Mục Lục Quyển Chung.
Phần Thứ Nhất.
Phần Thứ Hai.
Phần thứ Ba.

 
.
NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ
Phước Quế Publications, Arlington, USA 2003
Mục Lục.
Quyển Thượng.
Quyển Trung.
Quyển Hạ.
Quyển Chung.
NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
禪 之 花
QUYỂN CHUNG 

1631.- Quét  lá  vàng.

Mùa thu tới rồi, lá vàng rụng nhiều. Một chú tiểu phụ trách quét sân chùa, mỗi sáng đều phải dậy sớm quét lá. Mỗi sáng chú đều phải quét sân rất lâu mới xong. Chú cho đây là một việc làm khổ sai, nên thường than thở. Một hôm, một vị thượng tọa bảo chú :
-Sao chú không rung cây cho lá rụng, hôm sau khỏi phải quét.
Chú tiểu vui mừng làm y lời, nghĩ bụng sáng mai được nghỉ một bữa khỏi phải dậy sớm để quét lá sân chùa.
Ngày hôm sau trở dậy, chú tiểu lại thấy sân chùa đầy lá vàng. Lúc đó, lão hòa thượng chạy lại bảo :
-Dù hôm nay chú dùng sức lay cây, ngày mai lá vẫn cứ rơi.
Chú tiểu nghe rồi, có chút tỉnh ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Ở đời có nhiều chuyện không thể tính trước được. Chúng ta hãy sống trong hiện tại.

1632.- Kho  báu  nhà  mình.

Đời Đường, Đại Châu Huệ Hải là một đệ tử nổi danh của Mã Tổ Đạo Nhất. Một hôm có người hỏi ông :
-Phật là thế nào ?
-Hãy nhìn trước mặt, chẳng phải Phật thì là ai ?
Người đó nhìn ra phía trước, chỉ thấy núi xanh chập chùng nào thấy Phật ở đâu ? Đại Châu thấy người ấy không hiểu, bèn kể lại chuyện khi mình đến gập Mã Tổ. Mã Tổ hỏi :
-Ông từ đâu đến ?
-Con từ Việt Châu Đại Vân Tự tới.
-Ông đến đây làm gì ?
-Con đến cầu Phật pháp.
-Nơi đây tôi chả có gì cả, cầu Phật pháp cái gì ? Mình tự có kho báu không biết trân quý còn ra ngoài tìm kiếm gì nữa ?
 -Không biết cái gì là kho báu nhà con ?
-Chính là người đứng trước mặt tôi đang hỏi pháp đó. Đó là kho báu nhà mình, có đủ tất cả không thiếu thứ gì, tự do xử dụng.
Đại Châu ngay đó đại ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Lãnh ngộ tự tánh rồi thì biết tự thân mình ẩn tàng vô hạn châu báu.         (Xem thêm công án 235)

1633.- Ngũ  Tổ  Hoằng  Nhẫn.

Ngũ tổ Hoằng Nhẫn trú ở Hoàng Mai Song Phong Sơn tụ chúng giảng thiền. Đệ tử có hơn 700 người. Nam thiền, bắc thiền đều là môn hạ. Có ông tăng hỏi :
-Người tu học sao không ở thành thị mà lánh cư ở sơn cốc ?
-Các cột trụ chống nhà đại sảnh đều là dùng các cây mọc ở nơi núi sâu rừng thẳm, chứ không mọc ở nơi thị thành. Xa loài người tránh được đao kiếm làm tổn thương, do đó lâu dần mới trở thành đại thụ. Do đấy có thể biết ở nơi núi sâu rừng thẳm, xa lìa trần thế ưu phiền có thể tu thân dưỡng tánh, bồi dưỡng đạo tâm khiến đại thụ khai hoa, thiền lâm kết quả.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Hoằng Nhẫn chỉ ngồi thiền, không viết sách lập thuyết chỉ tùy tiện giảng thiền lý. Chúng ta khi học tập, nên giữ tâm bình thường, từng bước từng bước đạp thật trên đất.

1634.- Sanh  và  tử.

Có người hỏi một thiền sư về chuyện sanh tử, thiền sư hỏi ngược lại :
-Ông đã chết chưa ?
Người này ngạc nhiên không trả lời được, thiền sư tiếp :
-Muốn biết chuyện sanh tử, chỉ có mình tự thể ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Kỳ thực chuyện sanh tử cứ để thuận theo tự nhiên, khi nào nó đến thì đến. Chúng ta nên trân quý hiện tại.

1635.- Hương  hoa  cúc.

Một hôm, một thiền sư đi chơi núi mang về một cây hoa cúc. Ông đem trồng ở sân thiền viện. Ba năm sau, cúc sinh sôi nẩy nở thành vườn. Tới mùa thu, cả thiền viện đều thơm mùi hoa cúc. Dân chúng dưới núi đều ngửi thấy mùi thơm này, do đó lên chùa thưởng ngoạn. Họ không  ngừng khen ngợi :
-Thật thơm quá !
Họ năn nỉ thiền sư cho vài cây đem về trồng. Thiền sư vui vẻ đồng ý. Dòng người xin cây liên tục không dứt. Không lâu vườn cúc trống không. Các đệ tử nhìn vườn cúc thê lương than thở :
-Thật đáng tiếc ! Đang hương vị ngạt ngào thiền viện.
Thiền sư nghe được bảo :
-Như vậy càng tốt, 3 năm nữa thì toàn thôn đều ngát mùi hoa cúc.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Việc tốt phải cùng hưởng với người. Nhìn thấy người hạnh phúc là hạnh phúc nhất của mình.

1636.- Tâm  không.

Có một vị thiền tăng Ấn Độ tu đắc tha tâm thông. Ông đến thăm thiền sư Tổ Tâm, cầu sư kiểm chứng. Tổ Tâm tưởng đến một cảnh rồi hỏi :
-Tâm lão tăng hiện ở đâu ?
-Núi cao sừng sững. sông nhỏ nước chẩy siết.
Thiền sư gật đầu, lại chuyển tâm niệm vào thiền cảnh vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô thế gian tướng, vô động tĩnh tướng rồi hỏi :
-Tâm lão tăng hiện ở đâu ?
Thần tăng cố hết sức nhưng không nhìn ra.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Tổ Tâm vào cảnh giới thiền định rồi, tâm không một vật, do đó không có vết tích gì khiến thần tăng có thể nhìn thấy được.  (Xem thêm công án 388).

1637.- Chén  nước  trà  phản  chiếu  cả  càn  khôn.

Chương thiền sư, lúc còn là một vân thủy tăng từng đến tham học Đầu Tử, giữ chức Sài Đầu (coi việc củi nước). Một hôm gập Đầu Tử. Đầu Tử đưa cho ông một chén trà để ủy lạo và hỏi :
-Ông thấy chén trà này thế nào ?
-Bao la vạn tượng đều nằm trong đây.
-Nếu hớp một ngụm cạn hết thì sao ?
Chương thiền sư hắt chén trà đi, hỏi :
-Bao la vạn tượng giờ ở đâu ?
-Tiếc thay một chén trà !
-Chỉ là một chén trà sao ?
-Tuy chỉ là một chén trà, nhưng bao la vạn tượng đều nằm trong đó.
Chương thiền sư không đáp được.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Một chén trà tuy nhỏ nhưng có thể phản chiếu cả càn khôn, tâm tuy vô tướng nhưng bao gồm vạn tượng. (Xem thêm công án 324)

1638.- Dõng  khí  của  người  ăn  mày.

Có một lần, một người ăn mày xin tiền một phú ông, lại còn nói trước là người quen. Phú ông nhìn kỹ thì nhận ra người ấy là Trương Tam Thiếu lúc trước là con nhà giầu có. Ông liền hỏi duyên cớ làm sao lại lâm vào cảnh này ? Người ăn mày cho biết vì một trận hỏa hoạn tất cả nhà cửa, tiền tài đều bị thiêu rụi thành tro. Để có tiền uống rượu ông đành đi ăn xin, hơn nữa uống rượu khiến ông ta có dõng khí mà ăn xin. Phú ông nghe rồi thấy được sự ngu muội của con người. Chúng sanh vì tửu sắc, tài khí mà bận rộn một đời. Ông bèn đi hỏi Huệ Khả. Huệ Khả cười cười bảo ông :
-Mặt trời mọc từ phương Tây chiếu vào cây sẽ không cho bóng.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Đừng lo lắng về tương lai, hãy quý mến hiện tại. Ít đi một chút lo lắng phiền não, nhiều thêm một chút thiện lương và bao dung nhất định cuộc sống sẽ vui vẻ, hạnh phúc.

1639.- Mặc  áo,  ăn  cơm.

Thiền sư Mục Châu lãnh ngộ thiền học rất sâu, nên có nhiều người đến tham học. Một hôm, có một người đến hỏi :
-Mỗi ngày đều phải mặc áo, ăn cơm, cảm thấy phiền quá, không biết thầy có cách gì chỉ cho con thoát khỏi phiền não này không ?
-Mặc áo, ăn cơm.
Người này không hiểu, trầm ngâm suy nghĩ. Mục Châu lại bảo :
-Nếu như ông hãy còn chưa hiểu thì hãy mặc áo, ăn cơm.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Có nhiều người lo chuyện đời, cả ngày bận rộn không có lúc nào rảnh để hưởng thụ những nét đẹp của sinh hoạt trong đời sống. Họ nên quay về bản tâm, đối diện với sinh hoạt thì mặc áo, ăn cơm không còn là phiền não mà là trưởng dưỡng Phật tánh vậy.  (Xem thêm công án 1131)

1640.- Phật  chính  là  mình.

Một ông tăng hỏi Huệ Trung :
-Trâu, chó có Phật tánh không ?
-Có.
-Tại sao ?
-Vì là chúng sanh, chúng sanh đều có Phật tánh.
-Phật tánh là cái gì ? Có thể thấy, tưởng đến hoặc cảm giác được không?
-Chỉ có thể ngộ được.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Phật là một loại trí tuệ Thanh Tịnh soi sáng tất cả mọi hành vi, chỉ có ngộ rồi mới biết được bản nguyên, nơi nơi đều không tịch.

1641.- Cháo  đã  nguội  rồi.

Long Nha là một thiền sư đọc nhiều sách vở, giỏi lý luận. Một hôm, một học tăng mới vào thiền viện được 2 ngày, trong bữa ăn sáng đã vội hỏi thiền sư :
-Con có vài câu hỏi xin thầy chỉ giáo : thứ nhất linh hồn của chúng ta có bị hủy diệt không? Thứ hai chúng ta có nhất định bị luân hồi không ? Thứ 3 nếu bị chuyển thế những ký ức của kiếp này có giữ được không? Thứ 4 . . .
Ông tăng còn đang định hỏi nữa thì thiền sư bỗng cắt ngang :
-Cháo của ông đã nguội rồi kìa !
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Ngồi mà luận đạo chẳng thà ngồi thiền. Hãy sống trong hiện tại là việc quan trọng nhất. Có một số người không thực tế, cứ sống như người đi trên mây, tất nhiên không thể có thành tựu gì.

1642.- Tạp dịch.

Bạch Ẩn là một vị thiền sư nổi tiếng một thời. Ông thâu nhận nhiều đồ đệ và tự mình chỉ dạy họ tham ngộ thiền đạo. Về già, một hôm đang thu dọn chăn, mùng, một đệ tử mới nhập môn kinh ngạc hỏi :
-Sao thầy lại làm những tạp dịch này, để chúng con làm cho.
Ý ông tăng là thầy hãy để thời gian mà tu hành, những chuyện vụn vặt này để các đệ tử làm là được rồi. Bạch Ẩn không vui bảo :
-Nếu làm tạp dịch không phải là tu hành, vậy Phật tổ sắc thuốc cho đệ tử gọi là gì ?
Ông tăng ngay đó tỉnh ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Chỉ cần có lòng, trong sinh hoạt hàng ngày chỗ nào cũng có thể tu.

1643.- Mơ xanh.

Cát Châu Đam Nguyên Sơn Ứng Sơn là thị giả của Nam Dương Huệ Trung, một hôm đem một giỏ vào phòng phương trượng. Huệ Trung hỏi :
-Trong giỏ có gì vậy ?
-Mơ xanh.
-Ông mang mơ xanh đến làm gì ?
-Cúng dường chư Phật, Bồ Tát.
-Mơ xanh còn chua lắm, làm sao cúng dường?
-Nói cúng dường chỉ là để tỏ lòng thành.
-Chư Phật, Bồ Tát không tiếp thu mơ chua đâu, tôi thấy ông chỉ tự cúng dường mình thôi.
-Hiện tại con đã cúng dường : tâm, Phật, chúng sanh không sai biệt hà tất phải so sánh ? Còn quốc sư thì sao ?
-Tôi không cúng dường.
-Vì sao ?
-Tôi không có mơ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Mơ xanh chỉ tâm chưa thông đạt. Đam Nguyên tâm còn chấp có Phật để cầu, để cúng dường. Tâm không nhiễm trần, cứ tùy theo tự nhiên, không tạo tác đó mới thực sự là cúng dường. (Xem thêm công án 394.)

1644.- Ăn  gà  trị  bệnh.

Lúc trước có một ông lang chẩn bệnh cho một người mang bệnh nặng và cho một phương thuốc trị bệnh rất đơn giản là ăn thịt gà rừng. Bệnh nhân ăn xong một con gà rừng cảm thấy mình khỏe ra, ông ta không ăn nữa, nghĩ mình đã khỏi bệnh rồi. Kết quả là bệnh không khỏi.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Trị bệnh cần phải có thời gian, tu hành cũng cần phải trải qua một quá trình tu học, không phải đùng một cái là xong.

1645.- Vẹt  học  nói.

Hàn Dũ đến thăm Bảo Thông, hỏi :
-Thầy bao nhiêu tuổi ?
Bảo Thông giơ chuỗi hạt lên hỏi :
-Hiểu không ?
-Dạ ! Không.
-Ngày đêm 108.
Hàn Dũ không hiểu, hôm sau lại đến gập thủ tọa bèn đem chuyện hôm trước ra hỏi. Thủ tọa nghiến răng 3 lần. Khi gập Bảo Thông, Hàn Dũ nhắc lại câu hỏi. Bảo Thông cũng nghiến răng 3 lần. Hàn Dũ bèn nói :
-Nguyên lai Phật pháp không hai.
Bảo Thông hỏi là ý gì ? Hàn Dũ thuật lại chuyện đã hỏi thủ tọa. Bảo Thông vội gọi thủ tọa lại hỏi :
-Có phải ông trả lời như vậy không ?
Thủ tọa cười gật đầu. Bảo Thông liền đuổi thủ tọa ra khỏi viện.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Khi có người hỏi Bảo Thông thường nghiến răng để trả lời. Thủ tọa cũng bắt chước, lại ra vẻ đắc ý. Thiền là sáng tạo, chỉ bắt chước như vẹt là làm mất đi sanh mạng của Thiền.
(Xem thêm công án 1139)

1646.- Ý  chí  kiên  cường.

Một ông tăng hỏi thiền sư Trí Thông :
-Làm sao để thành Phật ?
-Ông vân du khắp nơi đã tìm ra chỗ an thân chưa ? Nếu chưa thì có đi mòn dép cỏ cũng vô ích.
-Làm sao mới thành Phật?
Trí Thông cười ha hả :
-Người có ý chí kiên định, dép cỏ rách thì đi chân không. Tâm còn bị phiền não trói buộc, sao có thể nói chuyện an thân, lập mạng ?
Ông tăng nhìn dép cỏ, hoảng nhiên đại ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Trong quá trình tu tập, phải có ý chí kiên cường mới có thể đối diện với nghịch cảnh và tìm ra phương thức giải quyết.

1647.- Hoàn  tục.

Một ông tăng không chịu được sự cô tịch bèn hoàn tục; nhưng một tháng sau ông lại trở lại vì không chịu được người đời nói nhiều quá. Ít lâu sau ông lại xuống núi, rồi lại trở lại. Cứ thế 3 lần rồi. Một vị lão tăng bảo ông :
-Chẳng phải khoác áo cà sa mới là tin Phật. Ông hãy xuống chân núi mở một quán trà coi sao !
Ông tăng nghe lời xuống núi mở quán trà, sau đó cưới vợ, từ đó cuộc sống được ổn định.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Một người đi nửa đường chỉ làm được chuyện nửa đường. Chúng ta phải xét xem mình đang ở đâu rồi đặt ra mục tiêu để hoàn thành thì đời sống mới có ý nghĩa.

1648.- Phương  trượng  và  ăn  mày.

Một hôm có một gã ăn mày cụt một tay đến chùa xin tiền Phương trượng. Phương trượng bảo gã bê khối đá ở trước cửa chùa ra sau vườn thì sẽ cho gã tiền. Gã ăn mày nổi giận :
-Tôi chỉ có một tay làm sao bê đá ?
Phương trượng không nói một lời, chỉ dùng một tay bê tảng đá ra sau vườn. Gã ăn mày thấy vậy chỉ đành dùng một tay bê đá, mất cả tiếng đồng hồ mới làm xong. Phương trượng cấp cho gã một món tiền. Gã nhận tiền khom lưng cảm tạ.
-Đừng cám ơn tôi đó là tiền ông kiếm được.
-Con sẽ ghi nhớ lời này.
Một thời gian sau, lại có một gã ăn mày khác đến xin tiền. Phương trượng lại bảo gã bê tảng đá từ vườn sau ra trước cổng chùa thì sẽ cho gã tiền. Gã ăn mày này mặc dù có đủ 2 tay khỏe mạnh, nhưng gã chẳng làm, bỏ đi không thèm ngoảnh cổ lại. Đại chúng không hiểu ý thiền sư di chuyển đá để làm gì bèn hỏi. Phương trượng bảo :
-Bê đá tới hay lui thì giống nhau, nhưng chịu bê hay không thì khác.
Nhiều năm trôi qua, có một người giầu có đến chùa cúng tiền nhang đèn rất nhiều, khí độ bất phàm nhưng chỉ có một tay. Ông chính là gã ăn mày năm xưa vậy.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Phẩm cách của một con người gồm 2 điểm cơ bản : thứ nhất phải tự mình lao động, thứ nhì phải tự mình suy tưởng. Trong đời sống cạnh tranh ngày nay, con người phải dựa vào não lực và thể lực mới có thể đạt được hạnh phúc.

1649.- Ý  nghĩa  của  mạng  sống.

Một vị thượng thơ đến bái kiến Tào Sơn để hỏi về bản tánh. Đối với câu hỏi khó trả lời này, thiền sư im lặng cúi đầu ngẫm nghĩ. Ông chợt nhớ một chuyện ông có gập ở trên đường : một thiếu phụ đang mang thai, quần áo có nhiều mảnh vá, lưng đeo một cái gùi, tay dắt một bé gái. Bà ta tay lấm, chân bùn, đời sống rõ là lam lũ, nhưng mặt bà thì tươi rói. Thì ra bà ta đã hiểu mình muốn gì. Thiền sư hoảng nhiên đại ngộ, bèn cất tiếng gọi :
-Thượng thơ !
-Dạ !
-Điều cốt yếu là chính mình phải giác ngộ.
Thượng thơ nghe rồi có chỗ lãnh ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Đối với ý nghĩa của đời người không rõ, dùng phương pháp sai lầm mà sinh hoạt thì trong sinh hoạt chỉ làm mọi cho sinh  mạng, thật đáng thương !

1650.- Cây  nến  tắt.

Một đệ tử hỏi Đức Phật :
-Phật chết rồi về đâu ?
Đức Phật giơ một cây nến đang cháy lên, một đệ tử khác sợ nến bị gió thổi tắt bèn lấy tay che.
-Lúc tắt thì tự nhiên sẽ tắt, lấy tay che có ích gì ? Tử vong cũng vậy. Đó là luật tự nhiên.
Một cơn gió thổi qua, cây nến bị thổi tắt ngóm.
-Nến tắt rồi, ánh sáng đi về đâu ? Cả 2 đều là một loại tiêu diệt. Ánh sáng tắt, cây nến còn vì nó là chính thể, Phật cũng vậy.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Sanh rồi tử, tử rồi lại sanh. Đây là một quy luật tự nhiên. Chỉ cần lúc còn sanh có được thành tựu đó là điều trọng yếu.

