.

 

TUYỂN TẬP CÁC BÀI SÁM VĂN

Thích Đồng Bổn sưu tập

---o0o---

Tuyển tập IV

55 Bài Sám Văn Chọn Lọc 

 

V

CÁC BÀI SÁM VĂN

- CẢNH TỈNH

- KHUYẾN TU


 

209. SÁM VÔ THƯỜNG (II)

(Cảnh tỉnh vô thường 8)

 

Thế gian giả tạm bến mê

Thành tâm hướng tới nẻo về đường chơn

Cuộc đời cõi mộng chi hơn

Người trong nhân thế oán hờn tranh nhau

Dòng đời lắm nỗi lao xao

Ðâu là bền chắc, có nào chi đâu?

Sống thì ngụp lặn vọng cầu

Tâm kia điên đảo, mối đầu trầm luân

Tham sân si nặng vác khuân

Thế nên tâm tánh trôi lăn đêm ngày!

Từ thương đến giận ai hay

Từ yêu đến ghét tháng ngày đa mang

Từ buồn đến muốn lầm than

Ðeo mang cho lắm con đàng sầu thương!

Ðấy là tâm vọng đâu thường

Tâm duyên trần cảnh là đường khổ đau

Tâm nầy không thật mảy hào 

Cho nên biến đổi khi nào dứt đâu ?

Thân ta ví một con tàu

Luôn thay đổi bến chẳng lâu ở thường

Khi thì nóng sốt khổ vương

Khi thì lạnh rét tai ương đeo hoài!

Lão sanh tử bệnh đổi thay

Thọ thân là khổ nơi này trần gian

Có đâu bền chắc mà màng

Se sua thân xác theo đàng lụy thôi!

Trau tria cho lắm để rồi

Vô thường chợt đến mà lôi ra gò!

Vô thường hai chữ nhớ cho

Có chi bền chắc mà đo với lường

Cảnh đời cũng phải vô thường

Mọi loài mọi vật có dường bền lâu ?

Thế nên phải dứt vọng cầu

Gắng lòng tụng niệm đạo mầu bước lên

Ðể tạo phước báo thiện duyên

Ngày sau sẽ hưởng vượt lên cõi trần

Ðừng say ngũ dục ấm thân

Lầm mê trần thế, đắc phần tội mang

Ai ai thức tỉnh thế gian

Vô thường quỉ bắt, biết đàng nào đi ?

Thân tâm hoàn cảnh bủa vây

Nghiệp mang lửa đốt, do đầy lầm mê

Ai ơi lòng hướng cầu về

Nương theo chánh đạo một bề tu thân

Tử sanh khổ ải muôn phần

 Vô thường phải sợ chuyên cần tu tâm

Khổ công giáo lý nghiêm tầm

Tâm kia bền vững đừng lầm đường mê

Ðó là giác ngộ đường về

Ai ơi nhớ lấy chớ mê cảnh trần.

 

-     Trích soạn lại theo "Phật học sám kệ" - Thiích Tâm Minh - Bản in lụa  Sàigòn 1994.


 

210. VĂN TẾ LIỆT SĨ 

(Thí thực cô hồn 10)

 

Hỡi chư Liệt sĩ ôi!

Họa đao binh từng đốt nung đất Việt

Nạn xâm lăng đã giày xéo trời Nam

Phận làm trai, đành gánh vác nợ non sông

Người chiến sĩ, phải hy sinh đời oanh liệt

Nhớ những anh hùng xưa!

Vì chánh nghĩa, mất còn nào tiếc

Rửa nhục chung, sống chết đâu màng

Chốn sa tràng, trải mật phơi gan

Nơi chiến địa, nóng sôi nhiệt huyết

Gió đạn, mưa bom ào ạt, xông pha bắn giết

Núi xương, biển máu lăn mình, dày đẫm  đau thương

Màn trời chiếu đất, lướt trời nồng, dãi  nắng dầm sương

Vó ngựa sa trường, dày gió bụi, mang sao đội nguyệt

Vì nước vì dân, trước cái chết, vươn mình quyết tiến

Thương nòi thương giống, giữa đời trai,  nung chí anh hùng

Ðạn nổ súng rền, gió hơi bom,

   long trời lở đất, thi gan tiến tiến xung phong .

Cờ phất còi reo, tiếng trống dục,

   chật đất tràn đồng, gắng sức đùng đùng tử chiến.

Dưới làn bom, thịt nát xương tan,

   Ðành ngã gục không hề khuất tiếc.

Trước mũi súng, ruột tuông máu đổ,

   cam lụy mình chẳng khứng phục hàng.

Người chiến sĩ, đền xong nợ nước,

   trang sử xanh đánh dấu hiên ngang.

Ðấng anh hùng, rửa sạch nhục chung,

   đài liệt sĩ nêu gương trung liệt.

Than ôi!

Vì nước quên mình, sống oanh liệt chết  càng oanh liệt.

Xả thân báo quốc, sống vinh quang chết  cũng vinh quang

Cảm thương người, tai nạn tràn lan

Thương xót kẻ, uổng oan mất tích

Nhờ đức Phật độ về cõi tịnh

Nương tiếng Kinh thoát kiếp đao binh

Nơi dạ đài, người tử si có linh

Nương thể phách, về trai đàn chứng giám

Hỡi ơi! Thương thay!

Có linh xin chứng! Có linh xin chứng!

 
 

-     Trích soạn "Kinh Nhựt tụng" - Chùa Niệm Phật Bình Dương 1994.


 

211. VĂN TẾ CÔ HỒN (II)

(Thí thực cô hồn 11)

 

Từng nghe đạo cả, kỉnh thuật lời quê

Cõi nhơn gian thủy lục ê chề

Nỗi hồn phách tử vong ngao ngán

Trên đến bực vương hầu khanh tướng

Dưới đến người sĩ cổ nông công

Nào kẻ ty, nào người tôn

Nào là nam, nào là nữ

Hoặc có kẻ buộc mình trong linh ngữ

Hoặc có người sẩy bước chốn sa tràng

Hoặc sa hầm sa hang

Hoặc trúng thang trúng dược

Ðau ngang, dây buộc, sản nạn, huyết bồn

Hoặc nước bệnh dịch ôn, hoặc suông búa  sấm

Phép vua giảo trảm, trù ẻo vong thân, loài ấy rất nhiều

Nhiều đã quá nhiều, dẫu muốn kể, kể sao cho xiết

Kìa nương dựa, mả mồ đà mất biệt,

Nào từ đường, nơi chỗ có chi chi

Bơ vơ bên bụi dưới cây, lài lạc chốn đầu  gành cuối biển

Khổ nhiều nỗi gió mưa xao xuyến,

Biết mấy thu lạnh nắng đổi thay

Chẳng bốn mùa nào kẻ lạc trai

Mãn tám tiết vắng người đơm quảy

Rầu rầu rỉ rỉ, cõi u minh biết mấy xuân thu

Mù mù mịch mịch, đường xuất lý mảng  đợi trông ngày tháng

Hội vô giá may vừa gặp khoản,

Nương theo công bí mật hôm nay

Này hà sa Phật tử là ai, rày gặp lúc tiêu  diêu cõi thánh

Nọ lụy thế oan thân mấy kẻ, lại nhờ ơn giải thoát nợ trần

Chiến sĩ ôi! Cô hồn ôi!

