, Ngài có nghĩ rằng có một ngày nào đó thế giới sẽ
sống trong hoà bình thực sự?
Tôi tin như thế và tiếp tục hy vọng rằng
chúng ta sẽ đạt đến một nền hoà bình phổ quát trên trái đất này. Thế
nhưng, dĩ nhiên luôn luôn vẫn sẽ có những vấn nạn nhỏ xảy ra ở nơi này hay
nơi khác.
Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Ngài vừa viếng
thăm một thánh địa của Thiên Chúa Giáo La Mã. Ngài có hy vọng rằng một
ngày nào đó sẽ đến viếng thăm Jerusalem hay Mecca?
Tôi rất hân hoan được đích thân viếng thăm
nhà thờ Lộ Ðức, một trung tâm thánh địa hành hương nổi tiếng mà tôi đã
từng được nghe tới từ lâu. Quả thật là tôi vô cùng xúc động.
Dĩ nhiên trong quá khứ tôi đã từng tham dự
rất nhiều buổi lễ nghi tôn giáo, những cuộc đối thoại liên tôn. Trong
vòng hai năm qua tôi đã dự trù tạo ra những cuộc hành hương chính đến thăm
viếng những thánh địa cùng với các bạn đồng hành của các tôn giáo khác.
Khi chúng ta đến những nơi như vậy chúng ta sẽ hưởng được rất nhiều lợi
lạc của bầu khí nơi đó, chúng ta cầu nguyện cùng nhau,hoặc đơn giản nhất,
chúng ta có thể tỉnh tọa và hiệp thông với tư tưởng của mình trong yên
lặng. Tôi đã từng làm như thế tại Ấn Ðộ và rất hoan hỷ được bắt đầu một
lần nữa tại nơi đây. Tôi tin rằng những nơi này sẽ làm thức dậy trong ta
cái cảm giác hiệp thông và hiểu biết sâu sắc hơn là do nhận thức của trí
tuệ thông thường. Tôi rất muốn được khởi đầu các cuộc hành hương như thế
để thăm viếng Jerusalem và Mecca nhưng không biết lúc nào thì có những
điều kiện thuận lợi để tôi có thể đến viếng thăm những vùng đất thánh này.
Thưa Ngài, trong các cuộc thảo luận giữa
Ngài và đại diện các tôn giáo khác, có khi nào qúy vị nêu ra vấn đề cải
đạo, thay đổi từ một tôn giáo này qua tôn giáo khác, cụ thể là giữa Tin
Lành, Thiên Chúa giáo, cũng như đối với cả Phật giáo ở tại Pháp?
Trong cuộc tiếp xúc riêng của chúng tôi,
một giáo hữu Cơ Ðốc đã lập lại cho tôi nghe một câu đã được khắc trên bia
đá của vua A Dục, trong đó Ngài đề cập đến tinh thần bất khoan dung đối
với các tôn giáo khác tức là tự mình hủy diệt tôn giáo mình; và sự phong
phú của một tôn giáo liên hệ mật thiết với sự kính trọng các tín ngưỡng
khác.
Ngài nghĩ như thế nào về nỗ lực hiệp nhất
xảy ra giữa những người Cơ Ðốc giáo phương Tây và Trung Quốc?
Những người Cơ Ðốc vì là thành phần thiểu
số tại Trung Quốc cho nên họ đã phải gánh chịu nhiều đau khổ như thế. Một
phần nữa là do tình trạng thiếu thốn phương tiện truyền thông gây ra bởi
chế độ chính trị tại Trung Quốc chắc chắn đã hạn chế tầm nhìn của họ đối
với tình hình thế giới. Thế nên tôi nghĩ rằng bất cứ những cuộc đối thoại
nào được thiết lập với những người Cơ Ðốc ở bên ngoài sẽ giúp họ mở rộng
thêm tầm mắt đối với thực trạng của thế giới.
SỰ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
Ngài đã từng cho biết rằng theo triết học
Phật giáo, không hề có một Ðấng Sáng Tạo, hay nói rõ hơn một Ðấng Thượng
Ðế sáng tạo, điều này thoạt tiên có thể làm cho một số người tin tưởng vào
những tín lý thần quyền lãng tránh Phật giáo. Xin Ngài giải thích cho
chúng tôi rõ sự khác biệt giữa vị Kim Cương Thừa Cổ Phật và Ðấng Thượng Ðế
Sáng Tạo?
Theo chỗ chúng tôi hiểu thì vị Cổ Phật,
được biết dưới tên gọi là Ngài Tổng Thể Phật, là một cứu cánh thực tại, là
một Pháp giới, một hư không tạng nơi mà mọi hiện tượng, tịnh hay bất tịnh,
đều đã tan biến. Ðây là những lời giảng dạy từ Kinh điển và Mật tông. Tuy
nhiên, căn cứ vào nội dung của câu hỏi mà quý vị nêu ra, thì truyền thống
mật tông là truyền thống duy nhất đã đưa ra những lời giải thích về Pháp
thân như là một nguồn linh quang trong suốt tự có, là bản tánh của chân
tâm; điều này hàm ý rằng tất cả mọi hiện tượng, luân hồi sinh tử và niết
bàn, đều phát khởi từ nguồn linh quang trong suốt này. Ngay cả Tân Tông
Giáo Truyền cũng đã đi đến kết luận rằng “trạng thái yên nghỉ” của một
hành giảthực chứng Ðại Du-Già -Ðại Du-Già ở đây ám chỉ tình trạng của một
hành giả đã đạt đến mức độ thiền định thực chứng được những kinh nghiệm vi
tế nhất về nguồn linh quang trong suốt- và như vậy bao lâu mà hành giả còn
lưu lại trong đại định này,hành giả hoàn toàn vượt thoát ra ngoài mọi hình
thức che mờ chướng ngại của tâm thức, và chìm ngập trong trạng thái đại
cực lạc, hoan hỷ.
Như thế ta có thể nói rằng, nguồn linh
quang trong suốt, cái bản thể nguyên ủy này, rất gần gũi với ý niệm về
Ðấng Sáng Tạo, bởi vì chính từ đây mà tất cả mọi hiện tượng cho dù thuộc
về luân hồi sinh tử hay niết-bàn đã được bắt nguồn. Tuy nhiên chúng ta nên
cẩn trọng khi nói về cái bản thể nguyên uỷ này để khỏi bị đi vào lầm lạc.
Tôi không hề cho rằng ở một nơi nào đó có sự hiện hữu của tập hợp những
nguồn linh quang trong suốt này, tương tự như quan niệm thuộïc truyền
thống ngoài-Phật-giáo về một Ðấng Phạm Thiên như là một thể nền cho mọi
vật. Chúng ta cũng không nên có khuynh hướng thần thánh hoá nguồn linh
quang trống không này. Chúng ta phải nên hiểu rằng khi nói về cái bản thể
nguyên uỷ, tự có của nguồn linh quang trong suốt, chúng ta đang nói đến
một mức độ thực chứng cá nhân.
Cũng thế khi ta nói đến nghiệp lực như là
nguyên nhân tạo thành vũ trụ, chúng ta cũng cần phải loại bỏ cái ý niệm
coi nghiệp như là một thực thể thường hằng tồn tại một cách độc lập. Ðúng
hơn đó là tất cả những dấu ấn cộng nghiệp được tích lũy một cách cá nhân,
đã là nguồn gốc của sự sáng tạo nên thế giới này. Trong nội dung của giáo
lý Mật tông, khi chúng ta nói rằng tất cả mọi thế giới xuất hiện từ nguồn
linh quang, ta không nên hình dung hoá cái nguồn này như là một thực thể
duy nhất, mà phải xem đó như là linh quang nguyên ủy của từng cá nhân.
Trên căn bản thể tính thuần khiết của nó, chúng ta cũng có thể hiểu nguồn
linh quang trong suốt này tức là Cổ Phật. Tất cả mọi giai đoạn của một
kiếp người, từ cái chết đến thân trung ấm và tái sanh, không có gì khác
hơn là sự biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau của nguồn linh quang trong
suốt tiềm ẩn này. Nó bao gồm cả mạt-na thức và năng lượng. Thế nên nguồn
linh quang trong suốt này càng mất đi sự vi tế bao nhiêu, những kinh
nghiệm của bạn càng thể hiện cụ thể chừng ấy.
Từ đây, cái chết và giai đoạn thân trung ấm
là những thời điểm mà những dạng thức thô thiển phát ra từ nguồn linh
quang trong suốt được thu hút trở lại. Khi chết, ta quay trở về với cái
nguồn nguyên thủy đó, và rồi từ đây một tình trạng thô sơ hơn xuất hiện
tạo thành giai đoạn thân trung ấm trước khi chuẩn bị tái sanh. Ðến giai
đoạn tái sanh, nguồn linh quang trong suốt thể nhập vào sự đầu thai. Ðến
lúc chết ta lại quay trở về nguồn. Và cứ tiếp tục như thế mãi. Khả năng
nhận ra được nguồn linh quang trong suốt vi tế này, cũng được gọi là Cổ
Phật, cũng tương tự như tình trạng thực chứng niết-bàn, ngược lại do vô
minh không nhận ra được bản tánh của nguồn linh quang trong suốt này ta sẽ
mãi lang thang chìm đắm trong những cảnh giới luân hồi.
Ðây là tất cả những gì mà tôi hiểu về khái
niệm Cổ Phật. Thật là điều sai lầm nghiêm trọng khi hình dung nó như là
một hữu thể độc lập xuất hiện từ thuở ban sơ nào đó. Nếu chúng ta bắt
buộc phải chấp nhận ý tưởng về một đấng sáng tạo độc lập, những lời giảng
giải trong Nhận thức học (Pramanavartika), được ngài Pháp Xứng viết trong
“Khái luận về Hình thái Nhận thức”, cũng như trong chương thứ chín của Bồ
Tát Tịch Thiên (Shantideva), đã hoàn toàn bài bác lý lẽ về sự hiện hữu tự
thân của mọi hiện tượng. Và như vậy cũng đã bác bỏ luôn ý niệm về một vị
Cổ Phật. Quan điểm của Phật giáo là không bao giờ chấp nhận giá trị của
những đoan quyết nếu như nó không được kinh qua những thẩm định hợp lý.
Nếu trong kinh mô tả vị Cổ Phật như là một thực thể độc lập, chúng ta phải
có khả năng lãnh hội ý nghĩa của sự khẳng định này mà không phải y cứ vào
văn tự. Chúng ta gọi loại kinh này là loại kinh “được hiểu theo một cách
riêng”.
Thưa Ngài, Ngài có nghĩ rằng cùng một lúc
một người có thể vừa là tín hữu Cơ Ðốc và đồng thời là một Phật tử?