1651.- Không  thấy  Long  Đàm.

Đức Sơn đến tham Long Đàm, vừa vào cửa đã nói :
-Nghe tiếng Long Đàm đã lâu, nào ngờ khi tới nơi chẳng thấy Long cũng chẳng thấy Đàm ở đâu !
Long Đàm từ sau bình phong bước ra :
-Ông đã tự mình tới Long Đàm.
(Phật Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)

Đây chính là lời tiếp dẫn của Long Đàm. Vì sao ? Vì kinh Kim Cương có nói : Nếu thấy các tướng là phi tướng thì thấy Như Lai. Giả như thấy Long, thấy Đàm là chấp tướng. Nếu không thấy Long, không thấy Đàm là lìa tướng mà thấy bản tánh vậy.

1652.- Gia  đình  Bàng  Uẩn  luận  Đạo.

Một hôm Bàng Uẩn bỗng nói :
-Khó, khó, khó, mười tạ dầu mè trên cây vuốt.
Ý là học Phật, tu đạo rất khó, tương tự như đem dầu mè mà vuốt lên cây cột có được không? Cứ vuốt dầu lại chẩy xuống. Tại sao khó ? Vì người tu trải qua nhiều kiếp có tập quán chấp tướng, gập thuận cảnh thì cười ha hả, gập nghịch cảnh thì ưu sầu, khổ não. Kỳ thật các cảnh đó đều là giả, là không cả. Người đời  không biết cho đó là thật, giữ chặt không buông, do đó nói học đạo thật là khó. Thực ra có khó không ? Không khó. Tại sao ? Vì chúng ta vốn là Phật, không phải là biến phàm phu thành Phật. Chỉ cần chúng ta đừng bị mê bởi cái giả của ngoại cảnh, tâm thường giác thì là Phật vậy. Do đó Lục tổ nói :
-Niệm trước mê là phàm phu, niệm sau giác là Phật.
Bàng phu nhân nói :
-Dễ, dễ, dễ, trên đầu trăm cỏ ý tổ sư.
Ý là học Phật tu đạo dễ, trong cả mọi sự việc, lìa mọi sự việc, lúc đó còn có cái gì ? Tâm không là ý tổ sư vậy. Đó cũng là ý của kinh Kim Cương : Nếu thấy mọi tướng là không tướng thì thấy Như Lai. Nếu lìa tất cả mọi tướng thì sự sự, vật vật đều là đại đạo, còn có gì là khó chứ ? Cho nên muốn học Phật, thành Đạo không khó, đừng sợ vì chúng ta vốn là Phật. Chỉ cần buông bỏ tất cả xuống, cái tâm niệm thanh tịnh ấy không phải là Phật thì là cái gì ?
Nhưng Bàng cư sĩ và phu nhân một người nói khó, một người nói dễ là còn chấp, chưa phải là cứu cánh; vì chân trí thì một pháp chẳng lập. Nói khó không đúng, nói dễ cũng không đúng. Do đó con gái của 2 người là Linh Chiếu nói :
-Cũng chẳng dễ, cũng chẳng khó; đói thì ăn, mệt thì ngủ.
Là quét đi vết tích của khó và dễ, quét đi mọi chấp trước đói ăn, mệt ngủ tự do, tự tại; an nhiên thọ dụng. Do đó mới chính là Thiên chân Phật. (Xin xem thêm công án 279)
(Phật Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)

1653.- Biết  sai  thì  sửa.

Đời Tấn, hòa thượng Pháp Ngộ là đệ tử của Đạo An, là trụ trì Trường Sa Tự. Trong chùa có một ông tăng vì say rượu, quên thắp hương trên bàn thờ Phật nhưng Pháp Ngộ cũng chỉ phạt nhẹ. Đạo An tuy ở xa nhưng nghe biết chuyện này, lấy một roi gai cho vào ống tre bọc lại, sai người đến đem trao cho Pháp Ngộ. Pháp Ngộ nhận được, mở ra thấy roi gai bèn nói :
-Đây là chuyện ông tăng uống rượu đây ! Do tôi dạy đệ tử không nghiêm mà nên. Thầy tôi gửi roi để cảnh cáo đấy !
Nói rồi sai thị giả đánh mõ chiêu tập đại chúng. Đặt roi gai trên bàn thờ, Pháp Ngộ thắp hương lạy rồi tới trước đại chúng nằm xuống, sai Duy Na đánh mình 3 roi. Sau đó rơi lệ tự trách, rồi đuổi ông tăng say rượu ra khỏi thiền viện.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Chuyện này được loan truyền và được mọi người khen ngợi. Pháp Ngộ là một vị thiền sư biết sai liền sửa.

1654.- Phóng  sanh.

Có một bà lão định mang một giỏ ốc đổ xuống ao phóng sanh, một gã hung ác cướp lấy giỏ ốc, hét lên :
-Bà già nghèo khổ kia, bà biết đây là đâu không mà đòi phóng sanh ?
-Ngừng tay !
Mọi người trố mắt nhìn thì thấy một hòa thượng áo rách, tay phe phẩy một cái quạt xông tới. Đó chẳng phải là ai khác, chính là Tế Điên hòa thượng.
-Chúng sanh bình đẳng, phóng sanh là một chuyện lành ngươi sao dám ngăn trở bà lão ?
-Tế Điên ! Đây không phải là chuyện của ngươi, đừng có xía vô nếu không đừng có trách ta.
Gã hung ác vừa hét vừa giơ nắm đấm lên. Tế Điên cười ha hả :
-Trên đường gập chuyện bất bình, ta dĩ nhiên là phải nhúng tay.
Nói rồi Tế Điên đoạt lại giỏ ốc, chạy xuống đổ vào ao phóng sanh.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Phóng sanh là một hành động thực tế và trọng yếu của Phật giáo, lấy lòng từ bi mà giúp đỡ khổ nạn của chúng sanh.

1655.- Người  câm  nằm  mộng  chỉ  mình  biết  thôi.

Một người câm nằm mộng, không có cách chi bảo cho người khác biết những gì mình thấy trong mộng. Câu này dùng để ví dụ cho sự thể nghiệm thực cảnh mà không thể dùng lời nói mà diễn tả ra được. Thiền giới cũng dùng các câu : Người câm ăn mướp đắng, nóng lạnh tự mình biết. Trong thơ của Hàn Sơn Tử cũng có câu :

Vui sướng chỉ một mình hay
Chẳng thể chia sẻ chuyện này với ai.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

1656.- Đừng  giương  cung  người.

Ngũ Tổ Pháp Diễn nói :
Thích Ca, Di Lặc đều là nô tài của người ấy.
Người ấy là ai ?
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Người ấy chỉ tự tánh. Một người chân chánh làm chủ được mình thì không cần ăn trộm trí tuệ và học vấn của người về làm của mình; cũng bất tất phải đi sau người mà phụ họa. Từ tâm cảnh ta người chẳng hai mà xét thì lỗi người tức lỗi mình, cho nên không thể nói xấu người. Nói tóm lại “chuyện người mặc kệ”, ta có đếm tài sản của người cũng là vô dụng chẳng bằng tự giác vô vị chân nhân, thì ở mọi nơi đều làm chủ, rộng bước ngang dọc trong thiên hạ. Đó mới là thiền giả chân chánh.
(Xem thêm công án 207)

1657.- Ném  cầu  trên  nước  chẩy  nhanh.

Một ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Con nít vừa sanh có đủ lục thức không ?
-Giống như ném cầu trên nước chẩy nhanh.
Về sau ông tăng đó lại đến hỏi Đầu Tử :
-Triệu Châu nói ném cầu trên nước chẩy nhanh là có ý gì ?
-Từng niệm, từng niệm trôi chẩy không ngừng.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Mặt nước yên lặng nhưng bên dưới là dòng nước ngầm chẩy nhanh. Ném quả bóng xuống sẽ bị nước cuốn trôi đi. Đó gọi là động trong tĩnh. Con người ta cũng vậy, người đạt đạo bề ngoài coi như ngu si, là mặt nước yên lặng, nhưng kỳ thực là dòng nước chẩy nhanh. Đó gọi là người giác ngộ giống như chưa ngộ. Câu nói của Đầu Tử có nghĩa là niệm trước là niệm trước, niệm sau là niệm sau. Mọi lúc đều là chánh niệm, là liên tục của phi liên tục. (Xem thêm công án 161)

 1658.- Đây chẳng phải là lửa sao?

Hòa thượng Quy Sơn (771-853) lúc còn trẻ, một tối đứng hầu trong liêu, sư phụ Bách Trượng hỏi :
-Ai?
-Là con, Linh Hựu.
-Ông nhìn xem trong lò còn lửa không ?
-Không còn lửa.
Bách Trượng tự lấy que cời lửa, chọc sâu vào đám tro, tìm thấy một tinh hỏa bèn chỉ cho Quy Sơn coi và bảo :
-Đây chẳng phải là lửa sao ?
Quy Sơn ngay đó tỉnh ngộ, lạy tạ rồi trình kiến giải. Bách Trượng bảo ông :
-Kinh Phật cũng có nói : Muốn biết nghĩa Phật tánh phải quán thời tiết, nhân duyên.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Thời tiết đến, đang mê biến thành ngộ; như đã quên mà chợt nhớ ra tự tánh mình vốn có sẵn, không phải nhận từ ai khác. Chư tổ chả đã nói rồi sao : “Ngộ rồi như chưa ngộ” Nếu đã vô tâm thì sẽ vô pháp,  không còn tâm hư vọng phân biệt phàm thánh thì đó là tâm pháp, mọi người đều có đầy đủ nên gìn giữ cho tốt. (Xin xem thêm công án 1062)

1659.- Một  mũi  tên.

Hòa thượng Hưng Hóa (830-888) lúc sắp mất bảo đại chúng :
-Tôi có một mũi tên, không biết nên trao cho ai ?
Một ông tăng bước ra thưa :
-Xin trao cho con.
-Thế ông gọi cái gì là mũi tên ?
Ông tăng này học phương pháp của Lâm Tế  hét lên một tiếng lớn, Hưng Hóa nện cho ông 5, 6 gậy rồi trở về phòng phương trượng. Sau đó kêu ông tăng đó vào hỏi :
-Chuyện vừa rồi ông có hiểu không ?
-Dạ, không hiểu.
Thiền sư lại nện ông 5, 6 gậy nữa, rồi ném gậy đi.
-Từ giờ trở đi, nếu gập người sáng mắt ông hãy trỏ cho họ mũi tên của tôi.
Bất Cố Am Hòa Sơn (1837-1917) có một công án như sau :
Ai cũng có một mũi tên, lúc thì là tên giết người (phủ định) lúc thì là tên cứu người (khẳng định). Hãy nói coi lão nạp thường dùng mũi tên nào ?
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Chỉ cần thâm hiểu “dùng mũi tên nào” là có thể ngộ được hàm ý trong câu nói sau cùng của Hưng Hóa. (Xem thêm công án 471).

1660.- Tham  ngộ  sanh  tử.

Bàn Khuê, một thiền sư Nhật Bản, thuộc dòng thiền Lâm Tế, là người sáng tạo ra Tâm Bất sinh Thiền. Năm 16 tuổi ông xuất gia, đến năm 26 ông vẫn chưa khai ngộ. Cũng trong năm 26 tuổi vì tọa thiền ông bị bệnh, 7 ngày rồi mà cũng không ăn gì, cảm thấy cái chết đã gần kề. Bất giác ông suy nghĩ : Sống cũng tốt, chết cũng chẳng sao, mình cũng chẳng có gì để lưu luyến, chỉ là chưa có thành tựu gì đã lìa đời.Nghĩ tới nghĩ lui không dứt. Một hôm bỗng chuyển niệm đầu vạn vật trong thế giới này há chẳng thể dùng “bất sinh” để điều tiết sao  ? Ta đã bao năm hao phí tâm lực khổ sở tìm tòi chẳng là ở đạo lý này sao ? Ông bỗng nhiên khai ngộ, như người chợt tỉnh ngủ, trong lòng không còn thấy khổ nữa. Ông sống đến 71 tuổi. Đối với thiền học Nhật bản, cống hiến của ông rất lớn.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Tử vong là khảo nghiệm lớn nhất của con người. Bàn Khuê khi đối diện với tử vong mới đạt ngộ. Thiền rất trọng vấn đề sanh tử giải thoát, hy vọng thiền sinh từ sanh tử nhận rõ thật tướng của sinh mạng, trừ bỏ tâm lý sợ hãi khi đối diện với cái chết.

1661.- Là  trâu  hay  là  tăng.

Một hôm, Quy Sơn bảo đại chúng :
-Một trăm năm sau, lão tăng xuống núi làm một con trâu đực, tại sườn bên trái có viết 5 chữ “Quy Sơn tăng mỗ giáp”. Lúc đó nếu kêu ta là Quy Sơn Tăng thì ta không phải là con trâu đực, nếu kêu ta là con trâu đực thì ta không phải là Quy Sơn Tăng. Vậy ta hỏi các ngươi phải kêu ta làm sao ?
(Phật Pháp Tu Chứng Tâm yếu)

Nếu tâm ông không được tĩnh, chấp vào trâu hay tăng mà kiến giải thì không có lối ra. Trâu hay tăng nhất thời chỉ là giả danh, giả tướng. Từ chân tánh mà nói thì làm gì có tăng hay trâu. Lúc đó trong pháp hội không có ai đáp được. Về sau có một vị lão túc đáp được rất hay :
-Thầy không có tên khác  !
Câu nói không đề cập đến tên mà cũng không lìa tên, đã nói bản lai không tên, lại tùy ý mà gọi tên. Vì không chấp vào tăng hay trâu, cũng không lìa tăng hay trâu, do đó vượt ra ngoài danh tướng. (Xem thêm công án 1005)

1662.- Bảo  kiếm.

Có người hỏi thiền sư Huệ Minh :
-Bảo kiếm chưa mài thì sao ?
-Vô dụng.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Bảo kiếm chưa mài dĩ nhiên là không thể xử dụng. Người tu nếu tập khí còn chưa loại trừ thì không thể khởi dụng.

1663.-Rồng  kêu  trong  cây  khô.

Sư phụ của Lợi Hưu là Thiệu Âu (1504-1555) để diễn tả tâm cảnh của sá trà (một phương thức của trà đạo) đặc biệt dẫn Định Gia Thi trong Tân Cổ Kim Tập : “Nhìn về quá khứ, hoa không còn, hồng diệp cũng mất tiêu, chỉ còn lại căn nhà nhỏ bên bờ sông,trong buổi chiều thu.”
Đây nói về những đóa hoa đẹp đẽ của mùa xuân và những lá vàng rực rỡ của mùa thu đã không thấy nữa. Những làn gió vi vu nơi hoang vắng có thể hình dung được sự cảm ngộ của trà đạo và tịch tĩnh chăng ?
Nam Phương Lục đưa ra lời bình như sau :
“Nếu không hiểu ý hoa và hồng diệp thì càng sống lâu trong căn nhà nhỏ càng cảm thấy quá vắng lặng.”
Đây là một cái nhìn đặc biệt, nhưng Lợi Hưu lại dẫn Gia Long Thi trong Nhậm Nhân tập :
“Hy vọng chẳng những chỉ chờ xem hoa thôi mà còn có thể xem thấy ở nơi làng nhỏ phủ đầy tuyết những nụ non đã bắt đầu ló dạng.”
Trong cảnh cùng cực đã thấy phát sinh sức sống cũng giống như trong lòng cây khô rỗng gió lùa qua tạo nên tiếng rồng gầm.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Trong thiền định (tĩnh) chuyển thành trí tuệ (động). Đó là thiền, sanh mạng của trà. (Xem thêm công án 823)

1664.- Trà, Thiền  một  vị.

Một hôm, Giáp Sơn hòa thượng (805-881) thưởng trà xong bèn rót một chén đưa cho thị giả. Khi thị giả giơ tay ra nhận, hòa thượng rụt tay lại, hỏi :
-Cái này là cái gì ?
Thị giả không trả lời được, lúc đó nếu là ông, ông sẽ trả lời sao ? Từ xưa đến nay, người ta thường nói trà, thiền một vị. Lợi Hưu nói :
-Thưởng trà ở phòng nhỏ, lấy xách nước, kiếm củi, đun nước, pha trà cúng Phật làm Phật pháp đệ nhất để tu hành đắc đạo. Tôi cũng uống trà, bầy hoa, dâng hương, đều học theo hành tích của Phật tổ vậy.
Có một vị hòa thượng nhờ một chú tiểu trao một cành Bạch Sơn Trà cho cháu của Lợi Hưu là Tông Đản (1578-1658). Chẳng ngờ chú tiểu không cẩn thận để hoa trên cành đều rụng cả xuống đất, nhưng chú cũng thật tình kể rõ và xin lỗi Tông Đản. Tông Đản nhờ chú chuyển lời mời hòa thượng đến thưởng trà. Khi hòa thượng tới nơi thì thấy trong bình có cắm một cành khô, còn dưới đất là một đóa hoa trắng do các cánh hoa rụng xếp lại. Hòa thượng thấy cảnh tượng rất tự nhiên, tưởng như hoa còn sinh động trên cành.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Tông Đản đã học tập hành tích của Phật tổ, đã có thiền tâm vậy.

1665.- Vốn  là  Phật.

Có một ông tăng hỏi Hi Vận :
-Phật là ai ?
-Tâm ông là Phật. Phật là tâm; tâm, Phật không sai biệt; nếu lìa tâm thì không có Phật.
-Nếu nói tâm mình là Phật, vậy Đạt Ma từ Tây sang truyền gì ?
-Chỉ cho biết tâm là Phật, nếu hiểu được ý này thì vượt qua 3 thừa giáo pháp, mình vốn là Phật, không cần phải tu thành.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Phật và tâm là một thể. Phật là tâm, tâm là Phật, không có sai biệt. Cái tâm này là tự tánh, là tự ngã của mỗi người. Đó cũng là yêu cầu chúng ta coi trọng nội tâm.

1666.- Cư  sĩ  và  cao  tăng.

Một vị cư sĩ trẻ đến thăm một vị cao tăng. Hai người nói chuyện tâm đầu ý hợp từ sáng đến trưa. Đến bữa trưa, một chú tiểu bưng lên cơm chay gồm một bát lớn và một bát nhỏ. Vị cao tăng đẩy bát lớn đến trước mặt cư sĩ mời ông ăn. Cư sĩ không từ chối ăn liền. Cao tăng rất bất mãn, tự hỏi sao lại có người không hiểu lễ nghi gì cả, do đó không đụng tới đũa. Cư sĩ ăn xong, ngửng đầu lên thấy cao tăng mặt đầy sắc giận, bèn hỏi :
-Sao thầy không ăn ? 
Cao tăng yên lặng, cư sĩ cười nói :
-Thật không phải, quên cả mời sư phụ. Mời sư phụ dùng bữa.
Đợi cao tăng ăn xong rồi, cư sĩ bảo :
-Ăn cơm là ăn cơm, ai ăn cũng là ăn, hà tất phải mời mọc, ông mời, tôi nhường trừ phi là thầy không thật lòng mời tôi ăn bát lớn.
Cao tăng nghe rồi có chỗ lãnh ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Làm người quý ở chỗ thành thật, đừng quá câu nệ ở lễ nghi, khách khí.

1667.- Châu  ở  đâu ?

Một hôm Giác Năng hướng Nguyên Trưng thỉnh giáo Phật pháp :
-Trong quá trình tu tập tâm giác tri và tâm vọng tưởng như 2 rồng tranh châu, không biết con nào được ?
Nguyên Trưng nghe rồi không vui, bảo Giác Năng phải tự mình trừ bỏ vọng tưởng và tập khí tự nhiên sẽ biết con nào được châu. Nhưng Giác Năng cảm thấy mình đã trừ được vọng tâm và tập khí rồi nên càng thấy khó hiểu. Nguyên Trưng biết vậy nên hỏi lại :
-Nếu ông đã trừ được vọng tâm rồi sao lại không biết châu ở đâu ?
Giác Năng không trả lời được.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Là thiền giả, trong quá trình tu tập phải trừ bỏ vọng tâm và tập khí, gìn giữ cái tâm bình thường thì có thể tu thành chánh quả.
(Xem thêm công án 36)

1668.- Pháp  bình  đẳng.