Ngôi liên đài quanh quất bên thân

Miền tịnh độ chán chường gần trước mặt

Ngón tay búng chẳng phiền nhọc sức

Ðã chứng vào trong bực vô sanh

Lòng hởi lòng, lòng vốn hư minh

Ấy rõ thấu, ngôi Quan Âm Phật.

Nam Mô Siêu Lạc Ðộ Bồ Tát Ma Ha Tát.
 

-     Trích soạn theo Kinh Nhật Tụng - Bồ Tát Như Nguyện Thích Thiện Huê - Chùa Niệm Phật - Bình Dương 1974.


 

212. HỒI HƯỚNG TẾ VĂN 

(Thí thực cô hồn 12)

 

Kiến văn như huyển ế

Tam giới nhược không hoa

Văn phục, ế căn trừ

Trần tiêu, giác viên tịnh

Phục dĩ,

Nguyên chơn như thanh tịnh

Tội tánh vốn là không

Biển khổ rộng mênh mông

Sóng quanh theo đuổi mãi

Bởi nghiệp cảm chúng sanh mang phải

Khiến trầm luân kiếp nọ chịu đọa đày

Ðịa ngục đà thọ báo đắng cay

Ngạ quỉ lại chuyển sanh đói khát

Ðã chẳng có ngày giải thoát

Ắt là không chỗ đặng siêu thăng

Ví chẳng nhờ từ nguyện đức kim thân

Ðể mở đặng đảo huyền dây ác thú

Chơn thuyên ấy, niệm đôi câu chú

Thí ra trên tiệc cam lồ

Bảo cự kia, thắp một ngọn đèn

Soi khắp trong đường minh giới

Nào những mấy dòng mê cả thảy

Khiến đều về cực lạc phương tây

Buổi đạo tràng nay, khắp thỉnh vào viên  thí thực

Ðem công đức ấy, trở về trong núi Thiết vi

Diệm nhiên Ðại sĩ một tay

Thống lãnh cả ba mươi sáu bộ chúng

Ngạ quỉ hằng hà sa số

Vô lượng vô biên xiết kể biết bao

Cúi xin từ kiếp bỏ liền

Cho đến ngày tái thế

Tiêu nghiệp chướng chẳng còn chút để

Rửa tội khiên phút đã sạch rồi

Vạc nóng dầu sôi, biến làm bồn liên trì  bát đức

Lò hừng lửa cháy, hóa thành tòa hương cái  thất trân

Kìa mũi gươm trần, kiếm thọ hóa ra ngọc thọ

Nọ con dao sắc, đao sơn đổi lại bửu sơn

Khắp nơi bủa chật thiết sàng

Hiện pháp tòa Bồ đề là đó

Với chảo đựng đầy đồng trấp đỏ

Sái đề hồ cam lộ vào đây

Gặp người trái chủ hôm nay

Buổi đó hết đòi hết hỏi

Nhóm kiếp oan gia buổi trước,

Cùng nhau thôi vấn thôi vương

Dạ hưng từ ngục chủ yêu thương

Lòng từ thiện minh quang bảo hộ

Thân phụ mẫu đa sanh kim với cổ

Nay thời nhập Thánh siêu phàm

Nợ nhơn thân lụy thế hết còn

Rày đã thừa ân giải thoát

Cõi thiên thượng ngũ si chẳng hiện

Miền nhơn gian tứ tướng có chi

Tu la đà bỏ cả sân si

Ðịa ngục lại hết điều khổ não

Hồn ngạ quỉ nhộn nhàng sáu đạo

Hứng gió thanh khỏi chốn lửa hồng

Giống làm sanh chật nức mười loài

Lên bờ giác lánh nơi đường tối

Khắp xin cả hữu tình một nỗi

Quốc độ này, quốc độ nọ

Và vô lượng các quốc độ thảy

Cùng nhau chung chứng chơn thường

Lại nguyện cùng hàm thức mấy loài

Thế giới đó, thế giới đây

Và vô lượng các thế giới nào

Buổi đó đều nên Phật đạo

Tứ ân khắp báo

Tam hữu đều nhờ

Người trong pháp giới bao giờ

Ai ai cũng đồng nên chưởng trí.
 

-     Trích soạn "Kinh Nhựt Tụng " Chùa Niệm Phật - Bình Dương 1974.


 

213. KỆ KHUYÊN ÐỪNG SÁT SANH 

(Văn khuyến tu 10)

 

Muôn loài nào khác chi ta

Cũng tìm sự sống lánh xa tai nàn

Có cha mẹ, có họ hàng

Kết bè sinh hoạt, hiệp đoàn tương siêng năng

Ta đừng giết nó mà ăn

Cũng đừng bắt nó trối trăng giam cầm

Bẫy câu, chước độc, mưu ngầm

Làm cho chúng nó âm thầm đớn đau

Lạc bầy dớn dác xôn xao

Lại e cái nạn thớt, dao hầu gần

Mình có thân, nó cũng có thân

Nuôi mình, giết nó trái cân công bằng

Lâm mình cảnh ấy khổ chăng?

