GIỚI THIỆU Tuvien.com

Tuvien.com – Ngôi Chùa Online & Kho Tàng Phật Pháp Vô Tận

Trong thời đại công nghệ số, việc tiếp cận và thực hành Phật pháp đã trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết nhờ các nền tảng trực tuyến. Trong số đó, Tuvien.com nổi lên như một địa chỉ đáng tin cậy, một thư viện khổng lồ và một "ngôi chùa online" đích thực dành cho mọi Phật tử và những người yêu mến đạo Phật.

Tuvien.com không chỉ là một website, đó là một kho tàng tri thức:

Tuvien.com chứa đựng hàng ngàn bài viết chất lượng về Phật pháp, được chọn lọc kỹ càng từ nhiều nguồn đáng tin cậy. Dù bạn là người mới bắt đầu hay đã thâm nhập kinh điển lâu năm, bạn đều có thể tìm thấy những kiến thức phù hợp:

  • Tủ Sách Kinh Điển Đa Dạng: Trang web quy tụ hàng chục bộ kinh từ các hệ phái khác nhau, bao gồm:
    • Kinh Điển: Cung cấp các bản kinh quan trọng từ Đại thừa, Nguyên thủy và các hệ phái khác.
    • Giới Luật, Luận Giải: Giúp người học hiểu sâu hơn về nền tảng đạo đức và triết lý Phật giáo.
    • Thiền Nguyên Thủy, Tổ Sư Thiền, Mật Tông: Các tài liệu chuyên sâu về các pháp môn tu tập.
    • Triết Học Phật Giáo: Phân tích các khía cạnh tư tưởng sâu sắc của đạo Phật.
  • Audio Thuyết Pháp Phong Phú: Đây là một trong những điểm mạnh của Tuvien.com, nơi bạn có thể nghe pháp bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu. Trang web lưu trữ các bài thuyết pháp của các bậc Hòa thượng, cư sĩ đạo cao đức trọng như:
    • Thầy Thích Thông Lai
    • Pháp Sư Tịnh Không, Pháp Sư Ngộ Thông
    • Cư sĩ - Diệu Âm (Australia)
    • Cùng nhiều bài thuyết pháp khác trong mục Các bài Thuyết Pháp.

Các mục Audio chuyên đề sâu sắc:

Để thuận tiện cho người nghe, Tuvien.com đã sắp xếp các nội dung Audio thành các chuyên mục chi tiết:

  • Audio Kinh điển đại thừa, Audio Đại tạng kinh (Nikaya), Audio Luận tạng, Audio Luật tạng: Giúp người nghe tiếp cận kinh điển một cách hệ thống.
  • Audio Thiền học, Audio Tịnh độ, Audio Triết học phật giáo: Đi sâu vào các pháp môn và học thuyết chuyên biệt.
  • Audio Truyện Phật Giáo, Âm nhạc phật giáo: Cung cấp nội dung giải trí lành mạnh, giàu tính giáo dục.

Phật Pháp Ứng Dụng & Văn Hóa:

Tuvien.com không chỉ dừng lại ở lý thuyết mà còn hướng đến sự ứng dụng thực tiễn trong đời sống:

  • Phật pháp cho người bắt đầu: Hướng dẫn căn bản cho những người mới tìm hiểu.
  • VĂN HÓA: Bao gồm các mục như Truyện Phật Giáo, Chết & Tái sinh, Nghệ thuật sống đẹp, Thơ, Hình ảnh Phật Giáo.
  • Ăn chay: Cung cấp Hướng dẫn nấu chayTài liệu chữa bệnh liên quan, hỗ trợ Phật tử thực hành nếp sống thanh tịnh.