Huệ Trung khi còn là đứa trẻ mười mấy tuổi, một hôm xin Lục tổ cho xuất gia :
-Xin thiền sư mở lòng từ bi thâu con làm đệ tử.
-Trong thiền tông con cháu Ngân Luân Vương, Kim Luân Vương mới xứng kế thừa pháp tử. ngươi chỉ là một thằng nhỏ chăn trâu ở nơi thôn dã sao có thể vào tông môn ?
-Thiền sư, vạn vật bình đẳng không có cao thấp, sao thầy có thể dùng lý do này làm trở ngại tâm con hướng thiện? Xin thầy từ bi thâu nhận con.
Huệ Trung tuy chưa quy y lại ở trong hoàn cảnh nghèo khổ nhưng dưỡng dục được đức tánh và có ngộ tánh cao được Lục tổ thâu nhận. về sau ông được các vua Huyền Tông, Trang Tông, Đại Tông tôn làm quốc sư.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Người có Nam Bắc, nhưng Phật tánh phổ chiếu thiên nam, địa bắc. Mọi người đều có Phật tánh, đều có khả năng tham ngộ và có cơ hội thành Phật.

1669.- Còn  giận  không ?

Có một phụ nữ tính tình cổ quái, hơi một chút là nổi giận. Bà ta cũng biết đây là tánh xấu, nhưng không tự kềm chế được. Do lời khuyên của bạn bè, bà ta tìm đến một vị cao tăng nhờ giúp đỡ. Gập mặt xong bà ta kể cho hòa thượng nghe và mong hòa thượng chỉ thị. Hòa thượng không nói một lời dẫn bà ta vào một thiền phòng rồi khóa lại, bỏ đi. Bà ta bỗng nhiên bị nhốt trong phòng vừa tối, vừa lạnh, hòa thượng cũng không nói cho bà ta một lời gì. Càng nghĩ càng giận, bà ta kêu gọi, mắng chửi, rồi van xin nhưng hòa thượng vẫn mặc kệ. Rất lâu sau đó, hòa thượng đứng ngoài cửa hỏi :
-Còn giận không ?
-Tôi chỉ giận mình tự nhiên nghe lời người ta mà đến đây.
-Chính mình còn không tha thứ cho mình, thì làm sao tha thứ cho người được ?
Hòa thượng bỏ đi, một lát sau trở lại hỏi :
-Còn giận không ?
-Không còn giận nữa.
-Tại sao ?
-Dù tôi có giận hay không cũng bị hòa thượng nhốt ở đây vừa tối, vừa lạnh.
-Thế lại còn tệ hơn vì bà cố nén giận, nên khi phát tác ra nó lại còn mãnh liệt hơn nữa.
Hòa thượng lại bỏ đi. Một lát sau trở lại hỏi :
-Còn giận không ?
-Không giận nữa.
-Tại sao ?
-Vì tôi không để hòa thượng làm tôi nổi giận vì hòa thượng.
-Bà còn chưa thoát ra khỏi cái giận.
Hòa thượng lại bỏ đi. Một lát sau bà ta tự động hỏi hòa thượng :
-Giận thật ra là cái gì ?
Hòa thượng không nói, dường như vô ý để chén trà trong tay rơi xuống đất. Bà ta bỗng nhiên tỉnh ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền )

Nếu tâm thông suốt không một vật, giận từ đâu lại ?  Tâm có dục vọng giận liền sanh. Con người vì có nhiều dục vọng nên suốt ngày bị phiền não lôi cuốn. Nếu chúng ta có thể lãnh đạm với mọi sự việc thì tâm tự nhiên thanh tịnh.

1670.- Tham  thiền  là  chuyện  của  bậc  đại  trượng  phu.

Tịch Thất Nguyên Quang (1290-1367) có một bài thơ nói “Tham thiền là chuyện của bậc đại trượng phu, thân và tâm sắt đánh thành một phiến, các ông hãy nhìn mà coi chư Phật, Tổ lúc trước có ai phí thì giờ cho vọng tưởng?”
Trong Bích Nham Lục cũng có câu : 
-Muốn chấn hưng thiền thì phải là bậc hào kiệt.
Tây Điền Thốn Tâm (Cơ Đa Lang) có nói :
-Nếu các ông có dõng khí mổ bụng thì mới nên nghiên cứu thiền.
Một vị thiền sư ứng dụng câu nói này bảo :
-Đối với các nữ thiền sinh tôi hỏi : “Các cô có dám cởi truồng trước mặt tôi không?”
Trong thực tế, ông ta cũng chỉ dám nhìn đến đầu gối của các cô mà thôi !
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

1671.- Sinh  hoạt chân thật.

Biện thủ tọa, người đời Tống, trú ở Thê Hiền Tự, Lư Sơn, tánh tục không rõ, tinh thông Phật pháp, sử sự thích nghi nên được suy cử là thủ tọa.
Biện thủ tọa thường mặc áo vá, chân mang dép cỏ rách, chống một gậy trúc. Một lần qua Cửu Giang Đông Lâm Tự gập Hỗn Dung hòa thượng. Hỗn Dung trách :
-Ông làm thủ tọa đáng nhẽ phải làm gương cho đại chúng mới phải. Nay ông ăn mặc như vậy chả là tự khinh thị chính mình sao ? Làm mất cả thể thống  !
Biện thủ tọa cười :
-Con người ta chỉ cần hợp ý là vui. Tôi sai ở chỗ nào ?
Bèn lấy bút viết một bài kệ :
勿 謂 棲 賢 窮
Vật vị thê hiền cùng
身 窮 道 不 窮
Thân cùng đạo bất cùng
草 鞋 行 似 虎
Thảo oa hành tự hổ
拄 杖 活 如 龍
Trú trượng hoạt như long
渴 飲 曹 溪 水
Khát ẩm Tào Khê thủy
飢 吞 栗 棘 蓬
Cơ thôn lật cức bồng
銅 頭 鐵 額 漢
Đồng đầu thiết ngạch hán
盡 在 我 山 中
Tận tại ngã sơn trung.

Chớ  bảo  Thê  Hiền  cùng
Thân  cùng  đạo  chẳng  cùng
Dép  cỏ  đi  như  hổ
Chống  gậy  tựa  như  rồng
Khát  uống  nước  Tào  Khê
Đói  cỏ  bồng  hạt  giẻ
Đầu  đồng,  cổ  sắt  hề
Đều  trong  núi  này  cả.

(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Hỗn Dung đọc xong bài kệ mắc cỡ, cảm thấy trình độ mình còn kém Biện thủ tọa rất xa.

1672.- Dị  Kiến  Vương  và  Ba  La  Đề  tôn  giả.

Dị Kiến Vương hỏi Ba La Đề tôn giả :
-Phật là thế nào ?
-Kiến tánh là Phật.
-Thầy có kiến tánh không ?
-Bần tăng kiến Phật tánh.
-Tánh ở đâu ?
-Tánh tại tác dụng.
-Tác dụng là thế nào ? Sao trẫm không thấy.
-Tác dụng rành rành, vương tự không thấy.
-Trẫm có thật sao ?
-Nếu vương tác dụng, không gì không phải. Nếu vương không tác dụng thì khó thấy Thể.
-Khi tác dụng Thể hiện ra ở đâu ?
-Nếu xuất hiện thì ở người đó.
-Xin nói rõ hơn.
-Ở thai gọi là thân, ở đời gọi là người. Ở mắt là thấy, ở tai là nghe, ở mũi là ngửi, ở lưỡi là đàm luận, ở tay là nắm giữ, ở chân là đi lại, ở khắp pháp giới, thâu lại thành một hạt vi trần. Người biết gọi là Phật tánh, người không biết gọi là linh hồn.
Vương nghe rồi khai ngộ.
(Phật Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)

Tánh không thể dùng mắt thấy, tai nghe, trí để biết, thức để thức, nhưng có thể dùng Tuệ để quán chiếu, có thể lãnh ngộ. Cổ đức nói rằng Thể không hình tướng, nếu không có dụng thì không hiển lộ. Tánh không trạng mạo không tâm thì không minh. Khởi dụng chính là hiển thể, minh tâm thì mới kiến tánh. Đó là nói muốn kiến tánh thì phải bắt tay vào minh tâm. Nếu lìa tâm thì không có tánh nào để kiến vì thể của tánh là vô hình. Tâm là dụng, dụng không tướng thì không hiển lộ. Từ dụng của cái tâm hữu tướng có thể thấy Thể vô tướng của Tánh. Con người ta từ tư tưởng, sáng tạo, phát minh, công tác cho đến văn minh của thế giới ngày nay đều là tác dụng của tâm.

1673.- Vén   mành.

Tại Thanh Lương Viện trước buổi thọ trai, Pháp Nhãn chỉ vào bức mành. Lúc đó có hai ông tăng ở đấy, cùng đến vén mành lên. Pháp Nhãn nói :
-Một được, một mất.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Cùng làm một việc, một người được chấp nhận (tốt), một người lại bị phủ nhận (không tốt). Cùng làm một việc nhưng trước khi ngộ và sau khi ngộ có sai biệt về cảnh giới và đạo lực. Nếu chỉ xét công án này dưới phương diện được mất, thắng bại thì không thể hiểu được kiến giải của thiền giả. Phải chặt đứt mọi giây sắn bìm (những phán đoán thị phi vô ý nghĩa) thì lập tức biến thành người có pháp nhãn. Hãy nhìn tay của thiền sư sẽ thấy quyền xác định hay phủ định đều trong tay ông.
(Xem thêm công án 202)

1674.- Ngồi  lâu  sanh  mệt.

Có ông tăng hỏi Hương Nghiêm :
-Ý tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Ngồi lâu sanh mệt.
(Lưỡng Nhẫn Tương Giao)

Đạt Ma tổ sư từ Tây sang là một đại nhân duyên. Do đó các thiền sư thích lấy “Ý tổ sư từ Tây sang” làm cơ phong. Các câu trả lời đặc sắc đã trở thành những công án trứ danh, trong đó câu trả lời của Hương Nghiêm là một. Đạt Ma tổ sư tới núi Thiếu Thất quay mặt vào vách mà ngồi thiền 9 năm, đã được người đương thời gọi là Bích Quán Bà La Môn. Câu trả lời của Hương Nghiêm là phủ định cái “ngồi” của Đạt Ma, ông hỏi Tổ, tôi đã vượt lên Tổ. Nhiều người khi luận về công án này không nhìn thấy khía cạnh này chỉ chú trọng đến chữ ngồi, ngồi lâu sanh mệt là chỉ cho chúng ta ngộ đạo và ngồi thiền là 2 chuyện khác nhau. Loại khế nhập này không thể bảo là sai. Vấn đề là lãnh hội “ngồi lâu sanh mệt” ở 2 chữ ngồi lâu. Nói cách khác là nếu không ngồi thì vô pháp nhập tọa cũng là sau khi ngồi lâu rồi sẽ bỏ được hình thức. Câu này cũng giống như câu nói của Thanh Nguyên Duy Chính “Khi chưa tham thiền thấy núi là núi, sông là sông. Khi có chỗ vào rồi thì thấy núi vẫn chỉ là núi, sông vẫn chỉ là sông.” Nếu không thể hội ngồi lâu sanh mệt thì không thể chân chính bỏ xuống pháp ích. Mọi người đều nói siêu phàm nhập thánh tông môn do đó đề ra siêu thánh nhập phàm.
Vấn đáp trên còn một đoạn nữa như sau :
-Khi quay lại thì sao ?
-Rơi xuống hố sâu.
Ngồi lâu thì sanh mệt, không ngồi thì rơi xuống hố sâu. Thiền sư đối với pháp là như thế, không rơi vào lưỡng biên, cứ trực tâm mà làm. Công phu này cần có thời gian như câu nói :
-Lão tăng 40 năm rồi mới đánh thành một phiến.
(Xem thêm công án 83)

1675.- Thuận  theo  tự  nhiên.

Cỏ ở sân thiền viện héo vàng không còn chút sinh khí, chú tiểu bạch sư phụ, xin gieo hạt cỏ mới.
-Đừng gấp, lúc nào gieo chả được.
Không lâu thiền sư mua hạt cỏ về, sai chú tiểu đi gieo. Khi chú gieo hạt có một cơn gió mạnh thổi qua, một phần hạt cỏ bị thổi bay đi nơi khác. Chú tiểu lấy làm tiếc, sư phụ an ủi chú :
-Không sao ! Hãy còn một nửa mà.
Thế cũng chưa hết, một bầy chim sẻ từ đâu bay tới chăm chỉ mổ những hạt cỏ. Chú tiểu lại vào trình sư phụ.
-Chú đừng lo, chim sẻ ăn được bao nhiêu, thế nào năm tới cũng còn cỏ mọc.
Một đêm, có trận mưa lớn. Chú tiểu sợ nước cuốn trôi đi các hạt cỏ, sáng ngày hôm sau vội chạy ra xem thì thấy không còn hạt cỏ nào trên mặt đất nữa. Chú tiểu buồn muốn khóc, sư phụ an ủi :
-Nước cuốn hạt cỏ đến đâu nó sẽ mọc ở đấy, chú cứ để tùy duyên.
Không lâu, vườn thiền cỏ lại mọc xanh rì, những hạt còn lại đã mọc mầm. Chú tiểu vui mừng lại đi báo cáo sư phụ. Sư phụ chú gật đầu :
-Tất cả đều tùy duyên.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Trong cả câu chuyện, thiền sư lúc nào cũng giữ tâm bình thường. Đối với sự việc, ông thuận theo tự nhiên không cưỡng cầu gì vì ông biết rằng những gì trao ra nhất định sẽ được hồi báo.

1676.- Ý  Tổ sư  từ  Tây  sang.

1.-Có ông tăng hỏi Long Nha :
-Ý Tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Đợi rùa đá nói, tôi sẽ bảo cho ông.
-Rùa đá nói rồi !
-Nói gì với ông vậy ?
Ông tăng không trả lời được.

2.-Ngưỡng Sơn hỏi Quy Sơn :
-Ý Tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Quy Sơn chỉ lồng đèn :
-Lồng đèn lớn tốt.
-Chỉ là cái đó sao ?
-Cái đó là cái gì ?
-Lồng đèn lớn tốt.
-Quả nhiên ông không thấy.

3.-Lại có ông tăng khác hỏi Quy Sơn :
-Ý Tồ sư từ Tây sang là sao ?
Quy Sơn giơ phất tử lên.

4.-Long Nha hỏi Thúy Vi :
-Ý Tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Mang thiền bản lại đây.
Nha mang thiền bản tới, Thúy Vi cầm lấy đánh, Nha nói :
-Đánh thì cứ đánh nhưng còn : Ý Tổ từ Tây sang là sao ?
Nha lại đem hỏi Lâm Tế, Lâm Tế bảo :
-Mang bồ đoàn lại đây.
Nha đưa bồ đoàn tới, Lâm Tế cầm lấy đánh, Nha nói :
-Đánh thì cứ đánh, nhưng còn “Ý Tổ sư từ Tây sang là sao ?
Nha lại đến hỏi Động Sơn, Động Sơn bảo :
-Đợi Động Thủy chẩy ngược dòng tôi sẽ bảo cho ông biết.
(Thiền Tông Đại Ý)

Đây là một câu hỏi rất phổ biến trong khoảng 300 năm đời Đường. Cùng một câu hỏi sao có nhiều câu đáp không giống nhau ? Đó là vì căn bản của Thiền là siêu việt tất cả vô sinh pháp, lìa bỏ mọi hình thức, khái niệm cho nên tự tại vô ngại. Có thể nói toàn vũ trụ đều vì ý Tổ sư mà hiện tiền, vì vũ trụ vạn hữu đều tồn tại trong ý Tổ sư. Do đấy lấy một vật nào cũng là ý của Tổ sư, không có một khái niệm cố định nào. Bởi vậy các vị cao tăng, thiền đức tùy hoàn cảnh, cơ hội mà tự tại đưa ra câu đáp.
(Xem thêm công án 812)

1677.- Mũ  cao,  áo  rộng.

Một đệ tử bái biệt sư phụ đi hành cước. Sư phụ quan tâm dặn đệ tử phải thận trọng trong mọi sự giao tiếp.
Đệ tử thưa :
-Dạ ! Con sẽ cẩn thận, con sẽ để họ đội mũ cao họ sẽ không phản cảm, ghét bỏ con.
-Ông thật khéo nghĩ.
-Dạ đúng thế, ai cũng muốn đội mũ cao, chỉ có sư phụ là không thích mà thôi !
-Tôi thật không thích đội mũ cao.
(Phật Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)

Vậy đó, sư phụ đã bị đệ tử cho đội mũ cao rồi. Đối với chuyện tốt bất tri bất giác đã bị ô nhiễm. Vì vậy khi công phu chúng ta phải miên mật quán chiếu, không gián đoạn, không để sơ hở.

1678.- Bài  kệ  của  Chân  Tĩnh  thiền  sư.

人 人 有 個 天 真 佛
Nhân nhân hữu cá thiên chân Phật
妙 用 縱 橫 總 不 知
Diệu dụng tung hoành tổng bất tri
今 日 分 明 齊 恉 出
Kim nhật phân minh tề chỉ xuất
斬 蛇 舉 拂 更 由 誰
Trảm xà cử phất cánh do thùy.

Người  người  đều  có  thiên  chân  Phật
Không  biết  nhưng  mà  vẫn  dùng  hoài
Ngày  nay  phải  chỉ  ra  cho  rõ
Dựng  gậy,  chém  rắn  lại  là  ai ?

(Phật Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)

Thiền sư là lão bà tâm thiết chỉ cho mọi người khỏi mất công tìm kiếm. Muốn biết khuôn mặt xưa nay không phải là khó. Bởi vì bản tánh chẳng ở nơi đâu khác mà ở ngay trước mắt ta. Tiếc vì người đời không biết, chỉ vì bị khốn quẫn bởi chữ Tánh, đều tưởng phải tìm kiếm ở nơi cao thâm huyền diệu; không biết “cái” có thể nhìn, có thể nghe, có thể nói, có thể làm, cái đó chính là bản lai nhân. Nếu lìa cái này để đi tìm cái khác thì càng tìm càng xa, càng không thể thấy.

1679.- Bài  kệ  của  Bàng  Uẩn.

1. Bàng cư sĩ có làm bài kệ như sau :

有 男 不 婚 
Hữu nam bất hôn 
有 女 不 嫁 
Hữu nữ bất giá 
合 家 團 圝 圓
Hợp gia đoàn loan viên
共 說 無 生 話
Cộng thuyết vô sanh thoại

Có  trai  không  cưới  vợ
Có  gái  chẳng  gả  chồng
Cả  nhà  cùng  xum  họp
Cùng  nói  lời  vô  sanh.

2. Về sau có một vị hòa thượng đọc bài kệ trên bèn viết một bài kệ như sau :

無 男 可 婚 
Vô nam khả hôn 
無 女 可 嫁 
Vô nữ khả giá 
大 眾 團 圝 圓
Đại chúng đoàn loan viên
說 甚 無 生 話
Thuyết thậm vô sanh thoại

Không  trai  cưới  vợ
Không  gái  gả  chồng
Đại chúng  cùng  hội  họp
Nói  gì  lời  vô  sanh.

3. Nguyên Âm lão nhân lại có bài kệ :

有 男 亦 婚 
Hữu nam diệc hôn 
有 女 亦 嫁 
Hữu nữ diệc giá 
子 子 復 孫 孫
Tử tử phục tôn tôn
是 說 無 生 話
Thị thuyết vô sanh thoại

Có  trai  cưới  vợ
Có  gái  gả  chồng
Con  con  rồi  cháu  cháu
Là  nói  lời  vô  sanh.

