.


Tạng Luật
Vinaya Pitaka

Tiểu Phẩm
Cullavagga

Tỳ kheo Indachanda Nguyệt Thiên dịch

----oOo----

III. Chương Tích Lũy Tội (Samuccayakkhandhakaṃ)

[377] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapindika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi đã phạm một tội là tội cố ý xuất tinh, không có che giấu. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy:

[378] Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.

Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu lần thứ nhì.

Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu lần thứ ba.

[379] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[380] Khi đã hoàn tất hành phạt mānatta, vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tôi hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta, vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy giải tội cho tỷ-kheo Udāyi.

[381] Và này các tỷ-kheo, nên giải tội như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tôi hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội.

Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tôi hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội lần thứ nhì.

Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tôi hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội lần thứ ba.

[382] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận sự giải tội cho tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận sự giải tội cho tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận sự giải tội cho tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tỷ-kheo Udāyi đã được hội chúng giải tội. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[383] Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi đã phạm một tội là tội cố ý xuất tinh, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi.

[384] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[385] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[386] Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi. Tôi đã hoàn thành hành phạt parivāsa, vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi.

[387] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi. Bạch các ngài, tôi đã hoàn thành hành phạt parivāsa, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[388] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa, giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[389] Khi đã hoàn tất hành phạt mānatta, vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho tôi hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta, vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy giải tội cho tỷ-kheo Udāyi.

[390] Và này các tỷ-kheo, nên giải tội như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho tôi hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Bạch các ngài, tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội.

...(như trên)..., tôi cầu xin hội chúng sự giải tội lần thứ nhì.

Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tôi. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho tôi hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Bạch các ngài, tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội lần thứ ba.

[391] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận sự giải tội cho tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu một ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận sự giải tội cho tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tỷ-kheo Udāyi đã được hội chúng giải tội. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[392] Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi đã phạm một tội là tội cố ý xuất tinh, đã được che giấu hai ngày.…(như trên)… đã được che giấu ba ngày.…(như trên)… đã được che giấu bốn ngày.…(như trên)… đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi.

[393] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[394] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[395] Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy cho tỷ-kheo Udāyi đang ở vào giai đoạn giữa chừng được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.

[396] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[397] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đại đức nào thỏa thuận việc (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu của tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đại đức nào thỏa thuận việc (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[398] Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.

[399] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[400] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đại đức nào thỏa thuận việc (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[401] Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Tôi đã hoàn thành hành phạt parivāsa; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi.

[402] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, giờ tôi đã hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[403] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[404] Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã cho đến tôi hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy cho tỷ-kheo Udāyi dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu, rồi mới ban hành phạt mānatta sáu đêm.

[405] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã cho đến tôi hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[406] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu được. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[407] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày…(như trên)… Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã cho đến tôi hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được trở lại (từ đầu) của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[408] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày…(như trên)… Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che dấu. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày…(như trên)… Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che dấu, đã được hội chúng ban đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[409] Khi đã hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày….(như trên)… Khi đã hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu, rồi mới ban hành phạt mānatta sáu đêm.

[410] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: …(như trên)…

[411] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho hành phạt mānatta như vầy: …(như trên)…

(Hội chúng) ban cho ...(như trên)...

Hành phạt sáu đêm mānatta của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sư việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[412] Khi hoàn tất hành phạt mānatta, vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày….(như trên)… Tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta, vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy giải tội cho tỷ-kheo Udāyi.

[413] Và này các tỷ-kheo, nên giải tội như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tôi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi đã hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Bạch các ngài, tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[414] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa năm ngày của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa và đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Khi đã hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày…(như trên)… Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận sự giải tội của tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[415] Vào lúc bấy giờ, đại đức Udāyi đã phạm một tội là tội cố ý xuất tinh, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi.

[416] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[417] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[418] Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì sau khi đã cho (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày, hội chúng hãy ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây.

[419] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Bạch các ngài, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[420] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu ở vào giai đoạn nữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Đại đức nào thỏa thuận việc tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[421] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho sự parivāsa kết hợp (samodhānaparivāsa) với tội trước đây như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Bạch các ngài, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[422] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đã được hội chúng ban đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[423] Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng…(như trên)… Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì sau khi cho (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày, hội chúng hãy ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây.

[424] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: …(như trên)…

[425] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây như vầy: …(như trên)…

(Hội chúng) ban cho …(như trên)…

Hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đã được hội chúng ban đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[426] Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng …(như trên)… Tôi đã hoàn thành hành phạt parivāsa, vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi.