Đặc biệt: Ngôi Chùa Online – Nơi Phật tử Về Nương Tựa

Hiểu được rằng không phải Phật tử nào cũng có điều kiện đến chùa thường xuyên, Tuvien.com đã xây dựng một Ngôi Chùa Online độc đáo. Tại đây, quý Phật tử có thể thực hiện các nghi thức tâm linh ngay trên website:

  • Cúng bái thắp hương: Thể hiện lòng thành kính với chư Phật, Bồ Tát.
  • Cầu siêu, Hộ niệm: Thực hành các nghi thức tâm linh quan trọng cho người đã khuất hoặc người bệnh.

Tuvien.com chính là cầu nối tâm linh vững chắc, giúp mọi người duy trì việc học hỏi và tu tập Phật pháp, mang ánh sáng từ bi và trí tuệ vào cuộc sống hàng ngày. Hãy truy cập ngay Tuvien.com để khám phá kho tàng tri thức vô giá này!

 

.


Tạng Luật
Vinaya Pitaka

Tiểu Phẩm
Cullavagga

Tỳ kheo Indachanda Nguyệt Thiên dịch

----oOo----

II. Chương Hành Parivāsa (Parivāsikakkhandhakaṃ)

1. Phận sự của vị hành Parivāsa (Parivāsikavattaṃ):

[320] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapindika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo hành parivāsa tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch (pakatattānam- bhikkhūnaṃ). Các tỷ-kheo ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo hành parivāsa lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch?

Rồi các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

[321] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã tụ họp hội chúng tỷ-kheo lại và hỏi các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo hành parivāsa lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch?

- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, tại sao các tỷ-kheo hành parivāsa lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, ...(như trên)...

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, như vậy các tỷ-kheo hành parivāsa không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch. Vị nào tiếp nhận thì phạm tội tác ác (dukkata).

Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, việc chắp tay, việc làm phận sự thích hợp, việc sửa soạn chỗ ngồi, việc sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, việc tiếp rước y bát, việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỷ-kheo hành parivāsa với nhau tính theo thâm niên.

Này các tỷ-kheo, ta cho phép năm sự việc: lễ Uposatha, lễ Pavāranā, y tắm mưa, vật cúng dường, bữa ăn của các tỷ-kheo hành parivāsa được tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỷ-kheo hành parivāsa, các tỷ-kheo hành parivāsa nên thực hành theo như thế.

[322] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa nên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên để sa-di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỷ-kheo ni, không nên giảng dạy tỷ-kheo ni dầu đã được chỉ định, không nên tái phạm tội đã được hội chúng đã cho hành parivāsa, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, không nên hành lễ Bố Tát (Uposatha), (hoặc) không nên hành lễ Tự Tứ (Pavāranā) chung với tỷ-kheo trong sạch, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên bảo tránh lối đi, không nên quở trách, không nên nhắc nhở (vị tỷ-kheo trong sạch), không nên tạo bè phái với các tỷ-kheo.

[323] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa không nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỷ-kheo trong sạch. Nên cho đến vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa không nên đi đến các gia đình với vị tỷ-kheo trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): "Chớ để họ biết về mình."

[324] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa là vị khách (đi đến) nên trình báo (về hành phạt đang thọ), nên trình báo đến vị tỷ-kheo khách, nên trình báo trong lễ Uposatha, nên trình báo trong lễ Pavāranā (về hành phạt đang thọ). Nếu vị ấy bị bệnh, người đại diện nên trình báo giùm.

[325] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ và không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

[326] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

[327] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay." Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay." Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay." Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay." Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay." Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay." Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."

[328] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che cùng với vị tỷ-kheo trong sạch. Khi thấy vị tỷ-kheo trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Nên mời vị tỷ-kheo trong sạch (ngồi) chỗ ngồi ấy. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỷ-kheo trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.

[329] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo hành parivāsa cùng với vị tỷ-kheo thâm niên hơn cũng là vị hành parivāsa …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta…(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta…(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội, không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.

[330] Này các tỷ-kheo, nếu vị thứ tư là vị đang hành parivāsa thì (hội chúng ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực hành) trở lại từ đầu, không thể cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (hội chúng ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.