Tôi đã trả lời câu hỏi này một cách gián
tiếp khi nói rằng niềm tin vào Ðấng Sáng Tạo có thể được liên tưởng với sự
thấu hiểu về Pháp Không Tánh. Tôi tin rằng có thể tu tập tiến triển theo
một con đường tâm linh và rồi đến một mức nào đó người ta có thể hoà hợp
được giữa Cơ Ðốc với Phật giáo. Tuy nhiên một khi đã đến một mức độ nhận
thức này rồi thì điều cần thiết là phải chọn lựa giữa một trong hai con
đường. Gần đây tôi đã thực hiện một số thời pháp tại Hoa Kỳ và một trong
số những đề tài thuyết giảng này là nhẫn nhục và khoan dung. Buổi giảng
được bế mạc bằng một buổi lễ phát nguyện Bồ Tát Hạnh. Một tu sĩ Cơ Ðốc
trong số các quan khách tham dự đã bày tỏ ý muốn được phát nguyện các hạnh
Bồ Tát này. Tôi hỏi ông ta rằng ông ta có được quyền làm như thế không. Vị
tu sĩ này trả lời rằng được, và như vậy ông ta vừa có thể phát nguyện tu
tập Bồ Tát Hạnh nhưng vẫn là một tín hữu Cơ Ðốc.
Chúa Giêsu phán rằng “Hãy yêu thương người
láng giềng của con” như là một biểu hiện cho chúng tôi về Cơ Ðốc giáo. Còn
thông điệp của Ngài cho nhân loại là gì khi Ngài gặp gỡ một con người
khác?
Yêu thương láng giềng của mình, nhân ái, từ
bi -tôi tin đó là những nguyên tố thiết yếu và phổ quát được thuyết giảng
bởi mọi tôn giáo. Như thế thay vì phân rẽ nhau trên các quan điểm triết
học, chúng ta có thể thiết lập sự hòa đồng giữa mọi truyền thống tâm linh
trên căn bản của những điểm chung về yêu thương, nhân ái, và tha thứ. Tôi
luôn luôn khẳng định điều này và đã dành rất nhiều năng lực của mình cho
nỗ lực đó. Tất cả những khó khăn giữa mọi tôn giáo đã xảy ra là do con
người thất bại trong việc chuyển hoá và mang an bình cho tâm hồn mình, họ
đã không thật sự áp dụng những tín điều của tôn giáo mình thay vào đó lại
luôn muốn áp đặt lên kẻ khác. Thái độ này bất hạnh thay, có thể tạo kích
động gây nên những mối xung đột trầm trọng, cho dù tôi đã nêu lên khả năng
hoà hợp giữa các tôn giáo, đặc biệt là giữa Phật giáo Tây Tạng và Cơ Ðốc.
Trong thực tế chúng tôi cũng đã thiếp lập một chương trình rất xây dựng
nhằm tạo sự trao đổi giữa tu sĩ và nữ tu của hai tôn giáo.
Tại Tây phương, Cơ Ðốc giáo hiện đang lâm
vào tình trạng khủng hoảng. Ngài có những lời khuyên nào dành cho những
tín hữu Cơ Ðốc đang ở trong tình trạng hoài nghi?
Từ những kinh nghiệm cá nhân của mình tôi
có thể nói rằng chúng ta nên tập trung vào những tinh tuý của truyền thống
mình thay vì quá chú trọng đến nghi thức và lễ lạc. Phạm trù của những lễ
nghi và lễ lạc dĩ nhiên, thường liên quan đến sự thay đổi phong tục tập
quán của từng vùng hay từng thời đại. Thế nhưng, những tinh tuý của một
tôn giáo, trong đó có những giáo lý nói về nỗi khổ đau căn bản của nhân
loại thì thường là rất hữu ích.
Những đối thoại giữa những người Phật giáo
và Do Thái, Cơ Ðốc giáo có mang lại những lợi ích nào không, thưa Ngài?
Như tôi vẫn thường phát biểu, mặc dù đã có
những khác biệt trên quan điểm triết học, tất cả những tôn giáo lớn đều có
một điểm chung: muốn làm những điều tốt đẹp cho nhân loại. Thế nên trong
tất cả những cuộc trao đổi đã diễn ra chúng tôi đều đặt trọng tâm vào
những điểm chung và nhờ vậy đã làm phong phú thêm sự hiểu biết về các
phương pháp hành trì tu tập của nhau. Ðặc biệt tôi rất thích thú khi nhận
thấy có những điểm tương đồng lớn lao trong đời sống tu trì và thiền định.
Một lãnh vực khác cũng đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với tôi đó là cách thức
mà những người đại diện của truyền thống Cơ Ðốc không ngừng nỗ lực phấn
đấu bằng cách dấn thân vào những hoạt động xã hội -từ thiện và cứu tế- để
cải thiện phúc lợi của xã hội và nhân sinh. Dĩ nhiên trong Phật giáo cũng
có những người như thế, nhưng không nhiều lắm. Tất cả những gì mà các tín
hữu Cơ Ðốc đã và đang làm phát xuất từ một cái nhìn rất thực tế là giúp đỡ
tha nhân đã là một tấm gương tốt cho tất cả chúng ta. Chúng ta không thể
phủ nhận rằng trong quá khứ, hiện tại, và chắc chắn cả trong tương lai,
cộng đồng tín hữu Cơ Ðốc đang và sẽ mãi cống hiến những trợ giúp cho nhân
loại bằng nỗ lực xoa dịu những khổ đau và mang phúc lợi đến cho họ.
Con người nói chung đều có những căn cơ và
bản tánh khác nhau. Thế nên quả là điều rất tiện lợi và đáng tán dương khi
chúng ta có nhiều đường hướng tâm linh khác nhau để có thể chăm sóc đầy đủ
các nhu cầu khác biệt cuả mọi con người. Tôi thường cố gắng tìm hiểu xem
làm thế nào mà một số phong trào mệnh danh là chính thống thủ cựu, cực
đoan lại xuất hiện. Do quán chiếu, tôi nghĩ là thay vì quan tâm đến sự
tiến hoá tâm linh của chính mình, những phong trào chính thống thủ cựu này
lại rơi vào những thái độ cực đoan, khi muốn đem tôn giáo của mình áp đặt
lên kẻ khác. Do thiếu trưởng thành, chín chắn -mục tiêu căn bản của mọi
truyền thống tâm linh là khả năng tự chuyển hoá và kiểm soát tâm mình- họ
áp đặt lên kẻ khác sự chuyển hoá mà ngay chính bản thân họ còn chưa đạt
đến, sự cưỡng ép thường là gốc rễ của hận thù, chấp trước, và tất cả mọi
khát vọng tiêu cực khác. Tất cả những điểm này đều là dấu hiệu chính của
trào lưu chính thống thủ cựu.
Ngược lại tôi tin rằng ta chỉ cảm thấy tôn
kính một cách tự nhiên các truyền thống tâm linh khác nếu ta sống đời sống
tôn giáo của mình một cách nghiêm chỉnh và trong sáng, với nhận thức rằng
những bước đầu tiên của ta mục tiêu nhắm đến phải là sự tự chuyển hoá
chính mình. Tôi cũng tin rằng vấn đề đối thoại, giao lưu, trao đổi giữa
các truyền thống cũng là những yếu tố cần thiết cho sự thông cảm hiểu biết
lẫn nhau. Nếu những vị đại diện của tôn giáo lại mang đầu óc cố chấp hẹp
hòi, tinh thần tự cô lập, chắc chắn họ sẽ có nhãn quan rất cục bộ và phiến
diện đối với các truyền thống tâm linh khác, và tình trạng hiểu lầm nhau
sẽ vẫn mãi tiếp tục duy trì. Như vậy, trao đổi, tiếp xúc và chia xẻ cùng
nhau các kinh nghiệm cá nhân là con đường duy nhất dẫn đến niềm tương kính
sâu xa.
Ngài có nghĩ rằng những giáo lý của Ðức
Phật và của Chúa Giêsu là hoàn toàn khác nhau trên căn bản, và nếu đúng
như thế thì những khác nhau chính yếu là gì?
Có rất nhiều điểm tương đồng và dị biệt
trong giáo lý của hai tôn giáo. Trong số những khác biệt phải kể đến quan
điểm triết học của Trung Quán Luận, tức Trung Ðạo, bác bỏ sự hiện hữu của
tất cả mọi sắc tướng và thực tại tự thân của sự vật, quan điểm này chắc
khó mà hoà hợp được với những giáo lý căn bản của Cơ Ðốc giáo. Tuy nhiên
cũng đã có rất nhiều những bằng hữu Cơ Ðốc giáo của tôi lại bày tỏ ý
nguyện được thực hành Bồ Tát Hạnh, như tôi đã từng nêu thí dụ trước đây.
Do trong đời này có sự hiện hữu của những vị Bồ Tát mang lòng dũng cảm vô
song và một tầm nhìn không biên kiến mà những hành động đầy phúc lợi của
họ được phát khởi từ một tâm hồn vị tha không bờ bến, đã đến với mọi người
không loại trừ bất cứ một ai, tôi chấp nhận lời thỉnh cầu của họ, cho dù
học thuyết của họ trái ngược với Trung Ðạo. Thế nên tôi đã bảo họ rằng, họ
có thể phát tâm thực hiện những hạnh nguyện này nhưng vẫn hành hoạt như
một tín hữu Cơ Ðốc.
Hãy lấy thí dụ của một vị bồ tát theo tông
phái Ðại-Tì-Bà-Sa-Luận, những người theo Chủ-Nghĩa Phân-Lập, mà tâm nguyện
chân chính là thành tựu hoàn toàn giác ngộ cho phúc lợi của mọi loài chúng
sanh. Cho dù nếu quan điểm học thuyết của phái này về những gì thực sự cấu
thành Phật quả là không hoàn chỉnh đã ngăn trở đương sự không hoàn toàn
đạt đến quả vị mong muốn, thế nhưng người đó trong thực tế vẫn là một vị
bồ tát đầy nhân ái và vị tha. Quan điểm của tông phái Ðại-Tì-Bà-Sa-Luận
cho rằng niết bàn như là sự giải phóng khỏi vòng luân hồi sinh tử -một quả
vị của bậc A la hán-, mà theo tông phái Trung Quán Luận là chưa được hoàn
tất và không thể xem là tương đương với quả vị Phật.
Có thể nào một người đi theo một hành trình
tâm linh mà không cần đến tôn giáo, xem Phật giáo như là một lối sống lành
mạnh chẳng hạn?