Giả như có kẻ bắt phăng chúng mình

Mẹ cha cô bác thảm tình

Xót xa đã lắm, bất bình biết bao

Ruột rà ai cắt chẳng đau

Thương tình ai dứt, chẳng đau gan vàng

Nếu ta suy nghĩ kỹ càng

Tình này, cảnh ấy rõ ràng tương thân

Làm người ta có lòng nhân

Hãy khơi tánh Phật, lần lần sáng ra

Người cùng muôn vật một nhà

Ta là anh chị, chúng là đàn em

Khôn hơn ta phải xét xem

Trông nom giúp đỡ đàn em dại khờ

Khi lâm nạn chúng bơ vơ

Mau tay tiếp cứu chớ ngơ mắt nhìn

Thấy ai giết thác sanh linh

Lấy lời khuyên giải, dụng tình cản ngăn

Thú kia nó cũng là thân

Cũng xương cũng thịt cũng phần như ta

Ðánh đau chúng nó kêu la

Tiếng rên đứt ruột, tiếng la xé lòng

Tánh linh người vật cũng đồng

Xuống tay bao nỡ, cầm lòng sao đang

Thân ta thì muốn cho an

Mà thân kẻ khác lại toan xéo giày

Lòng ta muốn tránh nạn tai

Sao cùng kẻ yếu ra oai dữ dằn

Nếu ta biết lẽ công bằng

Biết câu phước tội, biết căn luân hồi

Chớ nên giết nó đành rồi

Cũng đừng hành hạ, tỏ lời dễ khinh

Chớ cho chúng khổ vì mình

Mở lòng thương xót tấm hình hài kia

Ðừng làm chúng nó chia lìa

Con nầy xa mẹ, con kia cách chồng

Ðừng bày cắt cổ, nhổ lông

Việc làm cũng phải dự phòng về sau

Dây oan ai lại buộc vào

Kiếp nầy gây nợ, kiếp nào trả xong

Muốn cho mình được thong dong

Ðừng làm kẻ khác khổ lòng làm chi

Chớ vì một chút sân si

Mà bao oan trái kéo trì cuốn lôi

Muốn ra khỏi biển luân hồi

Quả kia phải hái cho rồi đừng gieo

Dừng chân là bóng chẳng theo

Nhơn tay thì nghiệp chẳng đeo bên mình

Ai ơi! Nên khá giữ gìn.

 
 

-     Trích Kinh Nhật tụng - Tịnh xá Trung Tâm - Sàigòn 1974.


 

214. SÁM VĂN SỰ TÍCH HI THỊ,
CHÍ CÔNG

(Văn khuyên tu 11)

 

Tích xưa nhân quả một đường

Có Bà Hi thị, xà vương biến hình

Bởi gieo nhân dữ sát sanh

Khiến cho Tam bảo điêu linh một thời,

Mới hay oan báo chẳng rời

Nếu không cắt đứt đời đời tiếng chê

Xem gương Hi thị gớm ghê

Phá Tăng hủy Phật nặng nề oan khiên

Sát sanh mất hết phước duyên

Làm bánh nhưn thịt cúng liền Chí Công

Nào hay ngài đã tỏ thông

Tráo bánh nhưn đậu ăn không tội gì

Tánh tình Hi thị ngu si

Xé kinh, đập tượng mắng thì chúng Tăng

Bởi vì nghiệp báo tiền căn

Hại người, người hại lẽ hằng xưa nay

Tu hành giữ giới trì trai

Bốn giờ Lương gáy dậy mà tụng kinh([1])

Cớ nào đem dạ bất bình

Hòa thượng đi khỏi tự mình giết Lương

Cho nên sái đạo chơn thường

Khiến ra Hi thị nhiều đường tai ương

Mãng xà thân rắn thảm thương

Ở ngoài rừng nội tuyết sương lạnh lùng

Hi thị nhớ nghĩ hãi hùng

Xảo ta sao chẳng chịu dùng tu thân

Ðể làm chi việc sát nhân

Nay ta phải bị khổ thân chốn nầy

Phổ Môn thuyền báu là đây

Tỏ thông nghĩa lý nhờ Thầy giải phân

Quan Âm xưa cũng thường nhân

Phát lòng thệ nguyện chí chơn tu hành

Hôm nay Ngài đã viên thành

Tầm thinh cứu khổ chúng sanh đời đời

Hi thị bà mới mở lời

Phát tâm thiện niệm vậy thời Nam mô

Quan Âm Bồ Tát Như Lai

Từ bi cứu khổ muôn loài chúng sanh

Con nay thệ nguyện tu hành

Giải thoát thân rắn vãng sanh thiên đường

Quan Âm cảm động lòng thương

Phóng quang hiện tướng tỏ tường kim thân

Chói lòa khắp hết hồng trần

Quan Âm bèn dụng phép thần phóng ra

Ma ni châu bửu đây mà

Ðể vô trong miệng nói ra tiếng người

Cầu Lương Võ Ðế giúp ngươi

Rước Thầy sám hối đàn trời tụng kinh

Mãng xà Hi thị chớ khinh

Trở về cung viện sự tình tỏ phân

Nhắc qua Võ Ðế lâm trào

Chúa tôi Ngài mới bước vào Ngân An

Nhìn xem thấy rắn kinh hoàng

Mãng xà cất tiếng vang kêu nài

Thiếp là Hi thị về đây

Cầu xin Thánh thượng rước Thầy sám văn

Bởi vì tại kiếp tiền căn

Phá hủy kinh tượng đánh Tăng đốt chùa

Nhân xưa đâu phải chuyện đùa

Quả nay làm rắn bốn mùa tuyết sương

Cúi xin Thánh thượng lòng thương

Trai đàn thiết lập cúng dường chư Tăng

Từ nay thiếp nguyện ăn năn

Giải thoát thân rắn siêu thăng thiên đường

Chí Công Hòa thượng đoái thương

Nhập định cầu khắp mười phương Thánh  hiền

Ðêm ngày lễ sám kiền thiền

Bốn mươi chín buổi tự nhiên an hòa

Hi thị cổi lốt mãng xà

Hiện thân tiên nữ đứng mà trên mây

Cúi đầu làm lễ lạy Thầy

Giã từ Võ Ðế cõi tây đặng về

Thiện ác nhân quả bảng đề

Làm lành đặng phước chớ hề bỏ qua

Xem gương Võ Ðế vậy mà

Làm dữ mắc họa như bà chánh cung

Ai ai nghe đến cũng run

Tránh xa sát nghiệp thung dung tu hành

Kíp mau bỏ dữ làm lành

Ngày sau mới đặng vãng sanh liên tòa

Lương hoàng bửu sám tụng qua

Ngày đêm lễ lạy Phật Ðà mười phương

Chí Công Hòa thượng lòng thương

Soạn ra Bửu sám làm gương tu hiền

Bao nhiêu tội nặng dứt liền

Tạ ơn sám chủ đàn tiền chứng tri.

Nguyện trì ngũ giới tam quy

Nguyện tu thiện nghiệp nguyện ly luân hồi.