Dứt Chín mươi bốn phận sự của vị hành parivāsa (Parivāsika).

[331] Lúc bấy giờ, đại đức Upāli đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Upāli đã bạch với đức Thế Tôn rằng:

- Bạch ngài, vị tỷ-kheo hành parivāsa có bao nhiêu (lý do bị) đứt đêm?

- Này Upāli, vị tỷ-kheo hành parivāsa có ba (lý do bị) đứt đêm: sự cư ngụ chung (với các hạng tỷ-kheo đã nêu trong phần phận sự ở trên), sự cư ngụ riêng rẽ (chỉ có một mình), sự không trình báo (cho các tỷ-kheo đi đến biết) [*]. Này Upāli, đây là ba (lý do bị) đứt đêm của vị tỷ-kheo hành parivāsa.

[*] Lời giải thích trong ngoặc đơn dựa vào chú giải Samantapāsādikā của Buddhaghosa.

[332] Vào lúc bấy giờ, một hội chúng tỷ-kheo đông đảo đã tụ hội tại Sāvatthi. Các tỷ-kheo hành parivāsa không thể hoàn thành hành phạt parivāsa. Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ngưng hành phạt parivāsa. Và này các tỷ-kheo, nên ngưng như vầy: Vị tỷ-kheo hành parivāsa nên đi đến một vị tỷ-kheo, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: "Tôi ngưng hành phạt parivāsa." Hành phạt parivāsa đã được ngưng lại. "Tôi ngưng (thực hành) phận sự." Hành phạt parivāsa đã được ngưng lại.

[333] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở Sāvatthi đã ra đi nơi này nơi nọ. Các tỷ-kheo hành parivāsa có thể hoàn thành hành phạt parivāsa. Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, ta cho phép thọ trì lại hành phạt parivāsa. Và này các tỷ-kheo, nên thọ trì lại như vầy: Vị tỷ-kheo hành parivāsa nên đi đến một vị tỷ-kheo, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: "Tôi thọ trì lại hành phạt parivāsa." Hành phạt parivāsa đã được thọ trì lại. "Tôi thọ trì lại phận sự." Hành phạt parivāsa đã được thọ trì lại.

Dứt phận sự của vị hành parivāsa.

2. Phận sự của vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu
(Mūlāya patikassanārahavattaṃ):

[334] Vào lúc bấy giờ, các vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch (pakatattānam- bhikkhūnaṃ). Các tỷ-kheo ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch?

Rồi các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

[335] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã tụ họp hội chúng tỷ-kheo lại và hỏi các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch, có đúng không vậy?

- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, tại sao các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)...

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch. Vị nào tiếp nhận thì phạm tội tác ác (dukkata).

Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, …(như trên)…, việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu với nhau tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, ta cho phép năm sự việc: lễ Uposatha, lễ Pavāranā, y tắm mưa, vật cúng dường, bữa ăn của các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu được tính theo thâm niên.

Này các tỷ-kheo, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, các tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu nên thực hành theo như thế.

[336] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu nên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên để sa-di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỷ-kheo ni, không nên giảng dạy tỷ-kheo ni dầu đã được chỉ định, vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu với tội nào thì không nên tái phạm tội ấy, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, không nên hành lễ Bố Tát (Uposatha), (hoặc) không nên hành lễ Tự Tứ (Pavāranā) chung với tỷ-kheo trong sạch, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên bảo tránh lối đi, không nên quở trách, không nên nhắc nhở (vị tỷ-kheo trong sạch), không nên tạo bè phái với các tỷ-kheo.

[337] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu không nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỷ-kheo trong sạch. Nên cho đến vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu không nên đi đến các gia đình với vị tỷ-kheo trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): "Chớ để họ biết về mình."

[338] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ và không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

[339] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

[340] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."