Quyết định theo hay không theo một tôn giáo
nào đó trước tiên là một quyết định hoàn toàn cá nhân. Nếu bạn không theo
bất cứ tôn giáo nào và do đó không bao giờ quan tâm đến niềm tin vào hậu
kiếp, thế nhưng điều quan trọng hơn hết bạn vẫn phải là một con người với
những tình cảm tốt đẹp nồng hậu, tư øtâm và vị tha. Như vậy, không những
cá nhân bạn sẽ cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc lớn lao mà sẽ còn là
một thành viên có hiệu suất và lợi ích, đầy năng động và hữu ích cho xã
hội mà bạn đang sống. Trong trường hợp này bạn sẽ gặt hái và an hưởng
những thành quả của những hành động tích cực và thánh thiện trong kiếp
tới, cho dù trong kiếp này bạn không hề bận tâm đến chuyện đó vì bạn là
người không tin ở kiếp sau.
Chúng tôi thỉnh thoảng vẫn nghe người ta
nói rằng, “Tôi là người có đức tin, nhưng tôi không hề thực hành, tu
tập.” Ðối với Phật pháp, một thái độ như thế có thể chấp nhận được hay
không?
Dĩ nhiên là được. Có rất nhiều người ở
trong trường hợp như thế, kể cả người Tây Tạng! Có đức tin mà thiếu thực
hành một phần là do sự hời hợt, điều kiện hoá bởi bầu khí xã hội, tập quán
phong tục của xứ sở đó. Khi chúng ta có khả năng đào sâu và củng cố đức
tin của mình, một tình cảm liên đới sẽ được nảy nở; tình cảm liên đới này
gây cảm hứng cho ta, thúc dục ta gắn bó với đức tin một cách thành khẩn
hơn. Chỉ có trường hợp tệ hại là một người tuy có niềm tin vào giáo lý,
nhưng chỉ thông hiểu ở một mức độ chừng mực nào đó và chẳng bao giờ ứng
dụng chúng. Kết quả là tâm của họ chẳng bao giờ đi vào khuôn thước và dĩ
nhiên là sẽ không hề được chuyển hoá một chút nhỏ nào.
Ngài có nghĩ rằng các hình thức lễ nghi tôn
giáo làm trở ngại cho chúng ta trong việc nhận thức về Tánh Không? Phải
chăng đối với người bình thường sự giản đơn trong các hình thức nghi lễ có
thể mang lại lợi lạc hơn cho họ trong sự đạt đến giác ngộ?
Chúng ta hãy lấy trường hợp của Ngài
Milarepa làm thí dụ, một người rất ít chuộng lễ nghi mà chỉ chuyên tâm vào
việc thiền định về tánh không, đó cũng là người đã cho ta thấy rằng để đạt
đến mức chứng ngộ cao nhất, sự gắn bó với các nghi thức, lễ lạc tuyệt đối
không cần thiết. Thế nhưng, những hình thức nghi lễ này cũng có ý nghĩa
đặc biệt của nó. Những lễ nghi này đã được truyền dạy bởi Ngài Kim Cương
Trì , là một hình thức bí truyền, mật tông của Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật.
Dĩ nhiên khi nói như vậy không có nghĩa là Ngài đã chỉ cách thức chúng ta
phải đánh bao nhiêu tiếng trống hoặc là nên sử dụng cái chũm chọe như thế
nào. Lễ nghi biến đổi và tùy thuộc vào nội dung cũng như tình huống, có
cái thì được dùng trong nghi thức tống táng người chết, có cái để xua đuổi
tà ma quấy nhiễu, v.v... Ðiều quan trọng là chúng được thực hiện trong
tinh thần giác ngộ, bồ đề tâm, và như thế cho dù không hoàn toàn giúp cho
việc thực chứng được tánh không , tối thiểu chúng cũng mang lại một vài
điều hiểu biết về nó. Một khi đạt được những điều kiện tiên khởi này,
những hình thức lễ nghi như thế chắc chắn sẽ mang đến rất nhiều lợi lạc.
Chúng tôi muốn đạt đến một trình độ thực
chứng nào đó, nhưng quá trình này đòi hỏi một số lượng lớn thời gian -được
biết là phải đến ba a tăng tỳ kiếp mới có thể chứng ngộ giải thoát- niềm
mong ước của chúng tôi như thế phải chăng là hoàn toàn giả tưởng?
Ðiều cần thiết là phải huấn luyện tâm của
ta theo một con đường tâm linh nào đó. Quảng thời gian luân lưu qua chu kỳ
luân hồi sinh tử của con người, trong vòng trói buộc của vô minh và nghiệp
lực, còn lớn hơn là khoảng thời gian “ba a tăng tỳ kiếp” dành cho việc tu
tập tâm linh rất nhiều. Vì tương lai, nếu chúng ta không chịu bắt đầu gắn
bó đời mình vào một đường tu chân chánh, chắc chắn chúng ta sẽ còn mãi
trôi nổi dưới cái ách của vô minh và nghiệp lực trong những kiếp tương lai
trong một quảng thời gian dài vô cùng vô tận -còn bao la hơn là ba a tăng
tỳ kiếp mà chúng ta vừa nói tới.
Nếu như bây giờ chúng ta bắt tay ngay vào
con đường tu tập theo giáo lý mà ta đã chọn với mục tiêu nhằm đạt đến sự
giác ngộ hoàn toàn vào một ngày nào đó, không cần biết là sẽ bao lâu, như
vậy có phải đáng giá hơn không? Chúng ta sẽ không bị lãng phí một ngày
nào cả như chúng ta đã từng lãng phí từ bao lâu nay. Thật là điều khó
tưởng tượng khi mình tiếp tục tự làm ung thối đời mình và những kiếp sau
với hằng bao thế kỷ trôi qua không bao giờ chấm dứt, trong khi khả năng
chúng ta có thể nhận thức được bản chất qúy giá của từng ngày trong hiện
tại để cống hiến đời mình cho sự tiến hoá tâm linh.
Chúng ta có thể thực chứng đại từ bi mà
không cần phải thông qua thực chứng tánh không?
Câu hỏi này đã được trả lời đầy đủ trong
kinh sách Phật giáo, cuốn “Ðại Thừa Kinh Hoa” của Ngài Di Lặc, có nói đến
hai giai đoạn liên tục của lộ trình chứng đạo. Lộ trình thứ nhất mở ra cho
hành giả có khả năng siêu tuyệt, trước tiên thực chứng được tánh không, và
rồi thành tựu này sẽ dẫn đến sự khai mở của đại từ bi, bồ đề tâm, và tâm
thức giác ngộ. Cái thứ hai cho thấy một trình tự khác có thể xảy ra, khởi
đi bằng sự thực chứng đại từ bi và bồ đề tâm trước khi thực chứng tánh
không.
Chúng tôi không được hiểu rõ ràng cho lắm
về mối liên hệ giữa tánh không và từ bi.
Chúng ta đã biết rằng sự liên hệ giữa tánh
không và từ bi có thể được diễn giải theo thứ tự của sự chứng ngộ. Một số
kinh nghiệm về tánh không cũng có thể được phát triển đồng lúc với sự nhận
thức rằng những ảo giác sai lầm và vô minh có thể được chấm dứt và loại
trừ. Một khi bạn nhận thức được khả năng có thể giải phóng mình ra khỏi vô
minh và khổ đau, hiển nhiên thái độ của bạn trước khổ đau sẽ khác biệt.
Ngược lại, nếu không nhận thức được viển ãnh của sự giải phóng, ta nhìn về
khổ đau như một quá khứ đầy tiêu cực, bệnh hoạn, vô ích và kéo dài không
bao giờ chấm dứt.
Ðể hiểu rõ bằng cách nào từ bi sẽ làm tăng
trưởng sự hiểu biết về tánh không, tôi có thể đoan chắc rằng, một khi lòng
từ bi càng gia tăng cường độ bao nhiêu thì nỗi khát vọng tìm kiếm nguyên
nhân của khổ đau càng thúc dục ta mãnh liệt chừng nấy. Bạn sẽ cố tìm cách
khám phá xem phải chăng khổ đau có nguyên nhân và bằng cách nào mà nó được
tạo thành. Thế rồi bạn sẽ đi sâu thêm vào việc nghiên cứu tìm đến cỗi
nguồn thực sự của khổ đau. Chẳng hạn như, khi bạn thiền định về chính nỗi
khổ đau của mình, bạn đi tìm nguyên nhân của nó. Từ đây một câu hỏi sẽ
được đặt ra: ta có khả năng để nhổ tận gốc rễ của nỗi khổ đau này hay
không? Ðây chính là lúc mà sự thiền định về tánh không bắt đầu dự phần.
Trước đây chúng ta đã từng đề cập đến một
số người, cụ thể như những vị bồ tát của Ðại-Tì-Bà-Sa-Luận, có thể đạt
đến tâm đại từ bi mà không cần phải hoàn toàn thực chứng tánh không. Mặc
dù tông phái này chỉ trình bày một quan điểm chưa hoàn chỉnh về tánh
không, những vị bồ tát thuộc trường phái này cũng đã phát triển được một
tâm từ bi rộng lớn. Một điều cũng có thể xảy ra là trong trạng thái cực độ
của từ bi sẽ không còn có sự nhận biết về tánh không, và ngược lại cũng
thế , từ bi sẽ không có mặt ngay cả khi bạn đi vào tình trạng thực chứng
tánh không. Tại sao như vậy? Bởi vì hai trạng thái của tâm này hoàn toàn
khác biệt nhau trên bình diện của những tính năng tri kiến. Thông thường
trong những cảnh huống tiếp theo sau sự thực chứng tánh không, ví dụ như
khi bạn tiếp xúc với những sự vật hay hiện tượng có vẻ như là những ảo
giác, thì lúc đó những nhận thức của con người cũng sẽ trở thành như một
ảo giác, và trên căn bản này, ta khó mà có thể có khả năng để phát khởi
lòng đại từ bi đối với muôn loài chúng sanh.
Ðây là lý do tại sao trong kinh sách Phật
giáo đã nói về các mức độ khác nhau của lòng từ bi. Có lòng từ bi trực
tiếp hướng đến các loài hữu tình mà không cần phải quan tâm đến bản tánh
thật của nó, đặc biệt là tính chất vô thường và vô ngã. Loại thứ hai được
củng cố thêm bởi nhận thức về tính cách vô thường của đối tượng của lòng
từ bi. Mức độ thứ ba được gia tăng, hay nói rõ hơn được thúc đẩy bởi nhận
thức rằng mọi loài hữu tình, cho dù chúng trống rổng không có tự thân,
không hiện hữu một cách độc lập, nhưng vẫn cố bám víu vào sắc tướng tự
thân và hiện hữu độc lập, và thế nên cứ mãi trôi lăn trong vòng sinh tử.