 

 

-     Trích soạn theo bài "Nguyên Thông Học tập Tam Quy Ngũ Giới " Của Thiền sư Thích Chơn Thường - Trường Quang Tự Mỹ Tho 1952.
- Chiêu Ðề trích soạn - Xắ lợi tự - TPHCM 1997.


 

215. THIỀN CƠ YẾU NGỮ VĂN 

(Sám hồi tâm 6)

 

Lánh phồn hoa thanh nhàn dưỡng tánh

Sửa tấm lòng thủng thỉnh hôm mai

Xét mình kém đức sơ tài

Kính tin đã có Phật trời chứng minh

Thuở phù sinh gẫm mình thiếu phước

Ngỡ tình cờ gặp được chánh tôn

 Cảm ơn đức lớn rộng dung

Thâm ân đều gởi về dòng Phật gia

Lòng thiết tha bốn ân hằng đội

Phải toan phương tìm dõi minh sư

Tập rèn lựa lọc kinh thư

Chí lăm vượt tới vô dư cõi ngoài

Thường đêm ngày dồi mài lòng cũ

Cá hóa rồng chờ có thuở nên

Ân sâu ghi dạ lo đền

Vun trồng cội đức, giữ gìn chi sai

Trọng hiền tài kỉnh tin tri thức

Kết bạn lành nhờ đức hôm mai

Ngọc lành sao chẳng dồi mài

Gương xưa nỡ để trần ai lâu ngày

Rất chóng thay tháng ngày dường gió

Tới non vàng dễ bỏ về không

Ngựa qua cửa sổ kịp dong

Vui chi cá chậu chim lồng chẳng lo

Ðã xét soi dốc theo thiền giáo

Vật phi tài vô đạo chẳng tham

Ruộng người năm mẫu hằng làm ([2])

Lọ là ruổi bắc tìm nam nhọc nhằn

Nhà sáu căn che thân ngày tháng ([3])

Một ngọn đèn rọi sáng mười phương

Hương phần ngũ phận danh hương

Dâng lên thượng điện cúng dường pháp thân

Tu cho cần thoát ba đường khổ ([4])

Dựa thuyền từ tìm ngõ tây phương

Hôm mai lễ niệm không vương

Chúng sanh mê muội lòng thương nỡ nào

Cháy hồng hào rần rần lửa dục

Nước ái hà rục rục dầu sôi

Gương xưa trí tuệ trau dồi

Dùng thanh lương thủy mà rươi lửa phiền

Hãy tùng quyền nương thuyền vô để ([5])

Vượt ái hà nào kể phong ba

Dạo chơi thế giới Ta bà

Ðâu đâu là chẳng cửa nhà bần tăng

Xem giàu sang ví bằng mây nổi

Gẫm lợi danh dường đỗi mưa dông

Vì tham tài sắc huyễn không

Nên nỗi mê lòng sanh tử bèn quên

Ðạo làm người ân trên phải nhớ

Gắng công phu bồi nghĩa bồi nhân

Mười phân chưa đặng một phần

Lấy đâu ngay thảo xứng cân cho tày

Dễ dám quên ơn thầy nghĩa bạn

Chút lòng đan muốn cạn hiếu trung

Một nồi hương tuệ đốt xông

Ba biến kinh lòng thường niệm hôm mai

Chữ sắc tài mặc ai đua sánh

Giữ phận hèn nương cảnh thiền Tăng

Mây che nên nỗi mờ trăng

Huệ nhựt thăng đằêng sương tuyết mới tiêu

Thuốc hay chữa đặng bệnh nghèo

Vâng lời Phật dạy tội tiêu phước dày

Như nhau dọc mũi ngang mày

Lòng phàm lòng Thánh cách thay ngàn trùng

Hãy dồi lòng “sắc không không sắc”

Lo chi đường ruổi bắc tìm đông

Nhớ câu ma Phật hỗn đồng

Vằng vặc đèn lòng soi xét chẳng sai

Sự sắc tài hay dời lòng đá

Hằng lánh xa chớ bá chớ chen

Cung dâu khéo bắn thì lên

Chuyên chí giữ gìn đạo cả ắt nên

Hãy chăm lòng vun cây tưới nước

Quả Bồ đề chắc được chẳng sai

Bỏ về thì thiệt mặc ai

Chớ khá chê cười mà tổn phước ta

Tảo tự gia môn tiền chi tuyết ([6]).

Hơi nào mà đàm thuyết sự ai

Mực vào son thắm ắt phai

Gần đấng hiền tài, người dữ xa trông

Tính chuốt trong, vì không nhân ngã

Tợ trăng rằm chẳng bá chút mây

Bã bôi liền cật chẵng nài

Thảo lư am tiện tháng ngày dựa nương

Cũng đã từng trải đường danh lợi

Uổng nhọc mình thấy vậy lại không

Sửa chí dùng, an lòng phân khổ

Tháng ngày thường vui thú Phật tiền

Giàu sang là áng ưu phiền

Gây đường nghiệp chướng cần quyền làm chi

Lời thị phi khen chê mặc thế

Hơi nào mà cấm chợ ngăn sông

Tơ kia ra mối ắt xong

Máy thiền ngộ đặng tấm lòng bằng an

Lửa cháy tàn lò than rời rạc

Tưởng người đời há được bao lâu

Mấy ai cho biết mà cầu

Ngàn vàng dễ đặng lời mầu không trao

Ðạo đức cao nên người kính mến

Quyết một lòng vượt đến Linh sơn

Cho hay túi rách có vàng

Ðêm tối lạc đường, nhờ đuốc người ngay

Vun lấy cây chờ ngày ăn trái

Chữ cạn cùng, nghĩa lý thấm sâu

Ðất liền ai mượn bắc cầu

Bệnh lành phải dụng thuốc mầu làm chi

Sự u mê khác chi tằm kén

Mình buộc mình ai khiến đó sao

Thuyền đưa xảy gặp ba đào

Chóng chèo gắng sức tiêu dao có ngày

Nom dưới ngòi ngậm ngùi bóng thỏ

Thấy trăng tròn tay vỗ ca xang

Bởi mình vụng liệu chẳng toan

Chân không bước ngược lên ngàn đặng đâu

Tuổi bạc đầu độc sâu không giản ([7])