[427] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng …(như trên)… Bạch các ngài, tôi đã hoàn thành hành phạt parivāsa giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[428] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng…(như trên)… Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng…(như trên)… Vị ấy đã hoàn thành hành phạt parivāsa giờ cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận việc ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đã được hội chúng ban cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[429] Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng …(như trên)… Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì sau khi cho (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày, sau khi ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây, hội chúng hãy ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm.

[430] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: …(như trên)…

[431] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây như vầy: …(như trên)…

[432] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm như vầy: …(như trên)…

(Hội chúng) ban cho …(như trên)…

Hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, có che dấu năm ngày, đã được hội chúng ban đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[433] Khi hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng…(như trên)… Khi hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì sau khi cho (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày, sau khi ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây, hội chúng hãy ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm.

[434] Và này các tỷ-kheo, nên cho (thực hành) trở lại từ đầu như vầy: …(như trên)…

[435] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây như vầy: …(như trên)…

[436] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho hành phạt mānatta sáu đêm như vầy…(như trên)…

(Hội chúng) ban cho …(như trên)…

Hành phạt mānatta sáu đêm của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày đã được hội chúng ban đến tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

[437] Khi hoàn tất hành phạt mānatta, vị ấy đã trình với các tỷ-kheo rằng:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng….(như trên)… Tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta, vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỷ-kheo, như vậy thì hội chúng hãy giải tội cho tỷ-kheo Udāyi.

[438] Và này các tỷ-kheo, nên giải tội như vầy: Này các tỷ-kheo, tỷ-kheo Udāyi ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên trình với hội chúng như vầy:

- Bạch các ngài, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tôi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tôi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng tôi đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, tôi đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tôi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Bạch các ngài, tôi đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội.

Nên được cầu xin lần thứ nhì. Nên được cầu xin lần thứ ba.

[439] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:

- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa nữa tháng của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa và xứng đáng hành phạt mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội. Hội chúng đã ban cho hành phạt mānatta sáu đêm của ba tội đến tỷ-kheo Udāyi. Trong khi thực hành mānatta, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn tất hành phạt mānatta và xứng đáng sự giải tội, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng vị ấy đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Khi hoàn thành hành phạt parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Hội chúng đã ban cho tỷ-kheo Udāyi, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, hành phạt mānatta sáu đêm của của một tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu năm ngày. Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo Udāyi này đã phạm một tội là tội xuất tinh có sự cố ý, đã được che giấu nữa tháng…(như trên)… Vị ấy đã hoàn tất hành phạt mānatta giờ cầu xin hội chúng sự giải tội. Hội chúng giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Đại đức nào thỏa thuận sự giải tội của tỷ-kheo Udāyi, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã giải tội cho tỷ-kheo Udāyi. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

 

 

----oOo----

Mục Lục | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08

 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17

----oOo----

 

Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)

Source: BuddhaSasana

Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật ngày: 01-10-2003

 

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

tại sao có sự sống chết nối tiếp nhau ôi khi Thử Tùy bút Ơn thầy pháp ma bodhidharma Chuyến du lịch nhỏ của mẹ Câu chuyện núi Bà định Hương cốm ngày xuân y nghia ve viec doi bat vang lay chan kinh trong giû Đôi bàn tay ba chuyện Ä Ãºng chàm nghi thuc hoi huong tieu tru nghiep chuong benh vãn cảnh phương liên tịnh xứ lრnoi Vĩnh Phúc Tưởng niệm cố Đại lão tÃ Æ Cà phê giúp tăng cường trí nhớ 佛教中华文化 giua Bột gạo lứt chiên Nhà báo Malcolm Browne ngà thieu Tinh tế trà sen Hà Nội Chất béo chuyển hóa không tốt cho trí Bớt トo vuot qua noi co don 大谷派 chùa vĩnh khánh chùa trăm gian luật nghi khất sĩ lạt ma có hay không tâm phật c㺠am thuc chay ly tuong cao dep cua nguoi phat tu tai gia con rùa hái Sinh con trai như ý lui Khà i việc sử dụng ngôn ngữ trong thời đại giá băng chua linh an coi sach Tiêu Sô cô la 放下凡夫心 故事 Hà Nội Lễ huý kỵ lần thứ 17 cố Tin y nghia cua cac vat pham cung duong phat Học 7 tác hại của việc bỏ bữa ăn sáng Chùa Quán Thế Âm Đà Nẵng cẩn Tình Pháp lữ nhung cau chuyen ve nhan qua bat chanh dao 4 ï¾ ï½½