Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim
(Kim quang minh tối thắng vương
kinh)
bản Hoa dịch của ngài Nghĩa tịnh
HT. Thích Trí Quang
dịch giải
---o0o---
Phẩm
3: Phân Biệt Ba Thân
Lúc ấy đại bồ tát Hư không tạng
ở trong đại hội từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt vạt pháp y ở vai bên
phải, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay tôn kính, đảnh lễ
ngang chân đức Thế tôn, đem cái lọng thượng hạng có gắn tràng phan và
kết những thứ hoa vàng ngọc tinh hảo mà hiến dâng lên Ngài, thưa rằng,
bạch đức Thế tôn, bồ tát đại sĩ tu hành chính xác như thế nào về
bí mật sâu xa của chư vị Thế tôn? Đức Thế tôn dạy, thiện nam tử,
hãy nghe cho kyլ hãy khéo suy nghĩ, Như lai sẽ phân tích giải thích cho ông.
Thiện nam tử, chư vị Như lai có
ba thân, một là hóa thân, hai là ứng thân, ba là pháp thân. Ba thân như vậy
bao quát đầy đủ về vô thượng bồ đề, nhận thức chính xác thì mau
chóng siêu thoát sinh tử. Thiện nam tử, bồ tát nên nhận thức hóa thân
như thế nào? Nên nhận thức rằng Như lai quá khứ ở trong vị trí tu
hành, vì chúng sinh mà tu tập diệu pháp. Tu tập cho đến vị trí viên
mãn. Thì do sức mạnh tu tập mà được sự tự tại lớn lao. Được sự
tự tại nên tùy ý muốn của chúng sinh, tùy việc làm của chúng sinh, tùy
thế giới của chúng sinh, biết rành tất cả. Rồi không chờ đợi cơ hội,
không lỡ mất cơ hội, thích ứng địa phương, thích ứng thì gian, thích
ứng việc làm, thích ứng thuyết pháp, mà thị hiện mọi loại thân hình,
đó là hóa thân. Thiện nam tử, bồ tát nên nhận thức ứng thân như thế
nào? Nên nhận thức rằng Như lai vì làm cho bồ tát được sự thông đạt
mà nói về chân đế, rằng do thấu triệt sinh tử với niết bàn là nhất
thể, do loại trừ sự sợ hãi và sự vui mừng của chúng sinh chấp ngã,
do làm căn bản cho vô biên phẩm chất Phật đà, do sức mạnh bản nguyện
thích ứng đích thực với như như trí của như như lý, mà hình thành
thân thể với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi nét đẹp, sau cổ là vầng
sáng tròn, đó là ứng thân. Thiện nam tử, bồ tát nên nhận thức pháp
thân như thế nào? Nên nhận thức rằng do loại trừ phiền não chướng và
sở tri chướng, do đầy đủ thiện pháp, mà chỉ có như như lý của như
như trí (12) , đó là pháp thân.
Thiện nam tử, hai thân trước là
có giả, thân thứ ba mới có thật, làm căn bản cho hai thân trước. Tại
sao? Vì tách rời như như lý và như như trí thì chư vị Như lai không có
phẩm chất nào cả. Nhưng chư vị Như lai thì tuệ giác toàn hảo, phiền
não diệt tận, thủ đắc vị trí Phật đà tối cực thanh tịnh. Thế nên
như như lý và như như trí tổng quát tất cả phẩm chất Phật đà.