Bài kệ 1 của Bàng cư sĩ nói nhà ông có 4 người : 2 vợ chồng, 1 con trai, 1 con gái. Con trai không cưới vợ, con gái không gả chồng, mọi người đều chứng đạo, thật là hiếm thấy.
Bài kệ 2, hòa thượng không có vợ nên không có con trai để cưới vợ, không có con gái để gả chồng, nhưng có đại chúng. Trong chùa không có một mình hòa thượng mà còn chư tăng đều cùng tu, không có lời để nói, còn nói gì là nói lời vô sanh.
Cả 2 bài kệ đều hay một bài nói lời vô sanh, một bài nói lời vô sanh cái gì, mỗi người đều có diệu dụng.
Bài kệ thứ 3 : có con trai có thể cưới vợ, có con gái có thể lấy chồng. Các con có gia đình rồi sanh ra các cháu. Con con cháu cháu sanh sanh bất tuyệt. Đó là vô sanh, là diệu dụng của chân tâm, biểu thị phương pháp viên dung vô ngại.
(Xem thêm công án 279)

1680.- Ngũ  Đế  Tam  Hoàng  là  vật  gì ?

1. Hoa Viên Thiên hoàng vời Đại Đăng quốc sư (1282-1337) tới giảng Phật pháp. Sứ giả bảo thiền sư phải mặc đạo phục và ngồi cách Thiên Hoàng mà thuyết pháp. Nhưng quốc sư cứ yêu cầu mặc áo cà sa và ngồi đối diện. Thiên Hoàng nhất nhất nghe lời. Khi gập mặt Thiên Hoàng nói :
-Phật pháp không thể nghĩ bàn, cùng Vương pháp đối tọa.
Quốc sư đáp ngay :
-Vương pháp không thể nghĩ bàn cùng Phật pháp đối tọa.
Thiên Hoàng rất hài lòng.

2. Tuyết Đàm sau khi rời sư phụ Thường Lâm trú ở Mỹ Nùng Y Thâm Chánh Nhãn Tự, do cách dạy quá nghiêm khắc nên có ngoại hiệu là Lôi Tuyết Đàm. Một hôm nhân Vĩ Trương ở Khuyển Sơn Thoại Thiền Tự mời đến giảng tổ lục, Khuyển Sơn Thành Chủ cũng đến nghe. Do đó dựng một bục cao, lại treo mành phía trước. Tuyết Đàm trông thấy rất tức giận hét lên :
–Gã vô lễ ngồi sau mành, những gì ta giảng không phải là cặn bã mà phải dùng màn lọc.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Dù là bậc vương giả, thiền sư cũng chẳng coi vào đâu.

1681.- Núi  cao,  sông  sâu.

Cao Kiều Nê Chu (1825-1903), Thắng Hải Chu, Sơn Cương Thiết Chu là 3 danh thủ xử dụng trường thương cuối thời Mạc Phủ, thường được gọi là Tam Chu. Thời trẻ Nê Chu cùng vị trụ trì Dã Xứ Tĩnh Viện nói chuyện. ông không dấu được lòng kiêu ngạo về thương thuật của mình. Trụ trì chỉ im lặng nghe, sau cùng cười bảo :
-Đối với việc xử dụng trường thương tôi cũng có chút tâm đắc, chúng ta hãy tỷ thí một chút. Thế nào ?
Nê Chu nghe rồi bèn bước ra sân, nắm lấy một cây sào phơi áo thủ thế. Hòa thượng chỉ dùng một chiếc đũa. Nê Chu nổi giận, tưởng dùng gậy chọc thủng được ngực hòa thượng. Nhưng hòa thượng thủ thế vững như núi Thái Sơn, không chỗ sơ hở. Nê Chu toát mồ hôi mặt, thủy chung vẫn không dám ra tay. Cuối cùng đành chịu thua. Sau đó hỏi hòa thượng thuộc phái võ nào, hòa thượng trả lời :
-Kỳ thật chẳng có môn phái nào, nếu miễn cưỡng thì có thể nói là phái “núi cao, sông sâu”, “phái mắt ngang mũi dọc” hoặc phái “liễu lục, hoa hồng”. Có gì thì là gì, không gì không thể.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Từ đó về sau Nê Chu bắt đầu tham cứu Phật pháp, nhưng hòa thượng không chỉ bảo gì cả. Nê Chu vì muốn học cảnh giới cao của thương pháp nên hết sức nghiên cứu thiền lý. Ít năm sau một hôm nhân đọc Long Môn Dạ Thoại, đọc đến công án Khoái Xuyên “diệt hết tâm đầu, lửa tự mát”. Cuối cùng đã thể nhận được cảnh giới bất động của ngộ cảnh.

1682.- Bỏ  xuống  đi.

Trong công án “Đệ Tử Đến Tay Không” (công án 1), Triệu Châu bảo :
-Bỏ xuống đi !
Nguyên văn chữ Hán là “Phóng hạ trước” (放下著) !
Có một vị nữ đệ tử khi nghe thiền sư kể lại công án này lại ngắt câu thành : “Phóng ! Hạ trước ! ( 放! 下著!) (Có thể hiểu là hãy cởi đồ mặc ở phía dưới xuống !)
Cô liền cởi quần đứng ngay trước mặt sư phụ. Sư phụ liển trỏ vào ngực cô bảo :
-Bỏ xuống đi !
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Câu “bỏ xuống đi !” của thiền sư có 2 nghĩa :
-Cô hãy còn mặc áo, hãy cởi nốt ra đi !
-Cô hãy còn chấp vào nữ tánh. Hãy bỏ xuống mọi chấp trước. Chữ trước ở đây là hư tự, là trợ từ chỉ mệnh lệnh. (tương tự chữ đi trong”bỏ xuống đi” ở Việt ngữ)
1683.- Bài  kệ   của  Trích  Thủy  hòa   thượng.

Hòa thượng Trích Thủy có để lại bài kệ :

曹 源 一 滴
Tào nguyên nhất trích
七 十 余 年
Thất thập dư niên
受 用 不 盡
Thọ dụng bất tận
蓋 天 蓋 地
Cái thiên cái địa
暍 
Hạt 

Tào  nguyên  một  giọt
Bẩy  mươi  năm  rồi
Thọ  dụng  bất  tận
Trùm  cả  đất trời
Ha !
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Đại ý bài kệ nói : “Chỉ một giọt nước Tào Khê, dùng đã 70 năm rồi, giọt nước này sung mãn khắp vũ trụ, không đâu không có. Tào Nguyên chỉ nơi cư ngụ của Huệ Năng, vị tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Hoa.

1684.- Niệm  khởi  tức  giác.

Đệ tử tâm ái của Thế Tôn là tôn giả A Nan, là một người đẹp trai, được một thiếu nữ Chiên Đà La (thuộc giai cấp nô tài) yêu mến. Lúc đó, sự kỳ thị giai cấp rất khắc nghiệt, khiến tôn giả rất phiền não không biết phải xử trí ra sao. Thế Tôn biết chuyện này bèn lấy ra một khăn tay, thắt nhiều nút rồi hỏi A Nan :
-Đây là cái gì ?
-Là nút buộc.
-A Nan ! Nội tâm ông cũng như những nút này, ông vì nàng Chiên Đà La mà phiền não. Chỉ cần ông mở từng nút, từng nút thì sẽ hết phiền não.
Thế Tôn cởi hết nút rồi hỏi :
-A Nan có còn nút không ?
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Ngồi thiền không thể ngủ gục, nếu không đó chỉ là ngủ gục, không phải ngồi thiền. Ngồi thiền cũng không thể suy tư, nếu không thì đó là suy tư chứ không phải là ngồi thiền. Niệm khởi tức giác. Nếu khởi vọng niệm hoặc buồn ngủ, hoặc ngây ra lập tức “Vô” một tiếng quay trở lại công án. Đó là mở nút phiền não, vọng tưởng. Người xưa có nói qua : chẳng sợ niệm khởi chỉ lo giác chậm.

1685.- Đừng  vọng  tưởng.

Hòa thượng Nhất Ty Văn Thủ (1608-1648) tài cán phi phàm, tham hiểu rất nhiều công án. Năm 19 tuổi từng tự phụ là trong thiên hạ không có ai đủ giỏi để làm thầy mình, nhưng khi nghe Trạch Am hòa thượng ở Nam Tông Tự, thì cũng lại tham bái. Ông kể cho hòa thượng tại các phương trượng ông học được những công án gì, dương dương đắc ý, yêu cầu hòa thượng phê bình .
Trạch Am cười lớn :
-Nơi đây lão nạp không có loại phương pháp này, không treo những sợi sắn bìm mà bán Phật pháp. Phật pháp của lão nạp chỉ là một viên thuốc trị bá bệnh.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Có ai hỏi gì Câu Chi cũng chỉ giơ một ngón tay lên, Bí Ma (đệ tử đời thứ 3 của Mã Tổ) chỉ dùng một cái néo để néo cổ người hỏi. Đả Địa hòa thượng thì lấy gậy đập xuống đất, Vô Nghiệp chỉ nói “Đừng vọng tưởng”.
Câu đáp của Trạch Am có giống câu “Đừng vọng tưởng “ không? Phải nghe cho kỹ. Về sau Nhất Ty tuy theo Trạch Am tham cứu và được Thiên Hoàng chỉ bày cho nhiều lời nhưng cũng không được Trạch Am ấn khả, chỉ để cho một di hạt (bài kệ lúc sắp mất) là một chữ mộng.

1686.- Hai   dao  giao  tranh  không  nên  tránh.

Sơn Cương Thiết Chu (chánh trị gia kiêm Kiếm Khách 1836-1888), lúc ban đầu theo Khi Ngọc Chi, Trường Đức Tự nguyện ông hòa thượng học thiền, sau lại theo Y Thần Long Trạch Tự Tinh Định hòa thượng tham thiền, về sau lại theo Kinh Đô Thiên Long Tự Trích Thủy Hòa thượng (1812-1899) lấy câu :
Hai  dao, giao  tranh  không  nên  tránh
Hảo  thủ  tức đồng  sen  trong  lửa.
Làm công án. Tham trong 3 năm hoát nhiên đại ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Có sách viết câu trên thành :
Hai  dao  giao  tranh  thì  nên  tránh
Nếu nói như vậy thì đã làm mất đi tông chỉ của Thiền tông vậy. Bất luận thế nào, chúng ta phải kiên trì không nên tránh. Ở tình trạng tự tha sai biệt tương đối, ẩn tàng tinh thần không dao động  thì mới có thể có hoa sen trong nước (không trí – tịch tĩnh bất động của Thiền định) và hoa sen trong lửa (Bát nhã – thực tuệ của trí tuệ, sản sanh trong động của đời sống hàng ngày). Cả 2 đều khai hoa, kết quả.

1687.- Hề  Trọng  làm  xe.

Hòa thượng Nguyệt Am hỏi một ông tăng :
-Hề Trọng làm một cái xe, bánh có 100 nan, bỏ 2 bánh xe và trục đi thì thành cái gì ?
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Có người nói Hề Trọng là người Trung Quốc phát minh ra xe ở thời cổ, có người lại nói ông là người đầu tiên dùng trâu, ngựa để  kéo xe. Có thể nói ông là bậc cao thủ chế xe. Ông tạo ra xe có 100 nan. Nếu tháo bánh xe, trục xe, thân xe ra thì nó còn là xe không ? Người do tứ đại (đất, nước, gió lửa), nếu phân ly rồi thì trở về không. Thi tụng Chiết Không Quán của Tiểu thừa nói :
                  Am  nhỏ  rỡ  rồi  trở  lại  nguyên  dã
Nhưng Thể Không Quán của Đại thừa thì lại nói :
             Am  nhỏ  chưa  rỡ  nguyên  dã  vẫn  nguyên
Đó mới chính là chân không diệu hữu.
(Xem thêm công án 192)

1688.- Phật Tổ và thị giả.

Nam Dương Huệ Trung có một thị giả hết lòng phục thị thiền sư đã 30 năm. Do đó thiền sư muốn giúp ông sớm khai ngộ. Một hôm thiền sư gọi :
-Thị giả.
-Dạ !
Thiền sư gọi liền mấy lần, thị giả đều dạ. Một lúc sau thiền sư lại gọi :
-Phật tổ !
-Thầy kêu ai vậy ?
-Tôi kêu ông đó.
-Con không phải là Phật tổ. Con là thị giả của thầy mà.
-Ông thật đã phụ ta !
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Đây là một thoại khác của công án số 198. Có nhiều người không đạt thành công vì khinh thị chính mình, không tin là mình có tiềm lực. Cũng như thị giả trong câu chuyện này chỉ nhận mình là thị giả, không dám nhận mình là Phật. Sự thật Phật và chúng sanh không có sai biệt. Phật sở dĩ có thể thành Phật vì ngài tin rằng ngài có năng lực có thể giải thoát chúng sanh.

1689.- Mục  phiêu.

Một hôm, Hoài Hải dẫn các thiền sinh ra đồng cấy mạ. Cấy xong một luống các thiền sinh thấy mạ được sư phụ cấy là một đường thẳng tắp, còn của các thiền sinh thì hoặc lệch bên này hoặc lệch bên kia chứ không được ngay hàng thẳng lối. Họ bèn hỏi nguyên nhân, thiền sư cười bảo :
-Giản dị lắm, chỉ cần các ông lấy một điểm ở xa để làm chuẩn khi cấy thì sẽ được thẳng hàng ngay.
Nghe lời dạy của thầy, các thiền sinh vội thực hành ngay. Cấy xong một hàng họ lại so sánh thì thấy luống cấy cong vòng. Thiền sư bèn hỏi :
-Các ông lấy gì làm chuẩn ?
-Dạ, con trâu đang ăn cỏ ở đàng xa kia.
-Con trâu di động, các ông lấy nó làm chuẩn thì luống cấy không cong sao được !
Các đệ tử nghe rồi tỉnh ngộ, bèn chọn một cây cổ thụ làm chuẩn. Lần này luống mạ cấy được thẳng tắp.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Bất luận làm một việc gì cũng phải có một mục phiêu rõ rệt, rồi từng bước, từng bước đạp thật trên đất, nhất định sẽ thành công.

1690.- Trích  Thủy  hòa   thượng.

Nghi Sơn đối với Thiền học, lãnh ngộ rất sâu, đức cao vọng trọng, thường có nhiều thiền sinh đến xin tham học. Một mùa đông nọ, tuyết xuống rất nhiều, Trích Thủy đến bái kiến thiền sư, nhưng thiền sư không cho ông vào cửa. Trích Thủy bèn quỳ ngay bên ngoài cửa 3 ngày. Các đệ tử đều xin, nhưng thiền sư vẫn không động lòng. Ngày lại ngày, đã nhiều lần ngã xuống, nhưng Trích Thủy lại bò dậy, không chịu rời chỗ. Đến ngày thứ 7 thì ông không gượng được, ngã gục trên đất. Các đệ tử của Nghi Sơn vào báo cáo. Thiền sư hạ lệnh cho đem Trích Thủy vào thiền viện và đồng ý thâu làm đệ tử. Một hôm Trích Thủy không hiểu vô tự và Bát Nhã dị đồng thế nào bèn đem hỏi thiền sư. Nghi Sơn bèn cho ông một tát tai, hét lớn :
-Vấn đề này há để ông hỏi sao ?
Trích Thủy bị thiền sư đánh, mắt hoa đầu váng, hoảng nhiên đại ngộ hữu và vô là ý thức thô thiển của chính mình : ông thấy tôi có, tôi thấy ông không. Do Nghi Sơn nghiêm khắc yêu cầu, Trích Thủy khổ công tham thiền, sau trở thành danh sư một thời.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Phải lao lực tâm chí, trải qua nhiều gian khổ rèn luyện lưng thẳng, đầu ngửng cao mới có thể hưởng thụ niềm vui của sự thành công.

1691.- Bàn  thêm  về  bài  kệ  của  Phó  Đại  Sĩ.

Trong bài kệ của Phó Đại Sĩ (Xem công án 263), câu thứ 3 : theo cầu qua bến nước có thể hiểu được, còn 3 câu kia toàn là nghịch lý làm sao hiểu đây ? Thực ra sắc thân chúng ta giống một cái phòng mà người trú ở trong là Phật tánh. Chúng sanh vì mê sắc tướng nhận lầm xác thân này là ngã, mà không biết Phật tánh là cái gì, thậm chí còn tạo nghiệp, thọ báo, sanh tử chẳng thôi. Bài kệ này đề tỉnh chúng ta phải nhận biết chủ nhân ông, đừng nhận giả làm thật. Chính là nói cái nhục thân này không biết nói chuyện, nghe chuyện, cử động. Chúng ta có thể vận động, nói, nghe, đều là Dụng của chủ nhân này. Bài kệ này là nói về vị chủ nhân ấy.
Tay không nắm cán mai : Tôi chẳng nắm một vật gì trong tay. Cái mai nắm trong tay là nhục thể do chủ nhân sai bảo.
Đi bộ lưng trâu ngồi : ông có thể đi đường, chạy nhẩy đều là do chủ nhân ông sai bảo. (Dụng) cũng giống như ngồi trên lưng trâu vậy.
Theo cầu qua bến nước : Sắc thân ở đây coi như cây cầu, người là chủ nhân ông. Người ta sống ở trên đời, chẳng qua tạm trú một khoảng thời gian rồi cũng phải đi, cũng giống như đi qua cầu. Cuộc đời này giống như một quán trọ, ở tạm ít lâu rồi phải đi, hà tất phải tranh danh đoạt lợi.
Cầu trôi : Xác thân chúng ta luôn biến đổi, từ sanh ra, lớn lên rồi già chết. Cái cầu này chẳng phải đang biến đổi đó sao ?
Nước chẳng trôi : Đó là Phật tánh thường tại chẳng đến chẳng đi.
Tóm lại, bài kệ này khuyên chúng ta nên minh tâm kiến tánh vậy.
(Phật Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)

1692.- Chúng  sanh  điên  đảo,  mê  chạy  theo  vật.

Cảnh Thanh hỏi một ông tăng :
-Tiếng gì ở ngoài cửa ?
-Tiếng mưa rơi.
-Chúng sanh điên đảo, mê chạy theo vật.
-Còn thầy thì sao ?
-Thoát Thân còn dễ, thoát Thể khó nói.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Người ta thường phân biệt mình (chủ thể) và người (khách thể), nhưng đối với thiền giả thì người và cảnh là một, vật ngã đều quên, hòa làm một trong tiếng mưa rơi của đất trời. Lúc đó tuy 2 mà một, chân nhân và chân như liền trình hiện.
(Xem thêm công án 76)

1693.- Con  tên  Bản  Tịch.

Động Sơn hỏi :
-Xà lê tên gì ?
-Con tên Bản Tịch.
-Nói lên trên.
-Không nói.
-Tại sao không nói ?
-Vì nếu nói thì không phải là Bản Tịch nữa.
Ông tăng ở đây là Tào Sơn Bản Tịch rất được Động Sơn coi trọng.
(Công Án Thiền Cơ)

Trong câu hỏi Động Sơn dùng 2 chữ xà lê (có nghĩa là người có đức hạnh) có thể dịch là tôn giả (người đáng kính trọng). Không phải cứ đến tham học là được coi là đệ tử. Người đặt câu hỏi thường là các thiền sinh, chứ các thiền sư ít khi đặt câu hỏi. Ở đây, Động sơn đặt câu hỏi là để dẫn pháp. Câu đáp của Tào Sơn :
-Con tên Bản Tịch.
Thì Bản Tịch là Niết Bàn, là tịch tĩnh, là chẳng hai. Khi trú ở thể không thì chỉ có một hành tướng nhưng khi vào hiện tượng giới thì có thể biến hóa thành sự sự, vật vật. Do đó khi chúng ta nói bản tịch là chỉ Niết Bàn. Khi chúng ta ngồi thiền, không khởi một niệm, lúc đó chúng ta đã tiến vào cảnh giới Niết Bàn. Chúng ta đừng hiểu Niết Bàn là tử vong, thực không phải vậy.
Nói lên trên : tên ông là Bản Tịch, thì nói lên trên có thể nói hay không ?
Không nói : Vì Bản Tịch không có gì để nói.
Tu thiền là trực nhập thể tánh không, lìa ngôn ngữ văn tự. Có nhiều người tới giai đoạn này lại chấp vào không là ngoan không. Nếu có pháp tới mà không hiện thì đó là cảnh phiền não, là vọng tưởng. Nếu không thể lìa các pháp thì không thể như như bất động. Công án này là giảng về không vậy.