Dạng từ bi này còn được gọi là ý thức về sự rỗng không của đối tượng. Và
cuối cùng là đại từ bi, một năng lực vô hạn và viên mãn có khả năng làm
phát khởi điều thường được biết như là những hành động phi thường của bồ
đề tâm, chính trạng thái kỳ diệu này của tâm khiến cho ta cảm thấy mang
gánh nặng trách nhiệm phải dẫn dắt quần sinh đến bến bờ hạnh phúc.
Một số các nhà học giả cho rằng ngay cả các
bậc A la hán, Ðộc giác Phật, Bích chi Phật tuy mang tâm đại từ bi này
nhưng vẫn chưa đủ năng lực để phát huy lòng quyết tâm cao độ, một thái độ
phi thường khiến cho một người có thể làm việc không ngừng cho phúc lợi
của toàn thể nhân loại. Chỉ có tâm của một vị bồ tát mới phát triển được
loại từ bi này, năng lực này được chuyển hoá thành bồ đề tâm, một khát
vọng muốn thực hiện sự giác ngộ hoàn toàn để cứu độ mọi loài chúng sinh.
Ðừng nên quên rằng lòng từ bi của những người đang tìm phương cách để hộ
trì chúng sanh trước mọi loại khổ đau khác với lòng từ bi được thúc đẩy
bởi ý nguyện giải thoát họ ra khỏi mọi khổ đau.
Có người cho rằng Cách-lỗ-phái (Gelupa, còn
gọi là Hoàng Mão phái) là một tông phái thuần khiết nhất trong bốn tông
phái tại Tây Tạng, trong khi đó Ninh-mã-phái (Nyingmapa, còn gọi là Cổ Mật
phái) không phải là Phật giáo. Tôi nghe rằng Ngài nhận được sự huấn luyện
từ Ninh-mã phái, điều này làm cho tôi rất hoang mang. Khi Ngài theo một
truyền thống nào đó, Ngài có được phép nhận những giáo huấn từ những tông
phái khác?
Tất cả bốn truyền thống của Phật giáo Tây
Tạng đều có cùng chung một vị tôn sư, đó là Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
Tuy nhiên theo thứ tự thời gian mà qua đó những giáo lý tiến triển cũng
như những điểm cốt lõi mà một tông phái tiếp tục duy trì đã tạo nên một số
nét khác biệt giữa các tông phái. Mặc dù vậy tất cả đều được coi như là
những người giữ cửa Thiền môn và những tinh túy của nó, cho dù chúng phát
xuất từ Tiểu thừa, Ðại thừa, hay Mật thừa.
Trước đây tại Tây Tạng thường có hai loại
tăng sĩ. Loại thứ nhất là những vị không đi hẵn vào một truyền thống nào
mà tu tập theo lời giáo huấn của cả bốn tông phái chính. Loại thứ hai là
những vị chuyên tu theo một tông phái truyền thừa và không quan tâm đến
các tông phái khác. Tôi thì nghiêng về khuynh hướng không tông phái, tức
là một hướng đi có tính phổ cập mà tôi nghĩ là nó sẽ mang lại rất nhiều
lợi ích. Một trong những lợi ích mà theo kinh nghiệm của chính bản thân
tôi được biết, là mỗi tông phái đều có những cách trình bày, lý giải giáo
lý theo cách riêng của mình, đặt trọng tâm vào một số khía cạnh đặc biệt
của giáo lý.
Nếu một người có được sự hiểu biết rộng rãi
về các kiến giải đa dạng liên quan đến giáo pháp và những đường lối tu
tập, họ sẽ nhận thức được rằng tất cả đều góp phần làm phong phú cho nhau,
và việc hiểu thấu đáo một tông phái sẽ giúp nâng trình độ hiểu biết của ta
đối với quan điểm của một tông phái khác. Chẳng hạn như trong kinh Tantra
của Guyasamaja có đề cập đến vấn đề của bốn trạng thái hư không; những
kiến thức của tôi về Ðại Viên Mãn (Dzogchen) đã giúp tôi hiểu rõ thêm về
vấn đề này. Cũng vậy, sự hiểu biết về bốn trạng thái hư không trong kinh
Tantra đã làm sáng tỏ và nâng cao sự hiểu biết của tôi về Ðại Viên Mãn.
Thế cho nên những đóng góp hổ tương này mang lại rất nhiều lợi ích, không
phải chỉ thuần túy trên phương diện làm phong phú đời sống nội tâm của ta,
bởi vì một khi thực tập cả bốn truyền thống chính, ta sẽ tránh được cho
mình việc tích lũy những hành động bất thiện gây ra bởi tinh thần bè phái
và việc công kích các tông phái khác. Tôi nghĩ rằng đây cũng là một bài
học qúy báu về sự hòa điệu.
Ðối với Ninh-Mã phái, người ta thấy một
trong những đặc tính chính yếu của tông phái này là sự tu tập về Ðại Viên
Mãn (Dzogchen). Còn trong cốt tủy của Tát-Ca phái (Sakyapa, còn gọi là Lam
Thổ phái) ta cũng thấy được phẩm chất xuyên suốt, thống nhất, và trong
sáng được trình bày qua Lamdre, “Ðạo và Quả,” đặc biệt là trong Lobche,
“Những Truyền Thống của Giáo Lý.“ Những kiến giải của tông phái này về
tính cách bất khả phân của luân hồi và niết bàn cũng thật rất là xuất sắc,
đặc biệt là khi đứng trên quan điểm không chấp thủ, yếu tố thậm thâm và vi
diệu đó đã làm cho đường lối tiếp cận này mang phẩm chất độc sáng. Nói đến
Ca-Nhĩ-Cư phái (Kagyupa, còn gọi là Bố Y phái) ta không thể không biết đến
Ðại Thủ Ấn (Mahamudra) đặt nền tảng trên sự tu tập về nguồn linh quang
trong suốt, gần giống với sự tu luyện của trường phái Lục-Pháp Du-Già
Naropa. Còn Cách-Lỗ phái, với quan điểm nổi bật về tánh không đã được Ðại
Lạt ma Tông-Kha-Ba giải thích rõ trong cả Hiển và Mật thừa. Sự lý giải của
Ngài về tánh không gắn chặt với lý thuyết về duyên khởi được coi như không
ai sánh kịp và vì thế cũng rất là độc đáo.
Thuật ngữ trong các kinh điển thường được
dùng rất sát sao và đã được các đại sư Ấn Ðộ chấp nhận qua những luận
thuyết được kết tập trong Ðan-châu-nhĩ (Tengyur), mà toàn bộ đã được dịch
qua tiếng Tây Tạng. Sự tiếp cận rốt ráo của Ðại Viên Mãn, được gọi là
“trực nhập”, Ca-Nhĩ-Cư và Tát-Ca phái nói về “sự hợp nhất của thậm thâm và
vi diệu,” và các pháp tu tập của Cách-Lỗ phái đề cập đến “sự bất khả phân
của cực lạc và tánh không.” Và cuối cùng rồi tất cả các tông phái cũng đều
đi đến một điểm chung; đó là điều mà tôi đã khám phá được qua kinh nghiệm
cá nhân cũng như sự quán chiếu của mình. Dĩ nhiên, không ai cấm đoán việc
mỗi người đều có thể có những chú giải riêng. Ngay cả trong cùng một tông
phái, Cách-Lỗ hay Ninh Mã, người ta cũng còn thấy cả những phương pháp
tiếp cận và trình bày khác biệt. Ðó là điều hết sức bình thường, hết sức
tự nhiên.
Trường hợp của Ðại sư Tsarchen Losel
Gyatso, Tát-Ca phái, người sáng lập tu viện Tsarpa là một ví dụ cụ thể, ta
thấy hai môn đệ chính và thân cận nhất của Ngài lại có cách triển khai,
lĩnh hội và kiến giải giáo pháp, cũng như lối tiếp cận và phong cách hoàn
toàn khác nhau. Cũng thế, Ca-Nhĩ-Cư phái có đến bốn tông chính và tám chi
phái phụ, cống hiến các hình thái tiếp cận và kiến giải một cách đa dạng.
Cũng không thiếu những vị đại sư có cách truyền thụ theo truyền thống
riêng của mình xem đó như là giáo lý tối thượng.
Ngài đã dạy chúng tôi quán chiếu về bản
chất của khổ đau và nguyên nhân của các mối phiền não. Hình như tất cả
đều được khởi nguồn từ những chấp trước vi tế về nhị nguyên tính, từ đó
khai sinh ra sự phân biệt giữa cái ngã và tha nhân. Thưa Ngài, cái nhị
nguyên tính vi tế này là bản chất vốn có trong tâm của mỗi con người khi
mới sinh ra hay là kết quả thu thập được bởi thói quen, và xu hướng bản
năng? Ta có thể loại trừ hay chuyển hoá nó thành một dạng tinh khiết hơn
không?
Khi nói đến “bẩm sinh” hay “bản năng” ta
phải hình dung ra hai lối diễn giải. Chẳng hạn như một trong những phẩm
chất bẩm sinh không hề tách lìa khỏi tâm chính là cái bản tánh thuần khiết
vốn có của nó. Những phẩm chất như thế vốn tự có được gắn liền với tâm.
Hơn thế nữa, cái tiềm năng có thể đạt đến sự toàn trí toàn giác của một vị
Phật, cái tiềm năng thực chứng thập địa trong mỗi người không những là bản
chất vốn có trong tâm mà nó cũng không hề tách lìa khỏi yếu tánh.
Một nhận thức khác về “bẩm sinh” phần nào
liên quan đến ý niệm về nguồn gốc,bao hàm ý nghĩa rằng chúng ta không thể
nào xác định được vào lúc nào thì chúng ta thu thập được cái phẩm chất đó.
Phẩm chất mà tôi muốn đề cập ở đây tức là những loại tính năng không được
phát triển bởi nhận thức trí óc hay hình thành dưới mọi dạng của điều kiện
hóa. Ngoài ra chúng ta cũng không thể không quan tâm đến những xung lực
tiêu cực -các tà kiến, những nỗi đau buồn, các mối phiền não- mà những dấu
ấn hay tiềm lực của nó đã xuất hiện trong giòng sinh thức của ta kể từ
thời vô thuỷ; đây là những gì gắn bó đến toàn thể chúng sanh đang nổi trôi
trong vòng sinh tử, con người cũng như chim chóc, côn trùng, v.v... Những
xung lực này được gọi là bẩm sinh, bản năng, hay tự sinh không hề mang ý
nghĩa là chúng đã được thu thập vào một thời điểm chính xác nào đó ở một
trong những kiếp sống của ta mà thực ra chúng đã được tách biệt một cách
rốt ráo và không có một tác động nào lên bản tánh chủ yếu của tâm cũng như
không tồn tại mãi mãi ở đó. Ðó là lý do tại sao mà chúng có thể được giải
trừ khỏi tâm.