Thiện nam tử, chư vị Như lai tuyệt
đối lợi ích mình người (13) . Lợi ích mình là như như lý. Lợi ích người
là như như trí. Như như lý và như như trí làm cho đạt được tự tại
trong sự lợi ích mình người, hoàn thành vô biên diệu dụng, do vậy mà
phẩm chất Phật đà có vô biên các dạng dị biệt. Thiện nam tử, ví như
do vọng tưởng mà nói các loại phiền não, các loại nghiệp dụng, các loại
quả báo; cũng y như vậy, do như như lý và như như trí mà nói các pháp Phật
đà, các pháp Độc giác, các pháp Thanh văn. Do như như lý và như như trí
mà tự tại hoàn thành tất cả Phật pháp, đó là sự thể bậc nhất, bất
khả tư nghị. Thiện nam tử, như vẽ đồ dùng trong không gian, đó là sự
khó thể nghĩ bàn; do như như lý và như như trí mà hoàn thành phẩm chất
Phật đà cũng khó nghĩ bàn như vậy. Tại sao như như lý và như như trí cả
hai đều không phân biệt mà lại tự tại hoàn thành sự thể? Điều này
ví như Như lai nhập niết bàn, nhưng do nguyện lực tự tại mà thành được
đủ mọi sự thể. Như như lý và như như trí mà tự tại hoàn thành mọi
sự cũng là như vậy. Thiện nam tử, bồ tát đại sĩ nhập định vô tâm
(14) , nhưng do nguyện lực trước đó mà xuất định vẫn làm mọi sự; như
như lý và như như trí không phân biệt mà vẫn tự tại thành sự cũng vậy.
Như trời trăng không có phân biệt, nước gương không có phân biệt, ánh
sáng không có phân biệt, nhưng cả ba thứ này hợp lại thì có hình ảnh;
như như lý và như như trí không phân biệt, nhưng do nguyện lực tự tại
mà chúng sinh thấy có ứng thân và hóa thân. Thiện nam tử, rất nhiều nước
gương do ánh sáng mà không ảnh (15) hiện ra đủ hình dạng khác nhau, nhưng
không gian thì không có hình dạng như vậy. Cũng y như vậy, những người
tiếp nhận giáo hóa chính là hình ảnh của pháp thân. Do nguyện lực mà
hai thân đủ mọi hình tướng, nhưng pháp thân thì không có hình tướng khác
nhau.
Thiện nam tử, do hai thân mà nói chư
vị Như lai là niết bàn hữu dư, do pháp thân mà nói chư vị Như lai là niết
bàn vô dư, vì những gì dư lại đã tuyệt đối diệt tận. Lại do ba thân
mà nói chư vị Như lai không trụ niết bàn. Hai thân là không trụ niết
bàn, còn tách rời pháp thân thì không có Phật thân nào biệt lập, [nên
pháp thân cũng là không trụ niết bàn]. Tại sao hai thân không trụ niết
bàn, vì hai thân là có giả, sinh diệt như mỗi ý nghĩ, không cố định trụ
lại, lại luôn luôn xuất hiện chứ không cố định. Pháp thân thì không
như vậy. Nên hai thân thì không trụ niết bàn, còn pháp thân thì vì bất
nhị [với hai thân] nên cũng là không trụ niết bàn mà thôi. Do vậy, căn
cứ ba thân mà nói chư vị Như lai không trụ niết bàn (16) .
Thiện nam tử, phàm phu vì ba tướng
mà có ràng buộc, có ngăn cách, rời xa ba thân, không đạt đến ba thân.
Ba tướng là gì, một là biến kế, hai là y tha, ba là thành tựu. Ba tướng
như vậy mà không thể lý giải [cái nên lý giải], không thể diệt trừ
[cái nên diệt trừ], không thể trong sáng [cái nên trong sáng], thế nên
không thể đạt đến ba thân. Ba tướng như vậy mà có thể lý giải, có
thể diệt trừ, có thể trong sáng, thì toàn hảo ba thân của chư vị Như
lai. Thiện nam tử, phàm phu chưa trừ bỏ được ba tâm nên rời xa ba thân,
không thể đạt đến. Ba tâm là gì, một là tâm sinh sự, hai làm tâm dựa
vào căn bản, ba là tâm căn bản. Do đạo tạm dẹp mà tâm sinh sự diệt tận,
do đạo đoạn trừ mà tâm dựa vào căn bản diệt tận, do đạo hơn hết
mà tâm căn bản diệt tận. Tâm sinh sự diệt tận thì biến hiện hóa
thân, tâm dựa vào căn bản diệt tận thì hình thành ứng thân, tâm căn bản
diệt tận thì hiển lộ pháp thân. Do vậy, chư vị Như lai đủ cả ba thân.