Tham giàu sang biển cạn không phải

Thân người như tuyết ban mai

Bề ngoài sắc tướng dồi mài làm chi

Vàng mạ xi trau chi vật ấy

Sao chẳng tìm cho thấy chân kim

Ðèn kia sáng bởi vì tim

Ðốt thì thấy tỏ lọ tìm đâu xa

Phật trong nhà thật là rất báu

Biết tu trì đại đạo ắt nên

Kẻ khó hèn tu hành chớ nệ

Cây một mình chớ kể rằng cây

Quản bao lưng gió xông mây

Nhọc nhằn chớ nại quả rày mới cao

Mật ngọt kia dính dao mấy chút

Phỉnh hài đồng liếm mút đứt môi

Ngao cò vô ý chẳng coi

Mỡ dính miệng rồi được mấy mà ham

Ngụ thảo am luận đàm đạo lý

Chữ lợi danh, phú quý chẳng tham

Ðạo lành phải gắng mà làm

Máy thiền ngộ đặng mới cam tấm lòng

Thuyền giữa dòng chí mong tới bến

Dễ lòng còn tham mến chi sao

Mình bia sá nại tên lao

Cây kia đúng sức, đẽo bào mặc ai

Chốn Chiên già khoan thai dưỡng tánh

Ðượm màu thiền tịch mịch sớm trưa

Bữa dùng rau cháo tương dưa

Ý quen đã hiệp, miệng vừa thời thôi

Nước chảy xuôi thuyền kia chống ngược

Chốn phàm trần tu được mới ngoan

Chí công mài sắt cũng mòn

Ðường trường chớ ngại lòng son cho bền

Kinh thánh hiền cho chuyên tập đọc

Sự chửa từng chẳng học sao nên

Chưa nên chớ khá xa thầy

Bệnh già dễ dám buông hài đi không

Còn cách sông nương thuyền Bát nhã

Ðến bờ rồi mới thỏa chí mong

Sự ở lòng tỏ thông thì được

Phật hiện tiền phải kiếm đâu xa

Nên hư cũng ở lòng ta

Chẵng chánh thì tà, chẳng ngộ thì mê

Quả Bồ đề một mai có chín

Hoa Ưu đàm hóa hiện mấy thu

Tam thừa diệc trí dữ ngu ([8])

Dứt trừ vọng niệm công phu mới thuần

Có bi có lực có hùng

Mới đủ sức dùng vượt biển trèo non

Một bầu nhiệm giữ càn khôn

Tùy duyên hóa độ ai còn dám chê

Ngày xuân thong thả tay đề

Bút hoa thảo thảo chép ghi để truyền.

 
 

-     Thiền sư Toàn Nhựt 1754-1832 - Sao từ bản in Thạnh Mậu 1960 (mất nhiều đoạn).
Ðối chiếu bổ sung đầy đủ từ Lịch Sử Phật Giáo đàng trong - Nguyễn Hiền Ðức - NXB Thành phố Hồ Chí Minh 1995.


 

216. GIỚI HÀNH ÐỒNG TỬ VĂN

(Sám hối tâm 7)

 

Tiết đông thiên đài đêm lâu khắc

Một mình ngồi tịch mịch mao lư

Ðã thương hậu học sơ cơ

Chưa thông kinh luật còn lờ tánh linh

Lại lo mình chuyên phương niệm Phật

Ðâu dám cho thẳng giấc Trang Chu ([9])

Ðạo này rộng nhiệm cao sâu

Trẻ nay biếng học già sau biết gì

Lóng tai nghe các liêu vãi đạo ([10])

Lâng lâng chìm sâu giấc như nhau

Ðặt mình những thuở canh đầu

Cho liền một giấc trống lầu điểm năm

Hãy còn nằm pho pho mà ngáy

Phải như Thầy để dậy sáng ra

Tớ Thầy cũng thể con, cha

Ðem phần dạy dỗ rằng mà sao nên

Phải răn khuyên chúng suy xét tỏ

Tua nhớ lời hối ngộ lo thân

Tổ xưa đã để lời răn ([11])

Sửa mình tấn đạo, giảm ăn ít nằm

Lại chí lăm thoát vòng sinh tử

Ắt sớm toan noi giữ lời xưa

Kìa như lớp trước Nho gia

Ông thì treo tóc người hằng gối cây ([12])

Hội rồng mây vận sau phát đạt

Hưởng vinh hoa danh tạc sử xanh

Ðể rồi cũng chịu gia hình

Tôn thân lửa chói triều đình trọng thương

Vả thế gian lo phương no ấm

Các nghề đều dậy sớm thức khuya

Huống chi đại đạo từ bi

Tục ăn mê ngủ việc gì cho nên

Ông Cao Phong ba năm lập nguyện

Không gần giường chõng đến một giây([13])

Ông thì thiền định trên cây ([14])

Ðặng mau thấy Phật dẹp bầy thùy ma([15])   

Nay chúng ta sinh đời ngũ trược

Gắng học theo lớp trước mới hay

Khuyên cùng vãi đạo chúng bay

Muốn mau chứng đạo thuở nay cầm quyền

Chịu lao phiền ở trong ba cõi

Phật nói rằng vì cái thùy ma

Nó làm khốn khổ chúng ta

Mắc thân hữu lậu ở nhà vô minh

Việc tử sinh vô thường tấn tốc([16])

Kíp lo toan tu học cho chuyên

Muốn sau nhiều phước cả duyên

Chói nêu Phật pháp chớ quên lời thầy

Thương chúng bay gắng công răn dạy

Dễ muốn chi làm vậy mệt ta

Hễ người cho biết lo xa

Bé thì làm tớ lớn ra làm Thầy

Nếu lúc này luật kinh chẳng rõ

Biết lấy chi tiếp độ hậu côn

Phước đà vào chốn Phật môn

Tua trừ tham trược chớ còn sân si

Học từ bi cùng là hỉ xả

Lại nhớ câu Bát nhã Ba la

Gắng công hàng phục quần ma

Thoát vòng hắc ám lên nhà quang minh

Ngộ vô sinh, pháp thân tự tại

Mặc tùy duyên ba cõi ra vào

Ân sâu nghĩa nặng mẹ cha

Cù lao cúc dục chúng ta nên hình

Ðạo sinh thành ví như trời đất

Lại cho đi đầu Phật xuất gia

Tưởng nên đạo cả nghiệp nhà

Tiếng mình rạng chói mẹ cha cậy nhờ

Nếu lơ mơ tu không đắc đạo

Biết lấy chi trả thảo đền ơn

Một mai phút đến vô thường

Làm sao cho khỏi Diêm vương gia hình

Làm súc sinh cùng loài ngạ quỉ

Ðến bây giờ năn nỉ kịp đâu

Thầy đà tỏ bảo trước sau

Khá điều tạc dạ, mựa hầu lãng xao

Nguyện xuất gia vượt qua biển khổ

Ðể thân nầy ở chỗ am tranh

Vậy nên lánh trược tìm thanh

Theo Thầy học đạo tu hành giới trai

Cơ hàn tân khổ chi nài

Lóng trong tánh nước, dồi mài lòng gương.