[341] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che cùng với vị tỷ-kheo trong sạch. Khi thấy vị tỷ-kheo trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Nên mời vị tỷ-kheo trong sạch (ngồi) chỗ ngồi ấy. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỷ-kheo trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.

[342] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu cùng với vị tỷ-kheo hành parivāsa …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu nhưng thâm niên hơn …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.

[343] Này các tỷ-kheo, nếu vị thứ tư là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu thì (hội chúng ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực hành) trở lại từ đầu, không thể cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (hội chúng ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.

Dứt phận sự của vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu.

3. Phận sự của vị xứng đáng hành mānatta (Mānattārahavattaṃ):

[344] Vào lúc bấy giờ, các vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch (pakatattānam- bhikkhūnaṃ). Các tỷ-kheo ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ...(như trên)..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch?

Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch, có đúng không vậy?

- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, tại sao các tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)… sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)...

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, như vậy các tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ...(như trên)..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch. Vị nào tiếp nhận thì phạm tội tác ác (dukkata).

Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, …(như trên)… việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta với nhau tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, ta cho phép năm sự việc: lễ Uposatha, lễ Pavāranā, y tắm mưa, vật cúng dường, bữa ăn của các tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta được tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta, các tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta nên thực hành theo như thế.

[345] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta nên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên để sa-di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỷ-kheo ni, không nên giảng dạy tỷ-kheo ni dầu đã được chỉ định, không nên tái phạm tội đã được hội chúng đã cho (thực hành) trở lại từ đầu, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, không nên hành lễ Bố Tát (Uposatha), (hoặc) không nên hành lễ Tự Tứ (Pavāranā) chung với tỷ-kheo trong sạch, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên bảo tránh lối đi, không nên quở trách, không nên nhắc nhở (vị tỷ-kheo trong sạch), không nên tạo bè phái với các tỷ-kheo.

[346] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta không nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỷ-kheo trong sạch. Nên cho đến vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta không nên đi đến các gia đình với vị tỷ-kheo trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): "Chớ để họ biết về mình."

[347] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta là vị khách (đi đến) nên trình báo (về hành phạt đang thọ), nên trình báo đến vị tỷ-kheo khách, nên trình báo trong lễ Uposatha, nên trình báo trong lễ Pavāranā (về hành phạt đang thọ). Nếu vị ấy bị bệnh, người đại diện nên trình báo giùm.

[348] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ và không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta ở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

[349] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta ở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

[350] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."

[351] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che cùng với vị tỷ-kheo trong sạch. Khi thấy vị tỷ-kheo trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Nên mời vị tỷ-kheo trong sạch (ngồi) chỗ ngồi ấy. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỷ-kheo trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.

[352] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta cùng với vị tỷ-kheo hành parivāsa …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta nhưng thâm niên hơn …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.

[353] Này các tỷ-kheo, nếu vị thứ tư là vị đang xứng đáng hành mānatta thì không thể cho hành phạt parivāsa, không thể cho trở lại (hành phạt) từ đầu, không thể cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì không thể giải tội, việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.

Dứt phận sự của vị xứng đáng hành mānatta.

4. Phận sự của vị thực hành Mānatta (Mānattacārikavattaṃ):

[354] Vào lúc bấy giờ, các vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, sự làm phận sự thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, giẻ chùi chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch (pakatattānam- bhikkhūnaṃ). Các tỷ-kheo ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo đang thực hành mānatta lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ...(như trên)..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch?

Rồi các vị ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

[355] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã tụ họp hội chúng tỷ-kheo lại và hỏi các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo đang thực hành mānatta lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch?

- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, tại sao các tỷ-kheo đang thực hành mānatta lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)… sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)...

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, như vậy các tỷ-kheo đang thực hành mānatta không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ...(như trên)..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch. Vị nào tiếp nhận thì phạm tội tác ác (dukkata).

Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, …(như trên)… việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỷ-kheo đang thực hành mānatta với nhau tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, ta cho phép năm sự việc: lễ Uposatha, lễ Pavāranā, y tắm mưa, vật cúng dường, bữa ăn của các tỷ-kheo đang thực hành mānatta được tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỷ-kheo đang thực hành mānatta, các tỷ-kheo đang thực hành mānatta nên thực hành theo như thế.

[356] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta nên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên để sa-di phục vụ, không nên chấp nhận sự chỉ định giảng dạy tỷ-kheo ni, không nên giảng dạy tỷ-kheo ni dầu đã được chỉ định, không nên tái phạm tội đã được hội chúng cho hành phạt mānatta, hoặc tội tương tợ, hoặc tội nghiêm trọng hơn tội ấy, không nên chỉ trích hành sự, không nên chỉ trích các vị thực thi hành sự, không nên hành lễ Bố Tát (Uposatha), (hoặc) không nên hành lễ Tự Tứ (Pavāranā) chung với tỷ-kheo trong sạch, không nên sai bảo, không nên cáo tội, không nên bảo tránh lối đi, không nên quở trách, không nên nhắc nhở (vị tỷ-kheo trong sạch), không nên tạo bè phái với các tỷ-kheo.

[357] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta không nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỷ-kheo trong sạch. Nên cho đến vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta không nên đi đến các gia đình với vị tỷ-kheo trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): "Chớ để họ biết về mình."

[358] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang hành mānatta là vị khách (đi đến) nên trình báo (về hành phạt đang thọ), nên trình báo đến vị tỷ-kheo khách, nên trình báo trong lễ Uposatha, nên trình báo trong lễ Pavāranā, nên trình báo mỗi ngày. Nếu vị ấy bị bệnh, người đại diện nên trình báo giùm.

[359] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ và không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta ở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ mà không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

[360] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta ở nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ nhưng có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo nhưng các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.

[361] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta ở nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta ở chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."

[362] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che cùng với vị tỷ-kheo trong sạch. Khi thấy vị tỷ-kheo trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Nên mời vị tỷ-kheo trong sạch (ngồi) chỗ ngồi ấy. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỷ-kheo trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.

[363] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta cùng với vị tỷ-kheo hành parivāsa …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta nhưng thâm niên hơn …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.

[364] Này các tỷ-kheo, nếu vị thứ tư là vị thực hành mānatta thì (hội chúng ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực hành) trở lại từ đầu, không thể cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (hội chúng ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.

[365] Lúc bấy giờ, đại đức Upāli đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Upāli đã bạch với đức Thế Tôn rằng:

- Bạch ngài, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta có bao nhiêu (lý do bị) đứt đêm?

- Này Upāli, vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta có bốn (lý do bị) đứt đêm: sự cư ngụ chung (với các hạng tỷ-kheo đã nêu trong phần phận sự ở trên), sự cư ngụ riêng rẽ (chỉ có một mình), sự không trình báo (cho các tỷ-kheo đi đến biết), sự thực hành ở nhóm thiếu (nhân sự). Này Upāli, đây là bốn (lý do bị) đứt đêm của vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta.

[366] Vào lúc bấy giờ, một hội chúng tỷ-kheo đông đảo đã tụ hội tại Sāvatthi. Các tỷ-kheo đang thực hành mānatta không thể hoàn thành hành phạt mānatta. Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ngưng hành phạt mānatta. Và này các tỷ-kheo, nên ngưng như vầy: Vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta nên đi đến một vị tỷ-kheo, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: "Tôi ngưng hành phạt mānatta." Hành phạt mānatta đã được ngưng lại. "Tôi ngưng (thực hành) phận sự." Hành phạt mānatta đã được ngưng lại.