Thiện nam tử, nơi thân thứ nhất
thì chư vị Như lai đồng nhất công việc, nơi thân thứ hai thì chư vị
Như lai đồng nhất ý muốn, nơi thân thứ ba thì chư vị Như lai đồng nhất
thể tánh.
Thiện nam tử, thân Phật thứ nhất
là tùy ý chúng sinh có lắm dạng nên hiện ra lắm dạng, do vậy mà nói
thân này là nhiều. Thân Phật thứ hai thì ý của đệ tử là một tướng
nên hiện ra một tướng, do vậy mà nói thân này là một. Thân Phật thứ
ba siêu việt tất cả dạng tướng, không phải lĩnh vực dạng tướng, do
vậy mà nói thân này là phi nhất phi dị.
Thiện nam tử, thân thứ nhất dựa
ứng thân mà biểu hiện, thân thứ hai dựa pháp thân mà biểu hiện, còn
thân thứ ba thì có thật, không cần chỗ dựa.
Thiện nam tử, ba thân như vậy có
nghĩa nói là thường còn, có nghĩa nói là vô thường. Hóa thân thường
chuyển pháp luân, nơi nơi tùy duyên, phương tiện liên tục, không có chấm
dứt, nên nói là thường còn; nhưng không phải là căn bản, đại dụng đầy
đủ không được biểu hiện, nên nói là vô thường. thân thì vô thỉ
đến nay liên tục bất đoạn, thu giữ được hết thảy phẩm chất đặc
hữu của chư vị Như lai, chúng sinh vô tận nên diệu dụng cũng vô tận,
nên nói là thường còn; nhưng cũng không phải là căn bản, đại dụng đầy
đủ cũng không biểu hiện, nên nói là vô thường. Pháp thân không phải
là hữu vi (17) , không có các dạng khác nhau, mà là căn bản, tựa như không
gian, nên nói là thường còn. Thiện nam tử, rời như như trí thì không có
tuệ giác tối thượng nào nữa, rời như như lý thì không có đối cảnh
tối thượng nào nữa. Một mặt là như như của các pháp, một mặt là như
như của tuệ giác, hai mặt như như ấy là như như, phi đồng nhất phi dị
biệt. Do vậy, pháp thân thì tuệ giác trong sáng, diệt trừ trong sáng, do
hai sự trong sáng này mà pháp thân hoàn toàn trong sáng.
Thiện nam tử, phân biệt ba thân
thì có 4 sự khác nhau: có hóa thân không phải ứng thân, có ứng thân
không phải hóa thân, có hoá thân cũng là ứng thân, có không phải hoá
thân cũng không phải ứng thân. Hóa thân không phải ứng thân là thế
nào, là chư Như lai nhập niết bàn rồi, do đại nguyện tự tại mà vẫn
tùy duyên lợi ích chúng sinh. thân không phải hóa thân là thế nào, là
cái thân được thấy bởi bồ tát trước mười địa (18) . Hóa thân cũng
là ứng thân là thế nào, là cái thân ở nơi niết bàn hữu dư. Không phải
hóa thân cũng không phải ứng thân là thế nào, là chính pháp thân. Thiện
nam tử, pháp thân như vậy do hai sự vô sở hữu mà hiển lộ. Hai sự vô
sở hữu là thế nào, là nơi pháp thân thì ngã chấp pháp chấp (19) toàn
là không, phi có phi không, phi một phi khác, phi số lượng phi siêu số lượng,
phi sáng suốt phi ngu tối, ấy vậy, như như trí thì không thấy ngã chấp
pháp chấp, không thấy phi có phi không, cho đến không thấy phi sáng suốt
phi ngu tối. Thế nên phải biết đối cảnh trong sáng với tuệ giác trong
sáng là bất khả phân biệt, không phải ở giữa [những khái niệm đối
lập lẫn nhau]; làm căn bản cho diệt đế và đạo đế (20) , nên pháp
thân đầy tính năng biểu hiện đủ loại sự nghiệp của chư vị Như
lai.