Khi nói đến nhị nguyên tướng cũng đồng thời
bao hàm nhiều cách diễn giải khác nhau. Một trong số này có liên hệ đến
sự nắm bắt nhị đế (tục đế và chân đế), tức hai loại chân lý -một loại chân
lý tương đối hay chân lý quy ước và một loại chân lý rốt ráo- như là hai
thực thể khác biệt. Ngay cả những bậc học giả lỗi lạc của Cách-Lỗ phái
cũng đã có những quan điểm khác biệt về vấn đề này. Một số cho rằng tâm
thức ô trược của vô minh chấp thủ này là biểu kiến, có ý thức; một số khác
lại cho rằng đó là vô thức nhị nguyên tính chấp thủ. Rõ ràng là có sự
hiện hữu của những xung lực về tâm nhị nguyên như thế; chúng được gọi là
những tấm màn che tri kiến. Một nhận thức khác về nhị nguyên tính chấp thủ
liên hệ đến sự nắm bắt hiện tượng và sự vật như là chúng độc lập, vốn có,
và tồn tại khách quan. Ðây là một hình thái của nhị nguyên thuyết ở mức
độ thô thiển hơn cả, và chính là gốc rễ đầu tiên của vòng sinh tử luân
hồi.
Như vậy ta có những mức độ khác nhau về nhị
nguyên tính. Mức độ thứ nhất, như tôi vừa mới trình bày, và mặc dù chúng
ta không hề nói rằng đây là nguồn gốc của vòng luân hồi sinh tử, thực ra
còn hơn thế nữa: chúng đã được bắt rễ từ tận trong tiềm thức, và cho dù
ngay cả những người đã được giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử cũng vẫn
còn ẩn chứa những xung lực nhị nguyên vi tế này, đó là tấm màn che chắn
không cho họ đạt đến được thánh quả của bậc toàn trí toàn giác. Bồ Tát
Tịch Thiên (Shantideva) trong Nhập-Bồ-Ðề-Hành-Kinh cũng đã giải thích rằng
tâm vô minh luôn chấp thủ về sự hiện hữu độc lập của sự vật cũng chẳng
khác gì một tấm màn phiền não, chính đây là nguồn gốc của khổ đau luân
hồi. Ðể được giải thoát, con người phải nhổ bật tận gốc rễ và loại trừ
tâm vô minh này.
Thưa Ngài, thái độ chấp trước vào giáo điều
phải chăng là một trở ngại cho mục đích giải thoát tối hậu?
Lời giải đáp cho câu hỏi này hoàn toàn tùy
thuộc vào quan điểm của mỗi cá nhân. Ðây có phải là phản ánh một quan điểm
chung hay đặc biệt muốn nói đến một hình thức tiếp cận của Phật giáo?
Trong trường hợp thứ hai, vâng, chấp trước vào khái niệm về tánh không là
một chướng ngại khá nguy hiểm, chưa kể đến sự chấp trước mà một người có
thể có đối với học thuyết mà mình đang theo.
Ngài có thể nói rõ thêm chi tiết liên quan
đến sự chấp trước vào tánh không và cho chúng tôi biết sự vô minh mà nó
phản ánh?
Hình thức chấp trước này trong đó kể cả
việc xem tánh không như là một thực thể tuyệt đối là một quan điểm bất
trị, khó chữa. Trong nhiều kinh sách, Ðức Thế Tôn đã đưa ra lời ẩn dụ rằng
các bệnh hoạn về đường tiêu hóa có thể có thể chữa trị được nếu bạn biết
sử dụng đúng thuốc, nếu không thuốc men sẽ trở thành một vấn nạn cho bạn
thay vì là một phương tiện trị liệu.
Có thực sự cần thiết phải có một người
hướng dẫn về tâm linh để giúp ta tiến bước trên con đường tu tập? Nếu có,
những tiêu chuẩn nào có thể giúp ta xác định được đó là một vị đạo sư tốt?
Những phẫm chất của một vị chân sư trong
Phật giáo đã được miêu tả đầy đủ trong tạng Luật và trong các kinh điển
Hiển và Mật giáo. Tiêu chuẩn đầu tiên là, nếu họ không phải là một vị học
giả uyên thâm về Phật học thì ít nhất cũng phải nắm vững lãnh vực mà họ
đang giảng dạy. Ðại Lạt ma Tông-Kha-Ba đã từng dạy rằng bất cứ ai muốn đi
tìm cho mình một vị bổn sư đồng thời cũng phải đạt tới một số những phẩm
chất cần thiết trước khi tìm kiếm chúng ở vị thầy mình. Thế nên bất cứ ai
muốn thuyết giảng giáo lý và nhận môn đồ cũng chỉ nên chấp nhận những đệ
tử có những phẩm chất mà họ đang muốn tìm kiếm ở vị bổn sư. Như vậy một
khi họ nhận ra được vị thầy của mình có khả năng triển khai những phẩm
chất đó ông ta sẽ lập tức xứng đáng là một vị bổn sư của họ.
Ngài nói rằng sự tin cậy lẫn nhau giữa một
vị bổn sư và đệ tử là điều cần thiết. Nhưng một khi niềm tin bị mất mát và
người đệ tử đã không còn liên hệ với vị bổn sư của mình, Ngài có những lời
khuyên nào để giúp cho họ có thể tiếp tục đi trên con đường đạo?
Ðiều khôn ngoan nhất là đừng bao giờ nghĩ
đến vấn nạn đó nữa và giữ cho mình một thái độ trung tính trong việc đối
xử với vị thầy mà mình đã mất niềm tin, không còn tin cậy nữa.
Ðể tiến triển trên con đường đạo hạnh, có
cần thiết phải có một vị bổn sư kề cận ở bên mình? Cụ thể như Ngài, Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma, có thể có vị bổn sư đang sống ở Ấn Ðộ?
Tôi nghĩ rằng ngay từ buổi ban đầu điều
khôn ngoan hơn cả là ta hãy nên nương tựa vào giáo pháp xem đó như là vị
thầy của mình. Một người đã quyết dấn bước trên con đường đạo thì ở mức độ
này, một vị thầy bằng xương bằng thịt chỉ là vấn đề thứ yếu. Sau này trên
từng chặng đường tiến triển, trong khi thu thập được một số kinh nghiệm,
đó là lúc bạn sẽ cần những hướng dẫn tâm linh của một vị thầy xứng đáng.
Tuy nhiên bạn nên cẩn trọng trong khi lựa chọn, phải khảo sát một cách kỹ
lưỡng xem ông ta có đủ những phẩm chất cần thiết hay không, để tránh
trường hợp sau này bạn khỏi bị rơi vào những tình huống khó xử, đáng buồn
khi đặt trọn niềm tin vào một cá nhân mà có thể họ sẽ là người lừa dối
hoặc gây nên những thiệt hại cho bạn. Bạn có thể tìm được rất nhiều vị
chân sư, những người đã đóng góp rất nhiều công sức cho việc hoằng dương
Chánh Pháp trong số những vị đang giảng dạy Phật giáo Tây Tạng hiện nay.
Và mặc dù số lượng những người này có thể còn rất ít ỏi, điều cần thiết là
ta phải phân biệt được giữa những người chân chính và những kẻ lợi dụng
Phật Pháp.
Làm thế nào chúng ta có thể tiếp tục được
con đường tu tập khi vị bổn sư của mình qua đời?
Nhập-Bồ-Ðề-Hành-Kinh xác nhận rằng ta có
thể tiếp tục nhận được những hồng ân của chư Phật ngay cả sau khi lìa bỏ
xác thân. Nếu vị bổn sư của bạn qua đời, dĩ nhiên bạn có thể tìm và quy y
theo một vị thầy khác hiện đang còn sống mà bạn nghĩ là thích hợp với
mình. Nếu không thể tìm được cho mình một vị chân sư khác, bạn nên tiếp
tục giữ mối quan hệ với vị thầy cũ của mình, bởi vì bạn có thể nhận được
những ân sũng của vị này ngay cả sau khi ông ta đã quá vãng. Khi tất cả
mọi điều kiện đã chín muồi và tình huống thuận lợi, thông qua những thực
chứng siêu linh ta có thể gặp gỡ lại vị chân sư của mình trong giấc mộng
hoặc hiện hình để nhận những lời giáo huấn.
Thưa Ngài, việc rút ra khỏi cuộc đời để
sống ẩn tu trong một thời gian dài hay ngắn có mang đến những lợi lạc nào
cho chính mình và người khác hay không?
Những lợi lạc của việc ẩn tu là để cách ly
ta khỏi những vọng động. Như thế mục tiêu chính của việc ẩn tu là nhằm
tách rời tâm ra khỏi những vọng động thế gian, đó là lý do tại sao trong
thời gian này ta phải đoạn tuyệt mọi tiếp xúc với người khác, vì những
cuộc nói chuyện đời thường trong khi tiếp xúc có thể gây ra những ảnh
hưởng, tác động đến tâm ta. Tuy nhiên nếu một người trệch bước ra khỏi mục
tiêu cơ bản này của sự ẩn tu, tự khép kín đời mình sống tách biệt cô đơn ở
những nơi chốn vắng vẻ sẽ chẳng đi đến một kết quả nào cả. Những tu sĩ
Thiên chúa giáo sống thành khẩn trong trạng thái tâm không vọng động đã
gây cho tôi một ấn tượng sâu xa. Trong một cuộc thăm viếng tu viện dòng
kín Grande Chartreuse gần đây, tôi đã được cho biết rằng truyền thống ẩn
tu này đã có mặt hơn một ngàn năm. Tôi đã được dịp được trao đổi với họ và
rất ngạc nhiên khi thấy rằng mặc dù đã không có sự giao lưu nào giữa Tây
Tạng với thế giới bên ngoài qua hằng bao thế kỷ, vẫn có những điểm tương
đồng trong truyền thống khổ hạnh giữa chúng tôi. Những khám phá này đã để
lại trong tôi những ấn tượng tốt đẹp.
Có phải là điều hợp lý hay không để trở
thành một tăng sĩ hay nữ tu trong xã hội Tây phương khi mà những cấu trúc
cần thiết để hổ trợ họ trong đời sống tu hành, học tập đã không hiện hữu?