[367] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở Sāvatthi đã ra đi nơi này nơi nọ. Các tỷ-kheo đang thực hành mānatta có thể hoàn thành hành phạt mānatta. Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, ta cho phép thọ trì lại hành phạt mānatta. Và này các tỷ-kheo, nên thọ trì lại như vầy: Vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta nên đi đến một vị tỷ-kheo, đắp y thượng y một bên vai, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy: "Tôi thọ trì lại hành phạt mānatta." Hành phạt mānatta đã được thọ trì lại. "Tôi thọ trì lại phận sự." Hành phạt mānatta đã được thọ trì lại.

Dứt phận sự của vị thực hành mānatta.

5. Phận sự của vị xứng đáng sự giải tội (Abbhānārahavattaṃ):

[368] Vào lúc bấy giờ, các vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch (pakatattānam- bhikkhūnaṃ). Các tỷ-kheo ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

- Vì sao các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch?

Rồi các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

[369] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã tụ họp hội chúng tỷ-kheo lại và hỏi các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch, có đúng không vậy?

- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

- Này các tỷ-kheo, tại sao các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội lại tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)...

Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:

- Này các tỷ-kheo, như vậy các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, …(như trên)…, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỷ-kheo trong sạch. Vị nào tiếp nhận thì phạm tội tác ác (dukkata).

Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, …(như trên)… việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội với nhau tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, ta cho phép năm sự việc: lễ Uposatha, lễ Pavāranā, y tắm mưa, vật cúng dường, bữa ăn của các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội được tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, như vậy thì ta sẽ quy định phận sự cho các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội, các tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội nên thực hành theo như thế.

[370] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội nên thực hành phận sự một cách nghiêm chỉnh. Trong trường hợp này, các phận sự nghiêm chỉnh ấy là: không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên để sa-di phục vụ, …(như trên)… (Phận sự của vị xứng đáng hành mānatta, của vị hành mānatta, của vị xứng đáng sự giải tội được giải thích giống như phận sự của vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu), không nên tạo bè phái với các tỷ-kheo.

[371] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỷ-kheo trong sạch. Nên cho đến vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng và vị ấy nên chấp nhận việc ấy. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên đi đến các gia đình với vị tỷ-kheo trong sạch làm vị sa-môn đi trước hoặc làm sa-môn thị giả, không nên thọ trì pháp cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): "Chớ để họ biết về mình."

[372] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ và không có tỷ-kheo trừ phi đi cùng với vị tỷ-kheo trong sạch, trừ phi có nguy hiểm…(như trên)… (Nên giải thích tương tợ như ở phần dưới).

Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội ở chỗ trú ngụ có tỷ-kheo có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo …(như trên)… chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỷ-kheo và các tỷ-kheo ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu vị ấy biết rằng: "Ta có thể đi đến nội trong ngày nay."

[373] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che cùng với vị tỷ-kheo trong sạch. Khi thấy vị tỷ-kheo trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Nên mời vị tỷ-kheo trong sạch (ngồi) chỗ ngồi ấy. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỷ-kheo trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.

[374] Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội cùng với vị tỷ-kheo hành parivāsa …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội nhưng thâm niên hơn …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo đang thực hành mānatta …(như trên)… cùng với vị tỷ-kheo xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung trong chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ chung trong nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên cư ngụ trong chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (trong khi vị kia) ngồi ở trên nền đất. Không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành (với vị tỷ-kheo trong sạch), không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.

[375] Này các tỷ-kheo, nếu vị thứ tư là vị xứng đáng sự giải tội thì thì (hội chúng ấy) không thể ban cho hành phạt parivāsa, không thể cho (thực hành) trở lại từ đầu, không thể cho hành phạt mānatta, nếu là vị thứ hai mươi thì (hội chúng ấy) không thể giải tội; việc làm ấy không phải là hành sự và không nên thực hành.

Dứt Phận sự của vị xứng đáng sự giải tội.

Dứt Chương Hành Biệt Trú là chương thứ hai.
Trong chương này có năm sự kiện.