Thiện nam tử, thân này (21) thì bản
thân, yếu tố, đối cảnh, đối tượng, kết quả, tất cả toàn là dựa
vào căn bản [như như lý] (22) và nó thật khó mà nghĩ bàn. Nếu hiểu nghĩa
ấy thì biết thân này là cỗ xe vĩ đại, là thể tánh Như lai, là bào
thai Như lai (23) . Dựa vào thân này thì được cái tâm vị trí mới phát
và cái tâm vị trí tu hành đều hiện ra, cái tâm vị trí bất thoái cũng
hiện ra, cái tâm vị trí bổ xứ, cái tâm vị trí kim cang, cái tâm vị
trí Như lai cũng hiện ra cả, vô lượng vô biên phẩm chất tinh tế của
Như lai cũng hiện ra. Thiện nam tử, dựa vào pháp thân mà đại định và
đại trí được thực hiện, và do đó mà hóa thân dựa vào đại định với
ứng thân dựa vào đại trí cũng được thực hiện. Pháp thân như vậy do
tự thể của Nó mà nói là thường và nói là ngã, do đại định của Nó
mà nói là lạc, do đại trí của Nó mà nói là tịnh. Do vậy mà Như lai
thường trú, tự tại, an lạc, thanh tịnh (24) .
Do đại định mà hết thảy thiền
định, định Thủ lăng nghiêm và các định đồng đẳng, hết thảy niệm
xứ, đại pháp niệm xứ và những niệm xứ đồng đẳng, đại từ đại
bi, hết thảy tổng trì, hết thảy thần thông, hết thảy tự tại, hết
thảy bình đẳng, hết thảy các pháp Phật đà như vậy đều được thực
hiện. Do đại trí mà mười lực, bốn vô úy, bốn vô ngại biện, một trăm
tám mươi pháp bất cọng (25) , hết thảy các pháp bất khả tư nghị như
vậy đều được thực hiện. Ví như do ngọc như ý mà vô số các loại
ngọc quí đều được xuất hiện, cũng là như vậy, do ngọc đại định
và ngọc đại trí mà xuất ra vô số diệu pháp của chư vị Như lai.
Thiện nam tử, pháp thân như vậy,
và đại định đại trí của Nó, toàn là siêu việt hết thảy khái niệm
(26) , không vướng mắc khái niệm nào hết, không thể phân biệt, phi thường
phi đoạn, gọi là trung đạo (27) ; tuy phân biệt mà thể tánh không phân
biệt, tuy có ba số (28) mà thể tánh không phải ba số, bất tăng bất giảm,
tựa như mộng ảo không có năng chấp với sở chấp; là pháp thể như
như, là xứ sở giải thoát, vượt qua lĩnh vực của vua chết, vượt qua
luôn sự tối tăm của sinh tử, là chỗ chúng sinh không thể tu hành và đạt
đến [bằng khái niệm của mình], là chỗ an trú của chư vị Phật đà
và chư vị Bồ tát.
Thiện nam tử, như người muốn có
vàng nên tìm kiếm khắp nơi, và tìm được mỏ vàng. Rồi đập ra, chọn
phần nào tinh hơn thì bỏ vào lò mà luyện, nên thành vàng ròng, chế tạo
đủ thứ đồ trang sức, đồ trang sức khác nhau mà vàng không biến đổi.