 

-     Nguyên bản  của Ngài Toàn Nhựt Thiền sư (1754-1832) - Ðối chiếu từ hai bản đánh máy lưu trữ của tủ sách Giác Ðạo Như Tâm cung cấp và bản in "Lịch sử Phật Giáo đàng trong" của Nguyễn Hiền Ðức - NXB Thành Phố HCM 1995.

-     Nguyên văn thiếu mất một câu, Chiêu Ðề soạn bổ sung câu thứ 27 - Khi nào tìm được nguyên bản, sẽ đính chính lại. (Người soạn.)


 

217. HOÁN TỈNH TRẦN TÂM KHUYẾN TU TỊNH ÐỘ VĂN

(Văn khuyến tu 12)

 

Chữ rằng : “Thiên cửu địa trường” ([17])

Phật Vô lượng thọ người thường hóa sanh

Ai ơi gắng lấy tu hành

Ðể sau tới bực vô sanh mới nhờ

Tử sanh hai chữ hững hờ

Sớm còn tối mất tựa hồ chiêm bao

Ai mà biết đặng phẩm cao

Công danh phú quý ngó vào hư không

Thạch Sùng tiếng nổi non sông

Sang giàu gẫm lại cũng không mấy hồi

Nghĩ đời mà lại sợ đời

Khôn ngoan mà khỏi luân hồi được chăng ?

Trách thân rồi lại than rằng

Tử sanh phú quý như từng mây che

Lợi danh ai thấy chẳng ưa

Vinh hoa biết mấy cho vừa lòng ai

Gẫm thân nào có lâu dài

Chữ rằng “nhựt vãng nguyệt lai” mấy hồi([18])

Sự đời biết nghĩ thì thôi

Giờ không toan liệu sau rồi làm sao ?

Thân này lấp lửng trên cao

Cây bờ dây giếng có bao lâu dài

Ðội trời đạp đất khoe tài

Vênh vang mà có đời đời đặng không ?

Tử sanh hai chữ chẳng đồng

Chết thì muôn kiếp, sống không mấy hồi

Nhân sinh ai cũng thế này

Cuộc vui ai thấy chẳng say sưa lòng

Chữ rằng “Sắc tức thị không”

Ví trong giấc mộng gẫm trong người đời

Cõi trần mấy chút thảnh thơi

Vênh vang cho mấy sau rồi làm sao

Nhớ xưa Hàn Tín tài cao

Ra tay giúp Hán biết bao công trình

Làm cho Tần, Sở thất kinh

Quyền cao chức trọng hiển vinh ai bì

Chẳng may gặp lúc hiểm nguy

Công trăm năm cũng bỏ đi một hồi

Làm người như thế thì thôi

Khác chi cát bụi mà chơi sự thường

Sao bằng hai chữ trung bình

Vui chi cho quá thất thường cực thân

Chữ rằng : "Lạc thị khổ thân"

Mê đường danh lợi, bỏ thân tồi tàn

Có vinh hiển, có gian nan

Không tu sao biết an nhàn tấm thân

Chữ rằng “Nhất nhật tu nhân” ([19])

Bao nhiêu tội chướng khỏa lần sạch không

Vượn còn biết mến rừng trong

Người sa vào chốn bụi hồng làm chi

Chim còn biết chốn ẩn vi

Người không biết chỗ để khi mà về

Sự đời gẫm lại mà ghê

Sanh lai tử khứ nhiều bề đắng cay ([20])

Chết thì đã chắc trong tay

Sống thì thấp thoáng biết ngày nào đây

Than rằng biển lớn non dài

Trời cao đất rộng thân nầy bao hơi

Những là vật sắc dò chơi

Công danh cát bụi đua bơi làm gì

Chi bằng hai chữ từ bi

Không trông danh lợi bận gì gian nan

Chữ tu là chữ an nhàn

Tham tài tắc tử, thế gian vô thường

Nhớ xưa Hạng Võ tranh cường

Làm cho thiên hạ tứ phương hãi hùng

Ra tài ra tướng anh hùng

Quân ba mươi vạn đối cùng ai hơn

Một mình cứ đỉnh bạc sơn

Nhà Hán cũng sợ nhà Tần cũng kinh

Ở đời vinh đã nên vinh

Cũng không khỏi chết bỏ mình Ô giang

Hết tài trí, hết khôn ngoan

Hết danh, hết lợi, hết sang, hết cường

Cho hay hoa nở cũng tàn

Pháo mà kêu lắm càng tan xác nhiều

Làm người chớ nghĩ thấp cao

Chớ so hơn thiệt mà xao xác lòng

Làm thân chi giống gà lồng

Sao bằng hạc nội muôn trùng cao bay

Khuyên người giữ giới ăn chay

Chí tâm niệm Phật có ngày thảnh thơi

Thuở xưa Phật cũng ra đời

Lánh vòng danh lợi ra ngoài càn khôn

Mới hay Phật đạo chí tôn

Làm người trước biết thiền môn tu trì

Ai ơi lòng thật chớ nghi

Tu hành dốc chí liễu kỳ tử sanh

Tuy rằng vạn quyển thiên kinh

Chẳng qua sáu chữ hồng danh rất mầu

Vui lòng một chuỗi giới châu ([21])

Sớm khuya tưởng niệm công phu mà lần

Ðã tu thì phải ân cần

Ðừng còn luyến ngó bụi hồng làm chi

Sau về Tịnh độ một khi

Thiếu chi châu báu, thiếu gì kim sa

Giữa không thường rải thiên hoa

Xuống hồ thơm nức chín tòa kim liên

Phật cùng Thánh chúng hiện tiền

Hào quang chói rạng bến biên bảo đài

Lời quê khuyên mấy ai ai

Gắng tu đến đó đặng đài châu ngân

May mà chứng đặng kim thân

Ðời đời thường ở chín từng phẩm cao.