1694.- Chuyện  tốt  chẳng  bằng  vô  sự.

Triệu Châu có lần nói :
-Phật là phiền não, phiền não là Phật.
Chúng đệ tử không hiểu hỏi lại :
-Phật vì sao mà phiền não ?
-Phật vì chúng sanh mà phiền não.
-Làm sao để trừ phiền não ?
-Trừ phiền não để làm gì ?
Ít lâu sau Triệu Châu thấy một đệ tử lễ Phật liền hỏi :
-Ông làm gì đó ?
-Lễ Phật.
-Phật dùng để lễ hay sao ?
-Lễ Phật là chuyện tốt mà.
-Chuyện tốt chẳng bằng vô sự.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Phật vì chúng sanh mà phiền não đó là giác ngộ, vì vậy không trừ phiền não được. Lễ Phật là một chuyện tốt. Đạo ở Tâm, mọi hình thức đều là hư vọng. (Xem thêm công án 1124)

1695.- Thư  pháp  gia.

Một ông tú tài tự xưng mình thông hiểu phong cách của 24 nhà thư pháp gia. Một lần, ông đến thăm thiền sư Đạo Minh. Ông ba hoa về biệt tài của mình. Đạo Minh giơ gậy đang cầm trong tay lên, điểm vào khoảng không một điểm và hỏi :
-Ông hiểu loại thư pháp này không ?
Tú tài ú ớ không trả lời được.
-Ngay vĩnh tự bát pháp mà chưa nhận ra, còn nói gì là thông hiểu 24 loại ?
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Tú tài tuy hiểu thư pháp nhưng còn chưa rõ cái tâm của thư pháp.

1696.- Triết  lý  nhân  sinh.

Một hôm, các thiền sinh ngồi quây quần chung quanh sư phụ đợi nghe thầy giảng triết lý nhân sinh. Thiền sư chỉ yên lặng ngồi thiền. Một hồi lâu bỗng hỏi các đệ tử :
-Các ông nghĩ phải làm sao để trừ cỏ dại ?
Các đệ tử kinh ngạc, không ngờ thầy nêu ra vấn đề này. Sau một lúc kinh ngạc họ bắt đầu đưa ra ý kiến.
Ông thứ nhất nói :
-Phải dùng cuốc mà cuốc.
Ông thứ hai :
-Phải dùng lửa mà đốt.
Ông thứ ba :
-Phải dùng thuốc trừ cỏ.
Ông thứ tư :
-Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc.
Thiền sư cười bảo :
-Các ông cứ theo cách của mình mà làm.
Nói rồi phân lô đất cho mỗi người, hẹn năm sau gập lại.
Một năm sau, mọi người tụ hội lại. Các lô đất đã trở thành các nông trại trồng đủ loại nông sản.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Muốn trừ cỏ dại, phải trồng trên đó các nông phẩm. Muốn điều tâm, phải điều dưỡng mỹ đức.

1697.- Tuyệt  chiêu.

Tương truyền thiền sư Giác Vận tu tập ở Thiếu Lâm Tự nhiều năm rồi nhưng vẫn chưa nắm được tâm ý, ông bèn du phương bái sư mong được tiến bộ. Trải qua bao gian khổ, cuối cùng ông gập được một vị sư phụ võ công cao cường. Sư phụ mỗi ngày đều dẫn ông lên núi đốn củi, ngoài ra chẳng dạy dỗ thêm gì. 3 tháng trôi qua, chẳng học thêm được một chiêu thức gì, ông có vẻ buồn. Sư phụ thấy rõ ý ông, một hôm dẫn ông đi tản bộ trong rừng. Đến trước một phiến đá lớn, chỉ thấy sư phụ nín hơi, 2 mắt sáng quắc, giơ 2 ngón tay điểm vào tảng đá. Tảng bỗng bị vỡ làm đôi. Giác Vận trợn mắt kinh ngạc, mồm há ra mà không ngậm lại được. Sư phụ liền bảo :
-Ông xuất thân từ chùa Thiếu Lâm phải biết rõ võ công Thiếu Lâm cứu cánh là giảng Tâm pháp. Tâm pháp là nội công, nội công là giải thoát sanh tử công vậy. Tham quán thiền cơ, giải thoát khỏi sự sợ hãi sanh tử mới có thể tâm định, thần tĩnh, nhãn lực đáo xứ, dũng mãnh như sư tử, sắc bén như ưng trảo thì chưởng thuật mới gọi là đạt thành.
Giác Vận khâm phục lời sư phụ, khắc khổ luyện tập cuối cùng trở thành một vị cao tăng, một võ lâm cao thủ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Thiền và võ thuật là Thiền chưởng nhất như. Muốn luyện thành võ công thượng thừa chỉ khổ công luyện võ không thôi thì không đủ, còn phải ngộ tánh. Ngộ tánh từ đâu ra ? Do tập Thiền mà có thiền định.

1698.-Tiếng  vỗ  của  một  bàn  tay.

Hai bàn tay vỗ vào nhau thì tạo ra một tiếng vỗ, còn một bàn tay vỗ thì tạo ra tiếng gì ?
Đây là một công án hữu danh do Bạch Ẩn sáng tạo ra. Dụng ý của Bạch Ẩn dùng loại vô nghĩa này để giúp thiền giả đi vào thế giới vô phân biệt. Bạch Ẩn nói :
-Trong quá khứ tôi cũng như Ngũ tổ Pháp Diễn ( ?-1104) và Đại Huệ (1089-1163) đã trao công án chữ Không của Triệu Châu cho các ông tăng mới. Nhưng chữ Không này khó dẫn đến nghi đoàn (giai đoạn trước khi giác ngộ). Do đó gần đây công án tiếng vỗ một bàn tay khiến hành giả dễ đạt được cảnh giới giác ngộ.
Thượng tướng Bát Đại Lục Lang của Nhật Bản là một nhà nghiên cứu Kinh Pháp Hoa, có một lần đến bái phỏng Tướng Quốc Tự Độc Sơn hòa thượng (1819-1895) khi nói đến Pháp Hoa chân ý. Từ đạo đức quan đến phong cách của thời đại, ông nhận định rằng nếu không theo kinh Pháp Hoa thì không thiết lập được nền đạo đức căn bản. Trải qua 2 giờ đồng hồ lắng nghe, Bát Đại thao thao bất tuyệt, Độc Sơn bảo :
-Ông đã nói xong chưa ? Đối với vấn đề đạo đức ông quá rành, vậy ông có thể nói cho tôi biết đạo đức xử dụng của cây quạt này không ?
Bát Đại không trả lời được và Độc Sơn trao cho ông công án “Tiếng vỗ của một bàn tay”. Trở về nhà, Bát Đại ngồi trên tảng đá ở sau nhà, 2 tay giơ thẳng ra trước, nâng một thanh đao Nhật Bản, trầm ngâm suy nghĩ. Trải qua 2 tuần, hoát nhiên ông đại ngộ. Không những hiểu rõ chân ý của Pháp Hoa, còn hiểu rõ tính cách xử dụng đạo đức của cây quạt và khí độ cũng thâm sâu hơn. (Xem thêm công án 278)
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

1699.- Về  đến  gia  sơn  thì  mới  thôi.

Buổi chiều sau khi Nam Tuyền chém mèo, cao đồ của ông là Triệu Châu từ ngoài trở về. Nam Tuyền bèn đem chuyện buổi sáng kể lại. Triệu Châu nghe rồi bèn tháo dép đội lên đầu, đi ra.
Tuyết Đậu có bài tụng về chuyện này :

公 案 圓 來 問 趙 州 
Công án viên lai vấn Triệu Châu 
長 安 城 裏 任 閑 遊 
Trường An thành lý nhậm nhàn du 
草 鞋 頭 戴 無 人 會 
Thảo hài đầu đới vô nhân hội 
歸 到 家 山 即 便 休 
Quy đáo gia sơn tức tiện hưu. 

Công án tròn rồi hỏi Triệu Châu
Trường An thành ấy mặc nhàn du
Đầu đội giầy cỏ không người hiểu
Về đến gia sơn thì mới thôi.
                                             (Thích Thanh Từ dịch)
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Nếu chỉ chém mèo thành 2 không thôi thì công án không được trọn vẹn, thành ra Nam Tuyền mới đem ra hỏi Triệu Châu. Tuyết Đậu coi đối đáp của 2 thầy trò như đang đi rong chơi trên đường ở thành Trường An. Nói cách khác, hiểu được chuyện Triệu Châu đội dép trên đầu đi ra có được mấy người. Trường An tuy vui thật nhưng chẳng thể ở lâu, về đến cố hương nằm ruỗi thẳng 2 chân chẳng khoái hơn sao ?

1700.- Gập  người  đạt  đạo.

Một ông tăng hỏi Đức Sơn Tuyên Giám :
-Trên đường gập người đạt đạo, không im lặng, cũng không dùng lời, phải làm sao ?
-Chỉ như vậy đó ?
Ông tăng im lặng hồi lâu, Đức Sơn bảo :
-Ông còn muốn hỏi nữa sao ?
Ông tăng lại hỏi, sư hét đuổi ra.
(Công Án Thiền Cơ)

Một người ngộ đạo : Trên đường gập một người ngộ đạo khác, không im lặng, cũng không dùng lời, mặt đối mặt, tâm không đối tâm. Tâm tôi không động, tâm ông cũng không động, đó là tâm ấn tâm, do đó không dùng im lặng hay lời nói để giao tiếp. Ông tăng này để trừ vọng tưởng đem vấn đề này ra hỏi xem thiền sư trả lời ra sao. Đây cũng giống như một cái gương, có nhân duyên tới liền chiếu, khi không có nhân duyên đến thì không có cái gì để chiếu, nhưng sau đó thì sao ? Có gì để nói ? Nếu có gì để nói thì là chấp cảnh, không có gì để nói thì là người đạt đạo. Có gì để nói là do thức thứ 6 và thức thứ 7 phân biệt tạo nên vọng tưởng, phiền não, không phải là thanh tịnh pháp. Do đó, người đạt đạo không có bệnh này, còn có gì để nói ? Nói cái gì ? Không nói.
Đức sơn nói : Chỉ như vậy đó, thiên địa đồng căn, chúng sanh đồng thể. Thiền sư đứng đó ngậm miệng, không khởi tâm động niệm, chỉ một câu “Như vậy đó” đã giảng xong.
Thiên địa đồng căn : cộng nghiệp của chúng sanh hình thành khí thế giới, do nhân duyên hòa hợp mà sanh, do nhân duyên phân tán mà diệt. Vô tình và hữu tình do cộng nghiệp mà tạo nên khí thế giới, vô tình có trước, hữu tình có sau. Vô tình không có luân hồi còn hữu tình phải luân hồi trong 6 đạo.
Chúng sanh đồng thể : Chúng sanh có cùng thể không, tất cả đều do A lại da thức biến hiện, ngoài thành khí thế giới, trong biến thành thân căn.
Ông tăng thấy thiền sư nói xong đứng im, ông không hiểu định hỏi, thiền sư biết ngay nên nói :
-Ông còn muốn hỏi ?
Đã không hiểu cơ phong của thiền sư lại còn muốn hỏi. Thiền sư mặc kệ, không lý đến ông. Vì sao ? Nếu đã ngộ thì không cần phải nói, nói cái gì ? Đi ra !
2/ Thực ra câu hỏi này là của Hương Nghiêm. Có người phỏng vấn Tây Điền Thốn Tâm (Cơ Đa Lang) ngồi đối tọa 2 giờ thao thao bất tuyệt về thiền lý. Trong thời gian đó Tây Điền tiên sinh không nói một lời. Về sau người đó kể lại :
-Tôi có cảm giác như đứng trước một cây cổ thụ ở chốn rừng sâu, có thể nói đây là Tây Điền Thốn Tâm im lặng hồi lâu (lãng cửu).
Trở lại công án này, cứ đứng lặng ngay trên đường hay là ba hoa chích chòe ? Cả 2 đều không đúng. Thật ra trong công án này chữ “đường” là chữ đáng để mắt tới. Thường, trong công án có nhiều cái bẫy, không thể dùng lý trí mà giải thích, chỉ có thể tọa thiền mà lãnh ngộ. (Long Mân)
(Xem thêm Công án  204)

1701.- Gập  tai  nạn thì  đón  tai  nạn.

Năm Thiên Bảo thứ 2, vào ngày  mùng 6 tháng giêng, với sự hiện diện của em ông là Do Chi và đệ tử là Trinh Tâm Ni, thiền sư Lương Khoan tạ thế ở tuổi 74. Ba năm trước đó, Việt Hậu Tam Điền phát sinh địa chấn ông có viết thơ cho Sơn Điền Đỗ Cao, trong đó có đề cập tới vấn đề sanh tử. Ông nhận định rằng khi cái chết đến hãy tiếp nhận nó, đó là phương pháp thoát ly tai biến hay nhất. Ông viết một bài thi tả rõ tâm cảnh lúc đó :

吾 遺 何 物 
Ngô di hà vật 
春 天 的 花 
Xuân thiên đích hoa 
山 上 的 杜 鵑 鳥
Sơn thượng đích Đỗ Quyên điểu
秋 天 的 紅 葉 
Thu thiên đích hồng diệp. 

Ta để lại gì nhỉ ?
Mùa Xuân hoa tươi cười
Trên núi Đỗ Quyên hót
Mùa Thu lá vàng rơi !

Bài thi này có thể coi như một di hạt (bài kệ để lại khi chết).
Bài này ít nhiều chịu ảnh hưởng bài thi của Đạo Nguyên :

春 天 的 花 
Xuân thiên đích hoa 
夏 天 的 杜 鵑 鳥 
Hạ thiên đích Đỗ Quyên điểu 
秋 天 的 月 
Thu thiên đích nguyệt 
冬 天 亮 麗 的 雪 
Đông thiên lượng lệ đích tuyết 
都 讓 人 覺 得 清 新
Đô nhượng nhân giác đắc thanh tân.

Mùa Xuân hoa tươi thắm
Mùa Hạ vang tiếng Quyên
Trăng mùa Thu sáng lắm
Tuyết Đông đẹp tự nhiên
Đều để cho người thấy
Cảm giác rất thanh tân.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

1702.- Không  nắm  được.

Cận đại, trong dòng thiền Tào Động, Sâm Điền Do là một thiền sư anh kiệt, làm quán thủ Vĩnh Bình Tự 25 năm, đức cao vọng trọng. Bình thường, bất cứ ai hỏi chuyện gì ông cũng đều trả lời :
-Không nắm được !
Chuyện này được loan truyền. Rất nhiều người đã tìm đủ mọi cách để ông đưa ra một câu trả lời khác, nhưng đều thất bại. Có một lần có một vị có công lớn trong cuộc duy tân vận động là Y Đằng Bác Văn được văn học bác sĩ Tỉnh thượng Triết Thứ Lang giới thiệu, 2 người cùng đến tham phỏng thiền sư. Ba người ngồi nói chuyện. Y Đằng kể lại những gian lao lúc trước khi Duy Tân, đã nhiều phen mình bị lâm vào tuyệt cảnh, rồi đổi giọng hỏi :
-Xin hỏi cao tăng thấy tình cảnh đó thế nào ?
Ông nghĩ rằng vị tăng ngồi trên thiền sàng này chỉ toàn nói thiền ngoài miệng, khi gập chuyện chẳng dám đương đầu. Lúc đó thiền sư đang lắng nghe Y Đằng kể chuyện gian khổ một cách say mê, bỗng quắc mắt :
-Một kẻ chỉ thích kể về các kinh nghiệm của mình là một gã đã hết sài rồi.
Y Đằng lúc đó biết rằng không có cách nào để thiền sư nói lời khác, khom lưng vái chào mà lui.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Đó là diệu dụng của vô tâm, thiền sư lấy “không nắm được” mà biểu hiện.

1703.- Lão  nạp  đang  giới  ngữ.

Thiên Hậu triệu thiền sư Nhân Kiệm vào cung giảng pháp. Thiền sư ngẩng nhìn Thiên Hậu rồi hỏi :
-Hiểu không ?
-Không hiểu.
-Lão nạp đang giới ngữ.
Nói rồi bèn lui.
(Công Án Thiền Cơ)

Thiên Hậu mời thiền sư đến giảng Phật pháp. Vì Thiên Hậu ngồi trên cao nên thiền sư phải ngẩng lên nhìn rất lâu rồi hỏi “hiểu không ?” Ý thiền sư là tôi đã giảng xong rồi, Thiên Hậu có hiểu không ? Thiền sư nhìn lâu không nói là diễn ý : tôi nhìn bà không phải là xem bà có đẹp hay không, là chỉ tâm không khởi tâm niệm : đó chính là bản lai diện mục. Bà phải học tập lấy tánh không đối diện với cảnh bà hiểu chưa ? Nếu tâm động niệm là lìa bản thể. Bản thể là Niết Bàn, là vô tướng, là thật tướng, không chấp vào cảnh trước mắt. Đương nhiên Thiên hậu đáp không hiểu. Đây là tâm pháp tối thượng thầy vừa mới giảng làm sao con hiểu ngay được, huống chi thầy lại chưa nói ra. Thiền sư lại nói : lão nạp đang giới ngữ, ám chỉ Thiên hậu nói nhiều chỉ tạo nghiệp mà thôi. Tâm động, khẩu động liền nói ra, tạo nên khẩu nghiệp vậy.

1704.- Gà  gáy  canh  năm  sáng.

Tuyết Đàm bái Mỹ Nùng, Từ Ân Tự Thường Lâm hòa thượng làm thầy nhưng mãi vẫn chưa ngộ. Sư huynh Tá Môn bảo ông :
-Muốn ngộ đạo, phải lấy chầy gỗ gõ vào đầu sư phụ mới được.
Tuyết Đàm vì thiết tha cầu đạo nên làm theo lời. Thường Lâm tưởng ông ta khùng bèn vớ lấy pháp trượng ở bên cạnh, giơ lên định đánh. Lúc đó Tá Môn chạy lại xin :
-Gã này chỉ muốn giác ngộ, nhưng thực không có khả năng. Xin sư phụ giao gã cho con, cho gã sống 7 ngày.
Rồi quay lại bảo Tuyết Đàm :
-Sinh mạng của ông chỉ còn 7 ngày, bất luận thế nào ông cũng phải ngộ đạo, bằng không thì tôi chẳng còn mặt mũi nào nhìn sư phụ.
Do đó, Tuyết Đàm quyết tâm ngồi thiền, suốt đêm không ngủ. Đêm 1, 2 rồi đến đêm 7 mà vẫn chưa ngộ. Ông nhìn trời sáng, định ra lan can nhẩy xuống cho xong đời. Ngay chính lúc đó con gà trống gáy sáng, Tuyết Đàm hốt nhiên khai ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

1705.- Ơn  sâu  Phật  Tổ  khó  báo  đáp.

Đằng Nguyên Đằng Phòng (1296-1380) là trung thần của Nam Triều, mới đầu là môn hạ của Đại Đăng quốc sư, 39 tuổi xuất gia, về sau lại theo Vô Tướng đại sư tham cứu công án “Bản hữu viên thành Phật”, một hôm hốt nhiên đại ngộ. Liền trình đại sư bài kệ :

此 心 未 嘗 失 
Thử tâm vị thường thất 
利 益 人 天 盡 未 來
Lợi ích nhân thiên tận vị lai
佛 祖 深 恩 難 報 謝
Phật Tổ thâm ân nan báo tạ
何 能 馬 腹 驢 胎 居
Hà năng mã phúc lư thai cư.