Thế nên, thiện nam tử, thiện nam hay thiện nữ nào muốn cầu giải thoát
siêu việt mà tu hành thiện căn thuộc phạm vi thế gian (29) , thì được
thấy chư vị Như lai, và đệ tử của các Ngài, được thân gần, rồi thưa
rằng, bạch đức Thế tôn, cái gì là thiện? cái gì là ác? cái gì là
chính tu hành được thanh tịnh hạnh? Chư vị Như lai, và đệ tử của các
Ngài, thấy họ hỏi thì nghĩ, thiện nam thiện nữ này muốn cầu thanh tịnh,
muốn nghe chánh pháp. Nghĩ vậy nên liền nói cho họ khai ngộ. Họ nghe rồi
chính xác ghi nhớ, phát tâm tu hành, được sức mạnh tinh tiến, loại trừ
sự chướng ngại vì biếng nhác, diệt mọi tội lỗi, đối với giới pháp
họ tách rời sự không tôn trọng, ngưng cả sự háo động và tiếc nuối,
nên nhập vào địa thứ nhất. Do tâm của địa thứ nhất này loại trừ
sự chướng ngại cho sự lợi ích chúng sinh, nên nhập vào địa thứ hai.
Trong địa thứ hai này loại trừ sự chướng ngại cho sự không áp bức
quấy rối chúng sinh, nên nhập vào địa thứ ba. Trong địa thứ ba này loại
trừ sự chướng ngại cho tâm mềm dịu trong sáng, nên nhập vào địa thứ
tư. Trong địa thứ tư này loại trừ sự chướng ngại cho phương tiện khéo
léo, nên nhập vào địa thứ năm. Trong địa thứ năm này loại trừ sự
chướng ngại vì thấy chân đế tục đế đối lập với nhau, nên nhập
vào địa thứ sáu. Trong địa thứ sáu này loại trừ sự chướng ngại vì
thấy có hành tướng, nên nhập vào địa thứ bảy. Trong địa thứ bảy này
loại trừ sự chướng ngại vì không thấy sự diệt, nên nhập vào địa
thứ tám. Trong địa thứ tám này loại trừ sự chướng ngại vì không thấy
sự sinh, nên nhập vào địa thứ chín. Trong địa thứ chín này loại trừ
sự chướng ngại cho lục thông, nên nhập vào địa thứ mười. Trong địa
thứ mười này loại trừ sự chướng ngại vì ngu muội các pháp sở tri,
loại trừ cái tâm căn bản, nên nhập vào Như lai địa. Như lai địa do ba
sự trong sáng mà gọi là cực trong sáng. Ba sự ấy là những gì? Một là
trong sáng vì loại trừ phiền não, hai là trong sáng vì loại trừ khổ
não, ba là trong sáng vì loại trừ tập khí. Như vàng thật chảy ra vì nung
luyện, nung luyện rồi thì không còn quặng bẩn nữa, chứng tỏ vàng vốn
trong sáng, chứ không phải không có vàng. Như nước dơ mà lọc trong thì
không còn cặn bẩn, chứng tỏ nước vốn trong suốt, chứ không phải
không có nước. Cũng là như vậy, pháp thân vốn tách rời phiền não, khổ
và tập loại trừ rồi thì không còn tập quán thừa lại, chứng tỏ thể
tánh pháp thân vốn trong sáng, chứ không phải không có thể tánh. Như không
gian bị khói mây bụi mù che đi, trừ cái che ấy rồi thì không gian trong
sáng, chứ không phải không có không gian; pháp thân cũng vậy, mọi sự khổ
não loại bỏ hết rồi thì nói là trong sáng, không phải không có thể
tánh pháp thân. Như có kẻ trong mộng thấy bị trôi theo dòng nước sông lớn,
nên vận dụng cả tay chân mà bơi qua, đến được bờ bến bên kia, ấy
là do cả thân tâm kẻ ấy không nhác, không lùi. Khi mộng tỉnh thì không
còn thấy nước, thấy bờ bên này bờ bên kia, nhưng không phải không có
cái tâm: vọng tưởng sinh tử loại bỏ hết rồi thì tuệ giác trong sáng,
chứ không phải không có tuệ giác. Ấy vậy, pháp thân thì mọi thứ vọng
tưởng không còn phát sinh nên nói là trong sáng, chứ không phải chư vị
Như lai không có thật thể.