 

-     Bài do Ngài Toàn Nhật Thiền sư trước tác - (sđd)


 

218. SÁM HỐI TÂM HƯỚNG THIỆN 

(Sám hối tâm 8)

 

Trong tám vạn bốn ngàn cửa Pháp

Nói không cùng lý đạt khó thông

Y theo Tịnh độ thiền môn

Mở ra một cửa chánh tông chân truyền

Tiếp khách thiền có duyên thời gặp

Dễ tu hành mà chắc nên công

Như thuyền ra đến giòng sông

Nước xuôi gió thuận khỏi công chống chèo

Ðường ngàn dặm một lèo thẳng tới

Khỏi quanh co biển ái sông mê

Khuyên đừng thấy dễ mà chê

Chớ trong sự dễ nhiều bề chẳng thông

Câu vô niệm ẩn trong hữu niệm

Có hữu vi mới nhiễm vô vi

Thử coi hoa trái vật chi

Lộ ngoài mới thấy có khi trong nhành

Có cội nhành mới sanh hoa trái

Không cội nhành hoa trái do đâu

Tụng kinh niệm Phật làm đầu

Cứ theo qui tắc chớ hầu sai ngoa

Tín hạnh nguyện giữa ba điều ấy

Trọn một đời như vậy cho y

Tín là tin chắc không nghi

Niệm Phật tưởng Phật đến kỳ vãng sanh

Chữ hành là làm lành một mối

Giữ thường thường chẳng đổi chẳng sai

Nguyện là muốn thấy Như Lai

Cầu về Tịnh độ liên đài phẩm cao

Do chữ Tín nhiễm vào chơn lý

Hữu sở hành, năng trí kỳ tri

Nguyện là chung hữu sở qui

Lòng thường tư tưởng cho y như lời

Ba căn ấy thấu trời tịnh độ

Thất bửu trì, hoa nở chờ ta

Báo thân để lại Ta bà

Tánh linh về yết Di Ðà pháp vương

Ra lửa vườn hết đường sanh tử

Quả Bồ đề bổ xứ siêu phương

Xưa nay giáo pháp chiêu chương

Rõ ràng Tịnh độ là đường vãng sanh

Dễ tu hành mau thành chánh quả

Các nẻo đường xa lạ hiểm nguy

Khuyên đừng thủ dị cầu kỳ

Nghe lời tà kiến mà đi sai lầm

Phật tức tâm thậm thâm tưởng niệm

Niệm thường thường công chuyện chẳng can

Trong nhà thiết lập một bàn

Ðến thời tu niệm sửa sang đàng hoàng

Mặc áo tràng thắp nhang cắm thẳng

Xướng hiệu rồi thoảng thoảng lạy ngay

Lạy rồi quì gối chấp tay

Tự trần tên họ sám bài nguyện sanh

Khi sám rành lạy ba lạy nữa

Ngồi bán già mình sửa cho ngay

Trừng tâm bế mục chấp tay

Lóng thần mật niệm hết bài xưng dương

Niệm thường thường tâm vương chủ một

Chuỗi tay lần mỗi hột mỗi câu

Niệm rồi chấp chuỗi khấu đầu

Niệm ba câu nữa mỗi câu mười lần ([22])

Mỗi mười lần chuyên thân khể thủ ([23])

Hồi hướng văn sám đủ kiền thiền ([24])

Khởi thân chiêm ngưỡng án tiền ([25])

Tạ đàn ba lạy hữu biên thoái hồi

Nghi Tịnh độ dọn rồi rất chắc

Lóng tâm thần sắp đặt chẳng sai

Y theo giáo pháp Như Lai

Chánh tông truyền kế chẳng sai chẳng lầm

Ðạo thậm thâm khó tầm khó kiếm

Sẵn sàng đây dễ niệm dễ tu

Kính khuyên nam nữ trượng phu

Biết thương bổn tánh phải tu kịp thời

Chớ buông lời nay mai sẽ tính

Cơn vô thường biết định bao lâu

Cõi trần trăm thảm ngàn sầu

Chưa toan dời bước còn cầu việc chi

Một câu niệm A Di Ðà Phật

Tiêu tội nhiều, phước thật vô biên

Căn lành trước có nhân duyên

Ngày nay gặp Phật phải chuyên tu hành

Nguyện chúng sanh đồng thành chánh giác

Chứng hưởng phần khoái lạc tiêu diêu

Cần tu tịnh độ bao nhiêu

Ðồng về cực lạc cao siêu liên đài

Văn tịnh độ một bài chỉ tắt

Nghi tu hành sắp đặt trước sau

Muốn tu phải học cho làu

Ðến khi hành sự mới mau việc làm

Khuyên đừng thế sự luận đàm

Tránh đường danh lợi để ham tu hành

Nguyện sanh về cõi lạc thành

Lâm chung gặp Phật vãng sanh sen vàng

Nam mô Tịnh độ Lạc bang

Chứng minh đệ tử Tây phang mau về.

 

 

-     Trích "Pháp Môn Tịnh Ðộ" - Chùa Niệm Phật Bình Dương ấn hành 1974.


 

219. TIÊU TỰ THẦN CHUNG
        (Chuông sớm chùa Tiêu)

   (Văn khuyên tu 13)

 

Khách chùa Tiêu ân cần Phật sự

Ðêm đêm hằng phân thứ âm dương

Giấc hòe hồn bướm mơ màng

Lầu quân, trống đã điểm sang năm dùi

Nỗi buồn vui, mặc lòng nhộn nhã

Gối chưa êm chưa hả sự lòng

Gió đưa mấy tiếng thần chung

Lóng tai nghe lọt, bên lòng vơi vơi

Dọi hòa trời, sao bay lẻ tẻ

Vén nhành dương, he hé bóng câu

Chày kình thánh thót đêm thâu

Tin nghe thì một, tin sầu thì trăm

Kẻ chẳng nằm, ngồi chăm đạo vị

Niệm cầu kinh, xử trí hằng đua

Dầu không lộc nước quyền vua

Cầu xoa lỗ kiến, cầu dùa chòm ong

Tiếng lạnh lùng, vận vòng sầu thiết

Khách tha phương sầu biết mấy mươi

Phủi buồn lập chí thảnh thơi

Ðã ôm sự nước, lại bươi sự nhà

Chạnh lòng già, riêng buồn chích gối

Một tiếng nghe bằng suối nước trong

Thuyền ai dặt dựa trên sông

Riêng than mấy tiếng não nùng nửa đêm

Kẻ lòng êm càng nhiều phổ tế

Ngộ thiền cơ làm lễ Y vương

Phong đô khi nổi hỏa thang

Dạ còn mơ tưởng mở mang từ đồ

Ánh vầng ô vén mù dương cốc

Tuệ nhãn xem trần tục cũng thanh

Ðường thiền khéo dắt bóng quanh

Cũng tay tinh trí tu hành rất sâu

Khách ngao du hứng tình vì cảnh

Bộ nguyên đề, phủ chánh tay cao

Rừng thiền sít sát án ngoài tào

Chuông gióng chùa Tiêu tiếng tiếng cao

Chày thỏ bạt vang muôn khóm sóng

Oai kình tan tác mấy cung sao

Não phiền kẻ nấu sôi như vạc

Trí tuệ người mài sắc tựa dao

Mờ mịt gẫm đường say mới tỉnh

Phù sinh trong một giấc chiêm bao.