Tâm giác ngộ này chưa từng mất
Lợi ích trời người đến vị lai
Ơn sâu Phật, Tổ khó báo đáp
Vào bụng ngựa đâu để đầu thai.

Đại sư hỏi :
-Làm sao lợi trời người ?
-Đến tận bờ nước ngồi nhìn mây nổi.
-Làm sao báo ân sâu Phật,Tổ ?
-Đầu đội trời, chân đạp đất.
-Vì sao không vào bụng ngựa, lừa ?
Đặng Phòng im lặng, lạy 3 lạy.
Đại sư cười nói :
-Thượng nhân nay đã triệt ngộ rồi.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Theo lời truyền Đằng Phòng chính là vị trụ trì thứ 2 của Diệu Tâm Tự : Thọ Ông Tông Bật.

1706.- Ngăn  vọng  niệm.

Tuyết Phong hỏi Đức Sơn Tuyên Giám :
-Ý cổ nhân khi chém mèo là gì ?
Đức Sơn giơ gậy đánh, sau đó hỏi :
-Ông hiểu không ?
-Không hiểu.
-Tôi đối với ông như lão bà tâm thiết mà sao ông vẫn không hiểu ?
(Công Án Thiền Cơ)

Tuyết Phong khi mới nhập đạo, còn chưa ngộ, theo Đức Sơn học pháp. Một hôm Tuyết Phong đọc công án cũ không hiểu ý Nam Tuyền tại sao lại chém mèo (Xem công án 1053), là tu sĩ thì phải giới sát chứ ? nên ông đã đem ra hỏi Đức Sơn. Việc chém mèo của Nam Tuyền có 2 ý :
-Một là để dạy đại chúng không được chấp vào một cái gì. Đối với người mới tu trước hết phải chặt đứt ngoại duyên chứng nhập ngoại không, nghĩa là đối với trần cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc), tâm có thể như như bất động đạt vô ngã, vô ngã sở. Sau đó hành giả phải chứng nội không, nghĩa là vô ngã (không có tâm vương), vô ngã sở (không phân biệt thiện ác), tức là sáu căn chỉ thức nhưng không khởi phân biệt.
-Hai là Nam Tuyền đã chứng nội, ngoại  không nên chém mèo mà như không chém mèo. Tại sao ? Vì ông chém mèo là giải thoát cái thân nghiệp báo của nó. Ông đã dùng cái tâm thanh tịnh mà độ con mèo. Nó nhân họa mà được phước vậy.
 Đức Sơn đánh Tuyết Phong vì bất cứ cái gì không dính líu đến sự tu tập của Tuyết Phong đều được coi là vọng tưởng, là lý luận. Nếu như người tu còn chấp vào một pháp nào thì cũng không thể giải thoát được. Đối với ngoại cảnh chỉ nên nhận biết, không được  có một niệm thứ 2, thứ 3, v . v . Nói tóm lại là đối với ngoại cảnh không mảy may dính mắc. Đức Sơn đánh, sau đó hỏi “Hiểu không ?” là hỏi ông có hiểu vì sao tôi đánh không ? Có hiểu thiền cơ tôi chỉ ông không ? Tuyết Phong trả lời không vì lúc đó ông mới tu. Đức Sơn thấy căn cơ của Tuyết Phong rất tốt, nên mới đánh để xúc tiến việc khai ngộ, mong cho ổng chóng thành tựu.

1707.- Người  không  cùng  vạn  pháp  làm  bạn  là  ai ?

Trong công án 988, câu hỏi này được Bàng Uẩn đem đi hỏi Thạch Đầu và Mã Tổ, và giác ngộ ngay sau câu đáp của Mã Tổ. Về sau cũng có người đem câu này ra hỏi Triệu Châu và được Triệu Châu trả lời :
-Hắn không phải là người !
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Người hỏi chạy trốn khỏi mọi độc thoát vô y (độc lập, không nương cậy vào gì). Triệu Châu phủ định loại người này. Người chân chánh độc thoát vô y phải tương y, tương quan với vạn pháp thì mới có chỗ đứng có ý nghĩa. Vị vô vị chân nhân này phải làm bạn với vạn pháp mà thực hành Bồ tát đạo chứ không phải dừng lại ở Phật cảnh Niết bàn.

1708.- Tâm  mình  không  tĩnh  khó  tìm  tĩnh.

Khuất Đa là một thiền sư Ấn Độ vân du tứ xứ. Một hôm ông tới Thái Nguyên gập một đệ tử của Thần Tú ngồi thiền trong một thảo am. Ông liền đến hỏi :
-Ông đang làm gì ?
-Tôi đang tìm sự thanh tĩnh.
-Thanh tĩnh là cái gì ? Sao không tìm bản tâm, rồi để tâm tự thanh tĩnh ?
Ông tăng đó không trả lời được. Khuất Đa bèn dạy ông đến  tham Lục tổ Huệ Năng. Ông ta y lời đến gặp Lục tổ và thuật lại sự việc. Lục tổ im lặng hồi lâu rồi bảo :
-Trước tiên ông nên tìm tự tâm, chỉ có mình mới có thể làm tâm mình thanh tĩnh.
Ông tăng này nghe rồi có chỗ lãnh ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Thanh tĩnh chân chính là tâm tĩnh chứ không phải là không có âm thanh mới là tĩnh.

1709.- Bí  quyết  thành  công.

Chúng đệ tử muốn biết bí quyết thành công là gì, bèn đi hỏi sư phụ. Thiền sư không trực tiếp trả lời, chỉ vung 2 tay ra trước rồi vẫy về sau và nói :
-Từ hôm nay trở đi, mỗi ngày các ông đều làm động tác này 300 lần.
Một tháng sau thiền sư hỏi :
-Ai làm theo lời tôi dặn.
Hầu hết các thiền sinh đều giơ tay. Thiền sư gật đầu. Lại một tháng sau nữa thiền sư lại hỏi, chỉ có một nửa số thiền sinh giơ tay. Một năm sau thiền sư lại hỏi thì chỉ có một thiền sinh giơ tay.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Sự thực, việc dễ làm nhất lại là việc khó làm nhất. Và việc khó làm nhất lại có thể biến thành dễ làm, quan trọng ở chỗ chúng ta có chịu kiên trì làm hay không.

1710.- Biết  đủ.

Thiền sư Bàn Khuê sống ở thời đại Giang Hộ, một hôm có người hỏi ông :
-Con có đầy đủ trí tuệ, nhưng không biết cách vận dụng, xin thầy chỉ dẫn cho con.
-Ông lại gần đây.
Người đó bước 2, 3 bước về phía trước.
-Đó không phải là vận dụng tốt hay sao ?
(Danh Thiền Bách Giảng)

Con người ta thường đem mình ra so sánh với người, dễ dàng tạo ra bất bình đẳng hoặc tự kiêu hoặc tự ty, không phát huy được tài năng của mình. Trong kinh Bát Đại Nhân Giác có đề cập đến tri túc. Tri túc là biết đủ. Nếu không biết đủ thì dục vọng sẽ nẩy sinh khiến ta bị phiền não.

1711.- Không  biết.

Lương Võ Đế hỏi Đạt Ma :
-Người đứng trước mặt trẫm là ai ?
-Không biết.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Phật pháp chủ trương tất cả đều bình đẳng, sự vật không phân cao thấp. Câu trả lời “Không biết” của Đạt Ma là phá những cái chấp nhị nguyên cao thấp, phàm thánh, có không của tâm phân biệt, so sánh của Lương Võ Đế. Lão tử cũng có nói :
-Người biết không nói, người nói không biết.
Không biết là vượt lên tri và bất tri. Cái mà người phàm gọi là “tri” không phải là “thực tri” chỉ có tự tâm lãnh ngộ được cảnh giới “không biết” thì mới nắm được thâm nghĩa của Đạo.

1712.- Đừng  vọng  tưởng.

1/Vào đời Đường, thiền sư Vô Nghiệp ai hỏi gì cũng đáp :
-Đừng vọng tưởng.
2/Ở Nhật Bản vào thời Minh Trị, đại văn hào Sâm Âu Ngoại Bản xuất thân là một quân y sĩ. Lúc tốt nghiệp, trong khi các bạn bè đều được bổ nhiệm đến những chỗ tốt thì ông lại bị phái đi đến một nơi xa xôi hẻo lánh. Lúc đó ông rất tức giận, bất mãn, thậm chí còn định nộp đơn từ chức. Nhưng vài ngày sau ông đổi ý. Ông quyết định lợi dụng thời gian ở đây để học tập tiếng Đức và chuyên chú vào việc dịch thuật. Vài năm sau ông cống hiến nhiều dịch phẩm và tác phẩm. Sau lại được thăng tới chức lục quân tổng đốc. Trong văn học sử Nhật Bản ông là một người có địa vị cao. Sâm Âu Ngoại Bản trong nghịch cảnh đã không để phát sinh ra vọng tưởng. Vọng tưởng là mê hoặc, là tà niệm, phiền não. Con người ta thường bị tham, sân, si là 3 phiền não lớn làm cho đau khổ. Vì tham lam nên con người mưu lợi mình hại người, sân vì khi gập nghịch cảnh không nhịn được sinh oán hận. Si là không phân biệt được phải trái. Trong 3 độc trên, si là căn bản của phiền não, vì si cho nên vọng sinh tham. Khi không chiếm đoạt được thì nổi giận làm ra những chuyện thông thiên hại lý. Quy kết lại chỉ là 2 chữ vọng tưởng.

1713.- Như  vầy.

Khi Đức Phật sắp nhập diệt, thị giả của Ngài là ông A Nan hỏi :
-Sau khi Thế Tôn nhập Niết Bàn, những giảng dạy của Phật nói làm sao để cho người ta tin tưởng ?
-Ông hãy bắt đầu bằng câu : “Tôi nghe như vầy”.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Như vầy (như thị) tức bản lai diện mục, thật tướng. Trong kinh Phật có câu “Chim bay như chim, cá lội như cá”. Chim bay trên không, cá lội trong nước đều là bản lai diện mục. Nếu nói cá bay trên không, chim lội trong nước thì là hư vọng, không thể có được. Tất cả mọi sự việc, bao gồm loài người  đều do 10 thứ như vầy  tác động : tướng, tánh, thể, lực, tác, nhân, duyên, quả, báo, bản mạt cứu cánh.
-Tướng : là hình tướng bên ngoài.
-Tánh : là bản chất bên trong.
-Thể : là tánh và tướng hợp nhất.
-Lực : Năng lực tiềm ẩn.
-Tác : tác dụng của lực hiển lộ.
-Nhân : nguyên nhân trực tiếp sinh ra sự vật.
-Duyên : nguyên nhân gián tiếp.
-Quả : kết quả của nhân và duyên.
-Báo : Kết quả bên ngoài.
-Bản mạt cứu cánh : từ tướng đến báo là một quan hệ liên tục, nhất quán.

1714.- Sanh  tử.

Võ tướng Nam Mộc Chính Thành, một ngày trước khi giao tranh với Túc Lợi Tôn, đến tham kiến thiền sư Sở Tuấn, khai sơn Quảng Nham Tự. Ông tự biết cuộc giao chiến này khó thắng và tánh mạng cũng khó mà giữ được nên mang vấn đề sanh tử ra hỏi thiền sư :
-Việc sanh tử thường vương vấn lòng con, làm sao xử trí đây ? Xin thầy chỉ cho.
-Chặt đứt 2 niệm, 1 kiếm dựa trời lạnh.
Nam Mộc Chính Thành được lời này, quên hết chuyện sanh tử, khẳng khái chiến tử sa trường.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Thiền siêu thoát sanh tử, giầu nghèo, phàm thánh, có không. Con người ta thường đem vạn tượng trong vũ trụ này phân hai. Người có giầu nghèo, vật có quý tiện, chạy theo những gì coi là tốt, vất đi những gì coi là xấu, do đó sản sanh vui, khổ. Vì chấp vào thủ, xả (nắm giữ, buông bỏ) nên do dự không quyết định được sanh ra đau khổ. Chỉ cần phá được mọi đối đãi, chấp trước thì sự xung đột mâu thuẫn sẽ như sương tan, mây tán.

1715.- Que  cứt  khô.

Một ông tăng hỏi Vân Môn :
-Phật là gì ?
-Que cứt khô.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Que cứt khô là những que gỗ dùng như giấy vệ sinh ngày nay. Đối với ông tăng Phật là bậc thanh tịnh tối cao vô thượng, que cứt khô là vật ô uế, cách nhau một trời một vực, làm sao có thể coi là một ? Ông không biết rằng Phật không có tồn tại cố định. Tất cả vạn tượng trong trời đất đều có Phật tánh, cho nên mới nói Phật pháp tại thế gian không lìa thế gian giác. Nếu như lìa các sự vật ở thế gian để tìm Phật thì cái tìm được không phải là Phật thật. Vân Môn phá chấp cho ông tăng : Phật không phải là Phật thật, que cứt khô cũng không phải là Phật, chỉ cần bỏ cái tâm chấp trước đi thì chân Phật ở giữa Phật và que cứt khô.
(Xem thêm công án 199).

1716.- Mắt  ngang  mũi  dọc.

Đạo Nguyên (một vị thiền sư Nhật Bản) vì muốn thỉnh ích danh sư không ngại ngàn trùng xa xôi sang Trung Quốc tham học. Ở Thiên Đồng Sơn, ông gặp được thiền sư Như Tĩnh. Như Tĩnh dạy ông tham thiền phải thoát lạc thân tâm và bí quyết của tham thiền là “Chỉ quán đả tọa” (chỉ chăm chú ngồi thiền). Cuối cùng Đạo Nguyên ngộ ra chân lý mắt ngang mũi dọc. Mắt ngang mũi dọc là thuận theo tự nhiên, giả như mắt thẳng mũi ngang thì là hư vọng vậy.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Thuận theo tự nhiên không những là khởi điểm của Thiền mà còn là cảnh giới tham ngộ tối cao của Thiền nữa.

1717.- Nhìn  dưới  chân.

1/Một đêm, thiền sư Pháp Diễn và chúng đệ tử đang đi trên đường bỗng một cơn gió mạnh thổi qua làm đèn bị tắt ngóm. Pháp Diễn bảo :
-Đèn tắt rồi, làm sao đi ?
Phật Quả Viên Ngộ thưa :
-Nhìn dưới chân.
Pháp Diễn gật đầu.
2/Một hôm, một ông tăng hỏi Giác Minh :
-Chân tủy của Thiền là gì ?
-Nhìn dưới chân.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Không có đèn để soi đường đi, nhìn dưới chân là việc thực tế nhất phải làm. Không nương tựa vào đâu, chỉ nhờ vào chính mình. (Xem thêm công án 319).

1718.- Nóng  lạnh  tự  mình  hay.

Thiền sư Đắc Thắng sống vào thời Nam Bắc Triều (Nhật Bản) Đất nước loạn ly, chia năm xẻ bẩy rất hỗn loạn. Một hôm đệ tử của thiền sư Sở Tuấn là Đức Quỳnh gặp Đắc Thắng ở trong núi, ăn mặc như người tục thì rất ngạc nhiên hỏi :
-Thầy vì sao không mặc tăng phục ?
-Tôi không vì thích mặc tăng phục mà xuất gia, chính là muốn thoát ly sanh tử.
-Dĩ nhiên là thế, thầy có đọc các công án của cổ nhân không ?
-Không. Bây giờ ngay chính tâm mình còn chưa nắm được thì hơi đâu quan tâm đến lời người khác ?
-Vậy thầy tu hành làm sao ?
-Tôi căn cứ lãnh ngộ của Phật tổ mà tu hành. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa lãnh ngộ. Tôi nguyện cứu độ chúng sanh, dù có sa địa ngục cũng cam nguyện vì chúng sanh thọ khổ.
Đức Quỳnh nghe rồi chắp tay lạy :
-Lành thay ! Lời nguyện của thầy là nguyện vọng của chư Phật, tinh tủy của Thiền là ở đó.
Đắc Thắng tuy có đại nguyện nhưng vô pháp lãnh ngộ. Do đó ẩn cư ở núi sâu rừng thẳm, ngày đêm tọa thiền. Một hôm ngồi đối diện khê cốc tĩnh tọa, bỗng nhiên cảm thấy mình đạt tới cảnh giới vô tâm. Bèn giở sách xem lại công án “Niêm hoa vi tiếu” nhưng vẫn không lãnh ngộ. Do đó lại ngồi thiền tiếp cho đến sáng hôm sau, nghe tiếng nước chẩy róc rách hoát nhiên đại ngộ.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Người học thiền phải nhờ vào chính tâm mình mà lãnh ngộ. Người khác chỉ nêu ra trường hợp chuyển cơ của người ấy không thể chỉ dạy phương pháp ngộ đạo cho ta vì tâm cảnh ngộ đạo mỗi người mỗi khác, cũng như uống nước sự cảm nhận nóng lạnh mỗi người mỗi khác.

1719.- Nó  chẳng  còn  ở  đây  là  gì ?

Mã Tổ chỉ vịt trời bảo Bách Trượng :
-Bay đi đâu vậy ?
-Bay đi rồi.
Mã Tổ bóp mũi  Bách trượng. Bách Trượng hét lên :
-Đau quá !
-Ông nói bay đi rồi, nhưng nó chẳng còn ở đây là gì ?
(Danh Thiền Bách Giảng)

Nó ở đây là chỉ tâm Bách Trượng không phải là chỉ vịt trời. Bách Trượng tâm hướng ngoại, đi theo vịt trời. Mã Tổ bóp mũi khiến Bách Trượng bị đau kêu toáng lên là tâm đã quay lại với chính mình. (Xem chi tiết các công án 1041 và 1572).

1720.- Đói  ăn,  mệt  ngủ.

Đời Đường, Nguyên luật sư đến tham phỏng Đại Châu. Nguyên luật sư đã lâu nghe danh Đại Châu đạo lực cao thâm, gặp mặt liền hỏi :
-Thiền pháp của thầy có đặc điểm gì không ?
-Đương nhiên là có.
-Cứu cánh là công phu gì ?
-Đói ăn, mệt ngủ.
Nguyên luật sư không hiểu hỏi lại :
-Mọi người đều thế cả, có khác gì đâu ?
-Có khác chứ !
-Khác chỗ nào ?
-Người đời lúc ăn không chỉ ăn còn nghĩ Đông, nghĩ Tây, lúc mệt cũng không ngủ ngay, trằn trọc hết chuyện này tới chuyện khác. Tôi khi đói thì chỉ ăn, mệt thì duỗi chân ngủ, đương nhiên là khác rồi !
(Danh Thiền Bách Giảng)

Đói ăn, mệt ngủ là chỉ cho chúng ta cứ thuận theo tự nhiên mà hành động.

1721.- Lục  bất  thâu.

Có ông tăng hỏi Vân Môn :
-Pháp thân là gì ?
-Lục bất thâu.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Lục ở đây là ý gì ? Là lục hợp hay lục thức, hay pháp thân siêu việt vũ trụ, kiến văn chẳng thâu giác tri ? Nếu như thiền nhân chỉ giải thích trên bề mặt của chữ như vậy thì sẽ sa vào địa ngục nhanh như tên bắn. Thiền sư hét lên 3 tiếng : lục, bất, thâu để diệt tự ngã. Tự ngã diệt rồi tức đạt tới cảnh giới “không” hay “vô ngã”. Khi đã triệt để tử vong rồi thì tự ngã sẽ sống lại thành “hoạt pháp thân”. Lúc đó mới cảm nhận được lục bất thâu của Vân Môn đã có pháp lực mở ra pháp nhãn.
(Xem thêm công án 130)

1722.- Chẳng  có  công  đức  gì  cả.