Có phải là ta sẽ gặp nhiều khó khăn sau khi phát nguyện hơn là cứ sống như
một cư sĩ bình thường?
Nếu bạn thực sự suy nghĩ đến vấn đề này,
pháo đài phòng ngự hữu hiệu nhất được xây dựng ngay tại chính trên đất kẻ
thù! Ðể có thể vừa theo đuổi những hạnh nguyện của mình đồng thời đề kháng
lại những cám dổ thế tục trong một môi trường sống với bao nhiêu cảnh
huống quyến rũ những khát vọng con người, phải chăng đây là một thái độ
tuyệt vời, đáng khâm phục? Một hành giả thực sự tu tập theo Chánh Pháp
không nhất thiết phải sống biệt lập với xã hội của mình hơn là những người
chỉ biết theo đuổi phúc lợi cá nhân và hạnh phúc đời thường. Trong thời
đại này, chúng ta tốt hơn là nên sống như một thành viên năng động của xã
hội.
Trong xã hội Tây phương, hình như ta có
nhiều thuận lợi và dễ dàng hơn khi vừa sống một cuộc sống thế tục đồng
thời hiến dâng đời mình cho sự tu tập tâm linh. Ðừng bao giờ quá tha thiết
với ý nguyện thọ giới để trở thành một tăng sĩ hay nữ tu. Sự thiết tha đó
sẽ tách rời bạn ra khỏi xã hội đang sống hoặc hơn thế nữa đôi khi biến
nhiều người -tưởng rằng mình đang hành hoạt tín ngưỡng- trở thành như một
loại ảo thuật gia trong những bộ y phục quái dị!
Tuy nhiên hãy luôn ghi nhớ rằng khi chúng
ta nói đời sống tu hành là cội rễ của giáo lý, ta muốn đề cập chính yếu
đến Giới Luật nhằm đối phó với vấn đề đạo đức giới hạnh của tăng chúng.
Nếu như đời sống phạm hạnh không có một ý nghĩa quan trọng, tại sao Ðức
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta lại chọn lựa đi theo con đường này?
Xin Ngài cho biết sự khác biệt giữa thiền
và tập trung tư tưởng?
Tập trung tư tưởng là một khía cạnh của
thiền. Tôi không nắm vững ý nghĩa chính xác của từ “thiền” (meditation)
mà người Tây phương đang dùng, tuy nhiên trong ngôn ngữ Tây Tạng, chúng
tôi gọi đó là “gom” mà theo ý nghĩa từ nguyên là “làm cho tâm của một
người trở nên quen thuộc với đối tượng”, nói rõ ra là làm cho bạn quen dần
với đối tượng được thiền quán, từ buổi tập này đến buổi tập khác và tiếp
tục như thế mãi.
Thiền bao hàm rất nhiều khía cạnh. Khi mục
tiêu của bạn nhắm đến việc làm cho tâm của mình quen với một số những phẩm
chất như yêu thương, đức tin; có nghĩa là bạn hợp nhất tâm bạn với đối
tượng thiền làm một, chẳng hạn như lấy lòng từ bi làm đối tượng của thiền
thì tâm của bạn lúc đó sẽ trở thành rất từ bi. Cũng thế, nếu lấy đức tin
làm đối tượng, khi hành thiền bạn sẽ tạo nên một tình trạngï ổn cố cho đức
tin của mình. Và như vậy ta có thể nói rằng yêu thương, đức tin, và từ bi
đã thấm sâu vào tâm bạn với tất cả những phẩm chất tích cực của nó. Nói
một cách cụ thể hơn, đối tượng của thiền đã tạo hứng khởi và ảnh hưởng lên
tâm bạn.
Cũng thế, nếu ta tiếp tục thiền định về các
đề mục như vô thường, tánh không, v.v... các đối tượng của thiền lúc này
là những đối tượng đã được đã được nắm bắt lại để qua đó bạn có thể chú
tâm vào. Ta không phải chỉ hạn chế việc thiền định trên những phẩm chất
đặc biệt của tâm mà còn cả trên bản thể của thực tại, và từ đó thiền có
thể được phân ra làm hai loại chính: thiền quán và thiền chỉ còn được gọi
là nhất điểm tập trung, không phân tích. Cũng còn một dạng thiền khác mà
chúng ta thường gọi là tâm tịch tịnh, đây cũng là một hình thức của nhất
điểm tập trung, loại thiền chỉ; trong khi các pháp thiền nội quán được
liệt vào loại thiền quán.
Ngoài ra cách thức thiền định trên hình
tượng của những vị thần linh được liệt vào loại quán tưởng, tức hình dung
hoá, qua đó hành giả nhắm vào khía cạnh đặc biệt của một vị Phật hay Bồ
Tát mà mình chọn lựa và rồi thông qua tưởng tượng, bạn đồng nhất hóa với
vị này, cùng một lúc loại bỏ tất cả những ý niệm và mối liên hệ với thực
tại đời thường. Tuy nhiên, trong dạng cao nhất của Mật tông, một cái nhìn
nhất quán sẽ xuyên suốt qua bất kỳ tiến trình phân tích nào đưa hành giả
vào trạng thái định tưởng thâm sâu nhất. Ta cũng không thể không nhắc đến
hai trường phái Ðại Thủ Ấn (Mahamudra) và Ðại Viên Mãn (Dzogchen) đặt
trọng tâm vào việc thiền quán về tánh không.
Xác thân của con người được miêu tả trong
chương thứ tám của cuốn Nhập-Bồ-Ðề-Hành-Kinh như là một kho chứa các đồ uế
tạp, phải chăng đây là nhãn quan của phái Tiểu Thừa, trong khi Kim Cương
Thừa thì quan niệm rằng xác thân trên cơ bản là tinh khiết. Làm thế nào
để chúng ta hoà giải hai hướng tiếp cận này?
Khi giảng thuyết về lối tiếp cận của Phật
giáo, tôi thường hay liên hệ đến “Tứ Bách Trung Quán Kệ” của Ðại sư Thánh
Thiên (Aryadeva), có nội dung chủ yếu nói về Trung Ðạo. Nấc thang đầu tiên
của tiến trình tâm linh này chỉ rõ rằng bạn phải dứt khoát từ bỏ các tác
hành tiêu cực. Một khi đã đưa được nguyên tắc đạo lý này vào việc tu tập,
bạn phải chấp hành theo một cách nghiêm túc bằng cách loại trừ cho bằng
được cái mà ta gọi là thập ác hành; một con người mà đời sống tuân thủ
những giới hạnh luân lý căn bản như thế chắc chắn sẽ được tái sanh vào một
hoàn cảnh tốt đẹp hơn, như là được làm người trở lại chẳng hạn. Thế nên
một trong những mục tiêu tu tập của bạn là nhằm đạt đến một kiếp tái sanh
đầy triển vọng hơn trong tương lai. Ở nấc thang này của tiến trình tu
tập, sự tái sanh được tán dương và biểu hiện như là một mục tiêu đáng giá.
Bước tiếp theo của tiến trình tu tập đòi
hỏi bạn phải thực tập thiền quán về vô ngã trong một thời gian. Ðây là
phương thuốc chính để diệt trừ vô minh và các mối phiền não do vô minh gây
ra. Bạn tha thiết muốn loại trừ các mối phiền não cũng như các ấn tượng đã
từ lâu che mờ tâm bạn; có nghĩa là bạn đang tìm cách để giải thoát mình ra
khỏi vòng luân hồi sinh tử, thực chứng niết bàn, chấm dứt mọi ảo tưởng,
khổ đau. Sự quyết tâm này -tự giải phóng mình r a khỏi vòng xiềng xích
trói buộc của tử sinh- được xây dựng trên ý thức buông bỏ hoàn toàn. Chính
lúc này những thiền quán về bất tịnh của xác thân diễn ra. Từ đây, ước
muốn tái sanh về những cảnh đời tươi đẹp hơn từng được coi như là một viễn
tượng đầy ao ước và vinh dự trước đây cũng là một trong những nấc thang
cần phải được loại trừ, bởi vì chúng vẫn còn nằm trong vòng luân hồi sinh
tử. Mục tiêu của bạn giờ đây tiến xa hơn, được chuyển hoá từ ước muốn có
được những kiếp sống đầy hứa hẹn, tốt đẹp hơn trong tương lai trở thành ý
nguyện giải phóng mình hoàn toàn khỏi vòng luân hồi sinh tử. Mục tiêu của
bạn bây giờ là giác ngộ, là Phật quả.
Ở nấc thang thức ba, trong Mật thừa, nhận
thức của bạn về xác thân biến đổi một cách triệt để, bởi vì một khi thiền
quán chính mình mang hình ảnh của một vị Phật hay Bồ Tát, tất cả mọi sắc
tướng, kể cả thân xác phàm phu của bạn cũng đã hoàn toàn tan biến vào tánh
không. Bản thể của tâm bạn giờ đây vượt qua khỏi quảng chân không này dưới
dạng một linh thân. Nhận thức thông thường về xác thân đã tan biến vào
tánh không, bạn bây giờ đã được thánh hoá dưới một dạng thuần khiết nhất,
và như vậy điều này cũng chẳng có gì mâu thuẫn với những nấc thang trước
đây khi xác thân của bạn vốn muốn được buông bỏ, được nhìn dưới khía cạnh
bình thường, nói rõ hơn là khía cạnh bất tịnh.
Trong giáo lý thâm diệu của Mật thừa, xác
thân được xem như là một trong những phương tiện rất quý báu giúp ta đạt
đến giác ngộ một cách nhanh chóng. Mặc dầu hành giả hoàn toàn ý thức được
những bất túc và bất tịnh trong các bộ phận của xác thân, như đã được Ngài
Tịch Thiên mô tả, điều này không làm cho y bị mù quáng. Hành giả biết rằng
sự bất tịnh, bất túc và vô thường hiện hữu nhưng đồng thời y cũng nhận
thức được những tiềm năng kỳ diệu trong con người mình. Hành giả biết cách
vận dụng chúng một cách thích đáng vào mục tiêu cao cả, cảm ơn Mật thừa đã
cho ta những kỹ năng thiện xảo trong việc bảo tồn cũng như nâng cao sinh
khí và năng lực thể chất của con người. Thị kiến như thế đã làm cho xác
thân trở nên cực kỳ quý giá -không phải vì người ta cho nó là thanh tịnh,
hoàn hảo, hay đại loại như thế, mà bởi vì những hành giả Mật thừa có khả
năng phân biệt được giữa trạng thái thô lậu và vi tế của ý thức và như vậy
có khả năng áp dụng những phương thức khác biệt -thiền quán về các nguồn
ngoại cảm, đồng thiếp, năng lực tâm linh- để nhanh chóng đạt đến mục tiêu
của mình: Phật quả. Bởi vì các nguồn ngoại cảm, đồng thiếp, năng lực tâm
linh là những thể vi tế thuộc về sinh lý học, xác thân con người trong
trường hợp này được nhìn dưới một góc cạnh tích cực hơn.