 

- Bài do Mạc Thiên Tích trước tác - Ðây là bài thứ III trong mười bài được trích ra từ "Hà Tiên Quốc Âm Thập Vịnh" của Sĩ Lân Mạc Thiên Tích (1715-1780)    
- Bản thảo do Giác Ðạo - Dương Kinh Thành cung cấp - tủ sách Giác Ðạo - Như Tâm TPHCM 1996.


 

220. BÁT NHÃ TÂM KINH  (IV)

 

Khi hành Bát nhã Ba la

Ngài Quan Tự Tại soi ra tột cùng

Thấy ra năm uẩn đều không

Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua

Nầy Xá lợi tử xét ra

Không là sắc đó, sắc là không đây

Sắc cùng không chẳng khác sai

Không cùng sắc, cũng sánh tày như nhau

Thọ, tưởng, hành, thức uẩn nào

Cũng như sắc uẩn, một màu không không

Này Xá lợi tử ghi lòng

Không không tướng ấy đều không tướng hình

Không tăng giảm, không trược thanh

Cũng không diệt, cũng không sanh pháp đồng

Vậy nên trong cái chơn không

Vốn không năm uẩn cũng không sáu trần

Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân

Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc thinh

Từ không giới hạn mắt nhìn

Ðến không ý thức, vô minh cũng đồng

Hết vô minh cũng vẫn không

Hết già, hết chết, giả không có gì

Không khổ, tập, diệt, đạo kia

Trí tuệ chứng đắc cũng là không không

Sở thành sở đắc bởi không

Các vì Bồ tát nương tòng huệ năng

Tâm không còn chút ngại ngăn

Nên không còn chút băn khoăn sợ gì

Ðảo điên mộng tưởng xa lìa

Niết bàn mới đến bên kia bến bờ

Ba đời chư Phật sau xưa

Ðắc thành chánh giác đã nhờ tuệ năng

Trí tuệ năng lực vô ngần

Ðại minh vô thượng, đại thần cao siêu

Trí tuệ năng lực có nhiều

Thật là thần chú trừ tiêu não phiền

Trí tuệ năng lực vô biên

Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn

Liền theo lời chú thuyết rằng

Ðộ tha giác ngộ khắp trần chúng sanh.

 

-     Trích "Nghi Thức Tụng Niệm" - Hệ phái Khất sĩ - Thành hội Phật giáo TPHCM 1994.
 


[1]) Lương : con vạc sành

[2])    Ngũ uẩn.

[3])    Lục căn - Lục trần.

[4])    Tham sân si.

[5])    Thuyền không đáy.

[6])    Quét tuyết trước cửa nhà mình, ngụ ý chỉ lo riêng cho mình.

[7])    Không nở thêm ra.

[8])    Có sách ghi: tam thừa diệc trí thử ngu, hay tam thừa tuyệt trí thử ngu.

[9])    Trang Chu mộng thấy mình hóa thành bướm, không biết mình là bướm hay bướm là mình.

[10]Các Tăng chúng chung quanh.

[11]Tổ Linh Hựu (770-853)        viết trong văn cảnh sách "Tấn đạo nghiêm thân tam thường bất tức".

[12]Lưu Tuấn Hiếu liêm đời nhà Lương, nghèo nhưng ham học, ở nhờ chái nhà thiên hạ, treo tóc đốt đuốc học, lỡ ngủ ngục thì bị giựt cháy tóc. Tư Mã Quang đời nhà Tống, ham học, đẽo cây làm gối tròn để  ít ngủ mà học.

[13]Nguyên văn "Cật cùng giường chẳng bén một giây".

[14]Thiền sư Ðạo Lâm (741-824) sôáng trên cây ở núi Tầm Vọng, do thiền định lâu ngày, chim quạ đến làm tổ trên đầu ngài , nên sau người ta gọi ngài là Ô Sào Thiền sư.

[15]Ma ngu si - ma ngủ.

[16]  Tiến bộ nhanh chóng.

[17]Trời lâu đất dài.

[18]Mặt trời đi, mặt trăng lại. Ý nói thời gian trôi đi nhanh chóng

[19]Mỗi ngày làm một điều nhân, có sách viết "nhứt nhựt tu thân.”

[20]Sinh ra, chết đi.

[21]Chuỗi bồ đề

[22])  Ba câu : Quan Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát

[23]Cúi đầu xá.

[24]Lạy.

[25]Ðứng dậy.

 

 --- o0o ---

Mục Lục Tập IV

Phần I | Phần II | Phần III | Phần IV | Phần V

--- o0o ---

 

Mục Lục tuyển tập

TẬP I | TẬP II | TẬP III | TẬP IV | TẬP V

 

 --- o0o ---

Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật: 6 -2003

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

THICH Bình ï¾ å gioi thien la gi va chung ta toa thien nhu the nao 心經 診療 từ linh sơn đến yên tử vua đầu bếp yan can cook chia sẻ về ẩm ï¾ sống ỷ lại dựa dẫm là căn bệnh phật học le 首座 Súp miso cho bữa sáng Mối liên hệ giữa thầy vムChuối có khả năng diệt được virus 永宁寺 phat giao thực 放下凡夫心 故事 những đóng góp của pháp sư huyền trang su phat trien kinh te nhin tu triet ly phat giao dieu 西南卦 uống trà đêm trăng vì sao chúng ta không trường sinh bất là 妙性本空 无有一法可得 tình thương và giáo dưỡng của trụ trì tà lam tu mau keo tre æ giÃƒÆ sức mạnh của sự tha thứ thí Từ Rạch Cát tới Tòa Đại sứ vì sao lễ hội văn hoá lại biến thành ç æˆ 摩訶俱絺羅 Thường ipad Câu Thói thể kinh Cách nghia