Tóm lược chương này:

[376]

Các vị (bị phạm tội)
hành parivāsa
tiếp nhận sự đảnh lễ,
sự đứng dậy, chắp tay,
sự thực hành đúng đắn,
sắp xếp chỗ ngồi, nằm,
nước rửa chân, ghế kê,
giẻ chùi, sự nhận bát,
kỳ cọ lưng khi tắm
của tỷ-kheo trong sạch,
các vị tốt phiền não,
vị tiếp nhận tác ác.
Có năm điều khác nữa
được tính theo thâm niên:
lễ Uposatha,
lễ Pavāranā,
y tắm, vật cúng dường,
bữa ăn (là thứ năm).
Phận sự cần nghiêm chỉnh,
khi vị ấy đi cùng
vị tỷ-kheo trong sạch.
Là điều bị hạn chế:
không (sa môn) đi trước
hay thị giả đi sau,
cư ngụ ở trong rừng,
việc đem lại thức ăn,
trình báo đến vị khách,
lễ Uposatha,
lễ Pavāranā,
và nhờ vị sứ giả.
Vị ấy có thể đi
nơi nào có tỷ-kheo,
không ngụ chung mái che,
đứng dậy, và mời thỉnh,
và cũng y như thế
chỗ ngồi phải thấp hơn,
luôn cả lối kinh hành.
Đối với vị thâm niên,
kinh hành trên mặt đất,
không đi lối kinh hành.
Không là việc thực hành,
những lúc bị đứt đêm,
và vì sự toàn hảo,
việc ngưng, thọ trì lại.
Phận sự vị (phạm tội)
hành parivāsa,
vị hành lại từ đầu,
vị xứng mānatta,
vị hành mānatta,
vị xứng đáng phục chức,
được phân tích tương tợ
theo như phương pháp ấy.
Còn có ba điều nữa
cho vị (bị phạm tội)
hành parivāsa,
bốn điều cho các vị
thực hành mānatta,
không thực hành đúng đắn,
và các sự đứt đêm.
Phải trình báo hàng ngày
cho vị mānatta.
Hai hành phạt còn lại
cũng thực hành tương tợ
như ba hành phạt kia.

 

 

 

 

----oOo----

Mục Lục | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08

 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17

----oOo----

 

Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)

Source: BuddhaSasana

Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật ngày: 01-10-2003

 

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

定山渓ホテル tóm 有一句歌词是悠悠我心的歌 джэки коллинз аудикниги Lúc nhỏ dị ứng dấu hiệu nguy cơ tim 陳佳瑜醫師 評價 فأبصرتبدرالايرى зарубежная фантастическая マイクロソフト アカウント 吉原裏同 아놀드 가슴둘레 自坊 許ru Chè bưởi mát lành ร านไปรษณ ย ไทย Захисний кожух для Bình minh quê mình บร ษ ท ม ตส ค ระ ประว ต การเป 動画エロタレスト人妻ナンパ an cu kiet ha xuat gioi nhu the nao la dung phap ハッチヒャック направление вытяжки должно 충당부채 뜻 lam the nao de khong tro thanh nan nhan tu nhung おまんこ 枕営業 æœ åºƒè những hình ảnh đáng nhớ của trại hè 我长生了 但是被刨坟了下载 андзин сёгун 新浦安 分譲マンション 札幌ソラリア西鉄ホテル 被称为无能的 精灵者 其实是异能 澳洲怎么会被取消PR артанова Пелагея Федоровна заколкалинчивания мод на беам нг драйв на 离骚朗读 佐波郡赤堀町 Vị pháp vong thân Thánh tử đạo Thích 複数年手話 親愛的壞蛋 見出し 目次 書き方 美女总裁未婚夫沈浪下载 VÃƒÆ Ãƒ ЭЛИКСИР МОЛОДОСТИ Матвеев 寺院数愛媛県 無料熟女動画ヌード 鐵板燒推薦 上香的姿势 การลดความตระหน Chốn bình an