Những hành giả tu theo Mật thừa cũng sử
dụng cả những tình cảm tiêu cực trên con đường học đạo. Ðiều này không có
nghĩa là những tình cảm như giận dữ, chấp trước, ganh tỵ,v.v... là lành
mạnh, hay tốt đẹp. Vấn đề là hành giả biết cách sử dụng các năng lực vi tế
làm nền cho sức mạnh của mỗi loại tình cảm này, đưa nó vào trong việc tu
tập của chúng ta, tức là sử dụng chúng vào một mục tiêu tích cực. Ta có
một hình ảnh tương tự để diễn giải khía cạnh đặc biệt này của Mật thừa:
giống như những loại côn trùng được sinh ra trong gốc cây, chúng trưởng
thành bằng cách ăn ngấu nghiến gốc cây đó cho đến khi gốc cây hoàn toàn bị
tiêu huỷ, trạng thái thiền định sản phẩm bởi sử dụng năng lực của các loại
tình cảm này cuối cùng cũng sẽ tiêu thụ chúng một cách toàn diện. Ngoài ra
các dạng khác của thần linh và những mạn-đà-la của họ thì rất nhiều, khó
mà diễn tả hết ở đây. Các dáng vẻ, diện mạo này đều có tính cách tượng
trưng tùy lúc đều tương ứng với một mục đích hay khung cảnh đặc biệt nào
đó.
Tính cách bất tịnh của xác thân phụ nữ
thường được đề cập đến trong Nhập-Bồ-Ðề-Hành-Kinh. Ta giải thích như thế
nào về vấn đề này và quan điểm của Phật giáo đối với phụ nữ như thế nào?
Những đoạn văn trong tác phẩm của Bồ Tát
Tịch Thiên mà qúy vị đề cập tới liên quan đến những lời thuyết giảng được
truyền đạt cho một nhóm tăng sĩ đã hoàn toàn thọ giới. Thế nên với sự chú
tâm của họ, Ngài Tịch Thiên đã miêu tả sự bất tịnh của xác thân phụ nữ.
Thế nhưng trong trường hợp hành giả là một phụ nữ, sự quán tưởng sẽ được
tập trung vào những khía cạnh ô trược của xác thân nam giới. Mục đích đều
như nhau, tức là nhắm đến việc loại trừ những ham muốn về xác thịt. Bên
cạnh sự khác biệt là đàn ông không thể mang thai con cái trong chín tháng,
xác thân của họ đều giống nhau nếu nhìn trên khía cạnh tịnh và bất tịnh.
Về vị trí của người phụ nữ trong Phật giáo
thiết tưởng ta cũng cần nên làm sáng tỏ một vài điểm ở đây. Theo truyền
thống của Giới Luật, tức là kỷ luật của đời sống phạm hạnh, đã đề cập đến
tất cả bảy loại giới mà cao hơn cả là Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới. Về mặt
thụ giới thì cơ hội đều đồng đều giữa nam và nữ, tuy nhiên truyền thống cổ
xưa đã duy trì một thứ tôn ti trật tự dành ưu thế cho tăng hơn là ni. Cụ
thể như một vị ni cho dù đã thọ giới trước một vị tăng, vẫn phải ngồi đằng
sau tăng. Truyền thống Mulasarvastavada quyết định rằng giới đàn truyền
giới cho phụ nữ phải bao gồm cả tỳ kheo và tỳ kheo ni, trong khi người nam
có thể được truyền giới bởi một giới đàn chỉ gồm tăng là đủ.
Bên cạnh những biệt đải về thức bậc phải kể
đến vấn đề phái tính. Ðược biết trong Bồ Tát Thừa cũng như trong ba đẳng
cấp đầu tiên của Mật Thừa, để đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn điều cần thiết
là phải mang thân nam giới. Tuy nhiên đẳng cấp thứ tư, đẳng cấp cao nhất
của Mật Thừa, nhấn mạnh một cách đặc biệt đến thái độ phải có của người
nam đối với phái nữ, trong số đó cụ thể là người nam không bao giờ được la
rầy hay có thái độ xử sự kẻ cả đối với phụ nữ. Hơn thế nữa, trong những
đẳng cấp cao của Mật Thừa đã hoàn toàn chấp nhận rằng một người có thể đạt
đến giác ngộ ngay trong một kiếp sống khi vẫn còn mang thân xác nữ giới.
Cho nên ngay cả đối với một hành giả là tăng sĩ đã thọ giới, khi tu tập
theo đẳng cấp này của Mật Thừa được yêu cầu phải cúi mình trước phụ nữ và
đi nhiễu chung quanh họ một khi phải đối mặt, mặc dù Thừa này đã không đòi
hỏi hành giả phái nữ phải có một lối cư xử như thế khi đối diện với một
người nam.
Tất cả những điều này có thể tạo nên một số
phản ứng vì qúy vị ở đây chắc là có những chứng cớ cho thấy rằng phụ nữ có
thể nắm giữ những địa vị vô cùng quan trọng. Tuy nhiên tôi nghĩ rằng sự kỳ
thị đối với phụ nữ được thể hiện trong truyền thống tăng lữ phần nào phản
ánh cái cấu trúc xã hội dưới thời Ðức Phật còn tại thế. Bầu khí của xã hội
ngày càng tiến triển, bây giờ là lúc ta cần phải quan tâm đến những thay
đổi, bổ khuyết. Với tâm nguyện như thế tôi đã từng nêu lên đề nghị triệu
tập một hội nghị bao gồm đầy đủ các đại diện của các cộng đồng tăng lữ để
nghiên cứu đến vấn đề canh tân cải cách.
Một vấn đề có thể xảy ra là hai giới hạnh
đôi khi lại mâu thuẫn lẫn nhau. Trong trường hợp này, hạnh nguyện nào cao
hơn thì sẽ có uy thế hơn, đó là trường hợp một giới hạnh của Giáo Luật mâu
thuẫn với một giới hạnh của Mật Thừa. Ví dụ như, một vị thụ giới Tỳ kheo,
theo đúng giới luật là không được đụng chạm đến qúy kim, hay cất giữ tiền
bạc; thế nhưng trong Bồ Tát Hạnh lại cho rằng bạn sẽ vi phạm giới nếu từ
chối quà tặng được cúng dường cho bạn bởi lòng từ bi, tin cậy và tín kính.
Ðây là một thí dụ về sự xung đột giữa hai giới hạnh. Ðể giải quyết, ta
quan tâm đến giới hạnh nào cao hơn sẽ có ưu thế đối với giới hạnh thấp hơn
theo thứ bậc của giới luật. Bồ Tát Hạnh dạy rằng bạn phải đút túi bất cứ
cái gì người ta cúng dường bạn! Nếu từ chối tức là bạn phạm giới. Trong
trường hợp này, cách hành xử của một vị bồ tát dĩ nhiên ưu tiên hơn là
giới luật của tăng lữ.
Một thực tế mà qúy vị thấy là khi tôi
thuyết pháp, hành lễ thì chỉ có sự hiện diện của tăng sĩ Tây Tạng phụ giúp
trên lễ đài, đây có thể là một sự kỳ thị, nhưng trên căn bản không đến nỗi
trầm trọng lắm.
Giáo Pháp trên cơ bản là phản ánh sự luyện
tâm. Như vậy phải chăng những đường hướng tu tập tâm linh đặt căn bản trên
sự luyện tập thể xác, như môn du già thể dục chẳng hạn, là sai lầm?
Tôi không nắm vững chi tiết lắm về bộ môn
du già thể dục. Mục tiêu của nó chắc hẵn là tốt đẹp bởi vì nếu thể xác
mạnh khoẻ thì cũng có thể tạo nên một vài sự bình ổn tâm hồn. Thế nên ta
có thể nói rằng thể dục mang lại lợi ích. Tu tập theo Mật thừa vốn ưu tiên
chú trọng đến sự thực chứng về nguồn linh quang trong suốt vi tế, thế
nhưng cũng đã thực hành rất nhiều động tác thể dục khác nhau, đặc biệt là
sử dụng đến các bộ phận cấu thành cơ thể.
Thưa Ngài, theo Phật giáo, thập thiện
nghiệp gồm những gì?
Ðó là ba thiện nghiệp thuộc về thân gồm:
Không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm. Bốn thuộc về khẩu: Không
vọng ngữ, không đâm thọc, không rủa xả, không tham dự vào những cuộc nói
chuyện phiếm, vô bổ. Và cuối cùng là ba nghiệp thuộc về ý là: tâm không
tham lam, không sân hận và không si mê vào tà kiến, trong đó có các quan
điểm cực đoan chẳng hạn như hư vô chủ nghĩa chẳng hạn, vốn hoàn toàn phủ
nhận trạng thái tâm linh viên mãn.
Thông thường khi nói đến “tà kiến”, chúng
cũng được bao gồm cả những kiến chấp về tuyệt đối, vĩnh cửu, và hư vô. Tuy
nhiên trong khung cảnh của mười tác hành thiện nghiệp, chỉ có kiến chấp về
hư vô là được ám chỉ đến. Thế nên khi đã khép mình vào một cuộc sống lấy
đạo đức làm căn bản, con người phải cố gắng tiết chế để không hành động
trái ngược lại mười tác hành thiện nghiệp nói trên, tức là không phạm vào
mười ác nghiệp. Khi đối diện với một tình huống có thể đưa đẩy bạn đến chỗ
vi phạm những hành động tiêu cực như thế, bạn phải chế ngự để không bị rơi
vào ác nghiệp. Một đời sống có đạo đức tự bản chất đã loại trừ mười tác
hành ác nghiệp để đi theo con đường ngược lại.
Nếu ta phạm phải một ác hành nghiêm trọng,
làm thế nào để có thể xoá bỏ được mặc cảm tội lỗi sau đó?