Lương Võ Đế là một vị quốc vương yêu thích thiền học, hết sức đề cao Phật pháp. Khi lên ngôi rồi, xây nhiều chùa chiền, sửa sang đường xá, cầu cống, tạo phúc cho bá tánh. Khi gập mặt, Lương Võ Đế hỏi Đạt Ma :
-Trẫm hành thiện như thế đó, có công đức gì không ?
-Chẳng có công đức gì cả.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Làm việc thiện phải xuất phát từ nội tâm, trong lòng không mong hồi báo. Dù có làm nhiều việc thiện đi chăng nữa cũng chỉ khiến ta ngụp lặn trong sinh hoạt thế tục, không thể giúp mình thoát ra được, chỉ có làm sao cho người ta liễu giải tự tánh thì đó mới là công đức tối cao vậy. (Xem thêm công án 1025)

1723.- Đợi  trời  sáng  hãy  đi.

Có một lần Triệu Châu hỏi Đầu Tử :
-Khi nói chết đi sống lại là có ý gì ?
-Đêm tối không đi, đợi trời sáng hãy đi.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Chết đi ở đây không phải là chỉ chết đi nhục thể mà là trừ đi mọi nhị nguyên đối đãi. Trừ bỏ đi mọi chấp trước thì mới sản sanh tâm hoạt lực. (Xem thêm công án 54).

1724.- Tâm.

1/Thiền sư Vinh Tây có nói :
-Tâm bao hàm sâm la vạn tượng của trời đất, tâm là bản thể thực tướng của vũ trụ.
2/Có một lần thiền sư Triệu Châu bảo đại chúng :
-Tôi có thể lấy một cọng cỏ làm gậy Hoàng kim một trượng sáu, lấy gậy Hoàng kim một trượng sáu làm một cọng cỏ. Đó là nói Phật là phiền não, phiền não là Bồ đề. (Xem thêm công án 723)
3/Bạch Ẩn lúc nhỏ rất sợ địa ngục, có thể nói ông xuất gia vì muốn thoát khỏi địa ngục. Đến cuối đời ông ngộ ra rằng địa ngục chính ở trong tâm. Ông phá được cái chấp ấy mà giác ngộ.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Tâm giống như nước, nước chứa ở đâu thì có hình dạng ấy. Tâm bao hàm Phật tánh, trí tánh, cảm tình đồng thời cũng phân biệt thiện ác, sạch bẩn, phiền não bồ đề, sâm la vạn tượng. Thật tướng, hư tướng ra ra, vào vào tâm ta. Khi ta chấp trước tâm liền hướng vào vật sở chấp ấy mà sinh cảm tình, dục vọng. Khi cảm tình dứt thì tâm mới được giải phóng, trở lại bản lai diện mục.
Tâm chúng ta thời thời, khắc khắc chấp trước, hồi phục, chấp trước hồi phục. Trong kinh Phật con người có 18 phiền não căn bản : tham, sân, si, mạn, nghi. .  . và 20 loại Tùy phiền não : phẫn, hận, não, hại . . .
Người tuy có nhiều phiền não nhưng nếu ta phản tỉnh triệt để thì sẽ phát sinh trí tuệ.
Tâm là thật tướng của vũ trụ vạn năng, tâm bao hàm địa ngục, cực lạc, phiền não và bồ đề. Chỉ cần chúng ta từ tâm bị trói buộc thoát ra biến phiền não thành bồ đề, siêu việt địa ngục, cực lạc là Ta đã nắm được Phật tánh của mình.
     (Xem thêm công án 261)

1725.- Đại  nhân  không  cãi  lộn.

Có người hỏi hòa thượng Bạch Ẩn :
-Chúng ta quen nhau đã lâu, con chưa hề thấy thầy nổi giận, chẳng lẽ thầy không biết tức giận sao ?
Bạch Ẩn cười :
-Tôi không phải là Địa Tạng Vương do đá đẽo thành, làm sao lại không biết tức giận ? Chỉ là khi nổi giận không để lộ ra bên ngoài thôi.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Trong mỗi người chúng ta đều ẩn tàng một con sư tử lông vàng. Vô sự thì không sao, nhưng khi có chuyện thì con sư tử này sẽ xông ra. Con sư tử này là Phật lực có thể giết người, đả thương người hay hòa mình cùng người sinh sống. Có thể điều phục được con sư tử này hay không là do công phu tu dưỡng có thành tựu hay không.

1726.- Cứ  đi  thẳng.

 Dưới chân Ngũ Đài Sơn có một bà lão mở quán bán trà. Có một ông tăng đến đó hỏi thăm đường đi. Bà lão không chỉ phương hướng chỉ nói một câu :
-Cứ đi thẳng.
Ông tăng y lời đi. Đi được vài bước thì nghe tiếng bà lão cười nói :
-Tưởng là một ông tăng có đạo hạnh, nào ngờ lại nghe lời của một bà lão.
Ông tăng này không hiểu ý bà lão, khi tới chùa bèn kể lại cho Triệu Châu nghe. Triệu Châu đã nghe vài ông tăng khác thuật lại cái kinh nghiệm đã trải qua như vậy, bèn quyết định tự mình đi coi xem sao.
Ngày hôm sau, Triệu Châu cũng giả đi hỏi đường và bà lão cũng nói :
-Cứ đi thẳng.
Triệu Châu đi vài bước lại nghe tiếng bà lão cười và nhắc lại câu nói cũ. Triệu Châu không tức giận, không mắc cỡ, cũng không ngoảnh cổ lại, cứ đi thẳng về chùa. Về tới chùa rồi, Triệu Châu bảo đại chúng :
-Tôi đã vì các ông khám phá hàm ý của bà lão rồi !
Ngoài ra không nói gì thêm.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Bà lão nói “Cứ đi thẳng” là khuyên các ông tăng chuyên tâm nhất ý cầu Phật đạo, đừng để ngoại cảnh sai xử, nếu bị người cười chê, chọc giận, cũng không bị sân hận làm lay chuyển lòng cầu Đạo. Con người là một động vật có cảm tính. Cảm tính dễ làm mất lý tính. Do đó, chúng ta nên nhớ kỹ lời bà lão :”Cứ đi thẳng”. Để cầu chân lý chúng ta phải vứt bỏ mọi sân hận đối với đối phương, hiểu biết đối phương, yêu thích ưu điểm của đối phương. Lấy ưu điểm của đối phương bổ túc cho khuyết điểm của mình. Nếu được vậy con người sẽ gần gũi nhau hơn, xã hội cũng không có đối lập tranh chấp. Đó mới là vượt qua đối phương và chính mình. (Xem thêm công án 111).

1727.- Bạch  Ẩn.

Bạch Ẩn mới đầu theo học thiền sư Tánh Triệt, trụ trì chùa Anh Nham Tự. Một hôm đang ngồi thiền bỗng nghe tiếng chuông chùa từ xa vẳng lại hoát nhiên đốn ngộ. Ông đem cảnh giới này trình cho thiền sư Tánh Triệt, nhưng không được thiền sư chấp nhận. Ông bèn rời bỏ Anh Nham Tự, trong lòng đầy kiêu ngạo. Một hôm ông gập Chánh Thọ Lão Nhân, lúc đó ông mới 24 tuổi, mạnh miệng bảo Chánh Thọ :
-Thiền truyền sang Nhật Bản đã 300 năm rồi mà chẳng có ai ngộ đạo như tôi cả.
-Ngộ cái gì ? Nếu ông đã ngộ thì chữ “Vô” của Triệu Châu ông giải thích thế nào ?
-Vô là vô, vô pháp nắm được.
Bạch Ẩn nghĩ rằng câu đáp của mình hay ho lắm, chẳng ngờ bị Chánh Thọ bóp mũi :
-Ông còn chưa đáp đúng.
Bạch Ẩn bị đau, lùi lại vài bước. Chánh Thọ hãy còn giận mắng :
-Ông là đồ tăng chết dẫm trong động !
(Danh Thiền Bách Giảng)

Đối với một kẻ kiêu ngạo từ nhỏ như Bạch Ẩn đây là lần đầu tiên bị lăng nhục, giống như bị đá từ đỉnh núi lăn xuống đáy vực sâu, lúc đó Bạch Ẩn bỗng tỉnh ra, quyết định theo Chánh Thọ học tập, và cuối cùng đã giác ngộ.

1728.- Ông  không  biết  leo  núi.

Ngưỡng Sơn hỏi một ông tăng mới đến :
-Vừa từ đâu tới ?
-Lư Sơn.
-Có leo núi Ngũ Lão Phong không ?
-Không.
-Ông không biết leo núi.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Ông tăng coi việc tu hành và du hí là 2 chuyện khác nhau không thể hòa làm một. Ngưỡng Sơn lại chủ trương tu hành tức du hí. Người đời cứ coi công tác là nghĩa vụ nên không thấy được ý nghĩa và lạc thú của công việc.
Sơn Điền Vô Văn lão sư cũng từng nói :
-Làm việc là du hí, khổ, vui, bi, hỷ là du hí, ngay cả đời người cũng là du hí.
Chỉ cần chúng ta gìn giữ tinh thần “tu hành là du hí” của Ngưỡng Sơn vì công tác mà công tác, từ trong công tác khai quật ra tiềm năng của mình thì mới hưởng được lạc thú của công tác. (Xem thêm công án 166).

1729.- Mộc  Đường.

Thiền sư Mộc Đường trên đường hóa duyên bỗng nghe tiếng một kỹ nữ gọi :
-Mộc Đường hòa thượng, vào chơi rồi hãy đi.
Ông ngạc nhiên không biết ai lại biết tên mình bèn hỏi lại :
-Cô là ai ? Sao biết tôi ?
Thì ra cô gái đó là con một thí chủ. Cô nói trên đường toàn là khách uống trà không có phiêu khách nên không kiếm được tiền. Cô khẩn khoản mời hòa thượng bồi bạn với cô qua đêm. Mộc Đường nhận định rằng vì có duyên nên mới gặp gỡ bèn đồng ý vào kỹ viện. Nhưng ông không ngủ trên giường với kỹ nữ mà ngồi thiền trên sàn nhà. Đến nửa đêm, kỹ nữ không nhẫn nại được nữa, thỏ thẻ :
-Sao thầy không lên giường ngủ với em ?
-Công việc của cô là ngủ với người, công việc của tôi là ngồi thiền. Đừng để ý đến tôi, hãy ngủ cho ngon giấc.
Hai người qua đêm như vậy.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Người học thiền phải biết quý cái tâm tự nhiên của mình, không bị sắc giới, sanh tử, thiền cảnh trói buộc, tự do tự tại.

1730.- Tuyết  đầy  chén  bạc.

Một ông tăng hỏi thiền sư Ba Lăng :
-Đề Bà Tông là thế nào ?
-Tuyết đầy chén bạc.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Tuyết ở đây chỉ thiền, chén bạc chỉ Phật pháp. Dùng thiền để vào Phật pháp như đem tuyết đổ đầy chén bạc. Tuyết trắng che lấp chén bạc là phủ định chén bạc, phủ định Phật pháp. Trong quá trình phủ định cái sanh ra  là chân lý của thiền. Mỗi người trong tâm đều có một vật đựng. Trước yêu mình rồi ái tâm sẽ thăng hoa mà yêu người. Đó là chân ái, đem lòng chí thành, chí chân mà quan tâm đến người. Phật pháp và thiền không có sai biệt, nếu có thì là đối lập, chỉ có hợp nhất mới là Phật pháp và Thiền. (Xem thêm công án 117).

1731.- Chính  vấn  chính  đáp.

Có ông tăng hỏi Động Sơn :
-Thế nào là chính vấn, chính đáp ?
-Không mở miệng.
-Nếu có người hỏi, thầy có đáp không ?
-Chưa có ai hỏi.
(Công Án Thiền Cơ)

Ở đây ông tăng hỏi là hỏi về thể tánh không. Thể tánh không khi có nhân duyên tới thì cảm ứng, khi tâm không khởi động niệm thì nhân duyên không tới. Dùng thể tánh không để hỏi, làm sao hỏi ? Hỏi chân chính là không hỏi, chỉ có thể cảm tri. Làm sao dùng thể không để cảm tri ? Cái cảnh giới đó như thế nào ? Đó là lời dư thừa bởi vì hỏi không ra. Vì sao ? Vì nói ra thì cảnh giới đó không còn là cảnh giới đó nữa. Cho nên không thể nói, vì vậy Động Sơn mới bảo :
-Không mở miệng.
Ông tăng không hiểu, lại đưa ra câu hỏi :
-Nếu có người hỏi thì sao ?
Chính vấn thì không hỏi vì không thể hỏi. Đương nhiên nếu không hỏi thì không đáp. Tâm một khi khởi động niệm liền lìa bản thể. Đối với câu ông tăng hỏi vì chưa có người chính vấn đặt câu hỏi nên thiền sư đáp :
-Chưa có ai hỏi .
Người kiến tánh không hỏi, vì hỏi là lìa bản thể không, không phải là chính vấn nữa.

1732.- Đầu  gậy  trăm  trượng  bước  thêm  bước  nữa.

Tông Phong là tổ sư khai sơn Đại Đức Tự. Mới đầu cắt tóc xuất gia ở Vạn Thọ Tự, chăm chỉ học tập Phật pháp, sau khi ngộ rồi lại theo thiền sư Thiệu Minh khắc khổ ma luyện. Thường các vị thiền sư giác ngộ rồi thì ở lại chùa giáo hóa đồ đệ, nhưng Tông Phong thì lại lìa Vạn Phật Tự. Ông ẩn cư ở Vân Cư Am cùng sinh hoạt với bọn ăn mày ở Ngũ Đại Kiều và giảng Phật pháp cho bọn họ. Trải 20 năm như vậy, một hôm ông được Thiên Hoàng triệu kiến. Khi gập mặt, Thiên Hoàng bảo ông :
-Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn, một gã ăn mày đối tọa với Thiên Hoàng.
Ông trả lời ngay :
-Vương pháp không thể nghĩ bàn, Thiên Hoàng đối diện với Phật pháp.
Thiên Hoàng thấy Tông Phong đối với uy nghi của Hoàng Đế mà vẫn thản nhiên không hề khiếp phục thì rất kính phục.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Đối với câu nói của Thạch Sương :
-Đầu gậy trăm trượng làm sao bước thêm bước nữa ?
Trường Sa trả lời :
-Đầu gậy trăm trượng, bước  bước nữa
Đại thiên thế giới hiện toàn thân.
Đã leo tới đầu gậy là đã đạt ngộ. Ngộ đạo rồi nên tiến lên cảnh giới cao hơn là lìa đầu gậy bước vào thế giới hiện thực, một là để đào luyện đạo lực của mình, hai là để cứu độ chúng sanh. Sinh hoạt của thiền sư Tông Phong chính là như vậy. (Xem thêm công án 275).

1733.- Không  màng  danh  lợi.

Khai sơn tổ sư của tông Tào Động Nhật Bản là Đạo Nguyên. Cả đời ông không hề chạy theo danh lợi. Khi Đạo Nguyên du học ở Trung Quốc, ngộ đạo rồi, từ biệt Như Tĩnh về nước. Như Tĩnh bảo :
-Phen này ông về Nhật Bản, tuyên dương Phật pháp, khai hóa dân tâm, đừng sống ở nơi thành thị, đừng thân cận các vị quan lớn, cứ sống ở nơi rừng sâu, núi thẳm mà dạy dỗ học trò.
Đạo Nguyên y lời dạy, trở về nước mới đầu cư ngụ ở kinh đô. Về sau danh tiếng càng cao bèn rời về làng Vũ Trị dạy học và hoàn thành tác phẩm Chánh Pháp Nhãn Tạng. Ông từng nói :
-Học tập Phật đạo là học tập chính mình. Học tập chính mình là quên đi chính mình, quên đi chính mình là chứng minh vạn pháp, chứng minh vạn pháp là thoát ly chính mình.
Danh càng cao thì càng nhiều phiền nhiễu, ông bỏ Vũ Trị di chuyển đến nơi xa xôi hơn, lập nên Vĩnh Bình Tự. Chính quyền Mạc Phủ vời ông đến Liêm Thương, ông vâng lời. Nửa năm sau ông lại trở lại Vĩnh Bình Tự. Trong khi ông vắng mặt đệ tử Huyền Minh nhận 2000 thạch do Mạc Phủ hiến tặng. Đạo Nguyên biết chuyện này rất tức giận, mắng đệ tử :
-Ông là đồ thối tha mới nhận tiền của người, tôi bình sinh chưa hề thuyết pháp vì danh hay lợi. Ông nghe theo lời của người quyền thế vọng cầu danh lợi là giặc của Phật.
Nói rồi đuổi Huyền Minh ra khỏi chùa, đoạn tuyệt quan hệ.
(Danh Thiền Bách Giảng)

1734.-  Một  bài  Thiền  thi  của  Hoa  Đình  Thuyền  Tử.

天 尺 絲 綸 直 下 垂
Thiên xích ty luân trực hạ thùy
一 波 才 動 萬 波 隋
Nhất ba tài động vạn ba tùy
夜 靜 水 寒 魚 不 食
Dạ tĩnh thủy hàn ngư bất thực
滿 船 空 載 月 明 歸
Mãn thuyền không tải nguyệt minh quy.
 

Buông xuống dây câu dài ngàn thước
Một sóng vừa động, vạn sóng theo
Đêm tĩnh nước lạnh cá không đớp
Thuyền không chỉ chở ánh trăng gieo.
(Thiền Môn Khai Ngộ Thi)
 

1735.- Linh  hồn.

Thiền sư Bạch Ẩn lúc nhỏ có lần bị một loại thiền bệnh là do tinh thần suy nhược mà ra. Lúc đó sư phụ ông bị bệnh liệt giường, ông phải túc trực hầu hạ bên mình. Ban ngày hầu hạ sư phụ, ban đêm tọa thiền niệm Phật. Trải mấy tháng trời như vậy, một hôm trong khi ngồi thiền ông thấy xuất hiện một đầu mèo to bằng bánh xe bò. Ông hoảng sợ, nhưng định tâm lại không thèm để ý đến nữa. Một lúc thì đầu mèo biến mất. Lại một hôm khác, đang ngồi thiền, ông bỗng thấy mình nhẹ bỗng, thấy mình bay khỏi Điền Vũ Thành, bay qua Năng dã sơn rồi dọc theo ven biển Ký Châu. Bạch Ẩn kinh hoàng hét lớn :
-Không thể thế được !
Tiếng hét này làm tâm ông trở lại bản thể. Bạch Ẩn liền hiểu rằng linh hồn là do ý niệm sinh ra.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Khẳng định có linh hồn là thường kiến, phủ định có linh hồn là đoạn kiến. Thiền là vượt lên thường kiến và đoạn kiến, chỉ coi trọng hiện tại.

1736.- Bài  kệ  của  Đông  Sơn  Huệ  Không.

梁 魏 山 河 本 太 平
Lương ngụy sơn hà bản thái bình
無 端 容 此 老 狐 精
Vô đoan dung thử lão hồ tinh
九 年 皮 髓 分 張 盡
Cửu niên bì tủy phân trương tận
隻 履 空 棺 更 誑 人
Chích lý không quan cánh cuống nhân.

Đất nước Lương Ngụy vốn thái bình
Vô cớ lại chứa lão Hồ tinh
Chín năm chia hết da và tủy
Bỏ dép trong hòm dối chúng sanh.
(Thiền Môn Khai Ngộ Thi)

Đây nhắc lại tích Đạt Ma quẩy một chiếc dép về Tây, khi đi ngang qua ngọn Thông Lãnh thì gặp Tống Vân đi sứ trở về. Vân hỏi :
-Thầy đi đâu ?
-Tôi về Tây Phương.
Khi gặp vua, Vân kể lại câu chuyện trên, vua sai quật mả Tổ lên thì chỉ thấy một chiếc dép.  (Xem thêm công án 442)

1737.- Bài  kệ  của  ni  sư  Vô  Trước.

殺 活 并 行
Sát hoạt tịnh hành
醍 醐 毒 藥
Đề hồ độc dược
是 賞 是 罰
Thị thưởng thị phạt
一 任 卜 度
Nhất nhậm bốc độ
 

Thi hành cứu, giết
Thuốc độc, đề hồ
Là thưởng hay phạt
Do ông tự lo
(Thiền Môn Khai Ngộ Thi)

Đây là phê bình câu nói của Đức Sơn :
Nói được hay không cũng đánh ông 30 gậy.
Dù đáp được hay không, Đức Sơn đều đánh. Vì sao ? Đây không phải là thưởng hay phạt mà là xem trình độ hư thực của ông tăng thế nào .