Lại nữa, thiện nam tử, pháp thân
do làm sạch hoặc chướng mà biểu hiện ứng thân, do làm sạch nghiệp chướng
mà biểu hiện hóa thân, do làm sạch trí chướng mà pháp thân tự biểu hiện.
Ví như do không gian mà phát điện lực, do điện lực mà phát ánh sáng; cũng
là như vậy, do pháp thân mà biểu hiện ứng thân, do ứng thân mà biểu hiện
hóa thân. Do thể trong sáng mà pháp thân tự biểu hiện, do trí trong sáng
mà biểu hiện ứng thân, do định trong sáng mà biểu hiện hóa thân. Ba sự
trong sáng như vậy là pháp tánh như như, bất dị như như, nhất vị như
như, giải thoát như như, cứu cánh như như, do vậy, chư vị Như lai thì thể
tánh không có dị biệt. Thiện nam tử, nếu thiện nam hay thiện nữ nào
nói đức Thế tôn là bậc Thầy cao cả của tôi, tin tưởng quyết định
như vậy, thì người ấy, từ trong tâm trí sâu xa, thấu hiểu pháp thân Như
lai không có dị biệt. Và thiện nam tử, do vậy mà, đối với các pháp,
người ấy loại trừ hết cả sự tư duy không chính xác, biết các pháp
là phi nhị biên, là vô phân biệt, là thánh giả tu hành. Đối với các
pháp, chính xác tu hành sự không có nhị biên như thế nào, thì đối với
các chướng cũng loại trừ như vậy; loại trừ các chướng như thế nào
thì như như lý và như như trí cũng tối cực trong sáng như vậy; như như
lý và như như trí trong sáng như thế nào thì mọi sự tự tại cũng như vậy,
bao quát đầy đủ, thành đạt tất cả. Các chướng loại trừ, các chướng
lọc sạch, đó là chân tướng của như như lý và như như trí. Thấy như
vậy là cái thấy của thánh giả, và thế gọi là thật thấy Như lai, tại
sao, vì đó là đúng như sự thật mà thấy như như lý của các pháp. Do vậy,
chư vị Như lai thấy biết tất cả chư vị Như lai. Còn chư vị Thanh văn
và Độc giác tuy siêu thoát ba cõi, nhưng cầu mà không thể thấy biết như
như lý. Thánh giả mà còn không thể thấy biết, huống chi phàm phu thì
nghi hoặc, phân biệt thác loạn, nên không thể vượt đến. Khác nào thỏ
mà bơi qua biển cả thì bơi không qua được, vì sức lực của thỏ quá
kém, phàm phu cũng vậy, họ không thể thông đạt như như lý của các
pháp. Nhưng chư vị Như lai thì siêu phân biệt, nên được đại tự tại
đối với hết thảy các pháp, được đầy đủ tuệ giác trong sáng và
sâu xa, và đó là lĩnh vực của chư vị Như lai, chứ không phải chung
cùng với người khác. Do vậy mà biết chư vị Như lai trong vô số kiếp
không tiếc tính mạng, làm khổ hạnh khó làm, mới được pháp thân tối
thượng, không thể sánh bằng, bất khả tư nghị, vượt quá lĩnh vực ngôn
ngữ, vắng lặng nhiệm mầu, rời hết mọi sự sợ hãi (30) .