Trong những tình huống như vậy, thường là
có nguy cơ dẫn đến mặc cảm tội lỗi và rồi suy sụp tinh thần, theo quan
điểm Phật giáo thì bạn nên tự mình thực hiện một vài phương thức suy nghĩ
và thái độ sống qua đó có thể giúp bạn phục hồi lại niềm tự tin. Một Phật
tử có thể quán chiếu về bản tánh chơn tâm của một vị Phật, về yếu tính
thanh tịnh của nó, cũng như bằng cách nào mà những phiền não và những hệ
quả tình cảm do chúng gây ra thuộc về một bản thể khác hoàn toàn tách
biệt. Bởi vì những phiền não đó là ngoại lai, chúng có thể hoàn toàn được
loại bỏ. Hãy suy nghĩ về một nguồn năng lực vô tận ẩn chứa trong ta, hiểu
được rằng bản tánh của tâm ta vốn thanh tịnh, nhân ái và rồi thiền quán
trên nguồn sáng vô biên của nó, lần hồi bạn sẽ có khả năng phát triển được
lòng tự tin và can đảm.
Trong các kinh sách, Ðức Bổn sư đã dạy rằng
sự giác ngộ hoàn toàn, sự toàn tri, toàn giác của những bậc thánh nhân
không phải do từ lòng đất phun ra, cũng không phải từ trên trời rơi xuống
mà là kết quả của sự thanh lọc tâm linh. Những vị này có thể cũng đã có
một thời rối rắm như chúng ta hiện nay, cũng đầy dẫy những yếu kém, những
sai lầm thiếu sót như bất cứ thế nhân thường tình nào khác. Ngay cả Ðức
Bổn sư Thích Ca Mâu Ni trước khi giác ngộ cũng đã trải qua những kiếp sống
còn cay đắng khó khăn hơn cả những kiếp sống hiện tại của chúng ta. Như
thế, nhận thức được tiềm năng có thể đạt đến tâm linh viên mãn trong mỗi
con người là một phương thuốc hữu hiệu để chống lại mặc cảm phạm tội, sự
chán ngán kinh tởm và tuyệt vọng. Bồ Tát Long Thọ trong “Tràng Hoa Quý về
những Hướng Dẫn cho Ðấng Quân Vương” đã dạy rằng tinh thần bi quan và chán
nản chẳng bao giờ giúp ta tìm ra được giải pháp tốt đẹp cho bất kỳ vấn nạn
nào. Mặt khác, ai cũng biết kiêu căng ngã mạn là một tánh xấu, tuy nhiên
chữa trị nó bằng một thái độ khiêm tốn nhún nhường quá đáng có thể nuôi
dưỡng mầm móng sự mất tự tin, làm cho ta chán ngán, nản lòng. Và như thế
chúng ta đã đi từ một cực đoan này sang một cực đoan khác.
Nhân đây tôi cũng xin được góp ý rằng có
lắm người tự nguyện sống ẩn tu trong một thời gian, ví dụ như ba năm, với
tất cả hy vọng và mong đợi tràn trề, họ nghĩ rằngï sẽ không gặp phải một
khó khăn nhỏ nhặt nào và rồi sau đó có thể đạt đến chứng ngộ, tôi cho rằng
điều này có thể biến thành một thảm họa trừ phi họ làm việc đó với những ý
hướng nghiêm túc. Nếu bạn đánh giá quá cao khả năng của mình cũng như mang
lòng tự tin quá đáng, tất cả sẽ dẫn bạn đến tình trạng thất vọng và hoàn
toàn vỡ mộng. Khi bạn nghĩ đến lời dạy của Ðức Bổn sư, rằng sự giác ngộ
hoàn toàn là kết quả của sự thanh lọc tâm linh và những tích lũy của đức
hạnh và trí huệ trải qua a tăng tỳ kiếp, chắc chắn là bạn sẽ cảm thấy can
đảm và vững tâm hơn để tiến bước trên con đường tu học.
Thưa Ngài, vào thời điểm nào giữa cái chết
và sự tái sanh thì con người mất sự nhận thức về kiếp sống trước đó của
mình?
Ký ức của con người rõ ràng nhiều hay ít
đều tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Nhiều người, trong giai đoạn tuổi thơ của
họ, đã có khả năng nhớ lại những chi tiết thuộc về tiền kiếp của mình. Tuy
nhiên một khi đứa trẻ bị kinh hoàng bởi một sự kiện nào đó, sự kích thích
càng lớn bao nhiêu càng gây ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn đứa trẻ chừng
nấy. Lúc tôi mới hai tuổi, bởi vì không có cầu tiêu ở trong nhà, tôi đi ra
ngoài đồng để làm cái công việc tự nhiên đó, bỗng nhiên tôi thấy một con
lạc đà to lớn xăm xăm đi lại hướng mình. Tôi quả đã chết khiếp đi vì sợ.
Tôi không nhớ rõ là mình có bỏ chạy nữa chừng trong lúc còn đang làm cái
công việc sinh lý tự nhiên đó hay không, tuy nhiên kinh nghiệm này quả
thật là rất mãnh liệt đến độ bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in những hình ảnh
đã xảy ra hôm đó.
Bất cứ chuyện gì để lại một dấu ấn mạnh mẽ
trong tâm ta cũng đều có một tác động tương tự như thế. Nếu ký ức của ta
được phát triển tốt ta sẽ có khả năng hồi tưởng lại những sự kiện xảy ra
từ kiếp trước. Một điều cũng thường xảy ra là, trong giai đoạn ấu thơ, mặc
dù các bộ phận giác quan chỉ mới ở trong tình trạng phát triển, chúng ta
vẫn có khả năng nhớ lại tiền kiếp của mình một cách dễ dàng hơn. Ðiều này
cũng giống như các hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên: chẳng hạn như nếu
trời mưa hôm qua, hôm nay ta cảm thấy không khí mát mẻ hơn, nhưng rồi dưới
ánh nắng mặt trời, nó sẽ dần tan mất. Tuổi càng già ta càng thu thập thêm
nhiều kinh nghiệm mới trong kiếp sống này và những dấu ấn của tiền kiếp
càng nhạt nhoà đi. Tiến trình này cũng chỉ là bình thường thôi! Tuy nhiên
khi cái chết gần kề, những sắc tướng cùng với nhận thức liên quan đến kiếp
sống mà ta sắp giả từ sẽ dần dần phai nhạt để đi đến sự kết thúc hoàn
toàn. Và rồi trong giai đoạn thân trung ấm, tùy theo nghiệp lực của mình
mà ta sẽ nhìn rõ kiếp sống tương ứng ở đời sau. Những người có ký ức đặc
biệt, trong một số trường hợp, đã có khả năng nhớ lại cả hàng trăm tiền
kiếp của mình một cách hoàn hảo.
Làm thế nào để cho nỗi sợ hãi cái chết tan
biến cùng với sự cám dỗ của ý muốn hủy diệt, tự sát?
Chạy trốn khổ đau hoặc lẩn tránh không suy
nghĩ đến nó không phải là những phương cách hữu hiệu để khắc phục vấn đề.
Một phương thức hữu hiệu hơn cả là hãy đối mặt và phân tích vấn nạn từ mọi
góc cạnh. Nói một cách khác, hãy đối đầu với nó. Ðối với cái chết, một
giai đoạn tự nhiên của kiếp sống, cũng thế. Cái chết là một phần của đời
sống. Làm quen với tiến trình của nó sẽ giúp ta quen thuộc với ý tưởng về
nổi chết. Một khi đã hoàn tất chuyện này, sự xuất hiện của tử thần sẽ
không còn làm ta xúc động hay kinh hãi trước những tình huống không ngờ.
Ðây là một sự thật cho dù bạn là kẻ có đức tin, là một tín đồ của đạo Phật
và tu tập hành trì hàng ngày hay không. Một số yếu tố làm thay đổi phản
ứng của ta trước giờ lâm tử. Chúng ta có vượt qua được cơn sợ hãi và nổi
đớn đau thường đi kèm theo cái chết hay không, điều đó còn tùy thuộc vào
những phương thức mà chúng ta hành xử trong suốt đời mình.
Dấu hiệu bên ngoài của cái chết được bộc lộ
như thế nào? Làm sao Ngài có thể xác quyết được rằng một người thực sự đã
chết hay không?
Phương thức xác thực nhất và cũng khó khăn
nhất là xem xét tiến trình hô hấp. Kinh sách đã đề cập đến một số dấu hiệu
bên ngoài báo hiệu cái chết xảy ra. Sự buồn thảm u ám là một dấu hiệu. Khi
cái chết thực sự diễn tiến, những dấu hiệu sinh lý bên ngoài tương ứng với
sự thu hút lại của những bộ phận cấu thành cơ thể.
Thưa Ngài, phương cách nào được xem là lợi
ích nhất để giúp đỡ một người đang lâm tử?
Ta không cần phải thắc mắc người đó có tu
hành theo một tôn giáo nào hay không, điều quan trọng nhất là giúp họ được
chết với một tâm hồn thanh thản cũng như không làm bất cứ điều gì có thể
gây phiền não cho tâm hồn họ trong giây phút cận tử này. Ðể có thể đảm bảo
một khung cảnh yên bình như thế, tốt nhất là nên bao quanh người chết với
một bầu khí đầy yêu thương, trìu mến càng nhiều càng tốt. Cho nên thật quả
là điều đáng buồn nếu không nói là cực kỳ bi thảm khi ta bỏ rơi một con
người trước giờ lâm tử, không cho họ một nơi chốn thân yêu, nguồn giúp đỡ
để bám víu trong giây phút cuối của cuộc đời.
Ngài đã từng đề cập đến lòng từ bi và sự
hiểu biết về tánh không như là những phương cách để xoa dịu khổ đau. Làm
thế nào để có thể truyền đạt những thông điệp này đến bệnh nhân của chúng
tôi, đa phần là những người già yếu?
Nếu họ là những người tin tưởng vào Thượng
Ðế, là những tín đồ Cơ Ðốc, Do Thái hay Hồi giáo, đối với tôi, điều dễ
dàng hơn cả là giải thích cho họ về những gì mà họ sắp trải qua trên căn
bản những tín lý mà họ tin tưởngï. Ðối với một người không tín ngưỡng,
phải cho họ chấp nhận một sự thực rằng cái chết là một điều rất tự nhiên,
là một giai đoạn bình thường của kiếp sống, không phải chỉ riêng một mình
y mà tất cả mọi người đều phải gánh chịu, không miễn trừ một ai, không lúc
này thì lúc khác ở trong đời. Tuy nhiên, xin qúy vị lưu ý rằng tôi không
thể đưa ra những câu trả lời chung chung cho từng trường hợp cá biệt. Tôi
nghĩ là chúng ta cần phải điều chỉnh sự nhạy cảm của mình phù hợp với bối
cảnh của từng cá nhân để có thể có được những phương cách thích ứng nhằm
giúp đỡ họ một cách hữu hiệu.
---o0o---
Mục lục
| Phần thứ 01 |
Phần thứ 02 |
| Phần thứ 03 |
Phần thứ 04 |
Phần thứ 05 |
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---