1738.- Nhận  giả  làm  chân.

Một ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng :
-Mặt trời, mặt trăng chưa sáng, Phật và chúng sanh ở đâu ?
-Thấy lão tăng giận nói giận, Thấy lão tăng vui nói vui.
(Công Án Thiền Cơ)

Lời giải thích ở đây bổ túc cho lời giải thích ở công án 69. Chúng ta sống trong thế giới này thường nhận giả làm chân, cứ nhận rằng những gì mình nhìn thấy, nghe thấy là thật. Người chưa giác ngộ, Phật tánh bị vọng tưởng tập khí che lấp.
Thường trong thiền học người ta lấy mặt trời, mặt trăng, tinh tú để chỉ các thức 8, 7, 6 .
Khi mặt trời (8) sáng chỉ ánh sáng của trí tuệ hiển hiện, chiếu phá tất cả phiền não, tình kiến. Khi trăng (7) sáng thì tâm không vọng chấp, những chủng tử của A Lại Da Thức là thật mà lạc vào ảo cảnh. Khi tinh tú (6) sáng thì tâm không còn phân biệt ngoại cảnh nữa. Ba thức này tạo nên nghiệp lực của chúng ta. Vì vậy cần mặt trời, mặt trăng sáng để khống chế hành vi của thức thứ 6, vĩnh viễn thoát khỏi phiền não, chứng đắc vô thượng Bồ đề.
Giận là cái gì ? Chỉ là tướng bên ngoài. Nội tâm thiền sư có giận không ? Phật tánh như như bất động có giận không? Phật tánh không nổi giận, nổi giận là tập khí. Chúng ta thấy cổ tăng đại đức thường nổi giận để độ chúng sanh, kỳ thật nội tâm họ như như bất động. Cũng như trong công án này thấy lão tăng giận nói giận, vui nói vui, đó chỉ là nhìn quả không nhìn thấy nhân. Thể tánh của chúng ta là cái gì ? Là vô lậu công đức, có vô lậu công đức tướng làm sao có thể nổi giận ? Phiền não, tham, sân, si ? Không thể được ! Nhân vì si là không nhận thức được nhân quả. Thể tánh sao lại không nhận thức được nhân quả chứ.

1739.- Bài  kệ  của Phật  Huệ.

出 門 便 是 太 忙 然
Xuất môn tiện thị thái mang nhiên
萬 里 無 來 未 得 圓
Vạn lý vô lai vị đắc viên
欲 識 山 家 門 去 路
Dục thức sơn gia môn khứ lộ
暮 煙 輕 鎖 綠 綿 綿
Mộ yên khinh tỏa lục miên miên

Cứ ra khỏi cửa là mịt mùng
Vạn dậm không đi, chuyện chẳng cùng
Muốn biết con đường ra khỏi cửa
Khói lam chiều nhẹ nhẹ vờn không.
(Thiền MônKhai Ngộ Thi)

Phật Huệ nhắc đến công án “ra cửa liền là cỏ.” (Xem công án 668)

1740.- Bốn  bà  vợ.

Một hôm, Đức Phật kể cho đại chúng nghe một câu chuyện cổ :
-Ngày xưa, có một vị phú thương có 4 bà vợ.
Bà thứ 1 : lanh lợi, đáng yêu,  luôn ở bên cạnh.
Bà thứ 2 : do ông chiếm đoạt về, rất xinh đẹp.
Bà thứ 3 : giúp đỡ ông trong sinh hoạt.
Bà thứ 4 : vì suốt ngày đêm đôn đáo việc này việc nọ, ông ta hầu như quên hẳn sự tồn tại của bà này.
Một lần phú thương định đi xa, hành trình rất gian khổ. Ông định đem theo một bà vợ đi cho có bạn. Ông ngỏ ý với các bà.
Bà thứ 1 :
-Ông cứ đi đi, tôi không theo đâu !
Bà thứ 2 :
-Tôi bị ông chiếm đoạt về, không phải là tự nguyện, tôi không đi.
Bà thứ 3 :
-Tôi không chịu được gian khổ, cùng lắm đưa ông ra tới cổng thành thôi.
Bà thứ 4 :
-Dù ông đi đâu tôi cũng theo, vì tôi là vợ ông.
Do đó, ông đem bà thứ 4 theo.
Kỳ thật, phú thương là chúng ta. Bà thứ 1 là thân xác ta, khi chết ta không mang theo được. Bà thứ 2 là tiền bạc do ta kiếm về, sanh không mang đến, chết chẳng thể đem theo được. Bà thứ 3 là bạn bè. Bà thứ 4 là tự tánh.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Tự tánh vĩnh viễn đi theo ta. Chúng ta phải gìn giữ tâm điền để cho sự sinh hoạt trở về thuần phác.

1741.- Bài  kệ  của  Thảo  Đường :

不 是 心 兮 不 是 佛
Bất thị tâm hề bất thị Phật
黃 檗 喚 出 是 何 物
Hoàng Bá hoán xuất thị hà vật
裴 公 從 此 認 虛 名
Bùi công tòng thử nhận hư danh
天 下 納 僧 跳 不 出
Thiên hạ nạp tăng khiêu bất xuất.

Chẳng phải tâm hề, chẳng phải Phật
Hoàng Bá gọi là vật gì à ?
Bùi công từ đó nhận tên ấy
Nạp tăng thiên hạ đố nhẩy ra.

Thảo Đường nhắc đến công án đặt tên tượng Phật của Bùi Hưu.
(Xem công án 607)

1742.- Sanh  tử.

Một ông tăng hỏi Mật thiền sư :
-Xin hỏi thầy ý nghĩa sanh tử ở chỗ nào ?
-Ông sanh lúc nào, chết lúc nào ?
-Con không hiểu ý thầy.
-Nếu không hiểu thì chết đi coi thử !
(Danh Thiền Bách Giảng)

Nghe nói Bạch Ẩn có nói :
-Chúng sanh nếu không muốn chết, hiện tại hãy chết thử coi, đã chết một lần rồi thì sẽ không chết nữa.
Chúng ta thường phân sanh tử ra làm 2, coi mỗi thứ là một trạng thái, kỳ thật đó chỉ là bề ngoài. Thiền pháp khuyên chúng ta phải chú ý xem trong sanh có tử để vượt lên cảnh giới sanh tử.

1743.- Ý  Tổ  sư  từ  Tây  sang.

Một ông tăng hỏi  Khánh Chư :
-Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang ?
-Một phiến đá trong không ?
Ông tăng lạy, sư hỏi :
-Ông hiểu không ?
-Dạ không  !
-May mà ông không hiểu, nếu không tôi đã đánh vỡ đầu ông rồi !
(Công Án Thiền Cơ)

Công án “Ý Tổ sư từ Tây sang” là một công án mà các ông tăng mới học, không ai là không tham. Bởi vì mới học nên không biết 3 nghiệp :  thân, khẩu, ý làm sao tu, làm sao dứt. Thiền sư thấy ông tăng không đặt một câu hỏi thiết thực liền tùy tiện đưa ra một câu trả lời để bịt miệng ông , tâm ông, khiến ông không vọng tưởng nữa. Giả như thiền sư nói : Tổ sư từ Tây sang là vì thấy Trung thổ có dấu vết Đại Thừa hiện khởi, nên đem giáo pháp chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật mà truyền v. v. Giảng như thế chỉ khiến người học đã mê càng mê thêm, không giải thoát được. Tổ sư từ Tây sang để làm gì ? Đây là một sự kiện thực về hiện tượng giới. Khánh Chư trả lời :
-Một phiến đá trong không.
Nếu muốn giải thích thì có thể nói không trung là hư không, không một vật; ông tự nhiên ảo tưởng thành một phiến đá. Đó là từ thể tánh thanh tịnh vô sự lại đi tìm sự, lấy câu “Ý Tổ sư “ mà vọng tưởng. Đó chính là trăng trong nước, hoa đốm trong không, không phải là thật, vì vọng tưởng của ông mà từ không thành có. Ý Tây sang chẳng liên quan gì đến ông cả. Ông không đề cập đến những cảnh giới của quá trình tu hành mà động niệm vọng tưởng, trình ra những lời vô ý nghĩa. Tôi tùy tiện đáp là bịt miệng ông, không cho ông loạn tưởng.
Ông tăng nghe không hiểu bèn lạy. Lạy là ngụ ý cám ơn, là đã ngộ rồi, nên thiền sư mới hỏi :
-Ông hiểu không ?
-Dạ không !
Con suy nghĩ, phân tích mãi mà vẫn không hiểu “một phiến đá trong không” là ý gì ?
-May mà ông không hiểu, nếu không tôi đã đánh vỡ đầu ông rồi !
Câu hỏi này là câu hỏi của người sơ cơ, nếu ông là người sơ cơ thì mới hỏi câu này, còn như người đã tham lâu rồi thì không bị tôi đánh vỡ đầu mới là lạ !
Đối với mọi cảnh giới, chúng ta đều bỏ xuống, không dùng tập khí mà ứng duyên, đó là lấy bất biến ứng vạn biến vậy.

1744.- Chém  vô  minh.

Một ông tăng hỏi Toàn Hoát :
-Kiếm sắc chém thiên hạ, ai là kẻ rơi đầu ?
-Ám.
Ông tăng lại hỏi, sư nói :
-Gã độn căn này, đi ra !
(Thiền Cơ)

Kiếm sắc trong câu hỏi của ông tăng là loại xuy mao kiếm, là loại kiếm sắc bén không những chặt đứt vật dắn (tập khí thô), mà những vật mềm (tập khí tế) cũng chặt đứt luôn, như để sợi lông trên mũi kiếm, thổi phù một cái là sợi lông đứt làm 2 đoạn.
Kiếm sắc ở đây là dụ cho trí huệ Bát Nhã, chặt đứt hết nghiệp duyên phiền não của chúng ta. Đầu ai bị rơi ? (Người bị chém là ai, Là vật gì ?) Toàn Hoát trả lời Ám, là chỉ vô minh. Tại sao thánh nhân có thể dùng kiếm sắc chặt đứt vô minh, còn chúng ta thì không ? Đó là bởi vì khi chúng ta gập chuyện thì tâm hoảng, ý loạn, chủ yếu là vì tâm ta chấp trước. Tỷ như có tâm tham lợi, có tham thì có kỳ vọng. Có kỳ vọng là có tâm được mất, gập chuyện dĩ nhiên là không bỏ xuống được. Ông tăng lại hỏi vì không hiểu thiền cơ. Thiền sư đuổi ông ra vì ông ta chưa có tuệ nhãn, cần tham thiền nhiều hơn nữa để nhờ giới định mà sinh huệ. (Xem thêm công án 1493)

1745.- Rùa  đá  nói  rồi.

Một ông tăng hỏi Cơ Độn Chứng Không :
-Thế nào là Ý Tổ sư từ Tây sang ?
-Đợi rùa đá nói, tôi sẽ bảo ông.
-Rùa đá nói rồi.
-Nói gì với ông vậy ?
(Công Án Thiền Cơ)

Tổ sư Đạt Ma tới Trung Thổ có mục đích gì ? Chẳng phải là đem giáo pháp chỉ thẳng tâm người, kiến tánh thành Phật, giới thiệu cho người Trung Hoa sao ? Trung Hoa lúc đó đã có thiền, nhưng là thế gian thiền. Đạt Ma vì thấy Trung Hoa có khí tượng Đại Thừa mới ứng duyên đến truyền pháp. Ông tăng còn vọng tưởng nên mới hỏi. Người có minh nhãn không hỏi vì chân lý không thể diễn tả bằng lời, dùng lời gì để nói ? Vì vậy thiền sư mới bảo :
-Đợi rùa đá nói, tôi sẽ bảo ông .
Ông tăng cố nài thiền sư, nói :
-Rùa đá nói rồi !
Nếu thiền sư bảo cho ông tăng câu trả lời thì có ích gì cho ông ta không ? Chi bằng để cho ông ta tự đối diện với vấn đề thì mới thực sự có ý nghĩa. Ông tăng tâm còn phù động, công phu chưa đủ, thiền sư khuyên ông nên giới ngữ thì có thể nhập đạo, vì vậy nên mới hỏi lại :
-Nói gì với ông vậy ?
(Xem thêm công án 68)

1746.- Đừng  vin  vào  duyên.

Đỉnh Châu Đức Sơn sai thị giả gọi Tuyết Phong Nghĩa Tồn. Tuyết Phong tới, thiền sư bảo :
-Tôi kêu Nghĩa Tồn ông tới làm gì ?
Tuyết Phong không trả lời được.
(Công Án Thiền Cơ)

Đức Sơn sai thị giả đi gọi Tuyết Phong. Thị giả bảo :
-Tuyết Phong sư phụ gọi ông.
Sư phụ gọi, đương nhiên ông phải tới. Công án này kể một câu chuyện nhỏ : Đức Sơn sai thị giả gọi Tuyết Phong tới, không phải là có chuyện gì mà là chỉ cho ông đừng ứng duyên. Tôi sai người gọi ông đến, ông lại đến thật. Ông đến làm gì ? Có quan hệ gì đến ông ? Nếu là người chân tu thì ông cứ mặc sư phụ gọi, đó là biểu thị tâm ông không bị động, lúc đó sư phụ sẽ khen :
-Được lắm ! Tâm ông có thể như như không động.
Nhưng nếu sư phụ không phải là thiền sư thì sẽ nói :
-Tôi kêu ông tới, sao ông dám không tới ? Trong mắt ông tôi còn là sư phụ chăng ?
Do đó, thiền tông yêu cầu thiền sinh phải đào luyện tâm như tường đồng, vách sắt không theo duyên mà ứng, không bị chướng ngại làm cho phiền não. Cứ chạy theo cảnh mà sinh tâm thì làm sao mà nhập đạo ? Vì vậy người mới tu nên xả thức dụng căn, không động niệm vin lấy duyên. Cho nên khi niệm Phật hay khi ngồi thiền, một niệm khởi lên không kể là thật hay giả chỉ thoáng biết qua rồi thôi, không chạy theo nó.

1747.- Đi  rửa  bát  đi

Một ông tăng hỏi Triệu Châu ;
-Thế nào là tự kỷ của con ?
-Ông đã ăn cháo chưa ?
-Dạ ! Đã .
-Đi rửa bát đi !
(Công Án Thiền Cơ)

Công án này đề cập đến ngộ (ăn cháo) và tu tập (rửa bát)  để chứng ngộ. Từ ngộ đến chứng ngộ là một con đường rất xa. Lục tổ sau khi ngộ, ẩn cư ở nơi rừng sâu, núi thẳm, sống lẫn lộn cùng đám thợ săn 15 năm để tu tâm dưỡng tánh rồi mới ra hoằng dương Phật pháp. Một ông tăng đã ngộ, hỏi Triệu Châu :
-Cái nào là tự kỷ của con ? Con đang ở đâu ?
Tự kỷ ở đây không phải là chỉ nhục thể, cái sắc thân quả báo cũng không phải là tâm mà là cái thể chân chánh. Thầy nói minh tâm là có thể kiến tánh, vậy tại sao con không nhận thức được tự tánh ?
Triệu Châu hỏi :
-Ông đã ăn cháo chưa ?
Muốn nhận biết bản lai diện mục, hãy tự hỏi mình đã thực sự ngộ chưa ? Ăn cháo là chỉ khai ngộ.
-Dạ, đã !
Con đã ngộ rồi nhưng chưa thấy tự kỷ.
Người khai ngộ bồ đề tự tánh và thiên nghiệp lưu thức (遷 業流 識) cùng hiện, do đó không thấy được tự tánh, không biết tự tánh là cái gì ? Ăn cháo xong thì phải rửa bát vì đồ dơ chính là nghiệp thức đã được huân tập, nghiệp thức sạch rồi thì tự tánh tự nhiên hiển lộ. (Xem thêm công án 1029)

1748.- Nghe  mà  chẳng  biết.

Có ông tăng hỏi Trí Thường :
-Thầy có phương tiện nào chỉ cho con đường vào không ?
-Quán âm diệu trí lực, có thể cứu khổ thế gian.
-Thế nào là quán âm diệu trí lực ?
Thiền sư gõ vào đỉnh 3 lần, hỏi :
-Ông nghe không ?
-Dạ, nghe.
-Sao tôi lại không nghe ?
Ông tăng không trả lời được, sư đánh đuổi ra.
(Công Án Thiền Cơ)

Phật giáo có tám vạn bốn ngàn pháp môn, biết cửa nào là khế cơ có thể vào ? Ông tăng xin Trí Thường chỉ cho ông đường vào Đạo. Thiền sư chỉ cho ông pháp “Nhĩ căn viên thông” của Bồ tát Quán Thế Âm. Thiền sư gõ vào đỉnh : đinh, đinh, đinh, hỏi : “Ông có nghe không?” và “Sao tôi lại không nghe?” là chỉ cho ông tăng phải xả thức dụng căn, đừng phan duyên vào tiếng mà khởi tâm phân biệt. Thiền sư nói : sao tôi lại không nghe, là nói về thể tánh. Khi thanh âm tới tai thì thức thứ 6 liền khởi phân biệt, tiếng nhỏ, tiếng to, tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng du dương đáng yêu, tiếng chát chúa đáng ghét  v . v . thức thứ 8 cũng nghe nhưng không khởi phân biệt.

1749.- Dùng  roi  chăn  trâu.

Trường Khánh Đại An đến tham phỏng Bách Trượng, lạy rồi thưa :
-Con muốn thành Phật, Phật là thế nào ?
-Giống như cưỡi trâu mà tìm trâu .
-Thấy rồi thì sao ?
-Như cưỡi trâu đã về tới  nhà.
-Làm sao để bảo nhiệm ?
-Như người chăn dùng roi không cho trâu ăn lúa ruộng người.
(Công Án Thiền Cơ)

Đại An khai ngộ nhưng không biết làm sao bảo nhiệm để thành tựu Phật đạo. Bách Trượng bảo ông :
-Giống như cưỡi trâu mà tìm trâu.
Ông đã thấy vết chân trâu (ngộ) muốn tìm ra trâu (chứng ngộ), nếu ông dùng sắc tướng mà tìm Phật thì tìm không ra đâu !
-Vậy phải làm sao ?
-Như cưỡi trâu đã về tới nhà.
Sau khi đã thuần phục được dã tánh của trâu rồi thì có thể cưỡi nó về nhà.
-Nhưng làm sao bảo nhiệm ?
-Như người chăn dùng roi đừng để trâu ăn lúa ruộng người.
Khi khởi tâm động niệm liền tạo ra nghiệp, cho nên thời thời khắc khắc đều phải tu. Tâm địa chúng ta là đại đạo trường. Ngày hôm nay có chuyện gì ? người đó nói câu gì ? chúng ta phản ứng ra sao ? Tâm chúng ta phải thanh tịnh nếu chúng ta phản ứng thì chúng ta phải điều chỉnh. Đó mới là chân chánh tu hành.
 
 
 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

giao triển Giận 4 nếu ï¾ï½ Nhân nhung chiu duoc thong kho moi co the truong thanh nạo Tây qua rồi mất đến rồi qua Khà i đề an tru bay gio bat chanh dao con duong dan den giai thoat 9 lời khuyên để có đời sống tinh bát chánh đạo con đường dẫn đến Sóc Trăng Chùa Hải Phước tổ chức quốc Và CÃÆn 怎么面对自己曾经犯下的错误 ngon den tinh thuc phat trong tam ba gia va ngon den dau Gỏi Gặp y nghia chuyen ba lao cung den thoi duc phat Học tuyển tập 10 bài số 135 l thơ mặc giang từ bài số 1341 đến số hài thien phat giao vài tap Ăn gì tốt cho não bộ cho việc tư Vu Nằm chuong ß cha mẹ và con cái là mối nhân duyên từ nam 9 muoi Hiểu về trái tim tam chênh Vai trò của Ni giới Việt Nam trong xã