Ấy vậy, thiện nam tử, thấy biết
như như lý của các pháp thì không sinh không già không chết, thọ lượng
bất tận, không ngủ nghỉ, không đói khát, tâm thường thiền định, không
có loạn động. Đối với Như lai mà tranh luận thì thế là không thể thấy
được Như lai. Chư vị Như lai thì nói gì cũng lợi ích, ai nghe cũng giải
thoát, và vì nghe pháp mà phước báo bất tận, đến nỗi chim dữ, thú dữ,
người dữ, quỉ dữ, tất cả không bao giờ gặp phải. Nhưng chư vị Như
lai không có sự vô ký (31) , không sinh tâm muốn biết đối với các pháp
[mà vẫn tự nhiên biết hết], không có ý tưởng sinh tử với niết bàn
khác nhau. Chư vị Như lai phán quyết gì cũng là chắc chắn. Chư vị Như
lai thì tất cả cử động toàn là tuệ giác, tất cả sự việc toàn là từ
bi, không có gì không vì lợi ích yên vui chúng sinh. Thiện nam tử, đối với
bản kinh Ánh sáng hoàng kim này, thiện nam hay thiện nữ nào nghe, tin, hiểu,
thì không sa vào các nẻo địa ngục, ngạ quỉ, bàng sinh, tu la, thường
sinh trong nhân loại và chư thiên mà không phải những nơi thấp hèn; thì
thân gần chư vị Như lai, nghe và tiếp nhận chánh pháp; thì thường sinh
thế giới trong sạch của chư vị Như lai: tất cả thành quả này là do
nghe được kinh pháp cực kỳ sâu xa này. Thiện nam hay thiện nữ như vậy
là được Như lai đã thấy biết và đã ghi nhận sẽ được không thoái
chuyển vô thượng bồ đề. Thiện nam hay thiện nữ nào được kinh pháp cực
kỳ sâu xa này một khi lướt qua thính giác, thì nên biết người ấy không
phỉ báng Phật, không hủy hoại Pháp, không khinh dể Tăng. Ai chưa gieo trồng
thiện căn họ làm cho gieo trồng, ai gieo trồng thiện căn rồi họ làm cho
tăng trưởng và thành thục. Họ khuyến khích mọi người trong mọi thế
giới làm theo sáu pháp ba la mật.
Bấy giờ đại bồ tát Hư không tạng,
Phạn vương, Đế thích, bốn Thiên vương, chư thiên, tức thì từ chỗ ngồi
đứng dậy, vắt vạt áo của vai bên phải, chắp tay cung kính, đảnh lễ
ngang chân đức Thế tôn, rồi thưa rằng, bạch Ngài, ở đâu mà có giảng
diễn bản kinh mầu nhiệm Ánh sáng hoàng kim này, thì quốc gia ấy có bốn
cái lợi. Một, quân đội hoàng gia cường thịnh, không có thù địch, vua
và dân không bịnh tật, sống lâu dài, an lạc cát tường, hưng hiển Phật
pháp. Hai, hoàng gia và quần thần vui đẹp với nhau, rời xa sự dua nịnh,
vua cũng trọng nể. Ba, tu sĩ và quốc dân thực tu Phật pháp, không bịnh,
yên vui, không ai uổng tử, phụng sự tất cả ruộng phước. Bốn, ngày đêm
cơ thể điều hòa, thư thái, chư thiên tăng thêm giữ gìn hộ vệ, tâm lý
từ bi, bình đẳng, không có sự thương tổn, tác hại, làm cho ai cũng qui
kính Tam bảo, ai cũng nguyện tu tập bồ đề hạnh. Như thế đó là bốn
cái lợi. Bạch đức Thế tôn, chúng con cũng thường xuyên vì làm cho kinh
pháp này lan rộng nên theo dõi những người thọ trì, họ ở đâu chúng
con cũng đem lại lợi ích cho họ. Đức Thế tôn dạy rằng, lành thay các
thiện nam tử, các người hãy làm đúng như vậy. Các người hãy nỗ lực
phổ biến bản kinh nhiệm mầu và chúa tể này, và thế là làm cho Phật
pháp ở đời lâu dài.
Mục
Lục
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|7
|
8
|
9|
10
|
11|
12|
13|
14|
15|
16|
17|
18|
19|
20|
21|
22|
23
| 24
|
25
|
26
|
27|
28|
29|
30|
31|ghi
chú|
--- o0o ---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Source
: www.buddhismtoday.com
-o0o-
Trình
bày: Nhị
Tường
Cập
nhật:
01-02-2002